Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Rate this post

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam, các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé. 

1. Ý nghĩa

1.1. Về xác định mục tiêu của cải cách ruộng đất

Nhìn chung, công cuộc cải cách ruộng đất  ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi đã cơ bản chuyển quyền sở hữu của địa chủ về tay nông dân, thực hiện được mục tiêu “dân cày có ruộng”. Quá trình tiến hành cải cách khá triệt để, công bằng;  thành công theo mục tiêu chính trị của các nước chủ nghĩa xã hội . Tuy nhiên: Có phạm một số sai lầm trong phân định thành phần, còn tiến hành rập khuôn, cứng nhắc (TQ, VN).

Trong thời gian đầu đã xác định và thừa nhận vấn đề sở hữu tư nhân về đất đai, (được giao cho nông dân) Về diện tích đất canh tác và vấn đề sở hữu đất đai: ở Ba Lan thực hiện khá tốt và triệt để nhưng cũng sớm chuyển đổi nền kinh tế , gia nhập EU (2004).  Ở Bugari tiến hành cải cách ruộng đất  từng bước, linh hoạt, mang lại hiệu quả cho  sản xuất  nông nghiệp, gia nhập EU (2007);  Ở Nga, quản lý còn lỏng lẻo dẫn đến đầu cơ đất đai.

 Để thành công trong chuyển đổi  sản xuất nông nghiệp, cần chính sách cải cách hoàn chỉnh, đồng bộ. Thời gian đầu, vấn đề tư hữu hóa đất đai chưa trở thành chủ trương chính thức lâu dài. Bởi, mục tiêu của nhà nước cách mạng là “đem lại đất đai cho dân cày”, xóa bỏ chế độ tư hữu đất đai của chế độ cũ. Vì vậy, quan hệ đất đai được hiểu như là vấn đề có tính sách lược trong tình hình cách mạng trước mắt. Mục tiêu nhân dân có quyền sử dụng đất là cao nhất.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Giá Viết Thuê Tiểu Luận Môn Học

1.2. Về xây dựng thể chế của cải cách ruộng đất Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Cần rà soát để kịp thời xoá bỏ, sửa đổi và ban hành hệ thống luật pháp một cách đồng bộ, hài hòa với thông lệ quốc tế (Bugari, Hunggari,… Nông nghiệp Nga đứng vững và vươn lên trong điều kiện cấm vận của Mỹ và phương Tây). Cần tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật đã có để xóa bỏ hoặc sửa đổi những văn bản luật pháp không còn phù hợp và ban hành bổ sung những đạo luật còn thiếu theo hướng phù hợp với thông lệ chung của thế giới. Điều này càng trở nên cấp bách khi các nước chuyển sang nền kinh tế  thị trường; phát huy được hết nội lực của nền kinh tế  và bản thân các  doanh nghiệp. khi đó, các  doanh nghiệp các tổ chức kinh tế mới có điều kiện chủ động tham gia hội nhập kinh tế  quốc tế một cách hiệu quả.

1.3. Chú trọng phát triển khoa học&công nghệ, chuyển dịch cơ cấu  sản xuất nông nghiệp

Với kinh nghiệm về lai tạo ứng dụng công nghệ cao và chính sách giao quyền sở hữu đất cho nông dân và  doanh nghiệp. Vì vậy đã thúc đẩy nghiên cứu KH&CN trong nông nghiệp, tạo ra nhiều lạo giống lúa mới[1], hoa quả có năng suất, chất lượng cao hơn, tiết kiệm chi phí, thời gian  sản xuất, cũng như rút ngắn quá trình  sản xuất  trong nông nghiệp. Tạo điều kiện  khai thông thị trường đất trong nông nghiệp … để thúc đẩy quá trình tập trung đất đai trong  sản xuất nông nghiệp  nhờ đó đã hình thành nhiều nông trại và  doanh nghiệp  sản xuất  nông nghiệp  hiện đại, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, quy mô  sản xuất  lớn, tiết kiệm diện tích canh tác trong nông nghiệp .

