Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh là chuyên ngành tổng hợp về lĩnh vực kinh tế, thông qua đề tài Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa dưới đây các bạn đọc giả sẽ có thêm ý tưởng, tài liệu và nhiều thuật ngữ chuyên ngành từ đó giúp bạn làm bài luận tốt hơn. Đồng thời Bài mẫu Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ tác động đến môi trường nông thôn Tỉnh Thái Nguyên là một trong những mẫu luận văn hay được mình chọn lọc để gửi gắm đến các bạn. Nào, mời các bạn đọc giả cùng tham khảo nhé!
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG KHU VỰC NÔNG THÔN HUYỆN ĐỊNH HÓA
Nội dung chính
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Định Hóa là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm tỉnh Thái Nguyên gần 60 km.
Là đầu mối giao thông quan trọng nối các tỉnh miền núi phía Bắc với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Thái Nguyên có vị trí hết sức quan trọng về an ninh, quốc phòng; kinh tế,… và đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế của vùng Trung du miền núi bắc bộ và của đất nước. Cần phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng và huy động tối đa các nguồn lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tạo ra bước đột phá mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế – xã hội một cách hiệu quả và bền vững.
- Phía Bắc và phía Đông huyện Định Hóa giáp tỉnh Bắc Kạn
- Phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang
- Phía Nam giáp huyện Đại Từ và huyện Phú Lương
Huyện có 24 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm 1 thị trấn và 23 xã. Dân số hiện nay là 91.385 người, mật độ dân số trung bình của huyện là 175,49 người/km2. [12]
Các thành phần dân tộc đang sinh sống trên địa bàn huyện gồm: Kinh, Tày, Dao, Nùng, Cao Lan, Hoa, Sán dìu.
Thời tiết khí hậu
- Khí hậu thủy văn ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Định Hoá chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều. Ở đây mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa bình quân đạt 1.700mm/năm, tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều tập trung chủ yếu từ tháng 6 đến tháng 9, cường độ mưa lớn nhất vào hai tháng 7 và 8. Mùa khô lượng nước bốc hơi thường cao hơn lượng mưa, thường có sương muối và rét đệm kéo dài, khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất cây dài ngày.
- Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình của huyện là 22,50C; từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau có nhiệt xuống thấp nhất trong năm. Đặc biệt là tháng 1 nhiệt độ trung bình ở huyện chỉ đạt 14,90C.
- Ẩm độ
Ẩm độ trung bình trong năm biến động từ 80 – 85%, các tháng mùa mưa có ẩm độ khá cao từ 83 – 87%. Ẩm độ cao kéo dài gây khó khăn lớn cho việc chế biến và bảo quản nông sản. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện làm cho dịch bệnh phát sinh ở cây trồng, vật nuôi và người.
- Đặc điểm địa hình huyện Định Hóa
Là một huyện vùng núi nên địa hình đặc trưng là các dãy núi có độ dốc lớn và bị chia cắt bởi hệ thống sông suối và các khe rạch. Địa hình của huyện nghiêng dần từ Tây sang Đông, độ cao trung bình khoảng 250 m. Phía Tây là những dãy núi đất có độ cao trung bình từ 300 – 400 m, tầng đất dày. Phía Nam là dãy núi đất xen với đồi thấp có độ cao trung bình từ 100 – 150 m.
Huyện Định Hóa nằm ở khu vực tương đối cách biệt, hay nói cách khác, huyện nằm ở vị trí vĩ độ cao và điều kiện tiếp cận với thị trường là rất ít. Vì vậy, có sự khác nhau trong quá trình phân bổ nguồn lực cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra còn có sự khác nhau giữa các dân tộc với các điều kiện kinh tế, văn hoá – xã hội khác nhau.
Huyện Định Hoá là nơi bắt nguồn của 3 con sông chính: Sông Chu, sông Công và sông Đu. Các nhánh của 3 con sông này phát triển thành hình nan quạt, phân bố khá đồng đều trên các vùng của huyện. Nhiều vùng đất sông suối được bồi đắp từ 3 con sông trên. Ngoài ra, những hệ thống suối nhỏ cũng có tác dụng cho sản xuất nông nghiệp; đặc biệt cây lúa; đồng thời còn phục vụ sinh hoạt của một số hộ gia đình vào mùa khô. Đây cũng là một trong những điều kiện thuận lợi mà thiên nhiên đã dành cho huyện Định Hoá để phát triển hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Có thế mạnh trồng lúa nước và một số loại rau màu đòi hỏi nghiêm ngặt về chế độ nước tưới của nhân dân trong huyện.
2.1.2 Đặc điểm thổ nhưỡng và tình hình sử dụng đất đai của xã
- Đặc điểm thổ nhưỡng ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Theo bản đồ thổ nhưỡng tỷ lệ 1/100.000 của tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở đánh giá của FAO – UNESCO, huyện Định Hoá có 6 loại đất chính:
- + Đất phù sa sông suối (Py)
- + Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ (D)
- + Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl)
- + Đất nâu đỏ trên đá gabro (Fk)
- + Đất đỏ vàng trên đá biến chất (Fs)
- + Đất đỏ vàng trên đá phiến sét (Fs)
Huyện Định Hoá có địa hình khá phức tạp gồm những dãy núi đá vôi cao xen lẫn gò đồi và những vùng đất bằng phẳng, thuận tiện cho canh tác nông nghiệp và đa dạng hoá cây trồng. Đất đai của huyện được chia làm 3 loại chính là: đất phù sa sông suối, đất bồi tụ trồng lúa, đất feralit.
- Tình hình sử dụng đất đai của huyện
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế đối với mỗi hộ trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Đồng thời để cây trồng phát triển và sinh trưởng tốt thì đất đai phải phù hợp với từng loại cây trồng. Đất đai là nguồn tài nguyên hữu hạn, không tự sinh ra vì vậy yêu cầu đặt ra là phải làm thế nào để sử dụng đúng mục đích và đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội, đồng thời đảm bảo môi trường không bị ô nhiễm. Qua đó, có thể làm tăng khối lượng của cải vật chất cho con người, cho xã hội đồng thời tận dụng được lao động dư thừa của xã hội. Diện tích đất tự nhiên của huyện không thay đổi qua các năm. Thay đổi lớn nhất và đáng chú ý nhất là diện tích rừng tự nhiên của huyện đã giảm một cách nghiêm trọng. Sau năm 2005 trên địa bàn huyện còn rất ít diện tích rừng tự nhiên trong khi rừng trồng có tăng nhưng diện tích tăng lại không đáng kể so với diện tích đã bị khai thác.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 52.075 ha. Năm 2007 đất nông nghiệp là 10.169 ha chiếm 17,61% diện tích đất tự nhiên; đất lâm nghiệp 26.630 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 727ha. Diện tích trồng lúa của huyện cả năm là 7.797 ha; năng suất lúa bình quân là 46,5 tạ/ha. Sản xuất nông nghiệp của huyện thuần nông chủ yếu là cây lúa và cây chè. [13]
Bảng 2.1 thể hiện tình hình sử dụng đất đai của huyện Định Hoá từ năm 2000 đến năm 2007 vừa qua. Cơ cấu diện tích đất lâm nghiệp chiếm khoảng từ 42 – 49% tổng diện tích đất. Diện tích rừng tự nhiên của huyện năm 2000 là 18.007 ha đến năm 2005 chỉ còn 17.185 ha và năm 2006 thì diện tích này đã bị khai thác hết (Niên giám thống kê huyện). Năm 2007 huyện đã trồng được 962,4 ha rừng đạt 113% kế hoạch đề ra nhưng diện tích trồng so với diện tích rừng tự nhiên đã mất của huyện không đáng kể. Diện tích đất nông nghiệp của huyện dao động thấp chiếm khoảng 20% tổng số.
Bảng 2.1 cho thấy diện tích nông nghiệp của huyện khá ổn định, có sự thay đổi qua các năm nhưng không lớn. Diện tích đất chưa sử dụng của huyện đã được đưa vào sử dụng với các mục đích khác nhau có thể trồng rừng, đất ở, đất chuyên dùng,…tuy nhiên số này cũng còn rất lớn. Diện tích đất chuyên dùng bao gồm đường xá, trường học,…của huyện đã tăng qua các năm do các tuyến đường giao thông liên xã, liên thôn của huyện ngày càng được củng cố và mở rộng; đặc biệt tuyến đường từ đường số 3 vào thị trần chợ Chu, vào xã Phú Đình hiện nay đang được mở rộng và sửa chữa lại.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.3 Điều kiện phát triển kinh tế – xã hội chung của huyện Định Hóa ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Dân số – lao động
Năm 2007 dân số của cả huyện là 98.500 người; trong đó có 84,88% dân số sống ở nông thôn. Lực lượng lao động của huyện có 66.783 người, chiếm 67,8% tổng dân số. Định Hoá là nới sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc như: Tày, Nùng, Hoa, Sán Chí,…trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới hơn 50%. Tuy nguồn lao động của huyện phong phú nhưng lao động chủ yếu chưa qua đào tạo, nguồn nhân lực có trình độ cao còn ít.
Tổng dân số 2007 là 91.385 người, mật độ dân số 175,49 người/km2. Tốc độ tăng dân số của huyện năm 2005 là 0,09%; năm 2006 chỉ là -0,01%; nhưng năm 2007 là 1,95%. Bảng 2.2 cho thấy cơ cấu dân số của huyện trong 3 năm (2005 – 2007). Dân số của huyện tập trung chủ yếu ở thị trấn chợ Chu.
Bảng số liệu cho thấy dân số của huyện Định Hóa đã tăng trong những năm vừa qua; cơ cấu dân số vùng nông thôn chiếm khảng 90% dân số toàn huyện. Điều này cho thấy nông thôn vẫn là tiềm năng, thế mạnh với các nguồn lực về đất đai, lao động,… cho phát triển kinh tế huyện. Mật độ dân số trung bình của huyện đã dần tăng lên. Đồng thời, lao động và nhân khẩu bình quân trên hộ đã và đang tiếp tục tăng lên trong năm vừa qua.
- Thực trạng phát triển kinh tế của huyện
Định Hoá là huyện miền núi, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Nơi đây là thủ đô kháng chiến nên thu hút được sự quan tâm, đầu tư của tỉnh Thái Nguyên cũng như của Chính phủ về mọi mặt cả kinh tế – văn hoá – xã hội.
Tình hình kinh tế – xã hội của huyện trong năm 2007 đã có được những kết quả tích cực. Kinh tế tiếp tục duy trì được tăng trưởng; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Các nguồn lực cho đầu tư phát triển được huy động và sử dụng có hiệu quả. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; công tác giáo dục, y tế và các mặt xã hội có những chuyển biến tiến bộ; an ninh chính trị ổn định và giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, quốc phòng được tăng cường và củng cố vững chắc.
