Nhận được được nhu cầu vốn để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh cũng như đổi mới công nghệ của DNNVV tăng cao, tác giả đã lấy Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa làm bài luận văn tốt nghiệp của mình. Đồng thời, cùng với nhu cầu vốn của một lượng lớn DNNVV thành lập mới hàng năm đã trở thành mục tiêu tiếp cận để phát triển tín dụng cũng như dịch vụ của nhiều ngân hàng thương mại (NHTM), song mối quan hệ giữa NHTM và DNNVV vẫn chưa thực sự được thuận lợi và gắn bó nhau được tác giả triển khai rõ ràng tại Đề tài: Giải pháp phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Tại Chi Nhánh Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Đông Sài Gòn
Nội dung chính
2.1. Thực trạng của các DNNVV Việt Nam hiện nay
2.1.1 Sự phát triển về số lượng của các DNNVV
Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2009 cho thấy số lượng các DNNVV đăng ký kinh doanh mới không ngừng tăng cao qua các năm, nếu như năm 2005 chỉ có 39.959 DNNVV được thành lập mới thì đến năm 2008 số này đã tăng lên 65.318 doanh nghiệp, tăng 63% so với năm 2005 và tăng bình quân 18%/năm. Thống kê trên đã cho thấy DNNVV đang được quan tâm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích phát triển.
Về loại hình doanh nghiệp DNNVV đã có sự chuyển dịch rõ nét từ khu vực nhà nước sang khu vực dân doanh theo hướng giảm dần doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong tổng số hơn 210 ngàn DNNVV thành lập mới từ năm 2005 đến 2008 chỉ có 22 DNNN trong khi doanh nghiệp dân doanh chiếm 186.156 doanh nghiệp.
2.1.2 Thực trạng về công nghệ ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Bình quân giai đoạn 2005-2008 Việt Nam có gần 53 ngàn DNNVV được thành lập mỗi năm, tuy nhiên vấn đề công nghệ của các DNNVV nói riêng và của doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn ở trình độ rất thấp so với khu vực và thế giới và chưa được cải thiện nhiều, theo báo cáo khảo sát của Sở Khoa học – Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy trình độ công nghệ của các doanh nghiệp sản xuất trong nước tụt hậu hai thế hệ so với thế giới. Theo đó, hơn 70% máy móc thiết bị (MMTB) được sản xuất từ những năm 1970; 75% MMTB đã hết thời gian khấu hao; 50% MMTB mới tân trang.
Nhìn chung, có đến 52% MMTB được đánh giá là lạc hậu và rất lạc hậu. Về trình độ công nghệ, không có doanh nghiệp nào đạt trình độ công nghệ tốt; trong khi đó có 35% và 44% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, lạc hậu và rất lạc hậu; trình độ công nghệ khá cũng chỉ khiêm tốn ở mức 21%.
Kết quả điều tra về doanh nghiệp của Tổng Cục thống kê gần đây cho biết, hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp chủ yếu là do khả năng đầu tư vốn thấp. Do vậy, kỹ thuật công nghệ kém và lạc hậu, nhất là trong ngành công nghiệp. Chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến, gần 75% doanh nghiệp có công nghệ trung bình và lạc hậu.
Trong điều kiện cạnh tranh, công nghệ là biến số chiến lược quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội. Thực trạng công nghệ của nước ta lạc hậu nên có thể thấy bất cập là với doanh nghiệp không đầu tư công nghệ tiên tiến, dùng nhân công rẻ thì lợi nhuận, doanh thu, tốc độ tăng trưởng không cao.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.3 Thực trạng về vốn
Theo Cục Quản lý doanh nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 09/2010 , tổng số doanh nghiệp trên cả nước là 524.200 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký hơn 3 triệu tỷ đồng, trong đó 97% là DNNVV. Tuy nhiên, năng lực tài chính của các DNNVV còn rất hạn chế, nhu cầu vốn của DNNVV cho hoạt động kinh doanh là rất lớn, bình quân mỗi DNNVV đi vào hoạt động cần khoảng 2 tỷ đồng, như vậy tổng số vốn cần huy động cho DNNVV sẽ xấp xỉ cả triệu tỷ đồng.
Có nhiều kênh cung cấp vốn cho DNNVV, trong đó kênh vốn tín dụng ngân hàng là kênh trực tiếp quan trọng và là tổ chức trung gian tạo điều kiện để DNNVV tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Song, thực tế nợ xấu của ngân hàng đối với các khoản tín dụng của DNNVV rất thấp nhưng các DNNVV vẫn khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng này, nhiều ngân hàng rất dè dặt trong việc cho DNNVV vay vốn.
Kết quả điều tra của Cục Phát triển DNNVV cho thấy chỉ có 32,38% DNNVV có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn của ngân hàng, 35,25% khó tiếp cận, còn lại là không thể tiếp cận. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Các doanh nghiệp thiếu vốn dẫn đến việc không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Nhiều doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất nhưng do thiếu vốn nên đã gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc triển khai và nhiều khi phải hủy bỏ hợp đồng đã ký với đối tác. Điều đó giải thích tại sao khu vực DNNVV thường tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ, những ngành nghề đòi hỏi vốn ít, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu lãi ngay mà chưa đủ sức đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng đòi hỏi nhiều vốn, có công nghệ tiên tiến. Còn với các nhà sản xuất, trong ba loại hình: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần thì loại hình doanh nghiệp tư nhân được họ ưa chuộng, phổ biến hơn cả và tính chất sản xuất nhỏ vẫn tồn tại trong khu vực này.
2.2 Hoạt động tín dụng đối với DNNVV của một số ngân hàng thương mại
2.2.1 Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh
Số liệu cho vay qua các năm từ 2005 đến 2009 của ngân hàng cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao, bình quân 45%/năm, tỷ lệ này khá cao so với các NHTM khác và cũng là đặc trưng riêng của các NHTMCP khi chưa có thế mạnh quy mô cũng như về cung cấp dịch vụ ngân hàng thì mảng tín dụng được tập trung phát triển mạnh.
Mặc dù tăng trưởng tín dụng cao nhưng để đảm bảo tăng trưởng ổn định và an toàn ngân hàng đã có sự điều chỉnh lớn trong cơ cấu các khoản vay theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay DNNN sang cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà chủ yếu là DNNVV. Kết quả từ năm 2005 đến năm 2009 tổng số khách hàng DNNVV đã tăng từ 108 lên 1.168 doanh nghiệp với tổng dư nợ cho vay tăng từ 125 tỷ đồng năm
2005 lên 1.085 tỷ đồng năm 2009, cho vay DNNVV chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Có được sự tăng trưởng cao như vậy là nhờ ngân hàng đã tập trung phát triển nguồn nhân lực cho công tác tín dụng với đội ngũ cán bộ tín dụng (CBTD) không ngừng gia tăng, nếu năm 2005 ngân hàng chỉ có 18 CBTD thì đến năm 2009 đã tăng lên 67 người.