1.4. Về hình thành và phát triển những chủ thể và hình thức kinh doanh mới trong nông nghiệp Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống: chủ yếu là hợp tác xã nông nghiệp, nông lâm trường chiếm ưu thế, một phần nhỏ là kinh tế  hộ gia đình. Chuyển sang nền kinh tế chuyển đổi, có các hình thức kinh doanh nông nghiệp sau:  Doanh nghiệp nông nghiệp; hợp tác xã  nông nghiệp; Nông – lâm trường quốc doanh hoạt động kinh doanh có xu hướng giảm số lượng, do quy mô lớn, quản lý, đầu tư vốn, công nghệ chưa tưng xứng…Kinh tế  hộ gia đình và nông trại,  doanh nghiệp tư nhân,  doanh nghiệp nước ngoài… thích ứng linh hoạt, hiệu quả, có xu hướng tăng số lượng.

1.5. Về chính sách hỗ trợ  sản xuất nông nghiệp của nhà nước trong quá trình chuyển đổi

Vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng

Trước quá trình chuyển đổi nền kinh tế :

Trước quá trình chuyển đổi nền kinh tế  là sự tồn tại phổ biến và tuyệt đối của chế độ công hữu nên chỉ có  doanh nghiệp nông nghiệp và tập thể.

Hoạt động của các chủ thể  doanh nghiệp này thường thụ động theo kế hoạch của Nhà nước (thông thường là các kế hoạch phát triển kinh tế  – xã hội 5 năm xác định nhiệm vụ cho từng đơn vị kinh doanh.

Trong nền kinh tế chuyển đổi cần thực hiện cải cách  doanh nghiệp theo hướng thị trường

Khuyến khích mô hình kinh doanh tư nhân quy mô nhỏ, chi phí quản lý kinh doanh thấp, linh hoạt và hiệu quả hơn quy mô lớn.

Khuyến khích cho  doanh nghiệp thuê tài sản của Nhà nước và thúc đẩy cổ phần hóa  doanh nghiệp nông nghiệp  trở thành  doanh nghiệp cổ phần hoặc cho bán và chuyển một phần những  doanh nghiệp không quan trọng đối với vấn đề an ninh quốc gia sang  doanh nghiệp tư nhân. Hình thành các hợp tác xã  tiêu thụ làm trung gian cho  doanh nghiệp nông nghiệp  và người tiêu dùng.  Vào những năm 1990, ở LB Nga đã có sự thay đổi cơ cấu bộ máy nhà nước theo hướng thị trường. 1990, Nhà nước thông qua Luật tư nhân hóa miễn phí Vaucher (séc – giấy tờ có giá trị thanh toán của Chính phủ) và tài chính tiền tệ đã hình thành các công ty cổ phần, hợp tác xã , tổ hợp tác, kinh tế  hộ gia đình, kinh tế  trang trại, nông trang. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi ở Nga vẫn duy trì một số  doanh nghiệp nông nghiệp  ở cấp TW và địa phương.  2005, ở Nga vẫn còn 9700  doanh nghiệp thuộc sở hữu liên bang và 4000  doanh nghiệp nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, lãnh đạo chỉ định theo cơ chế bổ nhiệm. kết quả: hoạt động của các  doanh nghiệp nông nghiệp  ở cấp TW và địa phương đạt hiệu quả thấp (chỉ có 29%  doanh nghiệp nông nghiệp  hoạt động hiệu quả). Nhìn chung: Quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế  cũ (KHH tập trung) sang mô hình kinh tế  mới (thị trường): Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Đã hình thành cơ cấu  doanh nghiệp trên cơ sở các hình thức sở hữu đa dạng;

Thời gian đầu, Nhà nước giữ độc quyền trong các ngành năng lượng, ngân hàng, hàng không, cung cấp nước, y tế, thể thao, giáo dục để giữ giá DV thấp…Nhà nước vẫn đảm bảo mức giá DV tối thiểu cho các tầng lớp dân cư có thu nhập sau đó dần dần chuyển sang hoạt động trong môi trường có sự cạnh tranh. Từng bước tư nhân hóa các lĩnh vực nhà ở, y tế, giáo dục… Song, Nhà nước vẫn đảm bảo mức giá DV tối thiểu cho các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, sau khoảng thời gian dần dần  doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các lĩnh vực trên và chiếm ưu thế. Mặt khác, quan hệ giữa các  doanh nghiệp thay đổi theo hướng thị trường, cạnh tranh với sự tham gia của các  doanh nghiệp nước ngoài.  Quá trình chuyển đổi kinh tế  đã khắc phục sự mất cân đối về công nghệ thông qua các biện pháp phá sản  doanh nghiệp.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nền kinh tế chuyển đổi, chúng ta thấy rằng Việt Nam cần đa dạng các hình thức sở hữu thích hợp, nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trong phát triển nông nghiệp.