Một vài năm gần đây đã xảy ra nhiều bất lợi cho sản xuất nông – lâm nghiệp như: hạn hán, sâu bệnh hại cây trồng, giá vật tư phân bón tăng cao, dịch bệnh gia cầm, gia súc,…. gây ảnh hưởng xấu tới quá trình phát triển sản xuất tại các nông hộ. Tuy nhiên kết quả sản xuất nông – lâm nghiệp của huyện đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Đại hội Đảng bộ lần thứ XXI của huyện nhiệm kỳ 2006 – 2010 đã xác định cơ cấu kinh tế của huyện là “Nông – lâm nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng”. Trong đó nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất (63,82%) và thế mạnh trong phát triển kinh tế nông – lâm nghiệp là sản xuất lương thực, chè búp, thịt gia súc, gia cầm, gỗ, tre, nứa,.v.v..
Sản xuất nông – lâm nghiệp
- Trồng trọt: – Cây lúa:
Tổng diện tích gieo cấy cả năm 2007 là 7.845,4/7590 ha, đạt 103,4% kế hoạch; năng suất bình quân 46,8 tạ/ha/vụ; sản lượng 36.717 tấn, đạt 100,2% kế hoạch, tăng 1.015 tấn so với năm 2006.
- Cây màu
Diện tích ngô là 1.304,7/1.300 ha, đạt 100,4% kế hoạch; năng suất bình quân 41,5 tạ/ha; sản lượng 5.415 tấn, đạt 111,2% kế hoạch, đây là năm có sản lượng ngô cao nhất từ trước tới nay. Năng suất và sản lượng một số cây màu khác đều đạt cao hơn so với năm 2006.
- Cây chè ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Định Hoá là huyện miền núi nên chủ yếu là phát triển kinh tế vườn đồi. Chính vì vậy, cây chè ngày càng khẳng định rõ nét tầm quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của huyện. Những năm gần đây nhờ sự phát triển về cây chè rộng rãi mà đời sống các hộ nông dân được nâng lên. Có thể nói, cây chè đã giúp người dân nơi đây nâng cao thu nhập, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Nhờ có được sự ưu ái từ thiên nhiên về thời tiết, khí hậu, đất đai… phù hợp nên cây chè nơi đây sinh trưởng và phát triển tốt. Bên cạnh đó còn do việc chú ý đầu tư của người trồng chè và những quan tâm đặc biệt qua sự chỉ đạo cán bộ phòng nông nghiệp huyện đã góp phần cải thiện năng suất, chất lượng chè của huyện trong những năm gần đây. Theo nhận xét chung của người tiêu dùng Thái Nguyên là vùng chè đặc sản, chiếm phần lớn trên thị trường. Đây chính là điều kiện thuận để Định Hoá phát triển trở thành vùng chè trọng điểm của tỉnh Thái Nguyên.
Năng suất và chất lượng sản phẩm từ loài cây thế mạnh của huyện tiếp tục được nâng cao qua việc thực hiện đề án phát triển vùng chè giai đoạn 2006 – 2010. Toàn huyện đã thực hiện trồng mới, trồng phục hồi 128,18/70 ha; đạt 183,115 kế hoạch tỉnh giao; trong đó diện tích trồng theo kế hoạch của huyện là 72,6/50 ha, đạt 145% kế hoạch; ngoài ra dự án Hội nông dân triển khai trồng 8 ha; diện tích trồng chương trình 135 là 47,56 ha. Chương trình thâm canh và cải tạo chè đã và đang được quan tâm thực hiện.
- Chăn nuôi, thú y
Các chương trình, đề án phát triển chăn nuôi đại gia súc trên địa bàn huyện được thực hiện nhằm cải tạo đàn trâu, bò theo hướng lấy thịt và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong năm 2007 thực hiện các chương trình, dự án đã hỗ trợ cho các hộ mua được 1.156 con trâu, bò giống, tổng đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn huyện phát triển ổn định. Mặc dù với diễn biến phức tạp của các loại dịch bệnh động vật như dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng,… nguy cơ bùng phát dịch cao, nhưng công tác tuyên truyền, phòng dịch được triển khai giúp nhân dân trên địa bàn huyện giảm thiểu thiệt hại với dịch bệnh gia súc, gia cầm. Kết quả chăn nuôi, thú y của huyện Định Hoá trong 3 năm 2005 – 2007 được thể hiện trong bảng 2.4 như sau:
Với kết quả đã đạt được của huyện trong những năm qua chứng tỏ sự quan tâm của các cấp, các ngành giành cho nhân dân huyện Định Hoá. Tổng số trâu, bò, lợn và gia cầm đã tăng lên vượt mức kế hoạch của huyện. Tuy nhiên năm 2007 đã xảy ra dịch bệnh gia súc, gia cầm trên cả nước và Định Hoá cũng không tránh khỏi vùng dịch. Chính vì vậy mà tổng số gia cầm đã giảm mạnh vào cuối năm 2007 dẫn đến sản lượng gia cầm lại thấp hơn so với những năm trước. Huyện cũng đã mở những chiến dịch tiêm phòng gia súc, gia cầm đối với từng hộ dân song không kịp với sự lây lan nhanh của dịch bệnh, địa bàn rộng, số lượng gia cầm lại rất lớn nên năm 2007 lượng gia cầm đã bị tiêu huỷ khá lớn gây thiệt hại cho nông dân trong xã nhất là các xã vùng sâu trong huyện.
- Lâm nghiệp
Thực tế cho thấy hiện nay trên toàn địa bàn huyện Định Hóa rừng tự nhiên gần như không còn đáng kể. Rừng trên địa bàn huyện hiện nay chủ yếu là rừng trồng theo các chương trình dự án hỗ trợ. Năm 2007 tổng diện tích rừng trồng mới của cả huyện là 962,4 ha; đạt 113% kế hoạch tỉnh giao. Trong đó, diện tích rừng trồng mới theo kế hoạch của huyện là 854,3/850 ha; đạt 100,5% kế hoạch. Ngoài ra, nhân dân tự trồng 95,0 ha; trạm khuyến nông huyện triển khai 13,12 ha rừng mô hình. Cũng trong năm 2007 toàn huyện đã phát động phong trào quản lý, bảo vệ rừng, đặc biệt rừng phòng hộ. Vì vậy, tình hình khai thác vận chuyển lâm sản trái phép trên địa bàn từng bước đã được kiểm soát. (Phụ lục 03)
- Công nghiệp xây dựng, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ
Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn (theo giá hiện hành) ước đạt 51,3/48 tỷ đồng, bằng 106,9% kế hoạch, tăng 12,3% so với năm 2006, chủ yếu tăng từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại địa phương.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa trên địa bàn đạt khoảng 240 tỷ đồng. Hoạt động kinh doanh thương mại có mức tăng trưởng khá, đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng trên địa bàn. Các hoạt động dịch vụ được đẩy mạnh trong năm du lịch Quốc gia Thái Nguyên 2007. Số lượt khách đến thăm ATK Định Hóa tăng cao.
Các mặt hàng chính sách phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cung ứng kịp thời, tuy nhiên số lượng vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, phòng chống gian lận thương mại được đẩy mạnh, các trường hợp vi phạm được phát hiện và xử lý theo quy định.
Nhãn hiệu tập thể “Gạo bao thai Định Hóa” đã được cục sở hữu trí tuệ – Bộ Khoa học và Công nghệ cấp văn bằng bảo hộ, là cơ sở và điều kiện thuận lợi để trong những năm tới huyện tăng cường sự chỉ đạo nhằm mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất, sản lượng và chất lượng loại sản phẩm này.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành bưu chính viễn thông, điện lực, nước sinh hoạt có những chuyển biến góp phần làm tăng giá trị sản xuất của huyện, đáp ứng kịp thời nhu cầu của cán bộ, nhân dân trong huyện
2.1.4 Văn hóa – xã hội ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
- Công tác văn hóa thông tin, thể thao, truyền thanh – truyền hình
Ngành văn hóa thông tin, truyền thanh – truyền hình đã bám sát các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước và của huyện, tổ chức thành công lễ hội Lồng Tồng ATK Định Hóa. Huyện cũng đang tiếp tục khôi phục, bảo tồn và phát huy những giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc. Chất lượng, thời lượng phát thanh, truyền hình ngày càng được cải tiến. Các cụm loa truyền thanh trên địa bàn được đầu tư xây dựng trong thời gian qua đã duy trì phát sóng khá đều đặn, góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền các nhiệm vụ kinh tế, chính trị của địa phương và phổ biến các kiến thức khoa học kỹ thuật mới để ứng dụng vào sản xuất cho nhân dân trong huyện.
- Công tác giáo dục – đào tạo
Sự nghiệp giáo dục – đào tạo của huyện đang có nhiều chuyển biến tích cực: tiếp tục giữ vững và phát triển quy mô ở các ngành học, bậc học. Duy trì tốt nền nếp dạy và học, từng bước đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện. Huyện vẫn tiếp tục giữ vững phổ cập giáo dục đúng độ tuổi.
- Y tế, dân số, gia đình
Ngành y tế thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh; chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao. Các chương trình y tế cấp quốc gia được triển khai và thực hiện có hiệu quả.
Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm và quản lý các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân tiếp tục được duy trì.
Công tác dân số, gia đình và trẻ em tiếp tục được đẩy mạnh thông qua các chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình. Thực hiện tốt các hoạt động bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trên địa bàn.
- Nguồn nước
Nguồn nước mặt của huyện Định Hóa tập trung chủ yếu ở các suối, ao hồ trên địa bàn huyện. Nguồn nước này phục vụ cho sản xuất, tuy nhiên một số hộ gia đình trong xã vẫn sử dụng đây là nước sinh hoạt vào mùa khô (thiếu nước).
Nguồn nước ngầm của huyện Định Hóa phần lớn dân cư khu vực nông thôn sử dụng cho sinh hoạt, một số phục vụ cho sản xuất vào mùa khô.
Nước mưa: Đây là nguồn nước phục vụ chính cho sản xuất và sinh hoạt ở các xã vùng cao của huyện. Vào mùa khô, các giếng khoan hoặc đào đều bị cạn nước, nông dân chỉ chủ yếu trông chờ vào nước mưa.
Nước máy: phần lớn mới chỉ phục vụ cho nhân dân tại khu vực thị trấn chợ Chu và khu vực Quán vuông.
Ngoài ra năm 2007, xã Linh Thông còn được đầu tư xây dựng công trình “nước lọc” của sở Tài nguyên môi trường. Nguồn nước được lấy ở khe, suối lọc qua bể lọc sau đó đưa về làm nước uống và sinh hoạt cho một số hộ.
