Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. CÁC THÀNH TỐ VÀ CÁC GIÁ TRỊ PHI VẬT THỂ
2.1.1. Khu di tích đình, đền, am, giếng, chùa tại làng Cổ Loa
2.1.1.1. Đền An Dương Vương (đền Thượng)
Đền An Dương Vương còn gọi là Đền Thượng, Đền Vua Thục hay “Tiên Từ Đệ nhất” (được khắc ở cả hai cổng nghi môn ngoài và trong, nhằm tôn vinh, ca ngợi và cũng như dấu hiệu phân biệt nơi này là “Bậc nhất” so với những di tích khác thờ An Dương Vương (như ở Đền Cuông ở Nghệ An…).
Đền được xây dựng năm Chính Hòa thứ tám đời Vua Lê Hi Tông (năm 1687), tọa lạc trên một quả đồi xưa có cung thất của vua. Tất cả các công trình ở đây đều được đặt trên một trục đường gọi là “Linh đạo”, được lát bằng đá xanh chạy suốt từ ngoài vào trong, qua cửa chính của hai nghi môn là tới đền Thượng. Nghi môn ở ngoài là công trình kiến trúc thời Nguyễn (nửa cuối thế kỷ XIX).
Cổng đền xây dựng kiểu có ba cửa cuốn vòm, tường hoa lan can bao quanh; phía trước là hồ nước. [7, tr.13].
Khu vực chính của đền hiện gồm ba tòa nhà, được xây dựng theo cấu trúc chữ “Tam”, chữ “Đinh”, chữ “Công” và chữ “Vương”, trên một khu đất rộng 4.990m2. Cửa đền có hai con rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, mang nghệ thuật điêu khắc thời Lê rất tinh sảo. Việc xây dựng khu đền Thượng này, cũng dựa trên những quan niệm về tín ngưỡng cổ truyền và thuyết phong thủy cho rằng nơi xây đền phải là nơi “Tụ thủy, tụ Phúc, tụ Linh”, đạt được sự cân bằng về âm dương.
Theo văn bia còn dựng ở trong nhà bia và trước cửa đền thì đền hiện nay được dựng vào giữa thế kỷ XVII. Ngay ở đầu cổng tam quan có bốn chữ “Tiên từ đệ nhất” và qua tấm bia “Tạo lập thạch bia” dựng năm Vĩnh Thịnh thứ sáu (1710) đã khẳng định đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa (Chính pháp điện) là đền thứ nhất trong bốn đền thờ Tiên ở nước ta, đã được xây dựng từ rất lâu. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Hiện nay, ở trước cửa đền còn có treo một số câu đối:
- “Đế đô khai thác loa thành cổ
- Thánh trạch uổng dương hoàng thủy trường”.
Tạm dịch:
- “ Khai mở nghiệp vua loa thành cổ
- Dạt dào ơn thánh nước trời cao”.
- (Mùa xuân năm Giáp Ngọ- Thành Thái 1894)
Trong đền, còn nhiều câu đối nói lên sự tích An Dương Vương, thành Cổ Loa, nước Âu Lạc. Ở gian hai bên của đền có đôi ngựa hồng tạo năm Bính Thân niên hiệu Vĩnh Thịnh (năm 1716). Trước ban thờ Thần Kim Quy và Nỏ Thần, có những câu đối ca ngợi thần Kim Quy:
- “Yêu nhân tận tảo sơn vô quỷ
- Nghịch tặc tùy tiêu nỗ hữu thần”.
Tạm dịch:
- “ Khí yêu quét sạch non không quỷ
- Nghịch tặc trừ xong nỏ có thần”
Trong cùng là hậu cung thờ An Dương Vương, có tượng vua bằng đồng, đúc năm Thành Thái thứ chín (năm 1897). Tượng nặng 255kg. Trước khám thờ của Vua Thục có đặt một mũ và đôi hia. Hai bên về phía sau của khám thờ vua là ban Phụ Mẫu ở bên Đông, ban thờ Hoàng Hậu ở bên Tây của đền. [7, tr. 19].
Căn cứ vào các bài văn ở trên ba cây hương đá dựng trước của đền, thì vào năm Vĩnh Hựu thứ hai (Bính Thìn, 1736), đền được trùng tu lớn với việc công đức của những người dân trong làng và một số làng xã trong vùng. Tổng số tiền khuyên góp là 549 quan 3 mạch 76 tiền, tính riêng của người trong làng là 525 quan 7 mạch. Người đóng góp nhiều nhất là gia đình ông Hoàng Công Tài góp 75 quan. Do ngôi đền được đặt tại làng Cổ Loa nên được dân trong làng chăm lo việc trông coi, sửa sang và công việc cúng tế. Các triều vua đều có sắc chỉ,, lệnh chỉ cho làng được miễn việc binh đối với dân các hạng, thuế ruộng công, cùng thuế ao, hồ, cầu chợ, các hạng sưu thuế của sổ hộ và phu phen tạp dịch như: đắp đê, mở cống, khai ngòi.v.v….
Vào tháng Một năm Gia Long thứ hai (1803), triều Nguyễn đã quy định số lượng dân phu trông nom các đền thờ cấp quốc gia. Riêng ở làng Cổ Loa thì đền thờ vua An Dương Vương có 79 người phục dịch, đông thứ hai trong 6 ngôi đền của cả nước. [ Tr. 76]. Với việc quy định như trên, cũng thấy được tầm quan trọng của việc gìn giữ và trông nom ngôi đền thờ vua.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.1.1.2. Đình Cổ Loa (đình Ngự triều Di Quy) Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Đình làng Cổ Loa tương truyền là nơi thiết triều của Vua Thục, nơi bá quan triều hội ngày xưa, nên còn có tên là đình Ngự triều di quy, trong đình hiện còn tấm hoành phi “Ngự triều di quy”.
Theo các bậc cao niên trong làng kể lại và theo lời truyền nhau trong dân gian thì đình hiện đang có ở làng Cổ Loa là ngôi đình được mua của làng Bồng Mạc (ngày nay thuộc xã Liên Mạc, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội). Đây là ngôi đình to và đẹp nên các ngôi làng xung quanh đều muốn mua, nhưng do nhiều gia đình trong làng Bồng Mạc từng cung tiến tiền, vật liệu vào đình này nên họ muốn giữ ngôi đình lại, bởi vậy các làng đều không mua được. Các chức dịch làng Cổ Loa phải nhờ một vị Cử nhân người làng Lộc Hà quen biết với các kỳ mục, chức dịch làng Bồng Mạc nên mới mua được đình và ngôi đình này được chuyển về làng Cổ Loa theo đường sông Hồng và sông Đuống.
