Bài viết này mình sẽ chia sẻ cho các bạn chủ đề Luận văn “Phát triển Kinh tế Đối ngoại của Campuchia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Kinh tế đối ngoại đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của Campuchia, đặc biệt là lĩnh vực thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Những ngành này đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế Campuchia. Dưới đây sẽ là Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia, mời các bạn đọc giả cùng tham khảo nhé!
Nội dung chính
II/ Phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia
1/ Tình hình kinh tế và chính trị của Campuchia
1.1/ Tình hình phát triển kinh tế của Campuchia Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Vương quốc Campuchia, tuy phát triển ở những thang bậc khác nhau song cũng như các nước, Campuchia là nền kinh tế đang phát triển trong một khu vực đang sôi động là Châu á – Thái Bình Dương. Campuchia và thị trường của các nước phát triển khác mà Campuchia nhận được qua sự ưu đãi thuế quan (GSP) và tối huệ quốc (MFN) trong đó có cả thị trường Mỹ và Liên minh châu Âu. kinh tế Campuchia bắt đầu tăng trưởng và phát triển. Năm 1990 tăng trưởng kinh tế đạt ở mức 2,8%, năm 1996 tốc độ tăng trưởng GDP của Campuchia đạt ở mức 6,5%; năm 1997 do khủng hoảng chính trị nên tăng trưởng kinh tế chỉ đạt ở mức 1%; năm 1998 tăng trưởng đạt 3%, năm 1999 đạt 6,5%; năm 2000 đạt 4,5%; năm 2001 đạt 5,7%; năm 2002 tăng trưởng kinh tế đạt 5,5%; năm 2003 tăng trưởng kinh tế đạt 5% và năm 2004 tăng trưởng kinh tế đạt 5,5 %.
Sản xuất công nghiệp
Campuchia là nước nông nghiệp, sản phẩm chủ yếu là lúa, ngô, lạc, cao su, thuốc lá, thuỷ sản v.v… Campuchia có nhiều tài nguyên quý hiếm như đá quý, hồng ngọc, vàng, gỗ. Ngoài ra, Campuchia có Angkorwat là một kì quan nổi tiếng của thế giới, trở thành thế mạnh của ngành du lịch của Campuchia. Nền công nghiệp của Campuchia còn rất yếu kém, chủ yếu là nền công nghiệp dệt và da giày, công nghiệp nặng chưa có gì. Hàng năm, Campuchia phải nhập siêu hàng trăm triệu USD.
Sau Hiệp định Paris về Campuchia, một số nhà đầu tư nước ngoài đã vào kinh doanh ở Campuchia như: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kồng, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Mỹ…, chủ yếu đầu tư vào các ngành du lịch, dịch vụ, công nghiệp nhẹ, công nghiệp may mặc và khách sạn. Nhưng do tình hình chính trị chưa ổn định, bộ máy hành chính cồng kềnh và các tệ nạn tham nhũng, hối lộ nặng nề nên đầu tư nước ngoài và Campuchia còn bị hạn chế.
Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản
Năm 1995, theo thống kê của Bộ nông nghiệp, cả nước Campuchia đã gieo cấy được 1,7 triệu ha, đạt sản lượng 3 triệu tấn thóc. Năm trước, do hạn hán và lũ lụt kéo dài, thu hoạch thất bát thiếu hụt 90.000 tấn lương thực, chỉ có duy nhất một tỉnh tự túc được lương thực. Năm 1995, Campuchia đã tự túc được lương thực cho số dân 10,5 triệu người, ngoài ra còn xuất khẩu được 70.000 tấn gạo, sản lượng gạo xuất khẩu này so với các nước trong khu vực rất thấp, bởi vì, trước đây nông dân Campuchia chỉ sản xuất bình quân 1,64 tấn gạo/ha so với Thái Lan: 2,1 tấn/ha, Philipin: 2,7 tấn/ha và Việt Nam: 3,2tấn/ha. Do trình độ kỹ thuật nông nghiệp còn lạc hậu nên Campuchia vẫn chưa giải quyết được tình trạng không kiềm chế được ngập úng. Chỉ có 15%-17% cánh đồng lúa được tưới tiêu hợp lý, các công cụ nông nghiệp hiện đại rất khan hiếm và thiếu cả phân bón, thuốc trừ sâu. Sản lượng lúa gạo trung bình trong giai đoạn năm 1994-1998 mỗi năm đạt được 1,8 tấn/ha. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Cây cao su phát triển tương đối ổn định. Năm 1995 sản lượng đạt 31 ngàn tấn tăng lên 36 ngàn tấn năm 1998, năng suất cao su trung bình trong giai đoạn năm 1994-1998 đạt được 8,89 kg/ha mỗi năm. Sản lượng cao su năm 2001 đạt được 42 ngàn tấn (tăng lên 35% so với năm 1995).
Trong năm 1996, sản lượng gỗ tròn chỉ đạt được 136(1.000 m3), tăng lên rất cao là 225% (năm 1997) so với năm trước đó và sản lượng gỗ tròn trung bình trong giai đoạn năm 1996- 2001 đạt 260 (1.000 m3) mỗi năm.
Còn sản lượng cá trong năm 1996-2001 đạt 1,6 lần so với năm 1995. Sản lượng cá trung bình trong giai đoạn 1995-2001 là 141,8 ngàn tấn mỗi năm, sản lượng của một số sản phẩm trong giai đoạn 1995-2001 được thể hiện trong bảng dưới đây.
1.2 Tình hình chính trị của Campuchia Thể chế chính trị ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Campuchia là quốc gia quân chủ lập hiến. Hiến pháp Campuchia quy định Campuchia thực hiện chính sách dân chủ, đa đảng. Hệ thống quyền lực được phân định rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Hội đồng Hiến pháp và các cơ quan hành chính các cấp. Cầm quyền hiện nay là chính phủ Hoàng gia nhiệm kỳ 2 (1998-2003) do Liên minh 2 đảng CPP và FUNCINPEC nắm giữ. Samdech Hun Sen, Phó chủ tịch Đảng CPP, giữ chức thủ tướng. Đảng CPP nắm 12 Bộ trong Chính phủ, FUNCINPEC năm 11 bộ. Ngày 27/7/2003, Campuchia tiến hành Tổng tuyển cử Quốc hội nhiệm kỳ 3. Kết quả bầu cử: Đảng CPP giữ 73 ghế trong Quốc hội; Đảng FUNCINPEC 26 ghế; Đảng Sam Rainsy 24 ghế. Đảng CPP thắng cử sẽ đứng ra lập Chính phủ mới. Chủ tịch Đảng CPP: Samdech Cheasim; Phó chủ tịch Đảng CPP: Samdech Hun Sen. Chủ tịch Đảng FUNCINPEC: Samdech Krom Preah Norodom Ranaridth.
Tình hình chính trị trong nước ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Sau khi tiến hành Tổng tuyển cử (lần thứ nhất, năm 1993), Quốc Hội, Chính phủ Vương quốc Campuchia đã cố gắng tìm một chiến lựôc phát triển kinh tế – xã hội thích hợp với điều kiện của đất nước và xu thế phát triển của khu vực và quốc tế, theo đó, cơ chế kinh tế thị trường đã được chính thức chấp nhận ở đất nước này.
Trong 3 năm tiếp theo (1993-1996), mặc dù còn rất nhiều khó khăn song có thể nói, kinh tế – xã hội Campuchia đã có sự phát triển bước đầu đáng ghi nhận. Điều này được thể hiện qua các chỉ số cơ bản: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt ở mức 4% năm 1993 tăng lên 8% năm 1995 và đạt ở mức 6,5% năm 1996.