- Công tác dân tộc và tôn giáo
Công tác quản lý Nhà nước về dân tộc – tôn giáo tiếp tục được chú trọng. Thực hiện tốt các chính sách về hỗ trợ nhà ở, nước sinh hoạt tập trung, nước sinh hoạt hộ gia đình, hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
- Cơ sở hạ tầng của huyện
Trong những năm vừa qua được sự quan tâm, đầu tư của Chính phủ và tỉnh Thái Nguyên, cơ sở hạ tầng của huyện Định Hoá đã có rất nhiều thay đổi. Đặc biệt các vấn đề chính như điện – đường – trường – trạm của huyện đã được nâng cấp, làm mới hoàn toàn khác hẳn so với những năm trước đây. Một số kênh mương phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp đã được xây dựng và đi vào hoạt động có hiệu quả. Trường học tại các xã, thôn, bản được sửa chữa, xây dựng kiên cố,…
Định Hóa là một huyện miền núi nằm trong vùng an toàn khu, là thủ đô kháng chiến, do đó được Đảng và Chính phủ rất quan tâm để phát triển. Các tuyến đường từ quốc lộ 3 đi vào trung tâm huyện nay đang được mở rộng, làm mới lại; các tuyến đường từ trung tâm huyện tới các xã, thôn, bản đã rải nhựa kiên cố, rất thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu buôn bán giữa những người dân trong huyện.
- Tình hình môi trường ở huyện Định Hóa
Môi trường và bảo vệ cân bằng môi trường sinh thái đang là vấn đề được cả cộng đồng quốc tế quan tâm. Vì vậy, phát triển nông thôn, hiện đại hóa nông nghiệp và đô thị hóa nông thôn của huyện phải luôn tính đến việc bảo vệ và cải thiện môi trường bền vững. Nông – lâm – ngư nghiệp là các ngành sản xuất gắn với thiên nhiên, lấy cây trồng vật nuôi làm đối tượng nên môi trường sinh thái là điều kiện tự nhiên không thể thiếu. Môi trường sinh thái càng đa dạng, phong phú, sự cân bằng của môi trường càng bền vững thì khả năng đa dạng hóa chủng loại sản phẩm càng có nhiều tiềm năng tạo ra các sản phẩm đặc sản có chất lượng độc đáo, có giá trị cao và là cơ để phát triển nông nghiệp bền vững của huyện.
Quá trình phát triển kinh tế là quá trình làm thay đổi đối tượng lao động, biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên thành các sản phẩm tiêu dùng phục vụ nhu cầu người dân huyện Định Hóa. Việc phát triển kinh tế ồ ạt, công nghiệp hóa bằng bất cứ giá nào đã ảnh hưởng đến môi trường của huyện gây ra các tác hại như:
Nạn tàn phá rừng gây hiện tượng bão lũ, lụt lội tác động trực tiếp lên đất canh tác của huyện dễ bị xói mòn, rửa trôi; làm thay đổi khí hậu, thời tiết, làm gia tăng thiên tai địch họa,…
Công nghiệp và giao thông của huyện ngày càng phát triển.
Như vậy trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên đã có ảnh hưởng không tốt đối với môi trường tự nhiên của huyện Định Hóa như gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí…Do đó cùng với khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, phải luôn chú trọng đến các yêu cầu của phát triển bền vững, đặc biệt giữ gìn và bảo vệ cân bằng môi trường sinh thái.
Tỉnh Thái Nguyên tham gia Chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn do UNICEF tài trợ từ tháng 9/1991 vốn đầu tư là 322,13 tỷ đồng gồm các nguồn khác nhau. Nhờ vậy, toàn tỉnh hiện có 66% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, tỷ lệ số dân nông thôn giữa các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh được sử dụng nước sạch, chênh lệch đáng kể (cao nhất là 84% và thấp nhất là 60%, trong đó 90% trụ sở Ủy ban nhân dân, 80% số trường học, nhà trẻ, trạm xá nông thôn được sử dụng nước sạch). [14]
2.1.5 Quản lý tài nguyên – môi trường ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực tài nguyên – môi trường tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Huyện đã triển khai công tác quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015 đối với 10 xã phía Bắc; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 419 hộ gia đình với diện tích 34,37 ha. Đã tích cực thực hiện việc giao đất, thu hồi đất, thống kê bồi thường, giải phóng mặt bằng 1 số dự án trọng điểm của huyện như: khu xử lý rác thải rắn thị trấn Chợ Chu, đường giao thông 268, công trình nước tưới sau hồ Bảo Linh,… Thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường trên địa bàn huyện.
2.2 Thực trạng phát triển kinh tế hộ và những vấn đề về môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa
2.2.1 Thực trạng phát triển kinh tế hộ
Khảo sát thu nhập và phân nhóm hộ nghiên cứu
Qua điều tra thực tế tại các hộ cho thấy những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế của hộ của huyện không chỉ là các yếu tố về vốn, lao động, thị trường, đất đai mà còn cả yếu tố thời tiết, khí hậu,… Theo các ý kiến của người dân nơi đây, những yếu tố này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động và kết quả sản xuất nông nghiệp của các hộ. Theo họ được mùa hay mất mùa còn một phần phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu của từng năm, từng vùng. Cụ thể như năm 2007 là năm đã gây thiệt hại khá lớn cho người nông dân không chỉ ở Định Hoá mà còn khắp cả nước về bệnh dịch gia súc, gia cầm. Những nhân tố thuộc về môi trường này đã ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất của người nông dân chủ yếu nằm ở khu vực nông thôn. Do vậy đối với người dân khu vực nông thôn, phát triển kinh tế của hộ và môi trường sinh thái xung quanh có ảnh hưởng qua lại với nhau và đều tác động tới hoạt động sản xuất nông nghiệp của chính họ.
Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu và thực tế kết quả điều tra tại các hộ, từ danh sách thu nhập của các hộ nông dân tại vùng khảo sát, có thể sắp xếp, phân loại nhóm hộ theo thu nhập lần lượt từ thấp nhất đến cao. Mục đích chính của việc phân nhóm hộ theo mức thu nhập này là để chỉ ra được các yếu tố chính ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của các nhóm hộ tại khu vực nghiên cứu. Từ đó tìm hiểu mối quan hệ giữa phát triển kinh tế hộ với bảo vệ môi trường nông thôn. Số liệu được làm sạch trước khi phân tích, chúng tôi loại bỏ một số hộ có thu nhập vượt trội so với tổng thể chung (8 mẫu điều tra) kết quả số mẫu còn lại dùng để phân tích là 188 mẫu.
Giá trị trung bình của hộ nông dân là 19.033.380,0đ. Độ lệch chuẩn 1SD (Std. Deviation – Độ lệch chuẩn) = 8.487.577,0đ. Dựa trên giá trị trung bình và độ lệch chuẩn để tiến hành phân nhóm hộ nông dân. Tiêu chí để tiến hành phân nhóm:
Thống kê số hộ nông dân sau khi đã phân chia nhóm theo mức thu nhập:
Sau khi tổng hợp, phân tích và loại bỏ các hộ có tính chất đặc biệt (các hộ không tập hợp đầy đủ các tiêu chí nghiên cứu), thống kê cho thấy số hộ có thu nhập ở mức khá chiếm tỷ lệ cao nhất 34,6%, nhóm hộ có thu nhập cao chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm thu nhập thấp.
- Tình hình cơ bản của các hộ điều tra
Qua phân tích số liệu điều tra cho thấy tình hình cơ bản về các hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu rất khác nhau
- Tình hình cơ bản của hộ ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Tuy là một huyện miền núi, có nhiều đồng bào dân tộc cùng sinh sống. Nhưng qua điều tra thực tế cho thấy, số nhân khẩu bình quân trên hộ không cao 4,4 người/hộ; trong đó số lao động bình quân trên hộ là 3 lao động. Bình quân diện tích đất nông nghiệp/khẩu thấp, chỉ 0,094 ha/người; trong khi diện tích đất bình quân/khẩu là 0,194 ha/người. Điều này chứng tỏ ngoài diện tích đất nông nghiệp (diện tích đất trồng cây hàng năm và diện tích đất trồng cây lâu năm), hộ còn có diện tích đất lâm nghiệp, đất khác khá lớn. Đây có thể còn là một tiềm năng để hộ phát triển sản xuất lâm nghiệp.
Trong tổng số 188 hộ điều tra, có 78,57% chủ hộ là nam, còn lại chủ hộ là nữ, chiếm 21,43% tổng số. Biểu đồ cơ cấu giới tính chủ hộ cho biết thực trạng về giới tính của chủ hộ các hộ điều tra.
- Trình độ của chủ hộ
Theo thống kê từ nguồn số liệu điều tra cho thấy số chủ hộ có trình độ cấp 2 ở đây là phổ biến (chiếm tỷ lệ 63,78%). Tiếp sau đó là số lượng chủ hộ có trình độ cấp 1 chiếm 20,92% tổng số. Hiện tại vẫn còn tồn tại một số chủ hộ không được đi học song tỷ lệ ở mức thấp 5,1% tổng số.
Mối quan hệ giữa dân tộc của chủ hộ với phát triển kinh tế
Theo kết quả của một số nghiên cứu và thực tế điều tra ở huyện Định Hóa cho thấy tính chất về dân tộc và giới tính của chủ hộ cũng có phần nào ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và thu nhập của các hộ nông dân trong khu vực nông thôn.
Từ thực tế tổng hợp kết quả điều tra hộ cho thấy mức độ quan tâm và khả năng phát triển kinh tế gia đình ở mỗi hộ là rất khác nhau. Những khác nhau đó giả thiết bao gồm các yếu tố giới tính, trình độ,…của chủ hộ.
Các hộ điều tra chủ yếu là dân tộc kinh và tày trong đó nói các hộ mà chủ hộ là người kinh có điều kiện kinh tế khá hơn so với các nhóm khác.
- Nguồn lực và các yếu tố sản xuất của hộ
2.2.2 Nguồn lực đất đai của hộ
Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế đối với sản xuất nông – lâm nghiệp. Để phát triển kinh tế, người dân nông thôn phần lớn dựa vào đất, đặc biệt những nơi có tiềm năng để mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Việc có đất đai, sử dụng và biết cách canh tác để đem lại hiệu quả kinh tế là hoàn toàn khác nhau. Mỗi một loại đất ở vị trí, địa thế khác nhau lại phù hợp với một vài cây trồng khác nhau. Do vậy huyện Định Hóa có những nơi nếu trồng cây chè thì phát triển rất nhanh; nhưng lại có những vùng chỉ có thể canh tác lúa và trồng ngô (những vùng đất trũng, …).
Định Hóa là một huyện miền núi nên quy mô diện tích đất đai trung bình hiện nay của một hộ khá lớn dao động từ 0,603 ha đến 1,14 ha. Diện tích đất lâm nghiệp tập trung chủ yếu vào một số hộ; hộ có diện tích đất lâm nghiệp lớn nhất là 5,66 ha. Nhưng thực tế diện tích đất canh tác lại rất nhỏ dao động từ 0,258 ha đến 0,567 ha. Điều này làm cho kinh tế hộ gia đình ở huyện Định Hoá chỉ thích ứng với kiểu tổ chức lao động gia đình và với các điều kiện sản xuất thủ công. Nó cũng khó có thể đáp ứng được nhu cầu đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp của mỗi hộ gia đình nếu chỉ tập trung đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Để bù đắp những thiếu hụt về thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, một số hộ nông dân chuyển sang các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp như làm bún, buôn bán nhỏ, làm thuê, chuyển nghề khác và dịch vụ. Xu hướng này đã và đang xuất hiện tại các xã ven thị trấn huyện, làm tăng tốc độ đô thị hoá, đất nông nghiệp của các hộ ngày càng bị thu hẹp cho nhu cầu phát triển của công nghiệp và xây dựng.