Như vậy, việc gia tăng đội ngũ CBTD là một trong những yếu tố cần thiết và rất quan trọng để phát triển tín dụng, đặc biệt trong cho vay đối với DNNVV của ngân hàng đã đạt được những thành công nhất định khi số lượng khách hàng tăng cao, dư nợ cho vay bình quân/DNNVV khá thấp, bình quân 850 triệu đồng/doanh nghiệp, đồng thời mức dư nợ bình quân mà một CBTD quản lý cũng được duy trì ở mức trung bình 25,5 tỷ đồng/CBTD sẽ giúp ngân hàng kiểm soát rủi ro và phát triển tín dụng hiệu quả.
2.2.2 Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tây Sài Gòn ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
BIDV Tây Sài Gòn là một trong các chi nhánh được thành lập trên cơ sở nâng cấp các phòng giao dịch thuộc các Chi nhánh của BIDV trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cùng với các chi nhánh như BIDV Bắc Sài Gòn, BIDV Đông Sài Gòn và BIDV Gia Định.
Với xuất phát điểm tương đối giống nhau giữa các chi nhánh mới thành lập như tổng tài sản, nguồn vốn huy động, dư nợ cho vay, cũng như nguồn nhân lực, BIDV Tây Sài Gòn đã sớm tận dụng lợi thế địa bàn hoạt động ở vùng cửa ngõ phía Tây của Thành phố Hồ Chí Minh và xây dựng chiến lược phát triển lâu dài, đặc biệt là mảng tín dụng đã được tập trung phát triển theo hướng gia tăng dư nợ đối với đối tượng khách hàng DNNVV, kết quả là ngay trong năm đầu sau thành lập ngân hàng đã đạt mức dư nợ cho vay khá cao (1.574 tỷ đồng), trong đó ngân hàng đã dành 30% trên tổng dư nợ để hỗ trợ cho 52 DNNVV với dư nợ bình quân 9 tỷ đồng/doanh nghiệp.
Xác định DNNVV là đối tượng khách hàng tiềm năng mà BIDV Tây Sài Gòn hướng tới và không ngừng gia tăng quy mô tín dụng đối với nhóm khách hàng này, vì vậy tỷ trọng cho vay đối với DNNVV không ngừng tăng cao, từ 30% năm 2005 tỷ trọng này đã tăng lên qua các năm và đến năm 2009 đã đạt 43% trên tổng dư nợ cho vay, cấp tín dụng cho 146 khách hàng DNNVV.
Tuy nhiên, việc tăng trưởng tín dụng cao không gắn liền với công tác kiểm soát tín dụng tốt đã làm tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên, cụ thể năm 2005 tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng chỉ có 0,1% trong đó không có nợ quá hạn đối với cho vay DNNVV, song nợ quá hạn đã tăng cao ở những năm tiếp theo, đặc biệt năm 2006 lên đến 2% và đạt đến 3% năm 2008, sang năm 2009 tỷ lệ nợ quá hạn đã được kiểm soát và giảm còn 2,8%, trong đó nợ quá hạn của DNNVV chiếm 13% tổng nợ quá hạn. Như vậy, nợ quá hạn của ngân hàng tập trung chủ yếu ở đối tượng khách hàng là doanh nghiệp lớn và tư nhân cá thể, điều này cho thấy mở rộng cho vay đối với DNNVV sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng bởi rủi ro sẽ được phân tán cho một lượng khách hàng đáng kể.
Bên cạnh các nguyên nhân khách quan như khủng hoảng kinh tế, sự thích ứng kém của các doanh nghiệp dẫn đến hoạt động kinh doanh không hiệu quả còn phải kể đến nguyên nhân làm nợ quá hạn tăng cao là công tác đầu tư nguồn nhân lực của ngân hàng chưa tương xứng với tốc độ phát triển tín dụng ngày càng cao. Mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt thì yếu tố con người chính là nhân tố tạo nên sự khác biệt của các ngân hàng nhưng lượng cán bộ QHKH của BIDV Tây Sài Gòn tăng lên khá khiêm tốn, bình quân tăng 2 người mỗi năm, với mức dư nợ bình quân mà mỗi cán bộ QHKH quản lý là 167 tỷ đồng thì khả năng kiểm soát rủi ro sẽ bị hạn chế, như vậy tăng trưởng tín dụng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn.
2.3 Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Sài Gòn
2.3.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của BIDV Đông Sài Gòn ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Sài Gòn gọi tắt là BIDV Đông Sài Gòn được thành lập theo quyết định số 333/QĐ-HĐQT ngày 21/12/2004 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với tên gọi đầu tiên là BIDV Thủ Đức trên cơ sở nâng cấp hoạt động của Phòng giao dịch Thủ Đức thuộc BIDV Thành phố Hồ Chí Minh và chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 15/01/2005 với tổng tài sản ban đầu là 132 tỷ đồng, dư nợ cho vay là 95 tỷ đồng cùng với đội ngũ cán bộ là 34 người.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch, khẳng định và phát huy vai trò của các Chi nhánh thuộc BIDV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ, ngày 16/01/2008 BIDV Thủ Đức đã chính thức được đổi tên thành BIDV Đông Sài Gòn. Trải qua hơn 5 năm hoạt động, đến cuối năm 2009 tổng tài sản của BIDV Đông Sài Gòn đạt 1.743 tỷ đồng, huy động vốn đạt 1.678 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt 1.050 tỷ đồng với đội ngũ cán bộ 107 người.
2.3.2 Hoạt động kinh doanh của BIDV Đông Sài Gòn giai đoạn 2005 – 2009
2.3.2.1 Tình hình huy động vốn và cho vay giai đoạn 2005-2009
Với việc đa dạng hóa các sản phẩm huy động vốn như: chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm với kỳ hạn linh hoạt, tiết kiệm dự thưởng, cùng nhiều biện pháp khuyến mãi hấp dẫn, lãi suất cạnh tranh nên nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng nhanh trong giai đoạn 2005 – 2009, từ 298 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 1.678 tỷ đồng năm 2009, tăng 4,6 lần, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 59%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng không ổn định qua các năm và cơ cấu nguồn vốn huy động chưa cân đối, chủ yếu là nguồn vốn huy động ngắn hạn (chiếm bình quân trên 90% trong tổng vốn huy động).
Số liệu cho thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ của BIDV Đông Sài Gòn tăng trưởng cao qua các năm, từ 313 tỷ đồng năm 2005 đến cuối năm 2009 đã đạt 1.050 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng bình quân 35%/năm, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn là chủ yếu chiếm trung bình gần 60% trong tổng dư nợ và tỷ lệ này đã tăng dần qua các năm.