Đình được tọa lạc trên khu đất rộng 2.530 m2,, ở góc Đông Nam của thành Cổ Loa. Căn cứ vào hàng chữ Hán trên câu đầu trái thì đình được khánh thành vào ngày 12 tháng Ba năm Thành Thái thứ ba (1891).
Đình có kết cấu chữ “Đinh” , gồm 7 gian, 2 dĩ và hậu cung, kiến trúc xây dựng của đình mang đậm phong cách thời Nguyễn muộn, có vóc dáng vững chãi, bề thế, có mái đao vút cong. Cột đình có đôi câu đối của Tôn Thất Thuyết, một thủ lĩnh Cần Vương chống Pháp:
- “Tặc đáo Loa thành tùy diệt một,
- Điện vô quy nỗ dũng uy linh”.
Nghĩa là :
- “Giặc đến thành Loa theo diệt hết,
- Điện không nỏ báu vẫn linh thiêng”. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Dấu ấn của ngôi đình cổ này còn lại trong hậu cung là những lỗ mộng sàn trên cột cái và những mảng đề tài chạm khắc gỗ mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ VXII. Hiện nay, kiến trúc đình có nhiều mảng chạm lọng bong kênh tinh xảo, cầu kỳ sống động. Trong nội thất của ngôi đình thì tác phẩm chạm khắc gỗ đẹp nhất là chiếc cửa võng với đề tài “ Tứ linh – Tứ quý” phổ biến trong điêu khắc gỗ cỏ truyền và được sơn son thếp vàng.
Trong đình hiện nay cũng có những câu đối giáp cửa võng:
- “ Nam thiên cực lạc vi chư nhất phương vĩnh cửu lưu cầu phúc
- Thế giới đại đồng danh an kỳ nghiệp vinh hanh lợi đồng nhân”.
Tạm dịch:
- “Trời nam cực lạc làm chủ một phương mãi mãi mưu cầu phúc
- Người người ai cũng có việc làm phồn vinh cùng chung nhân nghĩa”.
Vào năm 1962, ngôi đình được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa đặc biệt cấp quốc gia. Hiện nay, ở trên sàn của ngôi đình có trưng bày các hiện vật bổ sung cho khu di tích, gồm ba phần: Cổ Loa thời kỳ trước An Dương Vương khoảng đầu thiên niên kỷ II trước Công Nguyên (hơn 50 hiện vật được trưng bày), Cổ Loa thời kỳ An Dương Vương thế kỷ III TCN 208 đến 179 TCN ( trên 150 hiện vật khảo cổ được trưng bày), Cổ Loa thời kỳ sau An Dương Vương năm 179 TCN đến thế kỷ X ( trưng bày khoảng 40 hiện vật).
2.1.1.3. Am Mỵ Châu
Kề cận đình Ngự Triều di quy về bên phải, là am Mỵ Châu hay Đền Mỵ Châu (Am Bà Chúa). Kiến trúc của am vừa phải, nền làm thấp, trước cửa đền có một vòm cổng xây bằng gạch, có giàn dây leo xung quanh. Am có kết cấu chữ “Đinh”, kết hợp chữ “Nhị”. Tổng thể của am được chia thành hai phần chính: Tiền Tế và Hậu Cung, có diện tích 825m2 .
Tiền Tế gồm ba gian kiểu đầu hồi bít kết cấu kiểu bốn hàng cột, phía trước làm kiểu bức bàn, phía sau làm thoáng để thông vào hậu cung. Sau Tiền Tế có một khoảng sân hẹp, tiếp đến là nhà mái lẫy nhà Hậu cung, hai bên có ban thờ (Thập nhị cô hầu, tức 12 nàng hầu của công chúa ). [7, tr. 28]. Phía ngoài là ba gian thờ văn võ bá quan nằm song song với nhà thờ công đồng.
Hậu cung có ba gian, gian trong cùng có phiến đá giống như hình người đang trong tư thế ngồi, nhưng điều đặc biệt của phiến đá này lại bị cụt đầu. Dân gian cho đây chính là tượng Bà Chúa Mỵ Châu được hóa thân lại sau khi bị vua cha An Dương Vương trị tội chem đầu, vì lầm lỗi vô tình mà tiếp tay cho giặc cướp nước. Sau khi Mỵ Châu chết đã hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Cấm phía Đông thành Cổ Loa. Dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ. ngay Am của Mỵ Châu trước đây có cây đa nghìn tuổi tán rộng che mát cả một khoảng sân rộng. Rễ đa rẽ đôi thành chiếc cửa tò vò thiên nhiên mở lối đi vào Am. Cây đa này được trồng từ thời Ngô Quyền đóng đô; song đã bị chết năm 1999.
Trong Am Bà Chúa còn có những câu đối nói lên lòng trung tín của công chúa Mỵ Châu với vua cha và đất nước:
- “Trung tín thệ tâm thân hóa thạch
- Hưng vong sái lệ tỉnh trầm châu”
Tạm dịch:
- “Lòng trung tín đã thề nên thân hóa đá
- Lệ tuôn vì cuộc hưng vong mà kết thành châu ngọc dưới giếng”
- ( Giếng ngọc trước cổng đền An Dương Vương)
Nhà thơ Tố Hữu có dịp về thăm mảnh đất Cổ Loa vào năm 1964, khi vào thăm Am Mỵ Châu thấy bức tượng đá không đầu đã viết những vần thơ như một lời nhắn nhủ:
- “Tôi kể bạn nghe chuyện Mỵ Châu
- Trái tim lầm lỡ để trên đầu
- Nỏ thần sơ ý trao tay giặc
- Nên lỗi cơ đồ đắm biển sâu”. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Cũng như ở đền thờ An Dương Vương, ở am Mỵ Châu có một Quan đám để trông coi việc tiếp khách, hương khói ở am. Theo lệ, vào dịp cuối năm, làng cử ra một Quan đám trông coi đình, đền trong năm. Người được chọn phải ở tuổi 50 trở lên, song toàn, có cả con trai con gái, cơ thể không dị tật, sống hiền lành, phúc hậu và được dân làng kính trọng. Hình thức cử Quan đám phổ biến nhất là xin keo tại đền (Am hay đình), theo thứ tự các giáp: Đông Nhất – Đông Nhì – Đông Tam. Ngày xưa, làng cử bốn vị Quan đám để trông coi đền, đình và am (đền Thượng hai vị, đình một vị và am một vị), nhưng về sau chỉ còn hai vị, một vị trông coi đền Thượng, một vị trông coi am và đình. Khi xin được keo thì vào ngày 20 tháng Chạp, làm lễ nhập tịch Quan đám và sau đó được ngồi Quan đám tại đền, am. Trông một năm đó, người Quan đám luôn mặc bộ quần áo vàng để thắp hương cho thần. Sau hội (ngày 20 tháng Giêng ), Quan đám được về nha một ngày, khi trở ra đình, đền vẫn mặc bộ áo tế phục, có cờ lọng trống đi cùng. Những ngày khác trong năm đều ở trong đền, am, cơm nước do con cháu trong gia đình mang ra.