Nhưng từ năm 1997 trở đi, kinh tế – xã hội Campuchia có khuynh hướng xấu dần: Điều này có nhiều nguyên nhân, trong đó có hai nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính của khu vực Đông Nam á đã tác động tiêu cự đến nền kinh tế còn rất non yếu của Campuchia. Đây là một điều dễ nhận thấy, vì cuộc khủng hoảng này đã làm đảo lộn tất cả các nước trong khu vực.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng về tài chính ở trong nước. Sau Tổng tuyển cử năm 1993, Chính phủ liên hiệp được thành lập với sự tham gia của hai đảng: Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) và Đảng FUNCINPEC, với cơ chế đồng thủ tướng do hai ông N.Ranarith (thủ tướng thứ nhất) và ông Hun Sen (thủ tướng thứ hai) đảm nhận. Chính phủ liên hiệp hoạt động khá suôn sẻ và đạt được những kết quả khả quan như đã nói ở trên. Bước vào năm 1997, FUNCINPEC và CPP đã có những bất đồng ngày càng gay gắt trên nhiều vấn đề, đe doạ đến sự tồn tại của chính phủ liên hiệp. Cuộc chính biến ngày 5,6/7/1997 là một kết quả không thể tránh khỏi của những mâu thuẫn giữa hai đảng trong liên minh cầm quyền, nhưng đồng thời nó cũng là nguyên nhân và khởi đầu cho một giai đoạn suy thoái về kinh tế – xã hội của Campuchia.
Ngày 26/7/1998, Tổng tuyển cử lần thứ hai được tổ chức. Ba trong số 39 đảng tranh cử đã trúng cử, gồm đảng CPP, đảng FUNCINPEC và đảng Sam Rainsy. Ngày 30/11/1998, với sự thoả thuận của hai đảng CPP và FUNCINPEC, Chính phủ Hoàng gia nhiệm kỳ hai (1998- 2003) đã được thành lập. Ngày 4/3/1990, Quốc hội Campuchia đã thông qua luật thành lập Thượng viện mới. Ngày 9/3/1999, Quốc vương N. Xihanuc đã phê chuẩn sửa đổi Hiến pháp, thành lập Thượng Nghị viện.
Từ năm 1999 đến ngày 27/7/2003 tình hình kinh tế Campuchia không có gì biến động lớn nhưng về chính trị Vương quốc Campuchia vẫn chưa thành lập được chính phủ mới do ba Đảng: CPP, FUNCINPEC và Sam Rainsy chưa thoả thuận với nhau.
Với những diễn biến này Campuchia đã hoàn tất và hoàn thiện bộ máy lập pháp và hành pháp của mình, chấm dứt về cơ bản cuộc khủng hoảng chính trị, mở đầu cho một thời kỳ mới của đất nước. Tuy vậy, Campuchia vẫn còn đứng trước nhiều trắc trở, hiểm hoạ cả từ bên trong lẫn bên ngoài, đe doạ sự hoà hợp dân tộc, sự ổn định về chính trị – xã hội, tiền đề cơ bản của sự phát triển đất nước. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Nhân tố bên ngoài
Khu vực Đông Nam á đang bước vào thời kỳ hồi phục kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Đây là một cơ hội thuận lợi đối với đất nước Campuchia và Chính phủ liên hiệp nhiệm kỳ hai của Vương quốc Campuchia.
Cùng với việc gia nhập ASEAN, quan hệ giữa Campuchia với các quốc gia và các tổ chức quốc tế ngày càng được cải thiện như Mỹ đã dành cho Campuchia Quy chế buôn bán tối huệ quốc (MFN) năm 1996, nay vẫn được tiếp tục; Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) và các quốc tế trong nhóm Các nhà tài trợ vẫn dành cho Campuchia những khoản cho vay và viện trợ cần thiết (470 triệu USD năm 1999, 500 triệu USD năm 2000, 503 triệu USD năm 2003).
Khu vực hoá, toàn cầu hoá đang là một xu thế không thể cưỡng lại được và Campuchia đang phải đối diện với nó cả trên hai mặt tích cực và tiêu cực.
Trên đây là những nhân tố tác động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của Campuchia trong những năm gần đây (1998-2004).
2. Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia
A/ Thương mại quốc tế
Xuất khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Campuchia năm 1999 đạt 933.540.411,39 USD, năm 2000 đạt 1.368.728.311 USD tăng 46,62% so với năm 1999, năm 2001 đạt 1.496.030.582,44 USD tăng 9,3% so với năm 2000, năm 2002 đạt 1.487.863.583,94 USD giảm 0,56% so với năm 2001.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Campuchia là hàng may mặc trong đó năm 2003, xuất khẩu hàng may mặc có tỉ lệ tăng trưởng cao nhất, chiếm 93% tổng kim ngạch xuất khẩu còn lại là xuất khẩu giầy dép chiếm 2% và xuất khẩu hải sản chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Campuchia là Mỹ, EU (đặc biệt là Anh và Đức) và Singapo.
Các doanh nghiệp trong nước thường phải gặp sự rắc rối về thủ tục xuất khẩu, đồng thời việc xuất khẩu sang thị trường các nước ASEAN cũng gặp phải khó khăn vì tình hình kinh tế và các mặt hàng xuất khẩu sang các nước ASEAN thì tương đối giống với Campuchia dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt và đối mặt với nhiều đối thủ nên Campuchia xuất khẩu được ít sang thị trường này. Tuy nhiên Campuchia cũng có thuận lợi từ việc là thành viên của WTO đó là Campuchia được áp dụng mức thuế nhập khẩu vào Mỹ thấp tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường này bên cạnh đó sau khi gia nhập ASEAN và WTO Campuchia đã có được một thị trường rộng lớn. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
2. Nhập khẩu
Tổng kim ngạch nhập khẩu của Campuchia năm 1999 đạt 1.227.462.902,07 USD, năm 2000 đạt 1.417.767.798,94 USD tăng 15,5% so với năm 1999, năm 2001 đạt 1.503.648.655,79 USD tăng 6% so với năm 2000, năm 2002 đạt 1.664.245.246,55 USD tăng 10,7% so với năm 2001.
Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Campuchia là: Thuốc y, Thuốc lá, Bia, Xí măng, Linh kiệt điện tử, Vải và xăng dầu. Thị trường nhập khẩu chủ yếu của Campuchia là Thái Lan, Singapo, Hồng Kông, Trung Quốc và Việt Nam.
Với nhiều mặt hàng nhập khẩu nhiều như vậy các doanh nghiệp sản xuất trong nước gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh hàng hoá đặc biệt sau khi Campuchia đã hội nhập ASEAN và WTO. Mặt khác, vì chính sách quá lỏng lẻo của nhà nước, đã có sự nhập khẩu hối lộ một số mặt hàng điều đó không chỉ làm thất thoát ngân sách của nhà nước mà còn làm cho các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn hơn trong cạnh tranh giá cả. Tuy nhiên, người được lợi nhất vẫn là người tiêu dùng, vì có cơ hội lựa chọn các mặt hàng có chất lượng, dịch vụ tốt và giá cả hợp lý.
Có thể bạn quan tâm:
3. Cán cân thương mại ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Campuchia là một nước nhập siêu nên có sự thâm hụt các cân thương mại rất lớn dựa trên bảng 4 và bảng 5 ta có thể thấy rõ cán cân thương mại của Campuchia năm 1999 thâm hụt 293.922.490,68 USD, năm 2000 thâm hụt 49.039.487,94 USD, năm 2001 thâm hụt 7.618.073,35 USD và năm 2002 thâm hụt 156.561.662,61 USD.
B/ Đầu tư nước ngoài
1/ Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Campuchia
Tổng vốn đầu tư qua các năm
Từ năm 1994, vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Campuchia có khoảng 1,3 tỉ USD. Trong đó 50% vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp dệt may, 40% tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, du lịch và gaio thông vận tải còn 10% còn lại tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là ngành gỗ cây.