Quy mô sản xuất gia đình của các hộ nông dân bị chi phối chủ yếu bởi diện tích đất nông nghiệp mà họ được Nhà nước giao cho. Theo thực tế phỏng vấn trực tiếp các hộ, phần lớn các hộ cho rằng phần diện tích này thực sự là chưa đủ so với nguồn nhân lực của hộ. Do lực lượng lao động tại vùng nông thôn không theo quy định về tuổi tác, thời gian lao động mà là lao động tranh thủ theo mùa vụ. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Theo kết quả tổng hợp trong bảng 2.10, diện tích đất nông nghiệp của hộ bao gồm diện tích đất trồng cây hàng năm (chủ yếu là cây lúa) và diện tích đất trồng cây lâu năm (chủ yếu cây chè). Diện tích đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng diện tích đất. Trong đó cơ cấu diện tích đất lâm nghiệp của nhóm hộ có thu nhập thấp nhất lại là cao nhất 51,26%.
Biểu đồ cơ cấu trên cho thấy bình quân diện tích đất ở nhóm hộ có thu nhập cao hơn hẳn so với các nhóm hộ khác. Đặc biệt diện tích đất trồng cây lâu năm tập trung ở các hộ có thu nhập cao, chủ yếu ở đây diện tích trồng chè. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh chè là loại cây dễ sống, mang lại thu nhập cao cho người nông dân và phù hợp với loại đất đồi núi. Do đó Định Hóa cũng có thế mạnh phát triển cây chè và nó đã đem lại hiệu quả kinh tế cho người trồng chè, giúp họ tăng thu nhập và cải thiện đời sống.
Nguồn nhân lực và lao động của hộ
Có thể khẳng định đối với tất cả các ngành sản xuất, lao động là yếu tố tiên quyết cho mọi vấn đề. Nước ta có trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn thấp, do đó yếu tố lao động lại càng quan trọng hơn trong ngành nông nghiệp. Quan niệm trong nông nghiệp chủ yếu là lấy công làm lãi vẫn đúng với người nông dân. Với các hộ nông dân nguồn lao động không những có ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp mà còn quyết định tới quá trình phát triển kinh tế của hộ.
Khi nghiên cứu yếu tố lao động phải đề cập đến hai khía cạnh của lao động, đó là số lượng và chất lượng lao động. Số lượng lao động của hộ bao gồm các thành viên trong gia đình có khả năng lao động. Chất lượng lao động thể hiện qua trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn và nhận thức về chính trị, xã hội thông qua các kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ từ lâu đời của hộ.
Quy mô lao động của hộ
Thực tế, khu vực nông thôn, những hộ làm nông nghiệp sự phân biệt lao động về thời gian và tuổi tác thường không rõ ràng. Tất cả mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, đặc biệt vào vụ cấy, gặt, hái chè. Tuy nhiên qua quá trình điều tra, nghiên cứu và kết hợp đánh giá thực tế các hoạt động sản xuất nông nghiệp tại các hộ có thể tổng hợp nguồn lao động của hộ vừa phù hợp với các tiêu chuẩn về lao động trong nông nghiệp vừa đúng với tình hình thực tế tại địa phương như sau:
Chất lượng lao động
Đối với sản xuất nông nghiệp chất lượng lao động thường được đánh giá bằng trình độ học vấn, kinh nghiệm sản xuất, khả năng nắm bắt các thông tin khoa học ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp,… Từ đó ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của hộ, đặc biệt khả năng và trình độ của chủ hộ là rất quan trọng. Phần lớn liên quan đến các quyết định canh tác cây trồng, các chi phí đầu tư cho phát triển sản xuất trong hộ.
Bảng trên cho thấy mối quan hệ giữa trình độ học vấn và thu nhập của của hộ. Trong 16 hộ điều tra có trình độ cấp 3 thì có tới 13 chủ hộ thuộc nhóm thu nhập cao; chiếm 81,25%. Số chủ hộ không được học chủ yếu nằm trong nhóm hộ có thu nhập thấp, chiếm 70%. Còn chủ hộ có trình độ học vấn cấp 1 và cấp 2 tập trung chủ yếu ở nhóm hộ thu nhập khá. Điều này có thể khẳng định ngoài những kinh nghiệm sản xuất thì học vấn của chủ hộ cũng ảnh hưởng tới phát triển kinh tế của hộ. Trình độ học vấn của chủ hộ có thể giúp hộ nắm bắt nhanh, kịp thời các ứng dụng khoa học công nghệ; giống cây con mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu bệnh tật tốt. Ngoài ra còn có thể nắm bắt và làm đúng theo yêu cầu quy trình sản xuất.
2.2.3 Đầu tư cho phát triển sản xuất của hộ ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Tổng hợp các chi phí hoạt động sản xuất
Trong sản xuất chi phí đầu tư là vấn đề quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định tới kết quả đầu tư. Mỗi hộ gia đình có điều kiện kinh tế, trình độ văn hóa, quan niệm… khác nhau có mức đầu tư cho phát triển sản xuất khác nhau. Theo kết quả phân tích số liệu điều tra của 3 nhóm hộ cho thấy chi phí bình quân đầu tư cho hoạt động sản xuất của một hộ cao nhất ở nhóm hộ thu nhập cao. Trong đó chi phí cho trồng trọt chiếm tỷ lệ 41,18%; tiếp đó 30,09% chi phí đầu tư cho hoạt động sản xuất phi nông nghiệp; và sau đó là chi phí chăn nuôi chiếm tỷ lệ là 26,23%.
Ở nhóm hộ thu nhập khá chi phí bình quân cho hoạt động sản xuất là 9.382.360đ/hộ; trong đó chi phí cho hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm 32,62%; chi phí chăn nuôi chiếm 34,15%; hoạt động phi nông nghiệp chiếm 30,36%. Nhóm hộ thu nhập thấp cũng là nhóm hộ có chi phí bình quân cho sản xuất thấp nhất
Chi phí đầu tư cho trồng trọt
Tổng kết các kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp từ lâu đời đã có câu: nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống;…. Điều này chứng tỏ yếu tố thiên nhiên, yếu tố thời vụ thật sự quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp.
Phân bón rất cần cho trồng trọt, nó cung cấp chất dinh dưỡng cho cây phát triển; ngoài ra còn tạo độ màu mỡ và cân bằng cho đất. Ngày nay với sự phát triển của khoa học hiện đại, nước được chủ động bằng hệ thống các kênh mương; giống cây, con đã được lai hóa, cải tạo nhằm tăng năng suất cây trồng vật nuôi. Phân hoá học sẽ có tác dụng nếu bón đúng và đủ theo quy trình kỹ thuật nhưng theo một số nghiên cứu cho thấy nó cũng có thể làm chai cứng đất, làm thay đổi thành phần của đất,…làm ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Ở Định Hóa hoạt động sản xuất chủ yếu của người dân vẫn là nông – lâm nghiệp. Trồng trọt vẫn là nguồn thu chính của người nông dân. Mỗi điều kiện về nguồn lực đất đai, lao động,… khác nhau, hộ có phương thức canh tác cây trồng, hình thức đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp khác nhau.
Cả 3 nhóm hộ có mức chi phí phân hóa học là cao nhất, sau đó là thuốc bảo vệ thực vật trong tổng chi phí đầu tư trồng trọt. Chi phí về giống nói chung là thấp do: đối với cây chè trồng 1 lần thu hoạch nhiều lần; còn lúa, ngô,… thông thường hộ gia đình chọn lại những quả, hạt tốt của vụ trước làm giống cho vụ sau nên giá trị đầu tư cho giống thấp hơn so với mua trên thị trường. Ngoài ra, lượng phân chuồng được bón rất ít so với lượng phân hóa học bà con nông dân đang sử dụng cho cây trồng hiện nay.
Mời bạn tham khảo thêm:
2.2.4 Đầu tư cho phát triển chăn nuôi ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Bên cạnh đầu tư cho trồng trọt thì chăn nuôi cũng là một nguồn thu lớn đối với các hộ nông dân. Người nông dân thường quan niệm làm nông nghiệp là lấy công làm lãi và tận dụng sản phẩm trồng trọt làm thức ăn cho chăn nuôi. Ngoài ra còn phần quan trọng hơn là người dân đã sử dụng phân gia súc, gia cầm bón ruộng. Loại phân này không những rất tốt cho cây trồng lại tạo độ màu mỡ phì nhiêu cho đất, ngoài ra còn tiết kiệm một khoản chi rất lớn nếu thay bằng phân hóa học. Đồng thời nó còn rất thân thiện với môi trường nếu được sử dụng đúng quy trình. Có thể coi hoạt động sản xuất nông nghiệp tại các hộ là một chu trình khép kín.
Bảng 2.15 cho thấy phần lớn bà con vùng này chăn nuôi nuôi lợn, gà; đây là hai loài vật được nuôi rộng rãi và phổ biến ở nước ta. Chúng là những con vật dễ nuôi, dễ phù hợp với điều kiện về thời tiết khí hậu và cũng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Những gia súc, gia cầm khác chỉ một vài hộ nuôi với số lượng ít. Trâu, bò, ngựa ở khu vực miền núi phần lớn người dân sử dụng vào mục đích cày kéo, chuyên chở; có một số hộ nuôi lấy thịt nhưng số lượng rất ít.
2.2.5 Kết quả và hiệu quả sản xuất nông nghiệp tại các hộ
- Kết quả trồng trọt
Theo kết quả tính toán từ số liệu điều tra các hộ nông dân vùng nông thôn huyện Định Hóa cho thấy hiệu quả canh tác của một số cây trồng chính qua các chỉ tiêu sau:
- Giá trị sản phẩm thô bình quân héc ta của một loại cây trồng trong một năm (giá trị sản phẩm = sản lượng * giá bán/tạ tại nhà);
- Chi phí sản xuất/ha, bao gồm chi phí trung gian (làm đất, giống, phân bón các loại, thuốc BVTV và các chi phí vật dụng khác) và chi phí thuê lao động, chi phí khác cũng tính cho một loại cây trồng trong một năm.
- Năng suất của cây trồng được tính cho 1 ha/năm.
Bảng 2.16 cho biết kết quả của một số cây trồng chính trong năm 2007 của các nhóm hộ. Ở mức đầu tư khác nhau, kết quả cây trồng bình quân/hộ đạt được ở các nhóm hộ cũng khác nhau. Năng suất lúa bình quân nhóm hộ thu nhập cao đạt được 45,58 tạ/ha/vụ; nhóm hộ khá đạt 44,83 tạ/ha/vụ; trong khi nhóm hộ thu nhập thấp chỉ đạt 44,7 tạ/ha/vụ. Bên cạnh đó cây chè là cây phù hợp và có khả năng phát triển được trên đất Định Hoá song vẫn phải đầu tư thích hợp cây mới có thể phát triển và cho năng suất, chất lượng cao.