Dưới Quan đám là những người đăng cai, do các giáp cắt cử, lo việc tổ chức hội hè, tế lễ và chăm lo việc cỗ bàn trong đình, đền. Ở làng Cổ Loa có đến 8 ông đăng cai. [14, tr.77].
2.1.1.4. Giếng Ngọc
Có nhiều tài liệu và truyền thuyết nói về chuyện tình đẹp nhưng cũng đầy bi thương giữa Mỵ Châu – Trọng Thủy. Cùng với truyền thuyết về Mỵ Châu hóa thành đá không đầu trôi về quê cha thể hiện tấm lòng trung nghĩa của nàng, có truyền thuyết về cái chết của Trọng Thủy ở Giếng Ngọc. Tương truyền rằng, Giếng Ngọc là nơi sau khi nghe theo lời vua cha và phản bội vợ (Mỵ Châu), Trọng Thủy đã tự nhận lấy cái chết để cho nỗi hận thù, nỗi oan của Mỵ Châu được hóa giải dù nước mất, nhà tan. Nước giếng ở đây khi đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng đẹp bội phần. Cho nên, mới có tên là Giếng Ngọc hay Giếng Trọng Thủy.
Xoay quanh về Giếng Ngọc còn có truyền thuyết giếng là nơi mà Mỵ Châu – Trọng Thủy thường đến soi hình. Nước giếng dùng để rửa ngọc rất sáng, vì vậy nên nhiều triều đại phong kiến phong kiến Trung Hoa bắt sứ nước ta mỗi năm phải cống một chum nước giếng ngọc. Nghe một chum nước không đáng là bao, nhưng công vận chuyển từ nước ta sang cống Bắc triều thì quả là vất vả vô cùng, nên các sứ thần nước ta đã nghĩ ra kế để không cống nước giếng với lý do: Giếng ngọc này có người chết nếu đem rửa ngọc sẽ không còn sáng. Hoàng đế Trung Hoa phải chịu, từ đó kể đi nước ta không phải cống nộp nước giếng thiêng này nữa [ Theo Chu Trinh]. Còn có bài thơ viết về Giếng Ngọc : Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
- “Giếng Ngọc lung linh ánh vàng trăng
- Cánh sen nở ngát nguyệt xuống thăm
- Sao trời xanh mắt nhòm đáy giếng
- Bạn thân công chúa mấy ngàn năm”
Ngay ở trước đền Thượng, có một hồ hình bán nguyệt, ở giữa có một giếng tròn được đắp bờ bằng đất, nhưng ngày nay trải qua thời gian để giữ được Giếng Ngọc, bờ đất đã được đắp kiêng cố hơn bằng gạch xung quanh. Vào dịp hội Cổ Loa, trên hồ hình bán nguyệt này thường là nơi các liền anh, liền chị của xứ Kinh Bắc hát quan họ giao duyên và tổ chức múa rối nước.
2.1.1.5. Chùa Bảo Sơn
Làng Cổ Loa có ngôi chùa Bảo Sơn tự, được dựng vào đầu thế kỷ XVII. Chùa cùng với Đình Ngự triều di quy và Am Bà Chúa là một cụm di tích được ba bọc khu cư trú của các xóm: Chợ (phía Đông), Chùa (phía Tây), Mít (phía Nam) và Nhồi Dưới (phía Bắc). Phía trước chùa là đình, theo cấu trúc “Tiền thần, hậu Phật”.
Chùa Bảo Sơn nhìn hướng Nam, tọa lạc trên khu đất rộng 3.300 mét vuông, cấu trúc theo thể thức truyền thống “Nội Công – Ngoại Quốc”, gồm khu Tam bảo theo cấu trúc chữ “Công”, nhà Tiền đường, nhà thờ Mẫu gồm 5 gian cùng hai dãy hành lang (mỗi dãy tám gian bao quanh). Trong chùa có 134 pho tượng tròn được tạo tác rất đẹp mắt, có niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, những bức tượng ở đây phong phú là do tập trung tượng của ba làng trước đây. Đằng sau chùa là gác chuông còn lưu quả chuông đúc xong tháng Một năm Quý Hợi, niên hiệu Gia Long (1803) và chiếc khánh đúc xong năm Quý Sửu đời Tự Đức (1853). [14, tr. 78].
Hệ thống bảo vệ Phật pháp có đủ cả Tám vị kim cương (có nhiệm vụ bảo vệ Phật), hai vị Hộ pháp (khuyến thiện và trừng ác) ở hai bên Đại Bái và trước Tam bảo. Ở hai dãy hành lang có Thập Bát La Hán và bốn vị Bồ tát, được tạo dáng rất sinh động và đặt trên bệ. Trong chùa còn thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào – Bắc Đẩu, Thập Điện Diêm Vương (được thờ ở tòa Tam bảo và hai bên cạnh tường Chính điện), thông qua cách thờ này cũng thể hiện được quan niệm sinh tử và tín ngưỡng của người Việt. Ngoài ra, chùa còn thờ Mẫu, thờ Thánh, còn thờ Tổ ở nhà Tổ và Đức ông. Riêng ở trong khu nhà Tổ. Mẫu được thờ ở khu giữa, bên phải thờ Thánh (Đức Thánh Trần), bên trái thờ Sư Tổ trụ trì ngôi chùa này. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Ngày 21- 06 – 1993, chùa Bảo Sơn được Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin ra Quyết định số 774 cấp bằng Di tích lịch sử – văn hóa. Chùa đã được nhiều lần trùng tu nhưng lần trùng tu lớn nhất là vào năm 1996 – 1997 với kinh phí trên hai tỷ đồng. Đợt trùng tu này thay thế dương như toàn bộ kết cấu gỗ, phục chế lại đúng với vốn có của ngôi chùa trước đây.[7, tr. 32].