Từ 1994 đến 1999 đã có khoảng 800 dự án đã đăng ký với tổng số vốn lên tới 5,8 tỷ USD với mức độ thực thi hàng năm của dự án chỉ dao động từ 11 đến 46%.
Chính phủ cũng khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào nhiều lĩnh vực và vẫn duy trì các lĩnh vực được ưu tiên được ghi trong Bộ luật đầu tư như: Các ngành công nghiệp chế biến hoặc có công nghệ cao; Tạo việc làm; Hướng xuất khẩu; Du lịch; Nông nghiệp và chế biến các sản phẩm nông nghiệp; Cơ sở vật chất và năng lượng; Phát triển thành thị và nông thôn; Bảo vệ môi trường; Các khu vực xúc tiến đặc biệt. Trong giai đoạn này Chính phủ còn khuyến khích đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực, khu vực cụ thể như: Phát triển các khu công nghiệp ở ngoại vi thành phố, hoặc dọc quốc lộ 4; Xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương thức ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
B.O.T (Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao) hoặc B.O.O.T (Xây dựng – Sở hữu – Vận hành). Những lĩnh vực chủ yếu mà Campuchia nhận được đầu tư nước ngoài là: dệt, may mặc, chế biến gỗ, chế biến nông-công nghiệp (đồn điền, chế biến thực phẩm, chăn nuôi gia súc…), dịch vụ và xây dựng và cho đến nay, du lịch và dịch vụ là những lĩnh vực có số vốn đầu tư nước ngoài cao nhất, tiếp đó là công nghiệp, sau cùng là nông nghiệp
Cơ cấu đầu tư
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành du lịch
Tính từ năm 1999 đến năm 2003 đã có 30 dự án thực hiện với tổng số vốn 486.935.339 USD, trong đó đầu tư xây dựng khách sạn có 25 dự án với tổng số vốn 323.001.868 USD, đầu tư trong lĩnh vực du lịch có 4 dự án với tổng số vốn 17.135.339 USD và đầu tư vào khu du lịch có 1 dự án với tổng số vốn đầu tư 146.798.132 USD.
Du lịch đã chiếm 36% thị phần (Du lịch, dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp) vói giá trị 1.359.535.732 USD trong 5 năm 1999-2003 đồng thời ngành này cũng đã tạo công việc cho 21.296 người lao đông.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành dịch vụ
Từ năm 1999 đến 2003 đã có 34 dự án thực hiện với tổng số vốn 309.018.563 USD, trong đó đầu tư vào xây dựng có 3 dự án với tổng số vốn 24.885.670 USD, đầu tư vào dịch vụ y tế có 1 dự án với tổng số vốn 1.043.900 USD, đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng có 4 dự án với tổng số vốn 39.598.162 USD, đầu tư vào năng lực dịch vụ có 1 dự án với tổng số vốn 4.042.700 USD, đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ có 18 dự án với tổng số vốn 138.242.703 USD, đầu tư vào dịch vụ thông tin liên lạc có 4 dự án với tổng số vốn 93.527.500 USD, đầu tư vào dịch vụ giao thông vận tải có 1 dự án với tổng số vốn 5.116.800 USD và đầu tư vào dịch vụ cung cấp nước có 2 dự án với tổng số vốn 2.561.129 USD.
Ngành dịch vụ có sự tăng trưởng từ 6,2% 8,4% và 9% trong những năm 1996-1997-1998. Năm 1997 vì sự kiện 5,6/7 sự tăng trưởng của ngành này đã giảm xuống còn 1,1%. Sau khi có sự tăng trưởng của ngành du lịch và giao thông và vận tải ngành dịch vụ đã tăng 16,1% trong năm 1999 và 6,3% trong năm 2000 bên cạnh đó ngành dịch vụ cũng đóng góp tạo công ăn việc làm cho 15.900 người lao động.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp
Tính từ năm 1999 đến 2003 đã có 182 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp với tổng số vốn 445.481.976 USD. Trong hoạt động của ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp dệt, may mặc và sản xuất giầy dép, đã được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm và đâu tư vào rất nhiều. Chính phủ đã khuyến khích các doanh nghiệp nói trên được phép nhập khẩu với mức thuế bằng không các nguồn nhiên liệu, dây chuyển sản xuất, máy móc thiết bị trong trường hợp công ty đó xuất khẩu hàng hoá tối thiểu 80%. Hiện ngành công nghiệp đã tạo công việc cho 460.156 người lao động. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp
Từ năm 1999 đến 2003 đã có 26 dự án thực hiện với tổng số vốn đầu tư 118.099.854 USD, trong đó đầu tư vào công nghiệp có 8 dự án với tổng số vốn 31.213.445 USD, đầu tư vào công – nông nghiệp có 11 dự án với tổng số vốn 66.707.640 USD và đầu tư vào trồng trọt có 7 dự án với tổng số vốn 20.178.769 USD.
Ngành nông nghiệp là ngành quan trọng ở Campuchia, việc chuyển đổi từ trồng lúa sang sản xuất đa dạng, nuôi trông có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp thị trường góp phần tăng xuất khẩu và tăng thu nhập. Tuy nhiên trong 5 năm vừa qua từ 1999-2003 ngành nông nghiệp không có sức thu hút lớn từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy số dự án đầu tư vào ngành này chỉ có 26 dự án với tổng số vốn đầu tư là 118.099.854 USD.
Đối tác đầu tư của Campuchia
Theo Hội đồng phát triển của Campuchia, đã cho biết Malaysia là nhà đầu tư lớn nhất trong những năm 1994-2001 chiếm 31,2% các nhà đầu tư, và 79% các nhà đầu tư các nước ASEAN. Một số nhà đầu tư quan trọng nữa là Đài Loan chiếm 7,6%, Mỹ chiếm 7,39%, Trung Quốc chiếm 4.6%, Hồng Kông chiếm 4,05%, Singapore chiếm 3,87%, Hàn Quốc chiếm 3,57%, Thái Lan chiếm 3,42% và Pháp chiếm 3,32%.
Đặc biệt, năm 2003 đầu tư của Trung Quốc vào Campuchia là 33 triệu USD, chiếm khoảng 50% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Campuchia. Giá trị buôn bán và đầu tư giữa Trung Quốc và Campuchia trong 9 tháng đầu năm 2004 đạt 355 triệu USD, tăng 46,2% so với cùng kỳ năm ngoài.
2. Một số nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Campuchia
2.1 Nguyên nhân trong nước
Trong 3 năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Campuchia có sự giảm xuống dột ngột, những vấn đề mà các nhà đầu tư đang phải đối mặt hiện này là:
Thứ nhất, sự suy yếu về cơ sở hạ tầng ủng hộ và thu hút đầu tư nước ngoài như: cơ sở luật pháp và thủ tục giấy tờ vẫn còn yếu kém, thiếu cơ sở vật chất (đường, nước, điện, phương tiện liên lạc). Điều này đã làm cho các nhà đầu tư phải bỏ nhiều vốn hơn để đầu tư vào một lĩnh vực nào đó ở Campuchia, xét về lợi thế thì Campuchia thua kém hơn nhiều so với các nước láng giềng. Liên quan đến thông lệ kinh doanh, Campuchia cũng không có hệ thống luật pháp và khung pháp luật minh bạch và đầy trách nhiệm giải trình. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Thứ hai, sự cải cách về luật đầu tư Campuchia vẫn chưa tạo niềm tin về môi trường đầu tư Campuchia, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn chần chừ trong việc bỏ vốn đầu tư vào Campuchia. Đây là yếu tố tác động bất lợi đến sự quyết định đầu tư ở Campuchia.