Đối với sản phẩm chè không thể chỉ chú ý tới sản lượng mà chất lượng chè cũng rất quan trọng. Nếu có chế độ quan tâm, đầu tư, chăm sóc phù hợp, cây chè sẽ đem lại thu nhập cao và cải thiện mức sống cho người nông dân. Bảng 3.8 – Chi tiết chi phí đầu tư cho trồng trọt cho thấy ở nhóm hộ thu nhập cao ngoài chi phí phân hoá học cao hơn các nhóm khác mà phân hữu cơ cũng được bón nhiều hơn cho cây trồng. Năng suất chè khô bình quân của nhóm này đạt 12,98 tạ/ha/năm; nhóm hộ khá đạt 9,11 tạ/ha/năm; nhóm hộ thu nhập thấp chỉ đạt 6,66 tạ/ha/năm.
- Kết quả chăn nuôi ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Bảng 2.17 cho thấy nguồn thu từ chăn nuôi của các nhóm hộ khá phong phú. Thực tế, chăn nuôi của các hộ phần lớn vẫn là chăn nuôi tận dụng từ những sản phẩm của ngành trồng trọt do gia đình tự làm như: thóc, cám gạo, rau xanh trong vườn, khoai tây, khoai lang… Song đã có một số hộ mở rộng qui mô chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá bằng cách sử dụng cám công nghiệp. Tuy nhiên, năm 2007 là năm xảy ra các bệnh dịch trong chăn nuôi nên qui mô về các con vật nuôi của các hộ đã giảm. Đặc biệt dịch cúm gia cầm và đợt rét cuối năm 2007 đã làm số lượng gia cầm và đàn trâu bò của các hộ giảm đi đáng kể. Vì vậy làm giảm nguồn thu từ chăn nuôi của các nông hộ.
Hạch toán kết quả chăn nuôi của các hộ cũng sử dụng các chỉ tiêu tương tự như hạch toán kết quả cây trồng, bao gồm việc tính giá trị sản phẩm thô, chi phí và thu nhập của từng loại vật nuôi cho 2 phương thức chăn nuôi (tận dụng và sử dụng thức ăn công nghiệp).
Đối với người nông dân, chăn nuôi thường mang lại một khoản thu lớn, giúp hộ có thể dùng vào những việc cần món tiền lớn. Nguồn thu từ chăn nuôi của các hộ ở đây chủ yếu là nuôi lợn. Nuôi lợn hộ vừa có thể làm kinh tế nhưng lại có thể tận dụng được lượng phân bón khá lớn làm giảm chi phí cho trồng trọt. Nuôi trâu bò hộ có thể sử dụng trong việc cày bừa, chuyên chở lại thu được nguồn phân bón dồi dào cung cấp cho quá trình trồng trọt của hộ. Những loại phân bón này chiếm ưu thế trong việc cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng và tăng độ phì nhiêu cho đất lại rất thân thiện với môi trường sinh thái nếu được sử dụng đúng mục đích và quy trình cần thiết.
- Hiện trạng và cơ cấu thu nhập của các hộ điều tra
Ở khu vực nông thôn tổng thu của các hộ từ nhiều nguồn khác nhau: sản xuất nông nghiệp, vốn vay, lương, các nguồn hỗ trợ, hoạt động phi nông nghiệp…. Nhưng thu nhập chính của các hộ điều tra tại khu vực nông thôn huyện Định Hoá phần lớn lại từ trồng trọt và chăn nuôi. Do vậy hoạt động trồng trọt, chăn nuôi đã góp phần quan trọng tạo thu nhập cho hộ nông dân. Một thực tế với phần lớn người nông dân sản xuất nông nghiệp là lấy công làm lãi. Chu trình hoạt động sản xuất của họ là chu trình khép kín, tận dụng sản phẩm trồng trọt và thức ăn dư thừa của gia đình để chăn nuôi; Đồng thời họ lại thu được nguồn phân bón hữu cơ rẻ tiền và chất lượng để phục vụ cho sản xuất trồng trọt. Do vậy tổng thu, chi phí sản xuất của các hộ nông dân mang tính tương đối.
- Nguồn thu của các hộ điều tra
Mặc dù kinh tế hộ gia đình ở khu vực nông thôn huyện Định Hóa không chỉ là nông nghiệp; nhưng cho đến nay, nông nghiệp vẫn là cơ sở và là chỗ dựa cho mọi hoạt động kinh tế khác của hộ. Đại đa số dân cư nông thôn ở Định Hóa hiện nay đều coi mục tiêu chính của hoạt động nông nghiệp gia đình là nhằm đảm bảo đủ khẩu phần lương thực tối thiểu cho mọi thành viên trong hộ.
Bảng 2.18 cho thấy nguồn thu của hộ rất đa dạng nhưng chủ yếu vẫn từ nông nghiệp. Tuy khu vực nghiên cứu là vùng nông thôn miền núi, song thu từ lâm nghiệp của hộ năm 2007 tương đối thấp do tính chất hoạt động sản xuất lâm nghiệp mang tính lâu dài (6 đến 7 năm sau khi trồng mới được thu hoạch). Thu khác không tính vào thu nhập gồm: bán vàng bạc, rút tiền tiết kiệm, vay nợ,… Tiếp theo đó là nguồn thu từ trồng trọt và nguồn thu khác được tính vào thu nhập của hộ gồm: lương hưu, trợ cấp, lãi tiền gửi,…
- Cơ cấu thu nhập của các hộ điều tra ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Tại các xã ven thị trấn, dưới tác động của quá trình đô thị hoá, vai trò của hoạt động sản xuất nông nghiệp trong các nông hộ ở đây ngày càng suy giảm. Khi mà đất nông nghiệp của họ ngày càng bị mất đi cho việc mở rộng trung tâm thị trấn chợ Chu và phát triển khu công nghiệp thì các hộ ở đây càng có xu hướng chuyển sang kinh doanh phi nông nghiệp và tham gia các hoạt động có thu nhập khác. Định Hóa là một huyện miền núi đang trong giai đoạn đầu phát triển nên hiện tượng này cũng đang xảy ra nhưng còn nhỏ lẻ.
Trong sản xuất nông nghiệp, do đặc trưng truyền thống của kinh tế hộ nông dân như tự cung tự cấp, phần lớn nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản là an toàn lương thực. Do đó chỉ đề cao giá trị sử dụng của sản phẩm nông nghiệp, nên nông nghiệp cho đến nay vẫn là cơ sở của kinh tế hộ nông dân, nhất là các hộ nghèo, trung bình hay thuần nông. Đặc biệt tại một số xã thuộc chương trình 135, việc đa dạng hoá sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập của hộ.
Một nguồn thu khác cũng rất quan trọng trong cơ cấu thu nhập của hộ nông dân là tiền lương hưu, phụ cấp, thu từ đi làm thuê… mặc dù đây là một khoản thu rất nhỏ nếu so với mức chi tiêu ở đô thị song nó lại rất quan trọng đối với đầu tư nông nghiệp của một hộ nông dân. Thường thì mỗi hộ nông dân nghèo và trung bình chỉ cần 100 đến 300 ngàn đồng là có thể đầu tư cho sản xuất nông nghiệp của họ. Vì vậy, người nông dân thường coi hộ gia đình nào có thu nhập từ tiền lương là có thể có mức sống ổn định và khá giả.
Nhìn chung, nguồn thu nhập chính của các hộ nông dân tại tất cả các xã nghiên cứu chủ yếu vẫn dựa vào trồng trọt và chăn nuôi dù đó là hộ thuần nông hay hộ kiêm. Nổi bật nhất là vai trò của trồng trọt, chăn nuôi đối với các hộ thuần nông, hộ thu nhập thấp.
Thu nhập của các hộ nông dân ở huyện Định hoá chủ yếu từ 4 nguồn chính: Sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp, hoạt động phi nông nghiệp và hoạt động làm thuê. Ngoài ra, một số hộ còn có nguồn thu khác từ các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn của Nhà nước và của các tổ chức kinh tế xã hội khác,…
Để xác định được cơ cấu thu nhập của hộ, đề tài dựa vào các hoạt động động sản xuất nông nghiệp chính gồm trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Thu nhập của hộ nông dân nơi đây phụ thuộc nhiều vào trồng trọt (khoảng từ 40 – 45% thu nhập của hộ). Trong khi thu nhập từ chăn nuôi và thu khác chiếm tỷ lệ thấp hơn (khoảng từ 13 – 18% thu nhập của hộ). Thu khác tuy chiếm từ khoảng 19 – 22% nhưng lại là tổng hợp từ một vài hoạt động khác nhau ở mỗi hộ.
Thu khác của các hộ gồm tiền lương hưu, trợ cấp, lãi gửi tiết kiệm, bảo hiểm, tiền biếu, tổ chức nhân đạo. Biểu đồ trên cho thấy thu khác của hộ cũng chiếm tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu thu nhập.
2.2.6 Thực trạng về môi trường khu vực nghiên cứu
Một số nguyên nhân gây ảnh hưởng đến môi trường nông thôn
Đã có nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy những tác động tiêu cực đến môi trường có liên quan đến tăng trưởng dân số khi một bộ phận người dân phải đối mặt với nghèo đói. Họ vừa là nguyên nhân gây ra các vấn đề về môi trường, vừa là nạn nhân của chính sự tàn phá môi trường ấy. Đó chính là một “vòng luẩn quẩn” của nghèo đói. Do thiếu vốn, thiếu kiến thức và phương tiện sản xuất, người nghèo đã khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, lãng phí, gây ra sự cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, làm cho năng suất cây trồng và vật nuôi giảm, các điều kiện vệ sinh môi trường xấu đi. Điều này khiến cho con người ngày càng nghèo đói và mắc nhiều bệnh tật hơn. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Có thể hiểu môi trường nông thôn thực chất là các khía cạnh sinh thái nông nghiệp và phát triển nông thôn. Liên quan đến khía cạnh sinh thái nông nghiệp hoặc hoạt động sản xuất nông nghiệp là các vấn đề: Điều kiện sinh thái đồng ruộng, khả năng cấp nước, nguồn gien trong nông nghiệp, điều kiện canh tác, sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu. Còn liên quan đến khía cạnh phát triển nông thôn là các vấn đề: Chất lượng cuộc sống nông dân, vệ sinh nông thôn, bệnh dịch, cơ sở hạ tầng và các vấn đề xã hội khác.
Thực tế cho thấy có rất nhiều yếu tố gây mất vệ sinh môi trường, nhưng tựu chung lại các nguồn gây ô nhiễm môi trường nông thôn chủ yếu là do:
Hố xí không hợp vệ sinh trong các khu dân cư: Tỉ lệ số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh ở nông thôn còn rất thấp, chưa đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khoẻ người dân. Và chính do tập quán sử dụng phân bắc tươi để bón ruộng, bón rau màu nên đã làm xuất hiện nhiều căn bệnh đường ruột.
Nước thải không được xử lý trước khi thải ra môi trường đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ người dân.