Cải cách hệ thống thuế và hải quan

 Chính phủ nên ưu tiên cải cách khu vực này một cách nhanh nhất nhằm tạo ra sự thông thoáng cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động. Hơn nữa, từ việc minh bạch hoá và lành mạnh hoá trong khu vực này cũng tạo ra sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở Việt Nam.

Phát triển đồng bộ giao thông, dịch vụ viễn thông và các DV bổ trợ

Nền kinh tế  chỉ có thể vận hành thông suốt khi các khu vực đều hoạt động tốt. Chính phủ nên chú trọng đến phát triển đồng bộ hệ thống giao thông, DV viễn thông và các dịch vụ bổ trợ với tốc độ cao, đi trước một bước so với nhu cầu của nền kinh tế  khoảng 5 đến 10 năm, tránh tình trạng chưa đầu tư đã lạc hậu hoặc các DV này phát triển chậm hơn sự phát triển chung của toàn nền kinh tế . Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Đảm bảo sự ổn định vĩ mô trên lĩnh vực tài chính – tiền tệ

Nhà nước cần coi trọng việc kiểm soát, quản lý và sử dụng tài chính – tiền tệ như một công cụ vĩ mô hữu hiệu để tác động đến nền kinh tế . Nghĩa là vừa phải quản lý lĩnh vực tài chính – tiền tệ nhằm đảm bảo sự ổn định vĩ mô lĩnh vực này, nhưng vừa phải biết sử dụng nó như một công cụ mạnh mẽ tạo động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế  phát triển

Xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt kế cận có năng lực tư duy mới

Qua nghiên cứu kinh nghiệm chúng ta thấy rằng cần coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận có trình độ cao. Trung Quốc quy hoạch và đào tạo cán bộ và chính khách cho 20 năm và lâu hơn, những người này được hoạch định một cách công khai và được sử dụng phù hợp với tài năng và trình độ của họ.

Vì vậy, TQ luôn có một đội ngũ chính khách có tài năng và kinh nghiệm lãnh đạo trong mọi điều kiện và hoàn cảnh của đất nước.

2. Định hướng vận dụng cho Việt Nam khi nghiên cứu quan hệ sản xuất nông nghiệp trong các nền kinh tế chuyển đổi. Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Quan hệ sản xuất nông nghiệp lịch sử khi bắt đầu đổi mới, lúc đó 3 Chương trình kinh tế lớn được đặt ra bao gồm Chương trình lương thực, Chương trình hàng hóa tiêu dùng và Chương trình hàng hóa xuất khẩu. Đối với Chương trình lương thực, chẳng cần đến một đồng nào bỏ ra để thực hiện tái cấu trúc mà chỉ cần “cởi bỏ rào cản” về chính sách đất nông nghiệp là đã đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành một nước trong nhóm 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đó là việc thay thế mô hình sản xuất nông nghiệp dựa trên quan hệ sản xuất hợp tác xã bằng mô hình dựa trên quan hệ sản xuất hộ gia đình, đất đai nông nghiệp của các hợp tác xã nông nghiệp được giao cho hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài. Rào cản về tính ưu việt hơn của quan hệ sản xuất hợp tác xã đã được vượt qua.

Thực tế của giai đoạn trước 1986, ở phần lớn các địa phương, sản lượng do người nông dân tự cấy trồng trên đất 5% được hợp tác xã giao còn cao hơn tổng sản lượng hợp tác xã làm chung trên 95% đất do hợp tác xã nắm giữ. Tình cảnh đó chính là cơ sở để đưa ra quyết định muốn tăng sản lượng thì cứ giao tất cả đất sản xuất cho hộ gia đình cấy trồng. Chân lý nói chung rất giản dị, nó hiển hiện ngay trong cuộc sống hàng ngày, chỉ có điều người quản lý phải nhận thức đúng được thực chất mới có thể đưa ra các chính sách phù hợp. Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Thành công của đổi mới chính sách đất nông nghiệp như vậy đã đi tới kết luận rằng quan hệ sản xuất hợp tác xã bậc cao trên quy mô toàn xã là không phù hợp tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hiện tại, nhất là sau chiến tranh giải phóng hoàn toàn đất nước. Kết luận như vậy là đúng nhưng chưa đủ chi tiết. Bản thân mô hình quan hệ sản xuất hợp tác xã không hề có lỗi, mô hình này đã đưa Việt Nam lên đỉnh cao về kinh tế nông nghiệp tại khu vực Đông Nam Á vào năm 1961. Nguyên nhân cốt lõi ở đây phải chăng là trình độ quản lý trong quan hệ sản xuất hợp tác xã chưa phù hợp với yêu cầu phòng chống tham nhũng tài sản công – Một vấn đề đang diễn ra nghiêm trọng trong đời sống kinh tế xã hội nước ta hiện nay?