Thứ ba, hệ thống luật pháp trong nước không tạo điều kiện thuận lợi nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Campuchia. Cụ thể một số dự án với tổng số vốn đầu tư lớn cần phải có sự sẵn sàng để thực hiện mang tính chiến lược và phát triển đất nước, nhưng do sự thiếu hụt về khung pháp luật và thông lệ nên các dự án đó thiếu sự khuyến khích hoặc không nhận được li xăng trong khi các nước khác trong khu vực rất khuyến khích các loại dự án đầu tư tương tự.
Thứ tư, có quá nhiều sự hối lộ, các nhà đầu tư phải phí rất nhiều thời gian để xin cấp giấy phép đầu tư đồng thời phải chi trả một cách bất thường trong quá trình xin giấy phép đầu tư. Điêù này đã tác động tiêu cực đến tâm lý các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ năm, sự bất động dẫn đến sự biểu tình và đình công thường xuyên của người lao động và đôi khi dẫn đến bạo lực đã gây ấn tượng xấu đến các nhà đầu tư nước ngoài thậm chí người tiêu dùng nước ngoài không muốn đặt hàng của Campuchia.
2.2 Nguyên nhân quốc tế ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Bên cạnh nguyên nhân trong nước thì nguyên nhân quốc tế cũng đóng góp đáng kể vào sự suy giảm đầu tư nước ngoài ở Campuchia, đó là:
Thứ nhất, ảnh hưởng của Trung Quốc với tư cách là thành viên của WTO và sự đối xử tối huệ quốc của Việt Nam do Mỹ trao tặng, cùng với sự ưu đãi nói trên đã làm cho vốn đầu tư di chuyển sang các nước đó.
Thứ hai, sự bỏ bớt và loại bỏ các điều kiện và thủ hành chính ở các nước trong khu vực là những khó khăn đối với sự di chuyển vốn đầu tư. Mặt khác, do tình hình kinh tế không ổn định của các nước là nhà tài trợ nguồn vốn đầu tư cho Campuchia cho nên họ không thể sang Campuchia để đầu tư được.
Thứ ba, do môi trường kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới không thật sự tốt, thị trường đang giảm xuống, đặc biệt do sự khủng hoảng nền kinh tế Mỹ, sự kiện ngày mồng 9/11 và sự kiện tăng trưởng thấp ở các nước EU, vấn đề kinh tế Nhật Bản và khủng hoảng tài chính ở Mỹ Latin v.v…
3/ Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Campuchia
Đầu tư ra nước ngoài là một phần đóng góp khá là quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế của một đất nước trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của thời đại ngày nay.
Tuy nhiên, với trường hợp của Campuchia thì việc đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn hết sức hạn chế và số dự án đầu tư ra nước ngoài dường như không đáng kể, vì hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều phải gặp khó khăn về vốn, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Campuchia với các doanh nghiệp chủ nhà và các doanh nghiệp khác trên đất khách vẫn còn rất hạn chế. . . Mặt khác Chính phủ cũng không mấy chú trọng trong việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài vì đây chưa phải là thời điểm phù hợp đối với Campuchia trong việc đầu tư ra nước ngoài.
4/ Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Campuchia ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
4.1 / Hội nhập WTO
- Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Campuchia Đàm phán lần thứ I
Từ năm 1996 Campuchia đã tham gia vào một số cuộc họp cấp cao của ASEAN như SEOM và AEM. Sau đó, Chính phủ Campuchia cũng đã lập ra 6 uỷ ban hợp tác chuyên ngành của ASEAN nhằm mục đích để điều phối hoạt động với 6 uỷ ban hợp tác chuyên ngành trong ASEAN bao gồm: các hợp tác khoa học – kỹ thuật, môi trường, văn hoá – thông tin, phát triển xã hội, phòng chống ma tuý, vấn đề công chức trong bộ máy hành chính và du lịch.
Để tập hợp ý kiến của các bộ liên quan đến xây dựng danh sách miễn thuế theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), chính phủ đã lập ra bộ phận AFTA vào năm 1996 và đã đưa vào việc cắt giảm 3149 mặt hàng vào năm 1998, với số thuế giảm lên đến 47% tổng mức thuế.
Về mặt pháp lý
Để được tham gia vào quá trình hợp tác kinh tế với khu vực và thế giới một cách có lợi nhất, phù hợp nhất, chính phủ Campuchia đã cam kết cải thiện hệ thống pháp luật đặc biệt là luật kinh tế thương mại. Chẳng hạn như Chính phủ đã sửa đổi luật thuế, luật đầu tư, luật bảo hiểm, luật ngân hàng. Dựa trên cơ sở của Pháp, để phù hợp với hệ thống pháp luật của các nước ASEAN vốn dựa trên cơ sở Anglo – Saxon.
Về cải cách hệ thống hành chính
Cải cách hệ thống hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền: Để đảm bảo cho việc tái ổn định nền kinh tế, nhiệm vụ không kém phần quan trọng phải tiến hành cải cách hành chính, tinh giản bộ máy, giảm bớt lực lượng vũ trang thường trực, xây dựng Nhà nước pháp quyền, chống tham nhũng.
Điều này được thể hiện trong quan điểm của Đảng CPP, Đảng chủ chốt trong Chính phủ liên minh “Tập trung lực lượng đẩy mạnh tiến trình cải cách cả trên 4 lĩnh vực; quan tâm thực hiện có hiệu quả cao các biện pháp mà Chính phủ đã đề ra trong tiến trình cải cách. Đồng thời phải cố gắng củng cố năng lực cảu Chính phủ có liên quan đến việc thực hiện và quản lý theo hình thức tăng quyền hạn các cấp và phi tập trung hoá, bảo đảm sự minh bạch trong hệ thống hành chính công cộng, bảo đảm hoạt động tư pháp và chống tham nhũng; năng lực của chính phủ được thể hiện bằng kết quả trong tiến trình cải cách, là nhân tố then chốt để bảo đảm thắng lợi cho tiến trình cải cách.
Đàm phán lần thứ II
Nhằm nâng cao tinh thần và hợp tác chặt chẽ giữa các bộ có liên quan với các nhóm chuyên gia UNCTAD vụ quan hệ đã hoàn thành những tài liệu cơ bản để cuộc họp nhóm làm việc và cuộc họp giữa hai bên về việc xin gia nhập Campuchia vào WTO tổ chức vào ngày 6- 17 tháng 2 năm 2002 tại Genava – Thuỵ sĩ.
- Tài liệu khoản 17 câu hỏi và trả lời về chính sách kinh tế đối ngoại.
- Thuế quan và các dịch vụ khác.
- Tài liệu về kế hoạch thực hiện quốc gia và kế hoạch hoạt động về môi trường theo tiêu chuẩn quyền sở hữu và đánh thuế
- Tài liệu về chính trị bảo vệ nông nghiệp.
- Tài liệu bản điều chỉnh quyền sở hữu. Quá trình đàm phán song phương ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Campuchia đã đàm phán song phương với thành viên WTO gồm 6 nước: Mỹ, Canada, EU, úc, Nhật Bản và ấn Độ, nội dung đàm phán chủ yếu là giảm thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ và chính sách bảo vệ ngành nông nghiệp. Các thành viên WTO hoan nghênh sự cố gắng của Campuchia trong việc đưa ra dự án trên để đàm phán đa phương và song phương nhằm sớm đưa Campuchia trở thành thành viên w. Những thành viên WTO yêu cầu Campuchia sửa đổi luật thuế quan vì thành viên WTO hiểu rằng Campuchia đánh thuế quá cao các mặt hàng từ 50%, 60%, 70%, 100%. Họ yêu cầu Campuchia giảm thuế quan trong thời gian 10 năm. Mặc dù một số mặt hàng khác không thể giảm trong thời gian đó được như mặt hàng nông nghiệp. Những thành viên WTO yêu cầu cần sửa đổi một số dự án thuế quan từ 15% đến 30%.