Thêm vào đó là tỉ lệ người dân được sử dụng nước sạch chưa cao. Có khá nhiều người dân còn giặt giũ, rửa rau, thậm chí tắm ở ao, sông, suối. Trong khi các sông, suối, kênh rạch… này đã bị ô nhiễm bởi nhiều nguồn thải khác nhau có thể từ thượng nguồn đổ xuống do những tập quán sinh hoạt mất vệ sinh như: Phóng uế bừa bãi, dùng phân tươi bón ruộng, vứt xả rác và xác động vật chết ra đường, ao hồ, sông, suối, thả rông gia súc,… đây chính là những nguyên nhân gây ra các bệnh đường ruột, đau mắt, tiêu chảy,…
Chuồng trại chăn nuôi không được xây dựng theo tiêu chuẩn và việc xử lý phân, rác thải gia súc, gia cầm không hợp vệ sinh làm ảnh hưởng đến sức khỏe người dân làm lây lan các bệnh truyền nhiễm.
Tình trạng rác thải chưa được thu gom, xử lý tập trung đã và đang là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nông thôn.
Nạn sử dụng hoá chất bừa bãi trong sản xuất nông nghiệp như: việc lạm dụng phân hoá học, các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích sinh trưởng, thuốc bảo quản nông sản…làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản và sức khoẻ người tiêu dùng cũng như người sản xuất. Ngoài ra khi sử dụng xong, bà con lại vứt vỏ bao bì tự do ra môi trường.
Ngoài ra, do yêu cầu thâm canh, tăng vụ nên khối lượng sử dụng ngày càng tăng thuốc trừ sâu và phân bón hoá học cũng làm tổn hại không nhỏ đến môi trường. Đất trồng lúa có lượng chất độc ngày càng tăng, làm chết cá – tôm – các động thực vật thuỷ sinh khác (nguồn sống quan trọng cung cấp protein), gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ con người.
Người nông dân do mức thu nhập quá thấp nên đã tận dụng các nguồn chất đốt rẻ tiền và dễ kiếm như rơm, rạ, lá cây, phân gia súc…đây là nguyên nhân của tình trạng “ô nhiễm trong nhà”, gây ô nhiễm và ảnh hưởng rất tiêu cực đến sức khoẻ con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ
Chất thải rắn nông nghiệp ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Chất thải rắn nông nghiệp là chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp như: trồng trọt, thu hoạch, bảo quản và sơ chế nông sản, các chất thải thải ra từ chăn nuôi: giết mổ động vật, chế biến sữa…nguồn gốc phát sinh chất thải rắn nông nghiệp từ nhiều nhiều nguồn khác nhau.
Chất thải rắn nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguồn phát sinh và mang đặc tính của loại hình nông nghiệp.
Thành phần chính của chất thải rắn nông nghiệp gồm: phế phụ phẩm từ trồng trọt (rơm, rạ, trấu, cám, thân, lá cây, vỏ, lõi ngô); phân gia súc (lợn trâu, bò, dê), phân gia cầm (gà, vịt, ngan); bao bì đóng gói, chai lọ thuốc BVTV, thuốc trừ sâu, thuốc thú y; túi đựng hoá chất nông nghiệp, phân bón; xác động vật chết (gà toi, lở mồm long móng) chứa các vi trùng gây bệnh;…
Chất thải rắn nông nghiệp thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về giống, thời vụ, yếu tố địa lý, tỷ trọng các loại hình sản xuất và tập quán sản xuất. Thực tế cho thấy, nếu trồng các loại cây trồng có sức đề kháng tốt với sâu bệnh thì nhu cầu sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật giảm và do đó thành phần chất thải vô cơ có tính nguy hại như: vỏ chai lọ đựng hoá chất bảo vệ thực vật, vỏ bình phun hoá chất giảm đáng kể. Việc chăn nuôi gia súc và gia cầm: nuôi gà công nghiệp, lợn hướng nạc đòi hỏi phải sản xuất các loại thức ăn sẵn có bán trên thị trường làm tăng chất thải là bao bì sau sử dụng.
Trong giai đoạn tăng trưởng của thực vật thì lượng phân bón và các hoá chất bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu…được sử dụng nhiều. Do đó quá trình này phát sinh nhiều chất thải rắn vô cơ và có tính chất nguy hại cao. Trong thời gian thu hoạch, lượng rơm, rạ, trấu và các phế phụ phẩm nông nghiệp khác phát sinh nhiều và chiếm thành phần chủ yếu trong chất thải rắn nông nghiệp.
Ứng với mỗi loại hình sản xuất nông nghiệp thì phát sinh chất thải với đặc tính hoá học, vật lý cũng như sinh học là khác nhau. Trong một vùng sản xuất nông nghiệp, nếu tỷ trọng trồng lúa, chè chiếm đa số so với chăn nuôi thì rơm rạ, trấu, cành trong chất thải rắn nông nghiệp là chủ yếu.
Thông thường, các phế phẩm nông nghiệp được người dân tận dụng tối đa để tái sử dụng làm chất đốt, làm thức ăn gia súc, vật liệu độn chuồng hoặc vùi trở lại vào đất. Do đó khả năng tồn lưu gây ô nhiễm môi trường sẽ được loại bỏ.
Chất thải từ chăn nuôi là các loại phân chuồng từ chăn nuôi gia súc, gia cầm…ở các khu vực nông thôn mỗi năm phát sinh hàng trăm nghìn tấn phân động vật các loại. Số phân động vật này chủ yếu được sử dụng cho mục đích bón cây, bón ruộng. Tuy nhiên việc bố trí chuồng trại chăn nuôi chưa hợp lý đã gây ảnh hưởng tới môi trường sống của người dân.
2.2.7 Thực tế điều kiện sinh hoạt và vệ sinh tại các hộ ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
- Nước và nguồn nước ăn uống, sinh hoạt của hộ
Nước là thứ không thể thiếu đối với cuộc sống con người, loài vật và cả cây trồng. Nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn là vấn đề đang rất được quan tâm hiện nay. Đã có nhiều chứng minh khoa học về sự nguy hại của nguồn nước bị ô nhiễm đã gây ra nhiều bệnh nan y cho con người.
Do vị trí địa lý, địa hình của huyện Định Hóa cao và có nhiều núi nên các giếng đào của các hộ khá sâu, một số hộ đã khoan giếng nhưng vẫn thiếu nước một vài tháng vào mùa khô. Nước máy chỉ tập trung ở khu vực trung tâm huyện, số lượng hộ được sử dụng rất thấp. Còn lại ở các xã hầu hết người dân sử dụng giếng đào, giếng khoan, sông và nước suối. Mùa khô (khoảng tháng 9 đến giữa tháng 11 hàng năm) người dân trong xã thường bị thiếu nước. Khi đó nước ăn thì đi xin ở một số gia dình khác có giếng khoan sâu hoặc có bể chứa nước mưa còn nước sinh hoạt thì ở ao hồ, sông, suối.
Bảng 2.20 cho thấy tỷ lệ hộ sử dụng nước giếng đào còn rất lớn, khoảng 80% ở cả 3 nhóm hộ trong khi đó tỷ lệ hộ sử dụng nước không qua lọc chiếm từ 93 – 100%. Tuy phần lớn số hộ điều tra đều đun sôi nước uống song do vấn đề môi trường hiện nay ở nhiều vùng nông thôn nên việc sử dụng trực tiếp nước giếng đào, nước sông, nước suối sẽ không đảm bảo sức khoẻ của người dân. Bên cạnh đó còn hơn một nửa số hộ thiếu nước ăn và nước sinh hoạt vào mùa khô hàng năm.
- Khu vệ sinh gia đình
- Qua thực tế điều tra cho thấy, điều kiện nhà vệ sinh của các nông hộ còn chưa đảm bảo so với yêu cầu an toàn vệ sinh môi trường.
Khu vực nông thôn phần lớn số hộ gia đình làm nông nghiệp do vậy việc xây dựng nhà vệ sinh theo kiểu tự hoại là rất khó thực hiện. Đa số bà con nông dân tận dụng làm phân bắc để bón ruộng. Vì vậy, số lượng nhà vệ sinh 1 và 2 ngăn chiếm tỷ lệ cao ở cả 3 nhóm hộ.
Bảng trên cho thấy trong số 188 hộ có 6 hộ có nhà vệ sinh tự hoại, chiếm 3,19% số hộ nghiên cứu.
- Theo khuyến cáo của Cục Bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn về khoảng cách an toàn từ nhà vệ sinh tới nhà ở và nguồn nước của hộ phải lớn hơn 10m. Nhưng theo điều tra và quan sát thực tế cho thấy còn rất nhiều hộ chưa đạt được tiêu chuẩn an toàn trên.
- Thực tế điều kiện và vệ sinh trong chăn nuôi của hộ
Hiện nay, trên địa bàn huyện Định Hóa vẫn đang còn tồn tại hình thức chăn nuôi gia súc, gia cầm dưới sàn nhà sàn ở một số hộ gia đình người dân tộc. Mặc dù hình thức chăn nuôi này đã được đài, báo, tivi,…tuyên truyền, cảnh báo rất nhiều về tình trạng mất vệ sinh và các bệnh dịch ở gia súc, gia cầm có thể lây lan sang người. Nhưng người dân ở đây vẫn thấy bình thường và không một chút lo ngại khi được hỏi về việc nôi nhốt ngựa, gà ngay dưới sàn nhà – nơi họ ăn, ngủ nghỉ và sinh hoạt hàng ngày.
Phần lớn các hộ ở khu vực nghiên cứu chọn hình thức chăn nuôi hỗn hợp tức là ban ngày thả, ban đêm nhốt.
- Cách thức xử lý rác thải
Là một huyện miền núi, điều kiện kinh tế còn hạn chế, người dân Định Hóa chủ yếu sống ở khu vực nông thôn. Do vậy, mức độ quan tâm đến việc thu gom rác thải còn hạn chế.
Ở trung tâm huyện hiện nay mới đang xây dựng bãi rác chung, từ trước đến nay người dân thị trấn cứ tự do xả rác xuống các sông, suối. Còn người dân nông thôn chủ yếu đốt, chôn lấp và cũng có khi vứt xuống các suối gần nhà mà không cần quan tâm rác sẽ được tự do trôi nổi đi về mọi hướng. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Bên cạnh rác thải sinh hoạt; vỏ chai lọ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ – là những thứ rác vô cùng nguy hiểm cũng được người dân cho là đồi và ruộng nhiều nên cứ vứt thoải mái. Kể cả ở những con mương nhỏ nơi họ lấy nước để pha thuốc.