Chùa Bảo Sơn này là một ngôi chùa cổ, được quan tâm tu bổ, giữ gìn tốt, nhất là hệ thống tượng tròn thể hiện những giá trị cao về nghệ thuật thẩm mĩ lịch sử, đến với ngôi chùa này không chỉ là nơi thờ phật mà còn là nơi hội tụ những hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng, nơi đề cao tư tưởng nhân nghĩa “Khuyết thiện – trừng ác”. Đến chùa lễ Phật, con người như bước vào một thế giới khác, nơi con người sống thật với cõi lòng mình, không giả dối, họ tự giải phóng mình ra khỏi bế tắc để có thể cảm nhận được cõi lòng thanh thản hơn. Tâm linh đi chùa giúp cho con người hướng thiện, nhớ về tổ tiên, tránh xa những việc ác, cái xấu để cuộc sống tốt đẹp và hoàn thiện hơn.
2.1.2. Thành Cổ Loa
Cổ Loa là Kinh thành của Âu Lạc (thế kỷ thứ III trước công nguyên), một trung tâm của thời kỳ dựng nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quân sự. Vai trò đó được trở lại khi nước ta giành được độc lập vào thế kỷ X, sau sự kiện Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán năm 938 và xưng Vương, đóng đô thành Cổ Loa. Từ Kinh đô của Âu Lạc thời An Dương Vương trở thành một khu di tích lịch sử, trong đó thành Cổ Loa là minh chứng duy nhất. (Trung tâm khu bảo tồn di tích Cổ Loa – Thành cổ Hà Nội). Nhắc đến thành Cổ Loa, người dân ở đây thường quen thuộc với câu ca:
- “Nhắn ai qua huyện Đông Anh
- Ghé thăm phong cảnh loa thành Thục Vương
- Cổ Loa thành ốc khác thường
- Trải bao năm tháng dấu thành còn đây”.
Thành Cổ Loa là di tích thành có niên đại sớm nhất Việt Nam và vào loại sớm trên thế giới [ Tr. 12].
2.1.2.1. Xây dựng thành Cổ Loa Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Sau khi lập nước Âu Lạc, An Dương Vương cho dời đô từ Bạch Hạc (Việt Trì – Phú Thọ) xuống Cổ Loa, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của sự phát triển Việt Nam về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Đây còn là bước phát triển kế tục của nước Văn Lang với hai thành tựu nổi bật là xây đắp thành Cổ Loa và cải tiến vũ khí mà chủ lực là nỏ và tên nỏ.
Thành Cổ Loa còn có tên là thành Tư Long, có nghĩa là rồng uốn mình nằm trầm tư suy nghĩ. Thành được dựng ở vị trí trung tâm của nước Âu Lạc, trên một khu đất ở Tả ngạn sông Hoàng Giang. Theo sử cũ và lưu truyền dân gian, thành được xây dựng quanh co chín lớp, xây dựng theo hình xoáy trôn ốc, trôn ốc là xóm Chùa, mình ốc là đường thành từ xóm Chùa qua xóm Chợ, xóm Hương, về Gồ Cháy. Chất liệu xây dựng thành chủ yếu là bằng đất, đá và gốm vỡ. Dùng đá để kè cho chân thành được vững chắc, các đoạn ven sông ven đầm được kè đá nhiều hơn. Loại đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở từ miền khác về. Kết hợp xen giữa các đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, rải nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Phương pháp xây dựng thành là đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu lũy xây đến đó.
Mặt ngoài lũy thì dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ, đắp lũy cao trung bình từ 4 – 5 mét, có chỗ 8 – 12 mét, chân lũy rộng 20 – 30 mét, mặt lũy rộng 6 – 12 mét, khối lượng đào đất ước tính 2,2 triệu mét khối. Mặt trên của thành thì có nhiều ụ đất cao và nhô ra phía ngoài để làm vọng gác và công sự phòng ngự (điển hình nhất là khu vực thành Nội), dưới chân thành các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều di tích là nơi cư trú của cư dân trước khi xây dựng thành, thuộc buổi đầu thời đại đồ sắt. Với nền đất yếu nên việc xây dựng thành rất khó khăn và dễ đổ thành; do vậy việc kết hợp kè đá nhằm tạo thế vững chắc lâu dài cho thành.
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài. Vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh sông Hoàng để dùng sông này làm hào bảo vệ thành và cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào, cũng là đường thủy quan trọng. Con đầm Cả rộng lớn ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng, làm nơi tụ họp cho cả hàng trăm thuyền bè.
2.1.2.2. Cấu trúc thành Cổ Loa Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Nghiên cứu về thành Cổ Loa, các nhà khảo cổ học đã đánh giá là “Tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.
Hiện nay, di tích còn lại của thành gồm 3 vòng thành lũy đắp bằng đất (theo tương truyền thành Cổ Loa có 9 vòng xoáy trôn ốc), dài tổng cộng 16 km, cụ thể: thành ngoại, thành Trung và thành Nội.
Tường thành Ngoại (Ngoài): dài hơn 8 km, có chiều cao 3 – 4 mét, có chỗ lên đến hơn 8 mét. Đây là một tường thành khép kín, theo những gò đống thiên nhiên, nên không có hình dáng rõ rệt. Có những đoạn tường thành không phải do đắp mà là gò đất cao tự nhiên có từ trước, hoặc có các thế đất tự nhiên sẵn có thì khi tường thành được xây dựng được đắp nối vào đó.
Tường thành Trung (giữa): tường thành cũng làm khép kín, là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng. Thành cũng được đắp nối từ các gò đất tự nhiên và đắp men theo đầm hồ. Theo Cố GS. Trần Quốc Vượng, chiều dài của tường thành khoảng 6.500 mét, còn theo nghiên cứu của R.Despierres và Cl.Madrolle thì thành dài 6.150 m, cao từ 6 đến 12 m, mặt thành rộng trung bình 10m; chân thành rộng tới 20 m. Có năm cửa ở các hướng Đông, Nam, Bắc, Tây Bắc và Tây Nam.
Tường thành Nội (Trong): được xây dựng hoàn toàn khác với hai tường thành ngoài, có hình chữ nhật vuông vắn, chiều cao trung bình 5 m so với mặt đất. Mặt thành rộng khoảng 10 m, chân thành rộng từ 20 – 30m mỗi vòng thành kể trên đều có hào nước bao quanh bên ngoài. Hệ thống hào đều được nối liền với nhau và nối với sông Hoàng Giang thành mạng lưới giao thông thủy liên hoàn và thống nhất.
Thành Ngoại ở phía Tây Nam và Nam, lợi dụng con sông Hoàng để làm hào thiên nhiên, chảy gần sát tường thành. Phía Tây Nam từ gò Cột Cờ, phía Đông từ Đầm Cả. Người xưa, đã đào ven khắp ngoài tường thành, có thể thấy nước sông Hoàng Giang chảy được khắp quanh thành.