Đối với kinh tế nông nghiệp hiện nay nông nghiệp đang chịu áp lực từ 2 phía: thứ nhất là áp lực từ manh mún đất đai, sản xuất nhỏ, thiếu chuyên nghiệp, năng suất thấp, chất lượng thấp, không tạo được giá trị gia tăng trên nông sản và người nông dân vẫn rất cô đơn trên mảnh đất của mình; thứ hai là áp lực từ tình trạng biến đổi khí hậu đang gây nên những bất thường trong sản xuất như bão lụt, hạn hán, chế độ mưa bất thường, thiếu nước canh tác, v.v. Trong nhiều giải pháp tái cấu trúc kinh tế nông nghiệp  đưa ra, một số giải pháp đã tập trung kiến nghị vào đổi mới chính sách đất đai nông nghiệp hướng tới nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tạo năng suất cao trên cơ sở áp dụng nông nghiệp công nghệ cao và mô hình quan hệ sản xuất nào là phù hợp cho người nông dân hiện tại như hợp tác xã, hay liên kết nông dân – doanh nghiệp, hay tích tụ đất đai theo cơ chế thị trường. Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Để có một quyết sách mới cho phát triển nông nghiệp, kể cả đưa ra chính sách đất đai phù hợp, chính sách tạo lập quan hệ sản xuất mới, điều cần quan tâm đầu tiên là chính sách nào sẽ tạo nên động lực cho phát triển. Một chính sách tạo được động lực phải dựa trên nguyên tắc chia sẻ lợi ích từ phát triển. Chia sẻ lợi ích được hiểu bao gồm lợi ích của đất nước (tức là của toàn dân), lợi ích của cộng đồng dân cư địa phương và lợi ích của các bên tham gia vào quá trình sản xuất. Ví dụ như trong mô hình quan hệ sản xuất liên kết nông dân – doanh nghiệp, người nông dân luôn quan tâm tới họ bỏ ra chi phí bao nhiêu và được hưởng lợi bao nhiêu, có công bằng không với chi phí bỏ ra của doanh nghiệp và lợi ích doanh nghiệp được hưởng. Và tất nhiên, tổ chức, triển khai, thực hiện các chính sách ấy phải gắn chặt với công tác quản lý, phòng chống tham nhũng hiệu quả. Như vậy, vấn đề chủ yếu của tái cấu trúc kinh tế nông nghiệp là đưa ra được các chính sách đất đai đổi mới để sao cho tạo được động lực cho phát triển kinh tế nông nghiệp, động lực phải được hình thành trên cơ chế chia sẻ lợi ích phù hợp mà trong đó lợi ích của người nông dân (bên yếu thế) phải được bảo đảm. Từ động lực đó, có thể đưa ra các cơ chế cụ thể để tăng năng suất, sản lượng, chất lượng nông sản với giá trị gia tăng cao.

Có thể thấy động lực sẽ được chính sách đất đai nông nghiệp tạo ra vì đó là chính sách quyết định tới tư liệu sản xuất chính của nông nghiệp. Động lực từ chính sách giao đất nông nghiệp của hợp tác xã cho hộ gia đình đã góp phần tạo nên thành công của đổi mới. Nhưng có thể nói, chính sách này cũng được bổ sung, “làm mới” cho phù hợp với tình hình mới. Bởi vì, hiện nay, người nông dân không thể tự mình làm tăng chất lượng nông sản, làm tăng năng suất và sản lượng trên những thửa đất manh mún của mình. Tiếp cận vốn đầu tư lớn là khó. Hơn nữa, đất sản xuất vẫn còn đang bị giới hạn về thời hạn sử dụng (50 năm) và diện tích sử dụng (hạn điền không quá 10 lần hạn mức giao đất), nên người nông dân vẫn chưa hình thành được tư duy của một nông dân chuyên nghiệp. Nhiều người suy nghĩ và tính kế làm ăn chỉ mang tính thời vụ trước mắt. Họ cho rằng, dù có tích tụ đất đai nhiều hơn, đầu tư hạ tầng nhiều hơn, áp dụng công nghệ nhiều hơn cũng không chắc chắn được rằng có bị Nhà nước thu mất đất trong tương lai khi hết thời hạn sử dụng. Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Để trở thành một nền nông nghiệp sản xuất lớn, cần tạo ra động lực mới cho phát triển. Động lực mới này tiếp tục nằm tại chính sách đất đai nông nghiệp sao cho tập trung, tích tụ được đất đai lâu dài thành những cánh đồng quy mô lớn. Từ đó, chính sách tiếp cận vốn đầu tư để phát triển hạ tầng hiện đại, áp dụng được các thiết bị hiện đại và áp dụng công nghệ cao sẽ từng bước giúp người nông dân xây dựng được nền kinh tế nông nghiệp hiện đại, sản xuất lớn.