2.3.2.2 Kết quả kinh doanh ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Mặc dù là chi nhánh mới thành lập, với xuất phát điểm thấp cả về quy mô tổng tài sản cũng như hoạt động và nguồn nhân lực, song bằng những nổ lực của cả tập thể, tận dụng tốt thời cơ, thích ứng tốt trong giai đoạn kinh tế gặp nhiều khó khăn nên ngân hàng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao qua các năm. Chênh lệch thu chi của ngân hàng trong giai đoạn này tăng gần 29 lần, lợi nhuận trước thuế tăng 81,7%, tuy nhiên năm 2009 dù chênh lệch thu – chi đạt gần 38 tỷ đồng nhưng do trích dự phòng rủi ro (DPRR) cao nên lợi nhuận sau thuế có giảm so với năm 2008 (giảm 7,35%), chỉ đạt 22,5 tỷ đồng.
2.3.3 Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Sài Gòn
2.3.3.1 Quy mô dư nợ cho vay DNNVV
Đối tượng khách hàng DNNVV trong thời gian gần đây được các NHTM xem là khách hàng tiềm năng cần khai thác để phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Không đứng ngoài xu thế đó BIDV đã đặt mục tiêu đến năm 2010 tổng dự nợ cho vay và bảo lãnh đối với DNNVV đạt 100.000 tỷ đồng, mục tiêu này đã được cụ thể hóa bằng nhiều biện pháp cụ thể, tuy nhiên việc triển khai các giải pháp này không được thực hiện đồng bộ và mang lại hiệu quả cao tại tất cả các chi nhánh của BIDV.
Tại BIDV Đông Sài Gòn nhóm khách hàng DNNVV chưa được quan tâm phát triển, trong giai đoạn 2005-2009 mặc dù tổng dư nợ cho vay tăng bình quân 35%/năm song mức tăng trưởng này chủ yếu tập trung vào nhóm khách hàng doanh nghiệp lớn, trong khi dư nợ cho vay đối với DNNVV có tăng lên qua các năm nhưng mức tăng rất khiêm tốn, từ 48 tỷ đồng hỗ trợ cho 16 DNNVV năm 2005 tăng lên 124 tỷ đồng năm 2009, chỉ tăng 1,6 lần so với năm 2005, tương ứng với số khách hàng tăng lên là 49 doanh nghiệp và dư nợ bình quân đối với một DNNVV giai đoạn này là 2,7 tỷ đồng.
Nếu xét về địa bàn hoạt động BIDV Đông Sài Gòn nằm ở cửa ngõ phía Đông của Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế phát triển năng động nhất cả nước, hàng năm có hơn 30 ngàn doanh nghiệp được thành lập mới trong đó khoảng 95% là DNNVV. Tuy nhiên, ngân hàng không khai thác tốt tiềm năng này khi trung bình mỗi năm chỉ dành 15% trong tổng dư nợ cho vay để hỗ trợ DNNVV và tỷ lệ này có xu hướng giảm dần vào năm 2008 và 2009. Trong khi đó, các NHTM khác trên địa bàn có mức dư nợ cho vay đối với DNNVV chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ và có xu hướng ngày càng tăng qua các năm, cụ thể như BIDV Tây Sài Gòn đã đạt mức dư nợ cho vay DNNVV năm 2009 lên đến 1.141 tỷ đồng, tỷ lệ cho vay DNNVV trong tổng dư nợ chiếm bình quân 36 % trong giai đoạn 2005-2009 và Chi nhánh NHTMCP Quân đội Tp. Hồ Chí Minh đạt dư nợ cho vay DNNVV năm 2009 là 1.085 tỷ đồng với tỷ lệ cho vay DNNVV bình quân 38% tổng dư nợ trong giai đoạn 2005-2009.
2.3.3.2 Cơ cấu dư nợ cho vay đối với DNNVV
- Cơ cấu theo kỳ hạn ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Về cơ cấu theo kỳ hạn cho vay, xét trong tổng dư nợ thì bình quân dư nợ trung dài hạn của BIDV Đông Sài Gòn giai đoạn 2005-2009 chiếm 40%, tuy nhiên số này tập trung chủ yếu cho vay đối với những dự án của các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực bất động sản, thủy điện bằng hình thức cho vay hợp vốn hay đồng tài trợ, dư nợ cho vay trung dài hạn đối với DNNVV không đáng kể.
Cơ cấu kỳ hạn cho vay đối với dư nợ cho vay DNNVV tập trung chủ yếu là cho vay ngắn hạn, dư nợ trung dài hạn chiếm rất thấp, năm 2005 chiếm 23% trong tổng dư nợ cho vay DNNVV song tỷ lệ này giảm nhiều ở những năm tiếp theo, đến năm 2009 mặc dù tổng dư nợ cho vay DNNVV tăng lên 124 tỷ đồng nhưng dư nợ cho vay trung hạn giảm còn 5 tỷ đồng, chỉ chiếm 4% tổng dư nợ hỗ trợ DNNVV.
Xét về mức độ rủi ro, khoản vay với kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao nên tập trung cho vay ngắn hạn sẽ giúp ngân hàng hạn chế rủi ro nhưng đối với DNNVV gặp khó khăn về nguồn vốn, đặc biệt là đối với doanh nghiệp mới thành lập thì nhu cầu vay vốn trung hạn là cấp thiết để xây dựng mới hoặc mở rộng nhà xưởng, đầu tư MMTB, cải tiến công nghệ, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp,… giải quyết được những khó khăn này thì hoạt động của doanh nghiệp mới dần ổn định và phát triển bền vững. Tuy nhiên, BIDV Đông Sài Gòn chỉ tiếp cận và hỗ trợ cho nhu cầu bổ sung vốn lưu động của phần lớn các DNNVV đã hoạt động kinh doanh ổn định và hiệu quả, việc tiếp cận cho vay đối với doanh nghiệp mới thành lập của BIDV Đông Sài Gòn còn rất hạn chế.
- Cơ cấu theo ngành nghề
Về cơ cấu theo ngành nghề, dư nợ cho vay đối với DNNVV tại BIDV Đông Sài Gòn tập trung chủ yếu ở các ngành như công nghiệp chế biến; xây dựng; vận tải, kho bãi; thương mại và dịch vụ, trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là công nghiệp chế biến và xây dựng bình quân là 37% và 35%.