Phần hào nước ở thành Ngoài nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Cột Cờ.
Hào nước ở thành Nội được đào quanh tường thành. Vòng hào trong cùng này thì được khép kín, được nối với sông Hoàng bằng một trong năm lạch nước thành giữa. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Với vị thế xây dựng các hào nước như thế, thuyền bè có thể dễ dàng đến trú đậu ở Đầm Cả hay ra sông Hoàng Giang và từ đó có thể tỏa đi khắp các nơi. Theo truyền thuyết, vua An Dương Vương thường dùng thuyền đi hết các hào rồi ra sông Hoàng Giang. Sự kết hợp khéo léo giữa sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định hay rõ nét khiến cho thành Cổ Loa như một mê cung, tạo thành một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công và tốt cho việc phòng thủ khi bị xâm phạm.
Thành Cổ Loa có 8 cổng (cửa), trấn giữ các hướng, các cửa đều được xây bằng gạch, ở mỗi cửa đều có một miếu thờ. Dấu tích nay vẫn còn ở các xóm: cửa Bắc ở xóm Thượng, cửa Đông – Bắc (địa phận làng Thư Cưu), cửa Tây Nam (cổng Bà Đám, xóm Gà), cửa Đông (ở cửa sông và cửa đầm), cửa Tây Bắc (hồ Thường Đỏ), cửa Nam (một mặt tại xóm Chợ và một mặt tại xóm Vang) và cửa Tây Nam ở vòng thành thứ ba (xóm Mít – Mạch Tràng). Ở vòng thành Nội, cổng được xây dựng theo bốn hướng chính: Nam , Bắc, Đông, Tây, song chỉ mở cửa chính giữa tường thành phía Nam. Vòng thành Trung mở bốn cửa gồm các cửa: Trấn Nam, Tây Bắc, Bắc và Tây Nam.
2.1.2.3. Ý nghĩa và giá trị của thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa là công trình có quy mô lớn của dân cư Âu Lạc, thành được khởi xây và hoàn thành trong 13 năm. Ước tính số đất được đào đắp cần dùng để xây dựng thành đến hàng vài chục vạn mét khối, trong khi đó số dân cư Âu Lạc chưa vượt quá một triệu người, điều này đã thể hiện được tài năng sáng tạo của người dân Âu Lạc.
Nói đến thành Cổ Loa trước hết đó là một kinh thành, đồng thời còn là một quân thành, thị thành. Tại sao lại có thể nói điều đó? Kinh thành Cổ Loa là một kinh đô của đất nước Âu Lạc, là nơi đặt bộ máy cai trị, nơi có những thể chế của một đất nước. Kinh đô được xây dựng với kiểu dáng “Tam thành địa quách”, các thời kỳ phong kiến về sau cũng xây dựng tương tự với ba vòng thành: vòng thành Nội là nơi dành cho nhà vua và hoàng gia, thành Trung là nơi của các gia đình quan văn, quan võ và các triều thần trong triều đình và vòng ngoài cùng dành cho dân chúng ở và sinh sống. Các kiến trúc trong kinh thành không được vàng son như các đời sau nhưng cũng đủ các chi tiết vật thể: “Nền nhà lát gạch kẻ hoa văn, mái lợp ngói ống và ngói bản. Ngói có đóng đinh và đinh ngói cũng nặn bằng đất sét nung, đầu đinh vẽ hoa văn trang trí. Diềm mái chạy một hàng đầu ngói ống với các loại hoa văn trang trí hình mây cuốn…” [27].
Thành Cổ Loa còn là quân thành đầu tiên của dân tộc ta, thể hiện được nghệ thuật quân sự tài giỏi của quân và dân Âu Lạc. Đây có thể coi là một công trình phòng ngự kiên cố, vững chắc nhưng cũng rất lợi hại gồm nhiều công trình phòng thủ (thành lũy, hào, ụ, công sự…); đồng thời cũng là một căn cứ xuất phát tiến công, kết hợp được giữa bộ binh và thủy binh, tại đây thuyền bè có thể dễ dàng đi lại khắp ba vòng hào của các tường thành để hợp tác chiến binh và thủy, từ căn cứ Cổ Loa tỏa ra các sông Hoàng Giang, ngược sông Hồng và xuôi sông Cầu để ra biển. [14, tr.31].
Kinh thành Cổ Loa còn được coi là thị thành đầu tiên của người Việt. Thời kỳ đó, kinh thành nổi lên là trung tâm trao đổi kinh tế (Chợ Sa), văn hóa (các di tích), trung tâm của hội tụ văn minh, một đô thị nông nghiệp, luyện kim (đúc đồng) và giao dịch.
Giá trị của thành Cổ Loa được thể hiện rõ ở các mặt sau: Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Xét về quân sự: với số dân không vượt quá một triệu người, việc xây dựng được một kinh thành kiên cố quả không dễ, nhưng người Việt Cổ đã làm được và thành Cổ Loa thể hiện rõ nét sự sáng tạo độc đáo của người Âu Lạc trong công cuộc chống giặc xâm lăng, giữ nước. Thành Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc bởi cả ba vòng thành bởi được bao quanh các bức tường chắc chắn, các hào rộng, các ụ và lũy cao để có thể bảo vệ nhà vua, triều đình và cả kinh đô. Thành được xây dựng ở vị trí có thể lợi dụng được đường giao thông thủy bộ thuận lợi, tạo điều kiện thông thương dễ dàng và khi tác chiến thủy binh và bộ binh kết hợp được hài hòa. Sách “Lịch sử Việt Nam, tập 1 ” viết: “Một nét độc đáo của thành Cổ Loa là toàn bộ cấu trúc của nó tạo thành một kiến trúc quân sự kiên cố được phòng vệ chắc chắn, kết hợp chặt chẽ giữa quân bộ và quân thủy”.[18].
Xét về xã hội: Thành Cổ Loa còn phản ánh sự phân hóa xã hội của cộng đồng cư dân Âu Lạc, thể hiện rõ qua sự phân bố nơi cư trú, đã có sự phân chia từng vòng thành cho vua, quan, binh lính và dân. Vua quan được sống tách với dân chúng và được bảo vệ rất chặt chẽ. Đó là minh chứng cho một xã hội có giai cấp rõ ràng, con người có bước tiến xa hơn so với thời các Vua Hùng.