* Qua thực tế điều tra, phân tích cho thấy quá trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn của huyện Định Hóa chưa thực sự gắn bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện nay người dân chỉ quan tâm đến việc phải làm kinh tế chứ chưa nghĩ đến môi trường rồi đây sẽ ra sao. Phần lớn người dân chỉ quan tâm tới thu lợi trước mắt mà không chú ý đến lợi ích sau này. Với họ việc bón phân lân, phân đạm, phun thuốc diệt cỏ đang dần trở thành thói quen vì bón phân hóa học cây trồng sẽ nhanh tốt hơn phân chuồng, chè sẽ nhanh được hái. Phân chuồng trở thành nguồn dinh dưỡng phụ cho cây trồng, có thể có hoặc không. Không những thế người dân bón bất cứ lúc nào họ cảm thấy cần thiết mà không cần đến quy trình kỹ thuật, thời điểm bón. Cây chè là một điển hình, cứ sau một lứa hái là người dân bón phân lân, đạm và phun thuốc trừ sâu, kích thích để chè lên nhanh… Đây là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí rất nghiêm trọng hiện nay ở khu vực nông thôn nói chung và khu vực nông thôn huyện Định Hóa nói riêng. Bên cạnh đó việc khai thác rừng bữa bãi hiện nay cũng vẫn xảy ra. Hậu quả nguy hại của các vấn đề trên không phải người dân nào cũng không biết mà vì mục tiêu kinh tế đã chi phối họ. Do đó, phát triển kinh tế không thể tách rời với bảo vệ môi trường sinh thái. Từ đó ngoài bảo vệ được sức khỏe con người còn có thể giữ gìn được nguồn tài nguyên quý báu cho thế hệ mai sau.
2.3 Phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế hộ với môi trường sinh thái khu vực nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và thực tế tại khu vực nông thôn nói chung, khu vực nông thôn huyện Định Hoá nói riêng cho thấy, tác động đến môi trường sinh thái trong quá trình phát triển kinh tế hộ chủ yếu ở đây là vấn đề sử dụng phân bón hoá học, thuốc BVTV, chất thải rắn, cách xử lý phân thải từ chăn nuôi, chất lượng nguồn nước,…
2.3.1 Thực trạng tình hình sử dụng phân bón và thuốc BVTV tại các nhóm hộ điều tra
Một số điểm nguy hại của việc sử dụng những loại thuốc BVTV tại địa phương
Một thực trạng tồn tại phổ biến trong sản xuất nông nghiệp hiện nay là việc quá lạm dụng phân bón hoá học của bà con nông dân, tạo nên lượng tồn dư trong đất làm ô nhiễm môi trường đất.
Đối với môi trường đất khi phun thuốc trên cây trồng thì có khoảng 50% lượng thuốc sẽ bị rơi xuống đất trong quá trình phun hoặc do mưa rửa trôi. Hầu hết các hoá chất BVTV khi đi vào đất sẽ diễn ra các quá trình: Bay hơi, phân tán, rửa trôi thâm nhập vào đất. Điều kiện môi trường đất (nhiệt độ, độ ẩm,…) sẽ quyết định tính tồn lưu của các hoá chất BVTV trong đất đồng thời cũng quyết định sự chuyển hoá của chúng vào môi trường không khí. Ngược lại, các hoá chất BVTV cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất và thành phần của đất. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Qua quá trình thực tế và phỏng vấn trực tiếp, người dân cho biết môi trường không khí nơi đây còn khá trong lành, chỉ bị ảnh hưởng do mùi thuốc BVTV vào chính vụ phun. Khi phun thuốc, bán kính khuếch tán mùi thuốc rộng khoảng 40 – 50m, mùi rất khó chịu. Thuốc gói thường có mùi khó chịu hơn thuốc chai. Mỗi khi phun thuốc thì môi trường không khí lại bị ô nhiễm, đặc biệt với phương thức phun thuốc lẻ tẻ không đồng đều sẽ làm cho môi trường không khí bị ảnh hưởng thường xuyên.
Theo điều tra, hầu hết việc phun thuốc BVTV cho chè, lúa đều do người trong gia đình thực hiện. Phần lớn họ cho biết khi pha và phun thuốc đều có cảm giác khó chịu hoặc bị sốc do mùi thuốc, đôi khi thấy đau đầu chóng mặt…tuy nhiên đây là công việc bắt buộc không thể tránh khỏi. Thậm chí họ còn không mặc quần áo bảo hộ và đeo khẩu trang khi phun.
Hầu hết các thuốc BVTV đều là những chất hữu cơ tổng hợp có độc tính ở nhiều mức khác nhau: ít độc, trung bình, độc và rất độc không những làm chết những sinh vật hại cây trồng mà còn gây nguy hiểm với sinh vật có lợi và sức khoẻ con người làm mất cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học ở khu vực nông thôn. Bằng nhiều con đường và mức độ khác nhau, chúng ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch, cơ quan nội tạng và hệ hô hấp của con người. những loại thuốc BVTV đang được sử dụng tại khu vực nghiên cứu. (Phụ lục04)
- Tình hình sử dụng phân bón và thuốc BVTV của các hộ
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp việc sử dụng phân bón để chăm sóc cho cây chè và cây lúa; sử dụng thuốc BVTV để phòng và chống bệnh cho cây trồng là không thể tránh khỏi. Song việc sử dụng phân bón hoá học, thuốc BVTV không đúng quy cách, liều lượng đã gây ảnh hưởng đến môi trường đất, nước, không khí từ đó trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân. Bảng 2.24 đưa ra các mức bón phân, chi phí thuốc BVTV, thuốc diệt cỏ của từng nhóm hộ có thu nhập khác nhau. Lượng phân bón bình quân ở nhóm hộ có thu nhập
2.3.2 Mối quan hệ giữa thu nhập trồng trọt và môi trường khu vực nghiên cứu trong quá trình phát triển kinh tế hộ
Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp là gắn với thiên nhiên, phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố thiên nhiên. Vì vậy kết quả sản xuất của nông hộ phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài sử dụng chỉ tiêu thu nhập trồng trọt để đánh giá cho sự phát triển kinh tế của hộ (biến phụ thuộc – Y). Các nhân tố ảnh hưởng (biến độc lập) tới kết quả sản xuất của hộ trong vùng nghiên cứu mà đề tài xét đến bao gồm: trình độ của chủ hộ; chi phí môi trường trong quá trình sản xuất (phân bón, thuốc trừ sâu;…). Ngoài ra còn các yếu tố khác tác động đến như: Đất đai, lao động, thời tiết, dịch bệnh,…
Việc sử dụng các loại hóa chất BVTV trong nông nghiệp đã gây ảnh hưởng độc hại tới đất, nước, không khí và sự tồn dư của chúng trong nông sản phẩm và động vật từ đó tác động có hại đến sức khỏe con người.
Người ta tính khi phun hóa chất BVTV có khoảng 50% rơi vào đất. Ở trong đất hóa chất BVTV sẽ biến đổi và phân tán theo nhiều con đường khác nhau. Mặc dù độ hòa tan của hóa chất BVTV tương đối thấp song chúng cũng bị rửa trôi vào nước, gây ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm.
Mô hình
Đề tài đã sử dụng phương trình hồi quy tuyến tính bội làm công cụ phân tích sự biến động về thu nhập từ trồng trọt của hộ trong năm 2007 và mối tương quan với ảnh hưởng của những nhân tố khác.
Biến phụ thuộc: Thu nhập trồng trọt
Biến độc lập: ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
- + Trình độ học vấn (1.000đ) – x1
- + Chi phí phân hữu cơ (1.000đ ) – x2
- + Chi phí phân hoá học (1.000đ) – x3
- + Thuốc BVTV (1.000đ) – x4
- + Thuốc diệt cỏ (1.000đ) – x5
Mô hình hồi qui tuyến tính sẽ có dạng:
Thu nhập trồng trọt = β0 + β1 × x1 + β2 × x2 + β3 × x3 + β4 × x4 + β5 × x5 + ε
Trong đó: β0: hằng số β1, β2, β3, β4, β5: hệ số góc/độ dốc ε: sai số ngẫu nhiên
Trong mô hình trên
Hệ số tương quan giữa thu nhập trồng trọt của hộ với các yếu tố ảnh hưởng như: Trình độ học vấn của chủ hộ và các chi phí phân bón, thuốc BVTV là mức độ giải thích (%) của các yếu tố này cho sự biến thiên của thu nhập trồng trọt của hộ.
Hệ số tương quan riêng giữa thu nhập trồng trọt với các yếu tố thành phần là mức độ giải thích (%) của riêng một yếu tố cho sự thay đổi của thu nhập trồng trọt với giả định các yếu tố khác không đổi.
Hệ số co dãn giữa thu nhập trồng trọt với các yếu tố trình độ của chủ hộ, phân bón hữu cơ, phân hoá học, thuốc BVTV, thuốc diệt cỏ; chỉ mức độ đóng góp vào thu nhập trồng trọt của riêng một yếu tố nào đó khi giả định các yếu tố khác không đổi. Hệ số này cũng cho thấy hiệu quả sử dụng các nguồn lực của hộ.
Tuy nhiên điểm hạn chế khi sử dụng mô hình này là: Do số liệu điều tra chỉ có được tại 1 thời điểm cố định là năm 2007, do đó mô hình mô phỏng chỉ có thể được tính cho một thời điểm nhất định mà không có sự biến động theo chuỗi thời gian để so sánh các kết quả khác nhau.
Áp dụng cho mẫu điều tra nghiên cứu của đề tài có thể giả định về kết quả sản xuất của các nông hộ: Kiểm định về mối quan hệ tuyến tính bội Giả thiết H0: β1 = 0,…,β5 = 0. Đối thiết H1: β1 ≠ 0,…, β5 ≠ 0.
Kết quả
Sau khi sử dụng phần mềm SPSS chạy hồi quy cho bộ số liệu điều tra hộ nông dân ở các xã điều tra đại diện cho các phương thức canh tác, mức đầu tư cho phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường qua các chi phí về phân bón, thuốc BVTV ở các nhóm hộ thu nhập cao, thu nhập trung bình và thu nhập thấp. Kết quả hồi quy được tổng hợp như sau:
Báo cáo cho thấy mối tương quan tương ứng giữa thu nhập trồng trọt với các yếu tố cơ bản:
Mối tương quan giữa thu nhập trồng trọt và phân hóa học, thuốc BVTV, trình độ văn hoá của chủ hộ là chặt. Có nghĩa là 67,4% trình độ văn hóa của chủ hộ giải thích về sự biến thiên của thu nhập trồng trọt; trong khi 83,3% là do phân hóa học tác động tới; thuốc BVTV ảnh hưởng tới thu nhập trồng trọt là 78,3%. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Thuốc diệt cỏ có mối tương quan trung bình với thu nhập trồng trọt. Tức là thuốc diệt cỏ giải thích cho sự biến thiên của thu nhập trồng trọt là 51,2%.
Mức độ ảnh hưởng của phân chuồng (phân hữu cơ) đến kết quả trộng trọt của hộ không cao, thể hiện mối tương quan yếu. Nguyên nhân có thể do lượng phân chuồng được bón quá ít so với diện tích đất trồng của hộ hoặc biện pháp chăm bón chưa đúng, chưa kịp thời.
Những biến động của các yếu tố chi phí phân hoá học, thuốc BVTV trong một giới hạn nào đó đã ảnh hưởng đến thu nhập trồng trọt của hộ. Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều phân và phun thuốc BVTV thì năng suất, chất lượng sản phẩm lại tăng mà còn phụ thuộc vào lợi ích cận biên. Bên cạnh đó còn có mặt xấu của phân hoá học, thuốc BVTV (liều lượng, quy trình bón, thời điểm bón) sẽ tác động xấu tới môi trường đất, nước và không khí, chất lượng nông sản phẩm. Từ đó ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.