Với lợi thế về địa bàn hoạt động nằm trong khu vực có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất cùng với các cảng container như cảng Phước Long, cảng Cát Lái và trên tuyến đường Bắc – Nam nên rất thuận lợi phát triển ngành vận tải, kho bãi, thương mại dịch vụ nên BIDV Đông Sài Gòn đã từng bước tiếp cận và khai thác tốt nhóm khách hàng hoạt động trong lĩnh vực này. Do vậy, giai đoạn 2005-2009 có sự chuyển dịch trong cơ cấu cho vay theo ngành theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay lĩnh vực xây dựng vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro và tăng tỷ trọng cho vay trong lĩnh vực vận tải, kho bãi từ 6% lên 19%, thương mại, dịch vụ từ 13% lên 16%, song sự dịch chuyển này không đáng kể, cho vay lĩnh vực xây dựng vẫn còn chiếm tỷ trọng cao tại BIDV Đông Sài Gòn, bình quân 35% tổng dư nợ cho vay DNNVV.
2.3.3.3 Chất lượng tín dụng ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
- Cơ cấu nhóm nợ theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
Số liệu cho thấy dư nợ vay tại BIDV Đông Sài Gòn năm 2005 và 2006 chỉ bao gồm nợ nhóm I (nợ đủ tiêu chuẩn) và nợ nhóm II (nợ cần chú ý) theo phương pháp tính điểm xếp hạng doanh nghiệp của BIDV. Tuy nhiên, kể từ năm 2007, BIDV đã tiên phong đưa vào áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng vay là tổ chức kinh tế, với nhiều chỉ tiêu về tài chính và phi tài chính được áp dụng phù hợp với thông lệ quốc tế giúp các chi nhánh của BIDV đánh giá doanh nghiệp được tốt hơn.
Kết quả, năm 2007 BIDV Đông Sài Gòn có gần 66% dư nợ nhóm I, 34% nợ nhóm II, nợ từ nhóm III đến nhóm V chỉ chiếm 0,49% tổng dư nợ. Chất lượng tín dụng ngày càng được nâng lên trong những năm kế tiếp theo hướng tăng dần tỷ trọng nợ nhóm I, giảm nợ nhóm II đến nhóm V và đến năm 2009 nợ nhóm I chiếm 85% tổng dư nợ, gần 15% là nợ nhóm II, nợ từ nhóm III đến nhóm V chỉ chiếm 0,19%.
Mặc dù nợ nhóm II đến nhóm V trong tổng dư nợ của BIDV Đông Sài Gòn có xu hướng giảm tuy nhiên dư nợ cho vay đối với DNNVV thay đổi theo hướng ngược lại giảm dần tỷ trọng nợ nhóm I, tăng nợ nhóm II đến nhóm V. Nếu như năm 2005 nợ nhóm I chiếm đến 92% trong tổng dư nợ cho vay DNNVV, nợ nhóm II chiếm 8% thì đến năm 2009, nợ nhóm I chỉ còn 19%, nợ nhóm II tăng lên 79%, riêng nợ nhóm III đến nhóm V không đáng kể chỉ biến động từ 1% đến 2% trong giai đoạn từ 2007-2009.
Kết quả trên là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tác động nhiều đến hoạt động kinh doanh của hầu hết các DNNVV làm giảm tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp trong khi việc áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ mới của BIDV lại gắn liền với lịch sử hoạt động của doanh nghiệp, đáng kể là các chỉ tiêu tài chính, vì vậy nhiều DNNVV đang quan hệ tín dụng tại ngân hàng bị chuyển xuống nhóm nợ xấu hơn do có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận không cao hoặc có xu hướng chậm lại. Đây cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế tăng trưởng tín dụng đối với DNNVV tại BIDV Đông Sài Gòn. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Mặc dù các chỉ tiêu trong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV gắn liền với lịch sử hoạt động của doanh nghiệp cũng như lịch sử quan hệ với ngân hàng, trong đó có chỉ tiêu về nợ quá hạn. Tuy nhiên, để đánh giá tốt hơn chất lượng tín dụng đối với cho vay DNNVV cũng như khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp thì cần thiết phải phân tích chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn đối với cho vay DNNVV.
- Tỷ lệ nợ quá hạn
Với phương châm phát triển tín dụng an toàn, hiệu quả, BIDV Đông Sài Gòn đã kiểm soát tốt tình trạng nợ xấu, không phát triển thêm khách hàng doanh nghiệp có xếp hạng từ nhóm III đến nhóm V, kiểm soát tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1%, kết quả là tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng luôn duy trì ở mức rất thấp chỉ chiếm 0,7% trong tổng dư nợ năm 2005 và trung bình 0,18% trong giai đoạn 2006-2009.
Riêng đối với cho vay DNNVV dù được đảm bảo tốt bằng thế chấp tài sản, song do quy mô phát triển tín dụng đối với khách hàng này tại BIDV Đông Sài Gòn trong những năm đầu còn rất hạn chế nên với 1 đến 2 khách hàng có nợ quá hạn đã làm tỷ lệ nợ quá hạn của DNNVV cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ nợ quá hạn chung của cả ngân hàng, cụ thể năm 2005 với mức nợ quá hạn 2,2 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn DNNVV chiếm đến 4,38% tổng dư nợ cho vay DNNVV, tuy nhiên tỷ lệ này cũng đã giảm dần qua các năm và chỉ còn 0,16% năm 2009.
Để hoạt động tín dụng phát triển an toàn BIDV Đông Sài Gòn đã đầu tư nguồn nhân lực cho công tác tín dụng, hàng năm đều tuyển dụng thêm cán bộ tín dụng (nay là cán bộ QHKH) đã được đào tạo chính quy tại các trường đại học nhằm đảm bảo quản lý tốt công việc, với dư nợ bình quân mỗi cán bộ quản lý là 62 tỷ đồng trong khi tập trung chủ yếu là các khách hàng doanh nghiệp lớn thì mức này còn thấp so với các chi nhánh của BIDV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể tại BIDV Tây Sài Gòn bình quân mỗi cán bộ QHKH quản lý 167 tỷ đồng dư nợ nhưng quản lý chủ yếu là khách hàng cá thể và DNNVV.
- Dư nợ vay có tài sản đảm bảo
Nhìn chung hoạt động cho vay đối với DNNVV tại BIDV Đông Sài Gòn khá an toàn khi nguồn trả nợ thứ hai là tài sản bảo đảm được đảm bảo tốt, trong đó phần lớn là bất động sản. Trong những năm đầu sau khi thành lập ngân hàng gần như không cho vay tín chấp đối với nhóm khách hàng này trừ những món vay trung dài hạn được đảm bảo bằng tài sản hình thành vốn vay nhưng tài sản chưa hoàn thiện để thế chấp cho ngân hàng nên tỷ lệ dư nợ cho vay không có tài sản đảm bảo từ năm 2005-2007 trung bình chỉ chiếm khoảng 7% tổng dư nợ cho vay DNNVV. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Đến năm 2008, 2009 với việc áp dụng các chính sách khách hàng có phần thông thoáng hơn, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, DNNVV gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn, trong khi với quy mô hoạt động nhỏ lại rất hạn chế về tài sản đảm bảo, vì vậy BIDV Đông Sài Gòn đã gia tăng tỷ lệ cho vay không có tài sản đảm bảo lên nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn cao trong hoạt động cho vay nên tỷ lệ này vẫn rất hạn chế ở mức 15% năm 2008 và 18% năm 2009.