Xét về văn hóa: Thành Cổ Loa nằm trong khu Di tích Cổ Loa đã trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ ; thể hiện rõ ở việc xây dựng thành khi họ sử dụng đá để kè dưới chân thành tạo sự chắc chắn, gốm rải ở rìa thành, có hào nước bao quang ngoài tường thành, các lũy thì đắp cao, tạo thế phức tạp. Điều đặc biệt là thành được xây dựng ở vị trí có địa hình tương đối hiểm trở, khó có thể xâm nhập được. Những điều trên là minh chứng cho khả năng nghệ thuật và văn hóa dưới thời An Dương Vương. Một nét đẹp trong văn hóa về Loa thành nữa là lễ hội Cổ Loa, cứ vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch, người dân trong làng Cổ Loa tưng bừng tổ chức ngày lễ rước ở tai đền Thượng để tưởng nhớ đến những người có công xây dựng thành và đặc biệt là ghi nhớ ơn của vua An Dương Vương. Ngày 28 – 04 – 1962, Bộ Văn hóa ra Quyết định số 313/VH – VP xếp di tích Cổ Loa là Di tích Quốc Gia.
Với những minh chứng thực có của thành Cổ Loa như có nhà thơ đã viết:
- “Thành quách còn ghi dấu Cổ Loa
- Trải qua gió táp mưa sa …
- (Thơ Á Nam).
2.1.3. Văn chỉ Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Trước đây, các làng đều có văn chỉ và nơi này là nơi thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền của Đạo Nho.
Văn chỉ làng Cổ Loa được xây dựng trên khu đất tương truyền là “Dinh Ngô Quyền” (944), gồm có bốn tòa nhà. Đây cũng là Văn chỉ của cả tổng Cổ Loa. Vào các dịp Xuân tế và Thu tế hàng năm (ngày “Đinh” của tháng Hai và tháng Tám), Hội Tư văn, những người có trình độ Nho học của làng đến Văn chỉ tế lễ để cầu mong cho những người học trong làng học hành thành đạt.
Làng Cổ Loa có một số người đỗ đạt cao trong các kỳ thi, có những người giữ vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, tiêu biểu nhất là ông Lại Duy Chí đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa (năm 1700). Dưới chế độ mới của những năm sau Cách mạng Tháng Tám, làng Cổ Loa có đội ngũ trí thức cách mạng đã được đào tạo và phát triển cả về số lượng và chất lượng, trong số đó có những người được tín nhiệm và được giao vị trí quan trọng trong cơ quan Đảng và Nhà nước. Đó là một niềm tự hào lớn của người dân làng Cổ Loa.
2.1.4. Nhà bia
Nhà bia tọa lạc tại một khu đất cao trên đền Thượng. Trong nhà bia có các tấm bia đá dựng, có cả tấm bia to, nhỏ, nhưng điều đáng chú ý nhất là tấm bia lớn gồm bốn mặt. Mặt Bắc của tấm bia này có khắc chữ: “ Tạo lập thạch bi” (Tạo dựng bia đá), được dựng năm Vĩnh Thịnh thứ sáu (năm 1710), Tấm bia này thờ phụng khẳng định đền Thượng là nơi đầu tiên trong bốn ngôi đền thờ tiên ở nước ta: “ Nước Việt Nam ta có đền thờ tiên, đền Cổ Loa là đền thứ nhất thờ An Dương Vương. Ngài là chân nhân của năm cõi, là bậc thánh đầu tiên vâng mệnh trời thay Họ Hùng và chuyển về đóng đô ở Phong Khê, đặt tên nước là Âu Lạc, có Cao Lỗ giúp việc trị nước được rùa vàng giúp sự linh quang “Nỏ Thần” ngăn giặc. Họ Triệu cho con sang làm con tin, xưng bề tôi, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, phong tục tốt Uy của vua, Đức của Thần cùng mặt trăng, mặt trời sáng tỏ. Trải đời xưa đời nay ít thấy, đời sau được hưởng phúc vô cùng. Các triều đầu nối theo quy củ, công to được bao phong, lệnh ban cho thờ phụng”. [7, tr. 21]. Bia lập ghi rõ các bằng chứng, sự tích để truyền lại mãi mãi, các điều liệt kê cụ thể như: Sắc phong, tạo bài vị thánh bằng gỗ bạch đàn, tạo đôi ngựa hồng, các bài lệnh dụ lệnh chỉ. Lệnh chỉ sớm nhất được khắc trên bia lưu trong nhà bia là của lệnh ngày 8 tháng Mười năm Hoằng Định thứ năm (1604) của Bình An Vương Trịnh Tùng.
Một số tấm bia khác được đặt ở xung quanh tấm bia lớn ghi lại một số luật lệ, quy định về sử dụng ruộng đất, trong đó có tấm bia “Pháp điện sắc lệnh” lập năm Vĩnh Thịnh thứ tư (1708) ghi lại sự kiện việc tranh chấp khu đất 50 mẫu ven thành Nội và đặc biệt là khu đất chợ Sa giáp ranh giữa hai làng Cổ Loa và Dục Tú, sau khiếu kiện kéo dài 45 năm trời, chính quyền xử phần đất thuộc về làng Cổ Loa) và đất đai dành cho việc thờ cúng, tế lễ. Ngoài ra, còn có các lệnh chỉ của một số vua đời Lê Nguyễn với việc thờ phụng tại ngôi đền này.
2.2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
2.2.1. Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng
Làng Cổ Loa thờ An Dương Vương ở Đền Thượng và đình Cổ Loa. Ở đền Thượng nhân dân thờ vua bằng bức tượng đúc bằng đồng.
Làng còn thờ Lý Ông Trọng và Cao Lỗ – hai nhân vật gắn liền với mảnh đất Cổ Loa, có công lao lớn trong việc giữ thành dưới thời An Dương Vương.
Cao Lỗ (còn gọi là Đô Lỗ, Thạch Thần) là vị tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu mà còn được gọi là “Nỏ Thần”-bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Chính ông là người đã khuyên vua An Dương Vương dời đô từ Bạch Hạc (Việt Trì) xuống vùng đồng bằng Cổ Loa đóng đô và Cao Lỗ đã được giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây dựng kinh thành. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi vị tướng này là “Linh Quang Thần Cơ”. Dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ vì đã phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ. Sách “Lĩnh Nam chích quái” chép, cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần. Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên “Ngự xạ đài”, dấu vết này nay vẫn còn ( hiện ở xóm Vang – Cổ Loa).