Mức ý nghĩa báo cáo cho thấy thu nhập trồng trọt và các yếu tố chi phí ra môi trường có mối quan hệ tương quan và có ý nghĩa thống kê.
- Trong phân tích tương quan hồi quy bội, R là hệ số tương quan giữa các trị số quan sát và dự đoán của biến phụ thuộc, R = 0,8468 có nghĩa là thu nhập trồng trọt và các yếu tố trình độ, chi phí có mối quan hệ chặt.
- R Square = 0,717 có nghĩa các yếu tố học vấn, chi phí phân bón, thuốc BVTV giải thích được 71,7% sự biến thiên thu nhập, còn lại 28,3% là nguyên nhân khác.
- R Square hiệu chỉnh = 0,709 phản ánh chính xác hơn sự phù hợp của mô hình đối với tổng thể. Ở đây tồn tại mô hình hồi quy tuyến tính giữa thu nhập trồng trọt và các biến độc lập: Trình độ học vấn, phân hữu cơ, phân hoá học, thuốc BVTV, thuốc diệt cỏ.
- Thống kê F = 92,2767 được dùng để kiểm định giả thiết H0: (β1 = 0; β2 = 0; β3 = 0; β4 = 0; β5 = 0) cho rằng các biến độc lập không ảnh hưởng tới thu nhập trồng trọt của hộ nông dân.
- Mối quan hệ tuyến tính là rất có ý nghĩa với báo cáo p_value có giá trị bằng 0 < 0,01. Như vậy ta có thể bác bỏ giả thiết H0 cho rằng hệ số góc bằng 0 và chấp nhận đối thiết H1 cho rằng có ít nhất một biến trong các biến độc lập có ảnh hưởng đến thu nhập trồng trọt của hộ.
Hệ số chuẩn Beta xem xét mức độ ảnh hưởng của 1 biến độc lập lên biến phụ thuộc, trong khi các biến độc lập khác không thay đổi (hay thống kê Beta cho ta biết tầm quan trọng của từng biến độc lập đối với biến phụ thuộc). Với các giá trị báo cáo ở bảng trên cho thấy: Phân hoá học ảnh hưởng nhiều nhất đến thu nhập trồng trọt của hộ nông dân (45,5%), tiếp theo là thuốc BVTV (26,6%) và ảnh hưởng ít nhất là phân hữu cơ (2,8%) – loại phân chuồng phụ thuộc phần lớn vào sản phẩm phụ chăn nuôi của hộ.
- Nhận xét
Kết quả mô hình cho thấy mối tương quan giữa phát triển kinh tế của khu vực nông thôn với bảo vệ môi trường là hai vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp qua lại không tách rời. Đây cũng là vấn đề cấp thiết đã, đang và sẽ được quan tâm hiện nay của cả cộng đồng không riêng nước ta.
Sử dụng phân bón gây nguy cơ ô nhiễm môi trường. Sử dụng phân chuồng và phân bắc không hợp vệ sinh gây ra nhiều bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa…ảnh hưởng đến sức khỏe con người. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Bên cạnh đó, sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu bệnh là chìa khóa của sự thành công trong cách mạng xanh và đảm bảo nhu cầu về lương thực. Nhưng trong những năm gần đây nhiều người đã lo ngại về ảnh hưởng của nó đến môi trường và sức khỏe con người vì những lý do sau:
Gây độc cho nguồn nước, đất bởi thuốc trừ sâu và (NO3–) Nitrat, từ đó ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân và suy thoái hệ sinh thái.
Gây độc hại cho lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng nitrat và các chất kích thích sinh trưởng
Gây độc hại cho bầu khí quyển bởi các khí amoniac (NH3), mê tan và nhiều chất khác sinh ra từ quá trình đốt cháy làm suy giảm tầng ôzon làm trái đất nóng lên và gây ô nhiễm bầu khí quyển.
Xu thế tiêu chuẩn và chuyên môn hóa trong nông nghiệp bằng cách tập trung vào các giống mới dẫn đến sự thay thế dần và biến mất những giống loài truyền thống.
2.4 Một số tồn tại và định hướng phát triển kinh tế hộ nông dân đồng thời bảo vệ môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
2.4.1 Một số vấn đề còn tồn tại
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở một số xã chuyển dịch chậm. Thực tế tình hình trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp và ngành nghề dịch vụ khác ở khu vực trên địa bàn huyện phát triển còn chậm và chưa có hiệu quả hoặc chưa tương xứng với tiềm năng…
- Cơ cấu lao động trong huyện nông nghiệp chiếm phần lớn.
- Năng suất cây trồng chưa cao, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm còn thấp.
- Việc chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp còn chậm, chưa đi vào thực tiễn.
- Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng để phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, nhưng quy mô nhỏ, thực tế hoạt động chưa xứng với tiềm năng sẵn có của huyện. (Nhà máy giấy gỗ DELTA, Nhà máy chè Kiên và Kiên, Nhà máy chè Định Hóa,…)
- Nước sạch sinh hoạt và nước phục vụ tưới tiêu còn hạn chế, mùa khô một số gia đình vẫn bị thiếu nước sinh hoạt. Hệ thống kênh mương phục vụ cho tưới tiêu chưa đủ và chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả chưa cao.
- Thiên tai, sâu hại và dịch bệnh thường xuyên xảy ra ở địa phương
- Giá cả vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng cao trong khi giá nông sản lại thấp.
- Định Hóa là một huyện miền núi, có nhiều đồng bào dân tộc đang sinh sống, đời sống của người dân còn nghèo, còn gặp nhiều khó khăn. Mức độ quan tâm và hiểu biết của người dân về bảo vệ môi trường còn hạn chế, nếp sống và phong tục tập quán của họ vẫn lạc hậu. Do vậy, môi trường nông thôn ở đây từng ngày từng giờ đang bị ô nhiễm. Rác thải chủ yếu ở đây là do sinh hoạt và các hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân.
- Môi trường đất: Ô nhiễm đất chủ yếu là do rác thải sinh hoạt, thói quen bón phân tươi cho cây trồng và rác thải chăn nuôi không được xử lý.
- Môi trường nước: Ô nhiễm phần lớn là do rác thải sinh hoạt, rác thải chăn nuôi, xác động vật chết, vỏ chai lọ thuốc trừ sâu vứt bừa bãi ra các sông, suối, ao hồ, đặc biệt các vùng đầu nguồn nên nguồn nước mặt mà chủ yếu là nước nông nghiệp như mương, suối đã có dấu hiệu ô nhiễm.
- Môi trường không khí: Chỉ có dấu hiệu phát tán mùi thuốc trừ sâu vào các vụ mùa và mùi khí H2S bốc ra từ chuồng trại chăn nuôi không được xây dựng đúng quy cách.
- Điều kiện, ý thức sinh hoạt và vệ sinh của các gia đình chưa đảm bảo; chuồng trại chăn nuôi và nhà vệ sinh gia đình chưa đúng tiêu chuẩn và yêu cầu vệ Vì vậy đây là nguyên nhân phát sinh các dịch bệnh về tiêu hóa.
2.4.2 Định hướng nhằm phát triển kinh tế hộ và bảo vệ môi trường
Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của vùng nông thôn huyện Định Hoá là một huyện miền núi; Bình quân diện tích đất nông – lâm nghiệp/người khá cao; Trình độ dân trí thấp, đời sống người dân tương đối khó khăn. Để phát triển kinh tế hộ (nâng cao thu nhập) kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái trong khu vực, huyện Định Hóa và các hộ dân cần có kế hoạch tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi hệ thống, phương thức canh tác, có biện pháp đầu tư cho phát triển nông – lâm nghiệp – công nghiệp hợp lý, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng:
Phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao theo hướng bền vững. Tiếp tục hỗ trợ đầu tư phát triển nông – lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Huy động tối đa nội lực để giải phóng mặt bằng nhằm thu hút đầu tư làm khâu đột phá để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế – xã hội. Quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư trên địa bàn. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, y tế, dân số đồng thời từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng đối với thu nhập của các hộ nông dân, song hệ thống canh tác nông nghiệp chuyển dịch sang các cây trồng, vật nuôi theo hướng phát triển hàng hoá nhằm nâng cao giá trị thu nhập trên 1 ha đất nông nghiệp và nâng cao năng suất lao động cho người nông dân.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo sát với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, trên cơ sở phát huy lợi thế sẵn có của vùng (sản phẩm chè, gạo Định Hóa).
Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Phát triển mạnh chăn nuôi với quy mô lớn và chất lượng cao hơn. Xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến.
Khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự phát. Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất nông – lâm nghiệp theo hướng: phát huy lợi thế tự nhiên của khu vực nông thôn miền núi; lợi thế kinh tế của từng loại cây trồng, con gia súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ. Dần hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường và công nghiệp chế biến, bảo đảm hiệu quả bền vững và an ninh lương thực quốc ..
Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ, xây dựng và bảo vệ thương hiệu chè, gạo bao thai Định Hoá; coi trọng và phát triển thị trường trong nước.
Ứng dụng khoa học công nghệ mới vào thực tế sản xuất nông nghiệp, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ sau thu hoạch; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học. Nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi…
Tỉnh Thái Nguyên, huyện Định Hóa cần tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để đảm bảo an toàn về nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, tăng số dân cư nông thôn có điện và nước sạch sinh hoạt.
Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao động nông thôn. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn.
Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp thiết thực cho các xã thuộc chương trình 135 và các hộ dân còn nhiều khó khăn. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển hệ thống khuyến nông – khuyến lâm, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua khó khăn, thoát nghèo và nâng cao mức sống một cách bền vững,…
Tập trung đầu tư để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố hóa trường học, thực hiện tốt hơn chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn; phát triển mạnh phong trào vệ sinh môi trường nông thôn. ( Luận văn thực trạng phát triển kinh tế hộ )
Tỉnh Thái Nguyên đặt mục tiêu đến năm 2010, tỉnh sẽ có 90% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, 70% số hộ gia đình được sử dụng công trình vệ Khắc phục những tồn tại về tập quán lạc hậu của người dân vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, nhất là những vùng khó khăn về nguồn nước. Trong đó tỉnh tập trung tăng cường đổi mới công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động mọi tầng lớp nhân dân hiểu sâu về lợi ích của việc sử dụng nước sạch, giữ gìn môi trường, bảo vệ nguồn nước sinh hoạt, tạo ý thức tự giác xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, tỉnh sẽ duy trì và mở rộng mạng lưới dịch vụ cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, các công trình được đầu tư bằng vốn viện trợ và ngân sách Nhà nước, sớm hình thành thị trường nước sạch ở khu vực nông thôn miền núi.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn giải pháp phát triển kinh tế hộ tác động đến môi trường nông thôn Tỉnh Thái Nguyên

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com