Như vậy, nhìn chung tín dụng đối với DNNVV tại BIDV Đông Sài Gòn trong giai đoạn 2005-2009 phát triển theo hướng tích cực về quy mô, cơ cấu cũng như chất lượng, tuy nhiên tốc độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, còn hạn chế ở hoạt động cho vay mà chưa mở rộng và phát triển sang các hình thức câp tín dụng khác như bảo lãnh và chưa được quan tâm khai thác tốt đối với đối tượng khách hàng DNNVV, chủ trương phát triển tín dụng quá an toàn chỉ tập trung cho vay ngắn hạn và hạn chế cho vay không có tài sản đảm bảo cũng là một trở ngại lớn trong việc phát triển tín dụng đối với DNNVV tại BIDV Đông Sài Gòn.
Do vậy, muốn phát triển tín dụng đối với nhóm khách hàng này cần thiết phải tiến hành khảo sát ý kiến các DNNVV hiện đang quan hệ vay vốn tại ngân hàng để hiểu rõ hơn mức độ hài lòng của doanh nghiệp từ đó xây dựng chiến lược phát triển phù hợp cũng như đưa ra các biện pháp cần thiết để khai thác hiệu quả những lợi ích mà nhóm khách hàng tiềm năng này mang lại cho ngân hàng.
2.3.3.4 Khảo sát ý kiến đánh giá của các DNNVV về quan hệ tín dụng với BIDV Đông Sài Gòn
Qua quá trình tư vấn, phỏng vấn trực tiếp một số DNNVV đang quan hệ vay vốn tại BIDV Đông Sài Gòn tác giả nhận thấy phần lớn các doanh nghiệp đều quan tâm đến các vấn đề như: hồ sơ, thủ tục vay vốn nhiều hay ít, vấn đề lãi suất, thời gian giải quyết hồ sơ, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng. Trên cơ sở tìm hiểu các thông tin trên tác giả tiến hành lập bảng câu hỏi phỏng vấn khách hàng (phụ lục kèm theo).
– Chọn mẫu: Mẫu điều tra gồm 40 DNNVV hiện đang vay vốn tại BIDV Đông Sài Gòn.
– Thời gian điều tra: Cuộc điều tra diễn ra từ 21/06/2010 đến 30/06/2010
– Cách thức thực hiện điều tra: Phiếu điều tra được gửi đến giám đốc doanh nghiệp hoặc kế toán trưởng hay nhân viên giao dịch với ngân hàng của doanh nghiệp theo các phương thức: gửi trực tiếp cho nhân viên của doanh nghiệp khi đến giao dịch với ngân hàng, gửi mail hoặc fax tới công ty và nhận lại kết quả khảo sát bằng những phương thức trên. Kết quả thăm dò ý kiến như sau: ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Kết quả điều tra cho thấy về chỉ tiêu số lượng hồ sơ vay vốn có 65% ý kiến đánh giá bình thường, chỉ có 3% cho rằng hồ sơ ít, nhưng vẫn còn đến 32% ý kiến doanh nghiệp cho rằng hồ sơ vay vốn nhiều.
Về thời gian xử lý hồ sơ chỉ có 5 ý kiến đánh giá ngân hàng xử lý hồ sơ nhanh chiếm 12,5% trong khi 21 ý kiến cho rằng bình thường chiếm 52,5%, song còn nhiều ý kiến cho rằng việc xử lý hồ sơ vay vốn của BIDV Đông Sài Gòn còn chậm, cụ thể là 14 trong tổng số 40 ý kiến, chiếm đến 35%.
Về lãi suất cho vay: Đa số ý kiến khách hàng cho rằng lãi suất cho vay của BIDV Đông Sài Gòn chấp nhận được chiếm đến 75% và có đến 24% ý kiến đánh giá lãi suất thấp, chỉ có 2% trong tổng số ý kiến cho rằng lãi suất cho vay cao.
Ý kiến đánh giá về mức độ hài lòng của các DNNVV khi quan hệ vay vốn với BIDV Đông Sài Gòn có 18 ý kiến đánh giá hài lòng chiếm 44% trong khi còn đến 18% chưa hài lòng và 38% đánh giá hài lòng ở mức độ bình thường.
2.4 Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế khả năng phát triển tín dụng đối với DNNVV tại BIDV Đông Sài Gòn
BIDV Đông Sài Gòn có trụ sở nằm ở cửa ngõ phía Đông của thành phố Hồ Chí Minh, tiếp giáp các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai có kinh tế phát triển mạnh và năng động, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất lớn như khu công nghiệp Việt Nam – Singapore, khu công nghiệp Sóng Thần, Amata, khu công nghệ cao (Quận 9), khu chế xuất Linh Trung 1 và 2,… đây là những nơi tập trung nhiều doanh nghiệp trong đó có rất nhiều DNNVV kinh doanh hiệu quả, sẽ là cơ hội tốt để phát triển tín dụng cũng như dịch vụ ngân hàng đối với nhóm khách hàng tiềm năng này. Tuy nhiên, BIDV Đông Sài Gòn chưa khai thác hiệu quả thế mạnh của mình, còn nhiều nguyên nhân hạn chế khả năng phát triển tín dụng đối với khách hàng DNNVV.
2.4.1 Hạn chế và nguyên nhân từ phía ngân hàng ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
♦ Chưa xây dựng kế hoạch phát triển lâu dài và hiệu quả: Thực tế cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng của BIDV Đông Sài Gòn tăng khá nhanh qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng không đồng đều, chưa ổn định do thiếu định hướng kế hoạch. Ngân hàng chỉ phát triển tín dụng trong giới hạn các chỉ tiêu được Hội sở chính giao như: giới hạn tín dụng tối đa, tỷ lệ cho vay ngắn hạn/trung dài hạn, tỷ lệ dư nợ cho vay ngoài quốc doanh, tỷ lệ nợ quá hạn,… mà chưa xây dựng được các chỉ tiêu riêng cho chi nhánh như tỷ lệ cho vay bán lẻ hay giới hạn tín dụng dành cho từng nhóm khách hàng, đặc biệt là cho DNNVV, chưa xây dựng kế hoạch về cơ cấu dư nợ cho vay theo ngành nghề kinh doanh,…
♦ Yếu trong việc đa dạng hóa sản phẩm: Tại BIDV nói chung và BIDV Đông Sài Gòn nói riêng các sản phẩm tín dụng còn rất hạn chế, thiếu tính linh hoạt và được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng khách hàng nên không đáp ứng tốt nhu cầu cho mỗi đối tượng khách hàng khác nhau. Đối với khách hàng DNNVV, chưa có những sản phẩm đặc thù hay chính sách ưu tiên cần thiết để thu hút đối tượng này. Ngoài ra, ngân hàng cũng chưa nghiên cứu để cung cấp gói sản phẩm ngân hàng nhằm hướng đến phục vụ một cách toàn diện cho khách hàng nói chung và DNNVV nói riêng.