- Các dịch vụ khác
Campuchia yêu cầu sửa đổi một số ngành dịch vụ chính và phụ trong các ngành dịch vụ dự phòng đã cam kết thời gian vừa qua.
Hơn nữa Campuchia đã mở cửa thị trường tự do đối với 6 ngành như: Đầu tư, Viễn thông, Xây dựng, Tài chính, Du lịch và Dịch vụ đường bộ. Trong đó có 37 dịch vụ dự phòng.
- Dự án thông qua luật quốc gia
Các thành viên WTO còn yêu cầu Campuchia thực hiện một số luật khác như: Thuế quan, Luật hôn nhân và gia đình, Luật hình sự và một số luật khác.
Đàm phán thứ III
Thành viên WTO yêu cầu Campuchia sửa chữa luật doanh nghiệp và thêm điều lệ quan trọng về nhãn hiệu thương mại quốc hội vừa ký kết thông qua để thực hiện kiểm tra luật song phương đã đồng ý về quyền sở hữu trí tuệ của WTO.
Từ ngày 9-15/11/2002, Quốc hội khoá III yêu cầu các thành viên đoàn đàm phán phối hợp với các bộ và các chuyên gia của WTO sửa đổi và hoàn chỉnh các văn kiện the yêu cầu của WTO. Kết quả đã trình cho ban thư ký của WTO các tài liệu sau:
- Tài liệu khoảng 89 câu hỏi và câu trả lời về kinh tế đối ngoại Campuchia. Sửa đổi luật thuế hải quan và các dịch vụ khác.
- Sửa đổi kế hoạch để thực hiện luật quốc gia theo yêu cầu WTO.
- Kế hoạch thực hiện hoạt động về hạn chế kỹ thuật thương mại, quyền hải quan và tài liều trình bày về mở rộng thực hiện giá trị gia tăng.
- Sửa đổi chính trị, công nghiệp hoá.
- Sửa đổi bảng luật về quyền sở hữu và them luật thương mại.
- Một số tài liệu về bảng điều chỉnh quyền sở hữu để đăng ký vào dấu thương mại, đăng ký hàng hoá thuốc men và thuốc trừ sâu.
- Một số tài liệu xuất nhập khẩu hàng hoá thuốc men và thuốc trừ sâu. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Campuchia đã đàm phán song phương với thành viên WTO gồm 6 nước: Mỹ, Canada, Cộng đồng Châu Âu, úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan về sự giảm thuế hải quan và mở cửa thị trường tự do. Hơn nữa, WTO yêu cầu Campuchia giảm thuế quan và đẩy nhanh tiến độ thực hiện:
- Sự thoả hiệp về công nghệ thông
- Sự thoả hiệp về nguyên liệu dệt.
- Sự cân đối về hoá chất.
Tất cả sự thoả hiệp đó làm cho nước ký kết giảm thuế quan đến 0 trong thời gian nhất định, hơn nữa thành viên WTO yêu cầu Campuchia cần thực hiện luật pháp liên quan dến sự thoả hiệp của WTO càng sớm càng tốt.
Thành viên WTO yêu cầu Campuchia mở rộng thị trường tự do hoá các ngành dịch vụ về ngành khác như: Đầu tư nước ngoài, Viễn thông, Tài chính, Y tế, Du lịch, Đào tạo môi trường và đường biển.
Thành viên WTO đã đồng ý với nhau và yêu cầu bộ phận hành chính WTO soạn thảo văn kiện tóm tắt về quá trình đàm phán và sớm cho phép Campuchia gia nhập WTO trình lên Tổng thư ký WTO quyết định. Sau khi họp thượng đỉnh Campuchia đã được gia nhập WTO vào ngày 11/9/2003 tại Mexico do sự giúp đỡ nhiệt tình của thành viên WTO và Quốc hội cấp cao.
Tại Hội nghị bộ trưởng thành viên WTO tổ chức ở Cancun (Mexico), Campuchia đã được chấp nhận làm thành viên của tổ chức này. Tuy nhiên, theo cơ quan phát triển Oxfam, Campuchia đã phải nhượng bộ ở mức vượt quá những gì mà các nước kém phát triển nhất thế giới có thể cam kết. Oxfam khẳng định, chính các thành viên hiện nay của WTO đã gây sức ép buộc Campuchia phải tiến hành những nhượng bộ này. Bộ trưởng thương mại Campuchia Cham Prasidh cho biết, Campuchia đã phải trả giá đắt cho công cuộc hoà hợp dân tộc và giờ đây tiếp tục phải trả giá cho việc gia nhập WTO. Campuchia đã phải đồng ý giảm thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp xuống thấp hơn nhiều so với mức thuế nhập khẩu tối đa mà EU hay Mỹ áp dụng. Campuchia cũng phải tiến hành các biện pháp bảo hộ bằng sáng chế đối với các mặt hàng dược phẩm sớm hơn các nước kém phát triển khác. Tuy nhiên, ông Prasidh khẳng định, những cam kết không vượt quá tầm với của Campuchia và Campuchia chấp nhận những thách thức này vì nhận thấy lợi ích thật sự của việc gia nhập hệ thống thương mại toàn cầu. Quốc hội Campuchia đã phê chuẩn các hiệp định gia nhập của mình và có được tư cách là thành viên thứ 148 của WTO vào ngày 13/10/2004.
Mời bạn tham khảo thêm:
4.1.2 Những lợi ích do WTO đem lại và trường hợp của Campuchia ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Bên cạnh những tất yếu khách quan mà mỗi quốc gia phải hội nhập kinh tế quốc tế, thì còn một lý do khác nữa cũng thúc đẩy các nước muốn gia nhập WTO, đó chính là những lợi ích to lớn mà tổ chức này đem lại cho các nước thành viên. Có thể nêu ra một số lợi ích chủ yếu mà các nước thành viên sẽ nhận được khi gia nhập WTO như sau:
Thứ nhất, khi gia nhập WTO, các quốc gia thành viên sẽ không bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. Theo nguyên tắc của WTO khi gia nhâp WTO thì các nước thành viên mặc nhiên được hưởng ưu đãi tối huệ quốc và những đãi ngộ quốc gia khác, nhờ đó sẽ tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, đồng thời góp phần xoá bỏ những lý do để các cường quốc thương mại áp dụng các biện pháp phân biệt đối xử trong việc ấn định các biện pháp chống bán phá giá và biện pháp tự vệ. Tuy nhiên trên thực tế khi đã vào WTO, để không bị phân biệt đối xử các nước phải thường xuyên tiếp cận nguyên tắc này trong tiến trình đàm phán, tính đến sự đa dạng của các quan hệ kinh tế – thương mại của mình với từng nước và phải tuân theo nguyên tắc có đi có lại.
Đối với Campuchia, sau khi gia nhập WTO, Campuchia được hưởng quy chế tối huệ quốc ổn định đa phương, Campuchia sẽ không bị phân biệt đối xử một cách không công bằng trong quan hệ thương mại. Điều này giúp Campuchia tiếp cận một cách dễ dàng với thị trường của một loạt sản phẩm và một loạt quốc gia, một công việc rất tốn thời gian nếu chỉ theo hiệp định song phương hoặc hiệp định khu vực.