Lý Ông Trọng gốc là người làng Chèm (xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội), là vị tướng sống dưới thời Hùng Duệ Vương và đầu thời vua An Dương Vương. Vào thời Hùng Vương thứ 18 giữ một chức nhỏ ở huyện ấp, đến thời vua Thục Phán ông là một vị tướng giỏi giúp vua và được cử đi sứ ở nước Tần. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Dưới đời An Dương Vương, hai vị tướng này có công trạng lớn, thuộc “tứ trụ triều đình” trong đó, Văn Tín Hầu – Lý Ông Trọng là tướng quốc, tướng công, giữ chức Hữu thừa tướng – Thái sư đệ nhị và Cảnh Cao Hầu – Cao Lỗ giữ chức Thái phó cai quản việc quân. Hiện nay, tại đền Thượng có thờ tướng tài Lý Ông Trọng, còn thần Cao Lỗ đã được nhân dân lập một ngôi đền (dân trong làng còn hay gọi là điếm thờ) riêng tại xóm Chùa, nằm ngay bên đường đi vào cụm di tích đình Cổ Loa, am Mỵ Châu và chùa Bảo Sơn. Vào năm 1982, Cố GS. Trần Quốc Vượng đã đắp bức tượng đá Cao Lỗ trong tư thế giương cung bắn nỏ thần, bức tượng đá này được dựng ở giữa hồ nước trước ngôi đền này. Dân làng đã lập đền thờ hai vị tướng này nói riêng và thờ những người có công với làng thể hiện rõ sự biết ơn, ghi nhớ công lao to lớn của cha ông đi trước.
Với việc thờ những người có công với làng, với nước, trong một năm làng Cổ Loa có các tiết lệ sau:
Tháng Giêng: Trong ba ngày Tết Nguyên đán mỗi ngày sửa một cỗ gà, oản, rượu, hoa quả ở đình. Theo Bản Hương ước sao lại năm 1942 đã quy định: mỗi cỗ xôi gà trong ba ngày này trị giá 3 đồng (gà có giá 1,5 đồng, rượu giá 0,3 đồng, hoa quả 0,6 đồng).
Ngày mùng 4, sắm lễ xôi gà, oản, hoa quả để thờ thần, đồ lễ này giá 9 đồng (gà 3 con giá 4,5 đồng, xôi giá 1,5 đồng, rượu giá 0,9 đồng, trầu cau hoa quả giá 1,8 đồng).
Ngày mùng 6, Hội bát xã cùng thờ vua An Dương Vương. Buổi sáng mỗi làng trong bát xã đều sửa soạn một lễ chay gồm oản và hoa quả trị giá 2 đồng (oản giá 1,5 đồng, hoa quả 0,5 đồng). Buổi tối làm lễ Nhập tịch, làng Cổ Loa có nhiệm vụ sửa soạn lễ xôi lợn, hoa quả giá 15 đồng (giá lợn 10 đồng, xôi giá 2 đồng, rượu giá 1 đồng, hoa quả giá 1 đồng, trầu nước giá 1 đồng).
Ngày mùng 7, mừng công chúa Mỵ Châu sinh, lễ vật như lễ Nhập tịch.
Ngày mùng 9, ngày kỷ niệm An Dương Vương đăng quang (lên ngôi), sửa lễ gồm bò, xôi, rượu, chè và hoa quả. Vào buổi tối có hát ca trù. Tổng các chi phí cho ngày này là 37 đồng (bò giá 25 đồng, xôi 5 đồng, rượu 2 đồng, chè 1 đồng, hoa quả 1 đồng, chi phí cho Ca công hát ca trù 3 đồng).
Tháng Hai và tháng Tám: lễ Xuân tế và Thu tế lễ sắm cũng như lễ Nhập tịch.
Tháng Ba: ngày mùng 7, kỷ niệm ngày mất của An Dương Vương, lễ vật như lễ Nhập tịch.
Tháng Sáu và tháng Bảy: chọn ngày tốt để làm lễ Hạ điền (mở đầu vụ cấy) và Thượng điền (kết thúc vụ cấy), sửa soạn lễ xôi gà, hoa quả tế Tiên nông, mỗi lễ giá 3 đồng, giống như lễ trong ngày Tết Nguyên Đán.
Tháng Tám: ngày 11, kỷ niệm ngày sinh của An Dương Vương, lễ vật như lễ kỷ niệm Vua đăng quang (mồng 9 tháng Giêng).
Tháng Mười : chọn ngày tốt đầu tháng, làm lễ Thường tân (lễ cơm mới), lễ vật giống như lễ Nhập tịch.
Tháng Chạp: làm lễ Rước mã ( thay quần áo cho Thần), sửa soạn lễ oản quả, trầu rượu giá 3 đồng. Đêm 30 lễ Trừ tịch, sửa soạn lễ xôi gà giá 5 đồng (gà 4 con giá 3,2 đồng, xôi giá 0,5 đồng, rượu giá 0,3 đồng, hoa quả giá 0,5 đồng, pháo hoa giá 0.5 đồng). Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Ngoài ra, vào hai ngày Sóc (mùng một âm lịch), Vọng (ngày Rằm) của mỗi tháng. Thủ từ ở đình, đền sắm sửa lễ giá 3 đồng.
2.2.2. Hội Cổ Loa (Hội “Bát xã hộ nhi”)
Thành Cổ Loa được xây dựng bao xung quanh tám làng. Vì thế, tất cả các làng này đều thờ An Dương Vương và cùng tổ chức hội lớn tại Cổ Loa, gọi là Hội Bát xã Cổ Loa. Sau này, khi có những thay đổi về hành chính nhưng khi vào chính hội Cổ Loa thì đó vẫn là ngày hội chung của Hội Bát xã (Bát xã hộ nhi). Đó là các làng : Cổ Loa, Đài Bi, Sằn Giã, Cầu Cả, Mạch Tràng, Văn Thượng, Thư Cưu và Ngoại Sát (Xép).
2.2.2.1. Phần Lễ
Hội Cổ Loa là một lễ hội lớn ở vùng Kinh Bắc xưa, tổ chức ngày đầu năm. Trong dân gian xưa thường có câu:
- “Thứ nhất là Hội Cổ Loa,
- Thứ nhì Hội Gióng, thứ ba hội Chèm”.
Vào những năm đầu thế kỷ XX trở về trước lễ hội Cổ Loa được tổ chức từ ngày mồng 5 tháng Giêng đến hết ngày 18 tháng Giêng. Ngày nay, lễ hội vẫn duy trì được nhiều tục lệ truyền thống. Hàng năm, ban tổ chức lễ hội được thành lập gồm đại diện Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể trong làng kết hợp với Trung tâm bảo tồn khu Di tích Cổ Loa – Thành cổ Hà Nội để tổ chức hội tháng Giêng để tưởng nhớ vua An Dương Vương, Người đã cho xây dựng thành Cổ Loa và lên ngôi Vua vào ngày mùng 6 tháng Giêng năm Giáp Thìn thế kỷ thứ III TCN. Bên cạnh hội chung của tám làng xã (Bát xã hộ nhi) vào những ngày tiếp sau, có hội riêng của từng làng đến ngày 16 tháng Giêng. Xưa cũng như nay, trong tâm thức người dân Cổ Loa “Bỏ con bỏ cháu, không ai bỏ ngày mùng 6 tháng Giêng”.