♦ Kênh cung ứng dịch vụ truyền thống chưa đáp ứng được yêu cầu: Phong cách bán hàng tại BIDV Đông Sài Gòn còn rất thụ động, chủ yếu phục vụ cho khách hàng trực tiếp đến giao dịch với ngân hàng, công tác tiếp thị, tìm kiếm khách còn bị xem nhẹ, phần lớn khách hàng tự đến với ngân hàng hoặc được giới thiệu thông qua các đối tác kinh doanh hiện là khách hàng của ngân hàng, cách bán hàng này không còn phù hợp trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt như hiện nay và càng không phù hợp với đối tượng khách hàng DNNVV vốn rất e ngại trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
♦ Chất lượng phục vụ chưa cao: Mặc dù có đội ngũ cán bộ QHKH trẻ được đào tạo chính quy từ các trường đại học tuy nhiên phần lớn là sinh viên mới tốt nghiệp và chưa được tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện chuyên môn bán hàng theo phong cách hiện đại, chủ động và chuyên nghiệp. Tư tưởng khách hàng vay vốn luôn cần ngân hàng hơn là ngân hàng cần họ vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của nhiều cán bộ thậm chí của một số lãnh đạo trong ngân hàng. Đây là rào cản lớn để phát triển khi yếu tố cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì sự khác biệt sẽ tạo ưu thế riêng của mỗi ngân hàng và nhân tố tạo nên sự khác biệt đó chính là con người.
Chưa xây dựng đội ngũ cán bộ phục vụ khách hàng chuyên nghiệp cùng với việc BIDV chuyển đổi mô hình hoạt động theo hướng cán bộ QHKH là người trực tiếp tiếp xúc, tư vấn và bán tất cả các sản phẩm cho khách hàng nên BIDV Đông Sài Gòn còn rất lúng túng trong việc vận hành mô hình mới, vì vậy đã ảnh hưởng nhiều đến chất lượng phục vụ khách hàng, trong khi khách hàng phải chấp nhận thủ tục vay vốn nhiều theo quy định của BIDV mà thời gian giải quyết hồ sơ lại chậm do phải qua nhiều bộ phận khác nhau. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Hơn nữa, chức năng, nhiệm vụ của một số bộ phận trong dây chuyền tác nghiệp tín dụng chưa rõ ràng, còn chồng chéo, sự phối hợp giữa các bộ phận, phòng ban chưa nhịp nhàng, thông suốt đã gây ách tắc và chậm trễ trong việc giải quyết hồ sơ vay vốn.
♦ Công nghệ chỉ ở mức độ trung bình: Mặc dù BIDV đã tiên phong trong thực hiện công tác hiện đại hóa, đầu tư phát triển công nghệ nhưng chỉ dừng lại ở việc quản lý thông tin giao dịch của khách hàng và giao dịch trực tuyến trong toàn hệ thống BIDV mà chưa xây dựng được các chương trình quản lý lưu trữ thông tin khách hàng tập trung từ đó phân tích cảnh báo rủi ro đối với khách hàng có lịch sử quan hệ tín dụng không tốt. Ngoài ra, việc ứng dụng tin học và tự động hóa trong giao dịch còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ.
Với hệ thống XHTDNB mà BIDV là ngân hàng tiên phong xây dựng tiệm cận với thông lệ quốc tế sẽ giúp BIDV Đông Sài Gòn thuận lợi hơn trong việc đánh giá toàn diện về các khía cạnh hoạt động của doanh nghiệp và lịch sử quan hệ của họ với ngân hàng giúp ngân hàng chọn lọc được những khách hàng tốt. Hệ thống XHTDNB của BIDV đã được World Bank và tổ chức xếp hạng quốc tế Moody’s đánh giá cao. Đây cũng là phương pháp xếp hạng cốt lõi mà các ngân hàng và các tổ chức định hạng quốc tế hiện đang sử dụng.
Tuy nhiên, chương trình này được đưa vào sử dụng hơn ba năm đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế nhất định và chưa phù hợp với đặc điểm hoạt động của DNNVV tại Việt Nam, với rất nhiều chỉ tiêu mà doanh nghiệp không thể đạt được, vì vậy tỷ trọng dư nợ DNNVV tại BIDV được xếp hạng từ nhóm II đến nhóm V chiếm rất cao trong khi ngân hàng hạn chế phát triển tín dụng đối với các nhóm này vì mức độ rủi ro cao.
♦ Công tác quản trị điều hành còn hạn chế: BIDV là NHTM quốc doanh với lịch sử hoạt động chuyên về cấp phát vốn phục vụ xây dựng cơ bản mặc dù trong thời gian gần đây đã có những chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại hóa hoạt động ngân hàng và hướng đến trở thành tập đoàn tài chính ngân hàng hiện đại. Song tại một số chi nhánh của BIDV nói chung và BIDV Đông Sài Gòn nói riêng công tác quản trị điều hành còn mang nặng tính hình thức, thụ động, hoạt động theo chỉ đạo từ hội sở chính, thiếu sáng tạo, chưa nhạy bén trước những thay đổi của nền kinh tế. Phát triển tín dụng một cách cứng nhắc, thật an toàn và tập trung cho vay doanh nghiệp lớn để hạn chế việc quản lý khách hàng, giảm gánh nặng công việc cho cán bộ vì vậy mà tín dụng dành cho bán lẻ và DNNVV rất hạn chế.
Bên cạnh đó lãnh đạo ngân hàng chưa xây dựng được mối quan hệ tốt với các cơ quan quản lý nhà nước và các sở ban ngành địa phương như: UBND Quận, cơ quan thuế, phòng công chứng, phòng tài nguyên và môi trường, ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp,… trong khi đây là nơi cung cấp nhiều thông tin đáng tin cậy về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
♦ Công tác đào tạo và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác tín dụng chưa thỏa đáng: việc phổ biến kinh nghiệm, đào tạo nâng cao nghiệp vụ tín dụng cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ trẻ chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết cán bộ sau khi được tuyển dụng sẽ tự nghiên cứu quy trình nghiệp vụ hay học tập kinh nghiệm từ cán bộ cũ và tiếp nhận công việc ngay sau thời gian thử việc mà không tham gia bất kỳ khóa đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nào.