Thứ hai, gia nhập WTO hệ thống luật pháp trong nước sẽ được củng cố đồng thời các tranh chấp thương mại được giải quyết theo một khung pháp luật quốc tế, WTO là một tổ chức với những quy định và “luật chơi” chặt chẽ kiểm soát thương mại toàn cầu. Các Hiệp định của WTO không ngừng nâng cao tính trong sáng minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại quốc tế. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Gia nhập WTO, Campuchia được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế, sẽ góp phần giúp Campuchia, một nước đang phát triển, tránh được sự ép buộc cũng như áp lực về mặt kinh tế từ phía các nước có nền kinh tế phát triển. Với hệ thống luật pháp trong nước đã được củng cố, điều đó đã tạo nên một môi trường đầu tư lành mạnh và hấp dẫn, tăng sức mạnh thu hút đàu tư trong và ngoài nước.
Với tư cách là một nước đang phát triển, Campuchia đã nhận được sự hứa hẹn ưu tiên về thị trường tức là các nước lớn đã hứa sẽ ưu tiên trao cho Campuchia những thị trường xuất khẩu với sự ưu đãi và mức thuế bằng không. Điều nay mang cho Campuchia nhiều sự di chuyển vốn đầu tư nước ngoài góp phần tạo công ăn việc làm trong nước.
Campuchia được chọn làm một trong 3 quốc gia thí điểm tham gia chương trình hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến thương mại (chương trình này có sự hợp tác của 6 tổ chức quốc tế, trong đó có WB) góp phần xây dựng được năng lực cho đất nước.
Bên cạnh đó, hoạt động quản lý nhà nước được cải cách và tăng cường, việc giảm bớt các loại giấy phép và giảm các loại thuế gây méo mó thị trường sẽ góp phần loại bỏ nguồn gốc chính của tham nhũng. Tăng cường tính minh bạch, cải thiện hoạt động quản lý nhà nước như việc công bố các luật quy định lên một trang web, mở cửa một số ngành như bưu chính viễn thông cho cạnh tranh… là những vấn đề chủ yếu. Bằng các nguyên tắc của WTO, Campuchia có thể nghiên cứu kỹ lượng và phản đối các chính sách thương mại mà những quốc gia khác tiến hành.
Như đã biết mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Campuchia là hàng may mặc và chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ và EU. Đến cuối năm 2004 Mỹ sẽ xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Campuchia nên việc tham gia vào WTO thì Campuchia sẽ nhận được lợi ích rất lớn cho ngành may mặc non trẻ của mình vì Campuchia sẽ đóng thuế nhập khẩu vào Mỹ thấp thậm chí bằng không giúp Campuchia tránh phải đóng thuế nhập khẩu thông thường mà Mỹ áp dụng đối với các nước khác không phải là thành viên của WTO.
4.1.3 Những bất lợi do WTO đem lại cho Campuchia
Mặc dù, với tư cách là thành viên của WTO Campuchia sẽ được hưởng những lợi ích như nêu ở trên nhưng trên thực tế lợi ích đó Campuchia vẫn chưa nhận được một cách đích thực. Ngược lại, gia nhập WTO Campuchia gặp một số bất lợi sau:
Một, Chi phí điều chỉnh cho việc mở cửa thị trường. Trước khi phát triển được một khuôn khổ thể chế hỗ trợ chung cho khu vực tư nhân, Campuchia phải chịu chi phí điều chỉnh khi mở cửa thị trường của mình cho những đối thủ đến từ những môi trường cạnh tranh hơn. Việc thiếu tín dụng thương mại, cơ sở hạ tầng pháp lý, mạng lưới hậu cần, hệ thống thông tin thị trường, các hiệp hội ngành nghề, các thể chể có chất lượng và chi phí kinh doanh cao chắc chắn sẽ khiến cho nhiều doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh ngay được. Trong ngắn hạn, Campuchia sẽ bị mất một số việc làm do hàng hoá nhập khẩu tràn vào thế chỗ cho hàng hoá trong nước. Nếu Campuchia càng để mất nhiều thời gian mới đạt đến trình độ “sân chơi” chung thì những vấn đề về điều chỉnh này sẽ càng nghiêm trọng.
Hai, mất một lượng tài chính phục vụ cho việc cải cách. Những nghĩa vụ đối với WTO buộc Campuchia phải sử dụng những nguồn lực tài chính và con người tương đối lớn cho việc cải cách. Cụ thể việc thực thi TRIPS vào năm 2007 đòi hỏi Campuchia phải rà soát toàn bộ và phải sửa lại luật. Chính phủ phải hình thành những cơ quan mới, tái cơ cấu những cơ quan hiện tại, mua sắm trang thiết bị mới và tăng cường đào tạo cho đội ngũ cán bộ nhà nước. Những cải cách này sẽ phải “tranh chấp” với các ưu tiên khác trong chính sách của Nhà nước để có được nguồn vốn khan hiếm của Nhà nước. Chính vì vậy, các cam kết của Campuchia được chấp nhận sẽ thực hiện từng bước và theo từng giai đoạn. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Ba, đảm bảo tính linh hoạt chính sách theo nguyên tắc của WTO. Gia nhập WTO, một tổ chức lớn với những quy tắc và quy trình đã được xác định, Campuchia phải chấp nhận đánh đổi bằng việc không được tự do hoạch định các chính sách, đặc biệt là những chính sách đi ngược lại với những giá trị và nguyên tắc chủ chốt của WTO.
Bốn, xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu hàng may mặc vào thì trường Mỹ và EU ở cuối năm 2004 có thể ngăn cản sự phát triển của Campuchia và Chính phủ sẽ mất thu nhập khoảng 30 triệu USD/năm từ việc đấu thẩu hạn ngạch hàng dệt may và may mặc.
Năm, Campuchia đã chịu nhiều áp lực từ việc hy sinh nhiều hơn các nước đang phát triển là thành viên khác đã làm. Cụ thể, Campuchia chấp nhận phải hứa hẹn sẽ không trợ cấp trong việc xuất khẩu hàng nông sản bằng không trong việc thoả thuận về ngành nông nghiệp trong khi các nước nghèo là thành viên khác không cần phải hứa hẹn như thế.
Sáu, Campuchia là một nước có 80% là nông dân đã bị đề nghị cắt giảm thuế với mức thuế tối đa xuống còn 60% đối với những mặt hàng nông sản (mặt hàng chủ chốt của Campuchia), còn Mỹ, các nước EU và Canada họ áp dụng mức thuế từ 120 đến 250%, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến ngành nông nghiệp trong nước đứng trước nguy cơ cạnh tranh gay gắt với những mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Campuchia cũng hứa hẹn quy định mức thuế quan trung bình 30% đối với mặt hàng nông nghiệp và 20% đối với mặt hàng công nghiệp.
Bẩy, vấn đề thực hiện hiệp định TRIPS, theo tuyên bố ở Đô Ha, các nước nghèo có quyền đề nghị xin gia hạn thực hiện hiệp định TRIPS liên quan đến vấn đề quyền sở hữu thuốc đến năm 2016, trong khi Campuchia đã bị kháng nghị chỉ có thể gia hạn đến năm 2007. Điều này đã ảnh hưởng rất nhiều đến thu nhập của người dân vì giá thuốc sẽ tăng lên.
4.3 Hội nhập ASEAN ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
4.3.1 Quá trình gia nhập ASEAN của Campuchia
Trong những năm 1993 và 1994 Campuchia đã được mời tham dự Cuộc họp cấp Bộ trưởng ASEAN tại Singapore và Bangkok.
Tháng 12/1994, Campuchia chào đón truyến thăm đầu tiên của Tổng Bí thư ASEAN Dato Ajit Singh. Đây là một sự đánh dấu thực sự đầu tiên trong sứ mệnh hội nhập tổ chức khu vực của Campuchia. Lúc đó, Campuchia đã phê chuẩn lời đề nghị xin gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á ASEAN một cách nhanh chóng.
Năm 1995, sau khi thực hiện Hiệp ước thân thiện và hợp tác ASEAN, Campuchia đã được nhận vào ASEAN với tư cách là một quan sát viên.