Đối với chính sách đất đai nông nghiệp, hiện còn 2 rào cản lớn cần xem xét để vượt qua, đó là thời hạn sử dụng đất nông nghiệp 50 năm và hạn điền không quá 10 lần hạn mức giao đất của Nhà nước. Xóa bỏ được 2 rào cản này sẽ làm cho giá đất nông nghiệp cao hơn so với khi bị những giới hạn đó. Giá đất nông nghiệp cao hơn có nghĩa là tài sản của nông dân có giá trị cao hơn và tài sản đất đai quốc gia cũng lớn hơn, khả năng vốn hóa đất nông nghiệp sẽ hiệu quả hơn cho đầu tư phát triển.Bên cạnh đó, người nông dân muốn làm nông nghiệp cũng không e ngại bị Nhà nước thu lại đất khi hết thời hạn, tập trung đất đai cũng dễ dàng hơn, yên tâm đầu tư lớn cho dài hạn. hạn điền đang kìm hãm quá trình tích tụ đất đai quy mô lớn. Chính sách hạn điền bắt nguồn từ nguyên do không muốn “tầng lớp địa chủ mới” xuất hiện, chỉ có đất để phát canh thu tô. Để không hình thành “địa chủ mới”, chúng ta có nhiều chính sách khác như đánh thuế chẳng hạn, hay giám sát sử dụng, không nhất thiết phải sử dụng tới chính sách hạn điền. Chính sách hạn điền kìm hãm được việc hình thành “địa chủ mới”, nhưng cũng kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp. Nên chăng, có thể nghiên cứu chính sách cần cho phép đất sản xuất nông nghiệp, đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối được sử dụng thời hạn lâu hơn hoặc vô thời hạn như đất ở. Bên cạnh đó, cần đánh thuế cao đối với đất nông nghiệp không đưa vào sử dụng, để hoang hóa. Có thể số thu được không nhiều, nhưng chính sách thuế luôn có mục đích khuyến khích đầu tư phát triển. Bên cạnh 2 chính sách nói trên, cần tiếp tục thực hiện thật tốt việc rà soát đất đai đang do các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp của Nhà nước đang sử dụng không hiệu quả, trái pháp luật như Nghị quyết số 30-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đã ban hành. Các doanh nghiệp này đang nắm giữ một diện tích đất nông nghiệp tới mức 2,6 triệu ha trên cả nước mà nhiều nơi sử dụng không hiệu quả, nhiều trường hợp sử dụng trái pháp luật, giao khoán đất có biểu hiện phát canh thu tô, trong khi đó nông dân địa phương đang thiếu đất sản xuất, tranh chấp đất đai xảy ra ở không ít nơi. Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Chính sách đất đai nông nghiệp “giao đất của các hợp tác xã cho hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài” trong giai đoạn bắt đầu đổi mới đã tạo động lực phát triển từ giải phóng sức sản xuất của người nông dân. Khi động lực này đã cạn kiệt, động lực tiếp theo cần xem xét là giải phóng tư liệu sản xuất (đất đai) cho người nông dân để từ đó người nông dân tìm ra những quan hệ sản xuất phù hợp nhằm phát huy động lực mới. Quan hệ sản xuất này hướng tới một nền sản xuất nông nghiệp quy mô lớn luôn cần tới một điều kiện cần là đất đai không manh mún, diện tích đất sản xuất phải đủ rộng để áp dụng được quá trình cơ giới hóa, đầu tư hạ tầng hiệu quả và áp dụng công nghệ cao. Chính sách Nhà nước thu hồi đất của ta được coi như rất tiến bộ so với nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á cũng như thế giới. Kể từ Luật Đất đai 2003, Nhà nước không cho phép thu hồi đất của nông dân để giao cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án phát triển nông nghiệp. Đây là chính sách bảo hộ rất tốt cho nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Doanh nghiệp không thể vận dụng cơ chế hành chính để lấy đất của nông dân, chỉ còn có cách hợp tác với nông dân để tiếp cận đất đai và tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Nói cách khác, từ mặt bằng đất đai rất manh mún sau khi Nhà nước thực hiện giao đất của hợp tác xã cho hộ gia đình nông dân, Nhà nước cần hình thành các chính sách phù hợp để tập hợp đất đai thành các cánh đồng rộng lớn.