Chưa tổ chức được việc kiểm tra định kỳ cũng như thi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho CBCNV để làm căn cứ cho việc nâng lương, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, việc bổ nhiệm cán bộ còn mang tính chất chủ quan, thiếu dân chủ, chưa có chính sách khuyến khích cán bộ tự đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và thu hút người tài, dẫn đến cán bộ thiếu động lực để tự đào tạo, trao dồi trình độ chuyên môn nghiệp vụ và dễ dàng chuyển sang ngân hàng khác có chế độ đãi ngộ tốt hơn, thực tế hàng năm BIDV Đông Sài Gòn tổ chức 1 đến 2 đợt tuyển dụng cán bộ, tuy nhiên đa số là để bù đắp cho số cán bộ thôi việc bởi trong giai đoạn 2005-2009 tổng số cán bộ của BIDV Đông Sài Gòn chỉ dao động trong khoảng 100-110 cán bộ mỗi năm. Ngoài ra, cán bộ khi được bổ nhiệm làm kiểm soát hay phó phòng QHKH vẫn phải phụ trách quản lý một số khách hàng nhất định, điều này sẽ hạn chế việc kiểm soát rủi ro trong công tác tín dụng.
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân từ phía doanh nghiệp nhỏ và vừa
Mặc dù DNNVV Việt Nam đã được quan tâm, hỗ trợ từ nhiều cơ quan ban ngành như Chính phủ, Sở Kế hoạch đầu tư các tỉnh, thành phố, các hiệp hội,… tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, lúng túng, kinh doanh mang tính tự phát, thiếu định hướng,… nên phần nào đã ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
♦ Thiếu tài sản đảm bảo: Doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn tự có của chủ doanh nghiệp hoặc vay mượn từ người thân, bạn bè, tài sản để thế chấp ngân hàng của doanh nghiệp rất ít và gần như không có, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập vì vậy khi muốn vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh doanh nghiệp thường vấp phải điều kiện thế chấp tài sản, đây được xem là điều kiện rất quan trọng của các NHTM và nó càng quan trọng hơn đối với các NHTM quốc doanh ngại rủi ro khi doanh nghiệp không có nguồn trả nợ thứ hai.
♦ DNNVV kinh doanh mang tính tự phát, thiếu định hướng: Chủ doanh nghiệp thường là người làm thuê hay hợp tác kinh doanh, sau một thời gian có kinh nghiệm thành lập công ty riêng, nhân viên là người thân trong gia đình hoặc bạn bè nên phần lớn không qua đào tạo chuyên môn, kiến thức thị trường và quản trị điều hành. Vì vậy, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xây dựng phương án kinh doanh cũng như dự án đầu tư lâu dài mang lại hiệu quả cao để thuyết phục ngân hàng hỗ trợ vốn. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
♦ Năng lực tài chính hạn chế: Rất nhiều trường hợp khi doanh nghiệp được ngân hàng tư vấn, hướng dẫn lập phương án, dự án kinh doanh phù hợp với nhu cầu và thực tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và có tính khả thi cao đã được ngân hàng xem xét chấp thuận tài trợ vốn nhưng doanh nghiệp không thể đáp ứng yêu cầu vốn tự có tham gia. Mỗi phương án, dự án vay vốn được ngân hàng tài trợ thường kèm theo điều kiện về vốn tự có tham gia tối thiểu 20% tổng chi phí của phương án, dự án đó và thực hiện giải ngân vốn tự có trước hoặc song song với vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp cam kết đảm bảo yêu cầu của ngân hàng nhưng khi dự án được triển khai thì doanh nghiệp không thể chứng minh được vốn tự có tham gia nên gây khó khăn cho ngân hàng khi giải ngân vốn vay.
♦ Thông tin cung cấp không trung thực, giao dịch mua bán thiếu cơ sở pháp lý: Chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được ban hành theo hướng phù hợp với loại hình DNNVV, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tuân thủ quy định, báo cáo tài chính được lập theo hướng đối phó, tồn tại nhiều báo cáo tài chính trong cùng một niên độ tài chính, cụ thể đối với cơ quan thuế thì doanh nghiệp thường khai lỗ hoặc lãi rất ít để trốn thuế, trong khi cung cấp cho ngân hàng doanh nghiệp lại chỉnh sửa tinh vi, lợi nhuận rất cao và không ngừng tăng cao qua các năm, các thông tin phi tài chính cũng được doanh nghiệp cung cấp một cách tùy tiện thiếu cơ sở theo hướng có lợi cho doanh nghiệp để được ngân hàng hỗ trợ vốn, điều này đã làm giảm lòng tin của ngân hàng đối với các DNNVV.
Bên cạnh đó, DNNVV hoạt động kinh doanh còn dựa vào lòng tin lẫn nhau với các đối tác nên giao dịch chủ yếu được thỏa thuận bằng lời nói không qua xác lập hợp đồng mua bán để đảm bảo tính pháp lý nên gặp nhiều rủi ro, mua bán thiếu chứng từ, hóa đơn chứng minh nên khó khăn cho ngân hàng khi không có căn cứ để thẩm định hồ sơ và giải ngân vốn vay.
♦ Còn nhiều DNNVV e ngại tiếp cận các sản phẩm tín dụng của BIDV: Một bộ phận không ít các DNNVV còn mặc cảm với quy mô hoạt động nhỏ, khó khăn về nhiều mặt như vốn, công nghệ, nhân lực,… sẽ khó tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là với các NHTM quốc doanh như BIDV thường chỉ tài trợ vốn cho các doanh nghiệp lớn, mà chưa chú trọng cho vay đối với các DNNVV. Ngoài ra, các DNNVV cảm thấy thủ tục vay vốn khó khăn, rườm rà và thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng còn mang nặng tính hành chính.
Thực tế hiện nay, một số lãnh đạo và cán bộ QHKH gần như không mặn mà với các DNNVV vì khoản vay nhỏ mà trình tự thủ tục cấp tín dụng tại BIDV không khác gì những khoản vay lớn. Do đó, DNNVV thấy rằng họ không nhận được sự quan tâm đúng mức từ phía BIDV nên thường tìm đến NHTMCP để được cung cấp các sản phẩm tín dụng với thủ tục vay vốn đơn giản, thời gian xử lý hồ sơ nhanh hơn.