Năm 1997, Campuchia đã chuẩn bị gia nhập với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN nhưng mục đích đó không thành hiện thực do sự kiện ngày mồng 5, 6 tháng 7 khiến cho ASEAN phải hoãn lại tư cách là thành viên của Campuchia trong khi các nước như Lào và Miyanma đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này.
Cho tới năm 1999, Campuchia đã cố gắng hoàn tất các thủ tục để vượt quá hàng rào gia nhập ASEAN. Đến ngày 30/4/1999 Campuchia đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
4.3.2 Tình hình thực hiện hiệp định CEPT của Campuchia
Campuchia đã bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo chương trình Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) từ 1/1/2000. Giai đoạn đầu năm 2000 khoảng 945 mặt hàng với tỉ lệ thuế 50%, 35% và 15% đã đưa vào danh sách áp dụng tỉ lệ thuế ưu đãi lần lượt: 35%, 20%, 10% và 7%. Bên cạnh đó, tám cửa khẩu đã được thực hiện kiểm tra gồm: Sân bay quốc tế Pochentong, Cảng biển, Cảng Phnom Penh, Cục thuế quan, Cảng biển Sihanouk, Cửa biến giới Bavet, Cửa khẩu Phnom Den và Cửa biến giới Poi Pet.
Chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT của Campuchia thực hiện trong năm 2001- 2003 bao gồm 6823 mặt hàng, trong đó những mặt hàng nằm trong danh mục cắt giảm thuế bao gồm 3115 khoản thuế chiếm khoảng 45,7% tổng thuế suất, mặt hàng nằm trong danh mục loại trừ tạm thời gồm 3524 mặt hàng chiếm 51,7% tổng thuế suất, hàng hoá nằm trong danh mục loại trừ hoàn toàn 134 khoản thuế chiếm 2% tổng thuế suất và hàng hoá nằm trong danh mục nhạy cảm gồm 50 mặt hàng chiếm 0,7% tổng thuế suất. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Campuchia đã ký kết thực hiện chương trình cắt giảm thuế nhanh trong năm 2007 và cắt giảm thuế bình thường đối với mặt hàng nằm trong danh mục giảm thuế về 0-5% trong năm 2010.
Còn cắt giảm thuế đối với mặt hàng nằm trong danh mục nhạy cảm (nông sản chưa chế biến) sẽ được áp dụng trong năm 2008 và cắt giảm về 0-5% trong năm 2017.
Campuchia thực hiện cắt giảm thuế theo từng giai đoạn, Campuchia sẽ thực hiện việc chuyển mặt hàng nằm trong danh mục loại trừ tạm thời sang mặt hàng nằm trong danh mục giảm thuế từ năm 2003 đến 2007 với tỉ lệ thuế cắt giảm tương tự với từng mặt hàng.
Lưu ý: Tỉ lệ thuế trung bình đã được soạn theo loại sản phẩm thu được từ chương trình cắt giảm thuế CEPT năm 2001 trong trang web thư ký ASEAN.
Còn tỉ lệ đại ngõ quốc gia thể hiện tỉ lệ thuế trước khi thực hiện CEPT.
4.3.3 Những lợi ích do ASEAN đem lại và trường hợp của Campuchia
Có thể nêu ra một số lợi ích khi gia nhập tổ chức ASEAN như sau:
Thứ nhất, gia nhập ASEAN, thị trường về thương mại, đầu tư, công nghiệp… của các nước thành viên sẽ được mở rộng.
Thứ hai, gia nhập ASEAN, cơ cấu kinh tế và cơ sở hạ tầng trong nước sẽ được thay đổi theo hướng phát triển. Do đó tăng sức thu hút vốn đầu tư nước ngoài đồng thời tạo điều kiện cho các quốc gia có thể tiếp cận với các công ty đa quốc gia.
Thứ ba, tạo nguồn lực nội sinh để phát triển các ngành công nghiệp đồng thời các quốc gia có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Thứ tư, các quốc gia có thể tranh thủ được sự ủng hộ của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, cộng đồng quốc tế về nhiều mặt như ưu đãi về thuế quan, cắt giảm hàng rào hành chính tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính.
Đối với Campuchia, việc gia nhập ASEAN đã mang cho Campuchia những lợi ích sau:
- ASEAN là động lực kích thích Campuchia trong cải cách cơ cấu tổ chức và nền kinh tế trong nước, đặc biệt giúp Campuchia cải cách hệ thống luật pháp tiên tiến, cơ cấu tổ chức phát triển và phát triển nguồn nhân lực.
- Việc gia nhập tổ chức ASEAN đã tạo cợ hội cho Campuchia tiếp xúc và hợp tác một cách tích cực và đa dạng với các thành viên khác của ASEAN và các nhóm khu vực đối tác của ASEAN như: Hội đồng Hợp tác Biển (GCC – Gulf Cooperation Council), Tổ chức Hợp tác Kinh tế (ECO – Economic Cooperation Organization)…
- ASEAN cũng tạo điều kiện cho Campuchia tham gia vào Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), cho phép Campuchia đóng góp nhằm đảm bảo hoà bình và an ninh qua các cuộc đối thoại và hợp tác với 13 nước không thuộc khối ASEAN trong khu vực Châu á – Thái Bình Dương, đặc biệt với các nước đóng vai trò quan trọng về chính trị và kinh tế thế giới như: Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Nga, Mỹ và một số nước quan trọng khác như: úc, Canada, ấn Độ và Hàn Quốc.
- Hợp tác song phương với các quốc gia thành viên của ASEAN, Campuchia đã thu được lợi nhuận trong việc hợp tác với các đối tác của ASEAN trong diễn đàn Hội nghị Cấp bộ trưởng (Post Ministerial Conference), đó là các nước úc, Canada, Trung Quốc, EU, ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Nga và Mỹ. Thông qua hợp tác giữa ASEAN với Canada và EU, Campuchia đã ký kết được bản thoả thuận với Canada về Hợp đồng mở rộng hợp tác kinh tế, còn với Mỹ, Campuchia đã ký kết được Nghị định thư về Hợp đồng mở rộng hợp tác ASEAN-EC. Thông qua việc ký kết đó, Campuchia đã được phép tham gia vào chương trình phát triển với Canada và Mỹ.
- Thêm vào đó, Campuchia đã thu được lợi từ việc là thành viên của ASEAN khi ASEAN đã thể chế hoá mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng Đông Bắc là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (gọi tắt là ASEAN +3). ASEAN +3 có số dân và khu vực rộng lớn, là nguồn cung cấp các tiềm năng về thương mại, tài chính, kinh tế, khoa học và công nghệ. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
- Campuchia ưu tiên thuế nhập khẩu thấp nhất trong các nước ASEAN đối với mặt hàng xuất khẩu của mình, điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Campuchia trong việc buôn bán cho thị trường với dân số 500 triệu người. Tổng dân số của 10 nước thành viên ASEAN là 500 triệu người, một khối giàu tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu thô… là thị trường rộng lớn đầy tiềm năng kinh tế và sức thu hút đối với với các nhà đầu tư. Tổng GDP của 10 nước thành viên ASEAN là khoảng 700 tỷ USD trong năm 1996, tăng trưởng kinh tế trong 25 năm trước khủng hoảng tài chính năm 1997 là từ 5% đến 7%.
- Cho phép Campuchia nhập khẩu công trình xây dựng từ các nước ASEAN để sản xuất hàng may mặc cho thị trường EU. Khi chưa là thành viên của ASEAN, Campuchia phải xin sự cho phép của EU nhập khẩu công trình xây dựng hàng năm để sản xuất hàng may mặc cho thị trường này đồng thời phải đảm bảo tiêu chuẩn xuất xứ theo chương trình Hệ thống ưu đãi thuế quan (GSP) của
- Tăng uy tín cho các nhà đầu tư. Việc Campuchia trở thành thành viên chính thức của ASEAN là kết quả của việc bầu cử đầy tin cậy về tình hình chính trị và kinh tế-xã hội của Đây là bước ngoặt quan trọng và tích cực đối với tư tưởng của các nhà đầu tư.