Trong các nghiên cứu ở nước ta, các nhà khoa học và quản lý đã phân biệt quá trình tập hợp này thành 2 trường hợp: thứ nhất là tập hợp được đất đai nhưng không làm thay đổi chủ sử dụng đất, được gọi là “tập trung đất đai”, dựa chủ yếu vào các quyền chuyển đổi, cho thuê, góp vốn hoặc hợp tác sản xuất; thứ hai là tập hợp được đất đai nhưng làm thay đổi chủ sử dụng đất, được gọi là “tích tụ đất đai”, dựa chủ yếu vào quyền chuyển nhượng. Quá trình “tập trung” hay “tích tụ” đất đai có liên quan tới việc tạo lập các quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp. Từ những thử nghiệm thực tế tại nhiều địa phương như Lâm Đồng, Hà Nam, An Giang, Thanh Hóa, Sơn La, v.v. có thể đưa ra một số kết luận bước đầu về mô hình quan hệ sản xuất nào là phù hợp.

2.1 Mô hình dồn điền, đổi thửa Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Sau khi giao đất của hợp tác xã nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân trên nguyên tắc bảo đảm công bằng “có tốt – có xấu, có gần – có xa, có cao – có thấp” đã gây ra tình trạng quá manh mún đất đai. Mỗi hộ gia đình có rất nhiều thửa đất nhỏ, mỗi thửa chỉ vài chục mét vuông. Ngay từ khi Luật Đất đai 1993 có hiệu lực thi hành, nhiều địa phương đã thực hiện quá trình người nông dân thương thảo để đổi đất cho nhau để mỗi hộ có chỉ hai hay ba thửa đất lớn. Quá trình này được gọi là “dồn điền, đổi thửa” để khắc phục một bước tình trạng manh mún đất đai, thuộc phạm vi tập trung đất đai, không ai bị mất đất, tạo hiệu quả canh tác cao hơn đối với từng hộ nông dân. Nói chung, mô hình “dồn điền, đổi thửa” thành công ở nhiều nơi nhưng cũng có thất bại xẩy ra khi cán bộ lợi dụng để lấy những thửa đất tốt và dồn đất xấu cho dân. Mô hình “dồn điền, đổi thửa” lại được áp dụng mạnh mẽ trong mấy năm qua khi triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới với phạm vi rộng hơn sắp xếp lại quỹ đất sao cho phù hợp với quy hoạch. Tất nhiên, khả năng tạo cánh đồng lớn “dồn điền, đổi thửa” là không cao vì sau dồn đổi cũng không vượt quá được tổng diện tích đất được giao. Mô hình này chỉ có thể được coi là sự khởi đầu của quá trình “tập trung đất đai”.

2.2 Mô hình trang trại hộ gia đình, nhóm hộ gia đình, doanh nghiệp hộ gia đình

Theo quy luật chung trên thế giới, mô hình trang trại quy mô lớn của hộ gia đình, nhóm hộ gia đình hay doanh nghiệp hộ gia đình được coi như cách thức phù hợp để phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Cách thức mở rộng đất đất đai dựa trên cả cơ chế “tập trung” và “tích tụ”. Một nhóm hộ có thể góp đất đai là trang trại chung, họ có thể tiếp tục thuê đất hoặc nhận góp vốn bằng đất của các hộ khác không có nhu cầu làm nông nghiệp, hoặc nhận chuyển nhượng của những hộ hoàn toàn muốn rời bỏ nông nghiệp. Các hộ này có thể thành lập doanh nghiệp hoặc không thành lập doanh nghiệp tùy theo hướng phát triển của trang trại. Mô hình trang trại như vậy đã được hình thành và vận hành ở khá nhiều địa phương do nhiều nông dân có trình độ khởi xướng. Đây là mô hình phát triển mang tính tự nhiên, nhưng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực của những nông dân tiên tiến, thực sự muốn đi lên, làm giầu từ nông nghiệp. Các trang trại lớn đang được hình thành và phát triển mạnh trên cơ sở áp dụng nông nghiệp công nghệ cao tại Lâm Đồng, An Giang, Đồng Tháp, Hà Tĩnh, v.v.