2.4.3 Hạn chế và nguyên nhân từ các cơ quan chức năng ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
2.4.3.1 Ngân hàng nhà nước
♦ Việc cung cấp thông tin về hoạt động tín dụng của ngành ngân hàng chưa được công bố rộng rãi và thường xuyên: Định kỳ hàng tháng, hàng quý các NHTM phải lập các báo cáo tín dụng gửi về NHNN tại mỗi tỉnh, thành phố như hệ thống báo cáo theo quyết định 477/2004/QĐ-NHNN ngày 28/04/2004 của NHNN bao gồm các báo cáo như: báo cáo dư nợ theo ngành nghề kinh tế, dư nợ cho vay DNNVV, dư nợ cho vay có tài sản đảm,…
Tuy nhiên, các số liệu này đơn thuần chỉ phục vụ cho công tác thống kê của NHNN và chỉ được công bố khi có hội nghị lớn về quản trị điều hành trong ngành Ngân hàng mà chưa được công bố rộng rãi và thường xuyên để các NHTM có thể theo dõi cập nhật làm tư liệu để có định hướng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của mình cho phù hợp với xu hướng hiện tại cũng như xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài.
Ngoài ra, các thông tin về dư nợ tín dụng hỗ trợ DNNVV được NHNN công bố thường xuyên và rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng góp phần giúp các DNNVV thấy được mức độ quan tâm và sẵn sàng hỗ trợ của các NHTM đối với đối tượng DNNVV từ đó rút ngắn khoảng cách giữa NHTM và DNNVV, khi đó doanh nghiệp sẽ mạnh dạng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
♦ Trung tâm thông tin tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu của các NHTM: Trung tâm thông tin tín dụng được thành lập nhằm cung cấp thông tin tín dụng cho các TCTD thành viên về doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại các TCTD nhưng trên thực tế thời gian qua, CIC chỉ dừng lại ở việc thống kê các thông tin về báo cáo tài chính, một số thông tin về pháp lý như thành viên sáng lập, các chức danh quản lý chính của doanh nghiệp, tình hình dư nợ, tài sản đảm bảo thế chấp tại các TCTD mà doanh nghiệp đang có quan hệ.
Tuy nhiên, những thông tin này cũng chưa được cập nhật kịp thời đến thời điểm TCTD yêu cầu cung cấp thông tin (thông thường chậm hơn 15 đến 30 ngày). Ngoài ra, các thông tin về khả năng thanh toán, chi tiết về lịch sử quan hệ tín dụng tại tất cả các TCTD của doanh nghiệp cũng chưa được cung cấp,… và đặc biệt là các bài phân tích, đánh giá có chất lượng về quá trình quan hệ tín dụng của doanh nghiệp trung tâm vẫn chưa thực hiện được.
♦ Hệ thống công nghệ thông tin chưa bắt kịp khu vực và thế giới: Hạ tầng công nghệ thông tin với các giải pháp kỹ thuật và phương thức truyền thông chưa phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng chưa được quan tâm đúng mức để đảm bảo an toàn tài sản và hoạt động của NHNN và các TCTD. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
♦ Chưa làm đầu mối gắn kết các NHTM với nhau: Với sự cạnh tranh cao, các NHTM Việt Nam thường có những đánh giá độc lập và có những chính sách riêng cho các đối tượng khách hàng khác nhau và các thông tin này thường được bảo mật để đảm bảo lợi ích riêng của mỗi ngân hàng, trong khi các NHTM ở các nước thường cung cấp các thông tin doanh nghiệp về trung tâm thông tin doanh nghiệp do ngân hàng trung ương hay các tổ chức chuyên thu thập, xử lý và cung cấp thông tin của quốc gia làm đầu mối và từ tổ chức này các TCTD có thể mua lại thông tin về doanh nghiệp với độ tin cậy cao nhằm tránh được nhiều rủi ro cho mình cũng như nghiên cứu thêm nhiều sản phẩm mới và áp dụng chính sách khách hàng tốt hơn các TCTD khác để thu hút, lôi kéo khách hàng về mình, đây là phương thức cạnh tranh lành mạnh góp phần không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng của các TCTD.
2.4.3.2 Hạn chế và nguyên nhân từ các cơ quan ban ngành khác
Đối với các DNNVV có báo cáo tài chính không trung trực, gian dối trong cung cấp thông tin, đặc biệt là báo cáo tài chính cho các cơ quan chức năng đến nay vẫn chưa có cơ chế xử phạt thỏa đáng đã dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp trốn thuế, kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến phá sản trong thời gian dài mà cơ quan thuế không kiểm soát kịp thời, điều này cũng gây thiệt thòi cho các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả và trung thực, họ không được khuyến khích và thiếu động lực thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính khi chi phí cho việc này khá cao so với quy mô hoạt động của DNNVV.
Về thông tin doanh nghiệp, hiện nay có rất nhiều cơ quan ban ngành có thể cung cấp những thông tin hữu ích về doanh nghiệp như: Sở Kế hoạch đầu tư, cơ quan thuế, hải quan, cục thống kê,… tuy nhiên, họ chưa có cơ chế hay quy định cũng như lợi ích gì khi cung cấp các thông tin cho NHTM hay cho bản thân doanh nghiệp khi muốn tìm hiểu thêm về mức độ tin cậy của các đối tác khi họ muốn quan hệ hợp tác với nhau. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến hiệu quả hoạt động của các hiệp hội như: Hiệp hội DNNVV, các hiệp hội ngành nghề kinh doanh mặc dù đã phát triển mạnh và hỗ trợ rất tích cực cho DNNVV trong thời gian qua, tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động độc lập không tham gia các hiệp hội, ngành nghề nên không có được nhiều thông tin về thị trường trong và ngoài nước cũng như học tập trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp với nhau để cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín của mình để có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng.
Việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương theo chủ trương và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính đã được thực hiện nhưng hiệu quả đạt được chưa cao, để được cấp bảo lãnh tín dụng của Quỹ Bảo lãnh tín dụng các DNNVV
cũng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về tài sản đảm bảo, phương án kinh doanh hiệu quả, dự án khả thi,… Như vậy, con đường tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng dường như dài hơn và khó khăn hơn rất nhiều so với việc tiếp cận trực tiếp với ngân hàng bởi phải qua hai lần thẩm định là Quỹ bảo lãnh tín dụng và ngân hàng cho vay, chưa kể vì tính an toàn và thận trọng ngân hàng đưa ra các điều kiện tín dụng mà không được Quỹ tín dụng chấp nhận thì doanh nghiệp cũng không tiếp cận được vốn vay.
Tóm tắt chương 2
Nội dung chương 2 đã trình bày tình hình phát triển mạnh mẽ của DNNVV về số lượng cũng như những khó khăn của DNNVV, đặc biệt là những khó khăn về vốn và khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Qua đó, phân tích thực trạng cho vay đối với DNNVV tại một số NHTM và đi sâu phân tích thực trạng cho vay đối với DNNVV tại BIDV Đông Sài Gòn, những hạn chế và nguyên nhân hạn chế sự phát triển tín dụng đối với DNNVV tại ngân hàng này để làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục trong chương 3. ( Luận văn: Thực trạng phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa )
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Giải pháp phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com