- ASEAN là một mái trường đào tạo và rèn luyện cho Campuchia trong việc hội nhập hợp tác kinh tế toàn cầu như WTO…, bởi vì các nguyên tắc trong ASEAN về hàng hoá trong (AFTA) và các dịch vụ khác cũng chẳng khác gì các nguyên tắc của WTO trong việc thực hiện hợp tác kinh tế. Cũng từ đó, thông qua các cuộc họp với các nước cùng khối, ASEAN đã ban cho Campuchia kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp và đàm phán trong thương mại. Điều đó đã dạy cho Campuchia cách xử lý các vấn đề với các nước trong và ngoài khối
- Với mức thuế nhập khẩu thấp, các hàng hoá nhập khẩu vào Campuchia sẽ có giá thấp và nhiều chủng loại, do đó người tiêu dùng trong nước có thể lựa chọn mặt hàng sản phẩm đáp ứng được chất lượng và dịch vụ với giá cả hợp lý.
- Là thành viên của ASEAN đã tạo cơ hội cho Campuchia quảng bá hình ảnh của đất nước và thể hiện vai trò của mình trong khu vực và quốc tế, đồng thời giúp Campuchia củng cố vài trò của mình trong nền kinh tế khu vực và thế giới trong đàm phán với các tổ chức và các nước lớn trên thế giới.
4.3.4 Những bất lợi do ASEAN đem lại ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Bên cạnh những lợi ích mà Campuchia đã thu được, thì Campuchia cũng đang phải đối mặt với một số bất lợi nảy sinh sau khi hội nhập ASEAN như sau:
- Campuchia sẽ mất một khoản thu nhập nhà nước từ việc giảm thuế nhập khẩu. Là thành viên của ASEAN đòi hỏi Campuchia phải tham gia trong hợp tác kinh tế ASEAN như Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA -ASEAN Free Trade Area), chương trình Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AIOC – ASEAN Industrial Cooperation) v.v… Trong đó qua việc tham gia AFTA, Campuchia phải giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0% đến 5% trong mười năm bắt đầu từ 1/1/2000 và kết thúc vào 1/1/2010. Năm 2015 Campuchia sẽ loại bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước ASEAN, điều đó sẽ làm cho Campuchia mất nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước.
- Campuchia sẽ phải đóng góp cho quỹ của ASEAN và chi trả cho các hoạt động hành chính của ASEAN trong việc tham gia và đăng cai các cuộc họp.
- Campuchia phải cải cách hệ thống luật pháp cho phù hợp với hệ thống luật pháp của các nước ASEAN nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động thương mại và đầu tư ở Đồng thời Campuchia cũng phải cải cách cơ cấu tổ chức để làm việc hiệu quả hơn với các nước ASEAN. Từ khi chuẩn bị gia nhập ASEAN Campuchia đã thành lập cơ quan ASEAN và các nhóm làm việc trong nhiều cơ quan để đáp ứng các hoạt động của ASEAN. Campuchia cũng đã lựa chọn các công chức cấp cao của chính phủ chịu trách các hoạt động của ASEAN.
- Vấn đề nguồn nhân lực. Campuchia thiếu nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của ASEAN, đặc biệt những công chức có chuyên môn tốt và có năng lực trong ngành kinh tế, thương mại và tiếng
- Vấn đề tiêu chuẩn quốc tế. Nhằm xuất khẩu những hàng hoá và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, Campuchia cần phải sản xuất hàng hoá đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Hơn nữa, để đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế, Campuchia cần phải có cơ quan kiểm tra và kiểm dịch hàng hoá trước khi xuất khẩu. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
III/ Các phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia và những kiến nghị
1. Các phương hướng nhằm phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia
Thứ nhất, cải cách cơ cấu tổ chức và hành chính liên quan đến các ngành và lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực đầu tư.
Thứ hai, xây dựng hệ thống luật đầu tư minh bạch, kiên định và dễ tiên đoán nhằm tạo môi trường đầu tư lành mạnh và bình đẳng, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài về mọi mặt.
Thứ ba, tích cực hơn nữa việc minh bạch hoá và truyền bá luật lao động.
Thứ tư, cải cách cơ sở hạ tầng kịp thời và nhanh chóng nhằm đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ năm, trong sạch hoá hệ thống thuế, tiền tệ, tỉ giá hối đoái và phương sách tài chính nhằm ổn định thị trường trong nước, tăng sức thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ sáu, ngân hàng nhà nước cần phải tìm cách để đáp ứng vốn cho các nhà đầu tư trong nước hiện đang rất cần như các doanh nghiệp vừa và nhỏ và hạn chế dòng vốn ra nước ngoài để đảm bảo lượng cung ứng vốn trong nước.
Thứ bảy, tiếp tục quảng bá hình ảnh về đất nước, về con người Campuchia đặc biệt về văn hoá, du lịch, lối sống v.v…
2/ Kiến nghị ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Đề nghị Chính phủ thực hiện nghiêm túc luật pháp và đẩy mạnh tốc độ cải cách cơ cấu tổ chức nhân viên chức, quân đội, an ninh và hệ thống toà án nhằm xoá bỏ và chống lại nạn hối lộ.
Đề nghị Chính phủ thực hiện việc cải cách kịp thời.
Đề nghị Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh chính sách xoá đói giảm nghèo. Đề nghị Chính phủ thực hiện việc giải ngũ đúng theo kế hoạch.
Đề nghị Chính phủ xem xét lại về việc tiêu thụ ngân sách nhà nước và sử dụng một cách có hiệu quả.
Đề nghị Chính phủ xem xét lại việc thực hiện chính sách thuế quan áp dụng trên mọi mặt hàng đặc biệt mặt hàng xăng dầu tránh sự thất thoát của ngân sách nhà nước.
Đề nghị chính phủ nâng lương cho công nhân viên chức với mức lương phù hợp.
Kết luận ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Campuchia trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào ngày 30/4/1999 và trở thành thành viên thứ 148 của WTO vào ngày 13/10/2004. Đây là sự kiện trọng đại đối với người dân Campuchia và là những bước ngoặt rất quan trọng đối với nền kinh tế Campuchia. Với tư cách là một nước đang phát triển, việc gia nhập ASEAN và WTO đã đem lại không chỉ những kinh nghiệm trong đàm phán mà còn rất nhiều lợi ích khác về mặt kinh tế cho Campuchia. Tuy nhiên để đạt được lợi ích đó bản thân nền kinh tế Campuchia cũng phải có sự chuyển đổi lớn lao, từng bước hoàn thiện, phù hợp với các quy định của ASEAN và WTO nói riêng và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nói chung. Bên cạnh đó, Campuchia cũng đang phải đối mặt với rất nhiều thử thách do tác động tiêu cực của quá trình hội nhập, điều đó cần phải có sự cố gắng tích cực của chính phủ và sự đóng góp của các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các vấn đề nảy sinh.
Kinh tế đối ngoại đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của Campuchia, đặc biệt là lĩnh vực thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Những ngành này đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế Campuchia.
Vì vậy, với vai trò quan trọng của Kinh tế đối ngoại, cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay, Kinh tế đối ngoại cần phải có sự khuyến khích, thúc đẩy và đóng góp một cách tích cực từ phía các cơ quan chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước. ( Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia )
Mời bạn tham khảo thêm:
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Campuchia […]