2.3 Mô hình hợp tác xã kiểu mới Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Sự thực, người nông dân cũng có những định kiến nhất định về mô hình hợp tác xã trong thời kỳ kinh tế bao cấp, không tin cậy khi mà rủi ro tham nhũng có thể xẩy ra mà các xã viên không thể kiểm soát được. Trong thời gian qua, một số mô hình hợp tác xã kiểu mới đã được hình thành. Hợp tác xã chỉ giúp các hộ xã viên những khâu dịch vụ như cung cấp cây, con giống; tìm kiếm quy trình sản xuất hiện đại; hay tập trung tiếp cận thị trường để bao tiêu sản phẩm. Các hộ gia đình vẫn tự canh tác trên đất đai của mình theo một quy trình sản xuất được hợp tác xã hướng dẫn.

Mô hình các hợp tác xã kiểu mới như vậy đã được thành lập và vận hành ở Sơn La, Đà Lạt (Lâm Đồng) và cũng đã mang lại một số kết quả tốt. Mặc dù vậy, trên thực tế cho thấy mô hình này chưa có sức hút lớn đối với các hộ nông dân, chưa thể khẳng định được vai trò chủ đạo trong phát triển nông nghiệp quy mô lớn dựa trên công nghệ cao, hạ tầng hiện đại.

2.4 Mô hình liên kết giữa doanh nghiệp nông nghiệp chuyên nghiệp và các hộ nông dân

Đây là mô hình được bàn đến và khuyến khích thử nghiệm trong vài năm qua mang tên “cánh đồng mẫu lớn” hay “cánh đồng lớn”. Thử nghiệm đầu tiên được thực hiện tại An Giang với sự tham gia của Công ty Bảo vệ thực vật An Giang. Đồng thời, tại Lâm Đồng, doanh nghiệp nông nghiệp tư nhân Phong Thúy cũng đã có mô hình hợp tác sản xuất với các hộ nông dân sản xuất rau và hoa mang lại hiệu quả rất cao. Vài năm qua, mô hình góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào Tập đoàn Cao su để phát triển cao su tại Sơn La dưới sự lãnh đạo của UBND tỉnh cũng là một mô hình đang được vận hành. Tại Hà Nam, một mô hình UBND cấp huyện thuê lại đất của nông dân để cho doanh nghiệp nông nghiệp tư nhân thuê lại để phát triển nông nghiệp công nghệ cao cũng đang được phát triển. Theo đánh giá chung, hợp tác giữa doanh nghiệp và cộng đồng nông dân là mối quan hệ sản xuất có triển vọng nhất dựa trên nguyên tắc nông dân có đất, doanh nghiệp có tài chính và công nghệ để nâng năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản./.

KẾT LUẬN Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Trong nhiều quốc gia thực hiện nền kinh tế chuyển đổi trong nông nghiệp, khi nông nghiệp tăng trưởng chậm lại, giá nông sản tăng lên, làm ảnh hưởng đến mức lương thực tế trên thị trường lao động của đô thị và công nghiệp, chính phủ các nước phải quay lại điều chỉnh chính sách với nông nghiệp, nhằm phát triển nông nghiệp bền vững.  Trên cơ sở đó, Việt Nam với một nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu và cũng là một trong những lợi thế so sánh của nước ta đối với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế. Để trở một nước có nền sản xuất nông nghiệp quy mô lớn luôn cần tới một điều kiện cần là đất đai không manh mún, diện tích đất sản xuất phải đủ rộng để áp dụng được quá trình cơ giới hóa, đầu tư hạ tầng hiệu quả và áp dụng công nghệ cao. Với kinh nghiệm từ những nước có nền kinh tế chuyển đổi và quá trình đổi mới kinh tế  nông nghiệp ở Việt Nam cho thấy rằng cần phải có những cơ chế chính sách phù hợp tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp thì mới giải phóng được sức sản xuất nông nghiệp của nước ta. Tiểu Luận: Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993