Trung tâm hội là Đền Thượng hay gọi Đền thờ An Dương Vương.
2.2.2.1.1. Chuẩn bị Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Để chuẩn bị cho các lễ nghi và nghi thức diễn ra có trật tự, tôn nghiêm thể hiện rõ được nét đẹp truyền thống vốn có được người dân chính thức công nhận. Việc chuẩn bị cho dịp lễ này là từ tháng 10. Hội đồng Bát xã đã cùng họp và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng làng xã:
- Làng Cổ Loa (nay thuộc xã Cổ Loa) là nơi đặt chính của đền thờ An Dương Vương đảm nhận làm chủ tế, cử Đông xướng và thảo “Chúc văn”.
- Làng Văn Thượng (nay là thôn Văn Thượng xã Xuân Canh) làm nhiệm vụ “Đọc chúc văn”.
- Làng Mạch Tràng (nay là thuộc xã Cổ Loa) cử Tây xướng.
- Làng Cầu Cả (nay là thôn Cầu Cả xã Cổ Loa) được “Phủng chúc” (bưng chúc).
- Làng Ngoại Sát (Xép) nay thuộc xã Cổ Loa có nhiệm vụ “củ soát” tế phẩm, tế vật của các làng mang đến dâng vua.
- Các làng còn lại là làng Sằn Giã, Đài Bi và Thư Cưu làm nhiệm vụ “Phủng tước” (dẫn rượu) và “Phủng hương” (dẫn hương). Làng Thư Cưu theo tục lệ cổ có nhiệm chính đó là “Khai bếp”, đảm đương là đầu bếp của nhà vua.
Mỗi làng đều cử một người bồi bái. Ngoài việc tham gia vào tổ chức hội lớn của vùng, các làng cũng nhộn nhịp chuẩn bị lễ hội của làng mình.
Việc đầu tiên là cử người đánh trống, đánh chiêng hay còn gọi là bầu “Thủ hiệu”. Tiêu chuẩn chung của những người này ở tất cả các làng là người song toàn, có đạo đức…Trống cái, chiêng điều khiển phất cờ, còn trống khẩu và kiểng để dẫn đường, cầm nhịp đi cho đều. Người được làng bầu thủ hiệu phải tự túc trang phục, gồm quần ống sớ, áo mớ ba (áo trắng dài trong cùng, ở lớp giữa là gấm in chữ Thọ, lớp ngoài cùng là áo may bằng the bóng; khăn xếp hình chữ nhân, giày Ký long). Làng chỉ cấp cho một chiếc lọng màu đen, người che khi đi cùng khi rước, cử một người cắp tráp trầu cau và thêm một người bưng ống trúc đi bên cạnh trong đám rước.
- Tiếp là Đội tế là những người được làng cử vào trong đội tế, họ tự may lấy quần áo, giày, mũ đội…
- Đội múa cờ : gồm 8 người, mặc quần áo lậu được thắt lưng “bó que”.
- Đội rước cờ : có 10 người , mặc áo the khăn xếp.
- Đội quân chầu (tức những người phục vụ) được tập thể sắm quần áo gồm: Quần trắng, áo bên trong mặc màu trắng, áo ngoài là áo lậu màu đỏ, chân thì quấn xà cạp, đầu được chít khăn vàng.
- Đội trống lễ gồm: 8 người mặc áo the khăn xếp.
- Đội bát âm cũng gồm 8 người mặc áo the khăn xếp.
- Đội rước “bát bửu”văn: có 8 người, mặc áo the khăn xếp. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
- Đội rước đồ đồng bát bửu gồm 8 người : không mặc áo the mà mặc áo võ, đầu đội mũ của quan võ.
- Đội bảo vệ dọn đường: bên cạnh những đội rước khác thì đội dẹp đường rất quan trọng để cho đoàn rước đi không bị tắc đường, thiếu trật tự. Đội này mắc áo lậu, tay cầm thước và miệng thổi tù và.
- Ban bài sáp: chính là ban chỉ đạo, quản lý đoàn rước trong lễ hội.
Trong Hội bát xã hộ nhi thì trừ làng Cổ Loa, còn các làng khác đều chuẩn bị hai kiệu:
- Kiệu bát cống: là kiệu dùng để rước lễ cúng An Dương Vương.
- Kiệu Minh đính: là kiệu rước bài vị của tướng Cao Lỗ (Ông Nỏ).
Đây là hội chung cho các làng trong vùng đều thờ Thục Phán nhưng riêng làng Cổ Loa thì có vị trí đặc biệt. Cổ Loa là nơi đóng đô của vua, lại là làng sở tại tổ chức lễ hội nên công việc chuẩn bị sẽ công phu và chu đáo hơn, bao gồm các đội rước:
- Đội rước hương án gồm:
- Rước hương án tiền có bát hương.
- Hương án rước cung nỏ thần.
- Hương án rước Long mão (mũ của vua).
- Hương án rước Long hài (giầy của Vua).
- Làng chuẩn bị 3 kiệu: các kiệu để rước An Dương Vương, tướng quân Cao Lỗ và Bà chúa Mỵ Châu, cụ thể:
- Kiệu Bát cống rước An Dương Vương (riêng kiệu này có màn che trên); có 16 người thay nhau để rước kiệu bát cống, 4 người thay nhau cầm tán tía che kiệu Bát cống, 8 người thay nhau cầm màn che dưới tán. Ở đây, trang phục quần áo của làng Cổ Loa cũng mặc như các làng khác.
- Kiệu Minh đỉnh rước tướng quân Cao Lỗ.
- Kiệu Thất phượng (kiệu võng) rước Bà chúa Mỵ Châu. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Ngoài ra, làng còn cử 2 đội múa: mỗi đội 6 – 8 người, 3 đội nhạc lễ: gồm đội nhạc bát âm, đội trống và đội kèn. Mỗi đội kiếm danh dự gồm 10 -12 người. Bên cạnh đó, còn có một đội tàn vàng: có 8 – 10 người.
Một công việc chuẩn bị cũng không kém phần quan trọng nữa là các đồ tế phẩm dâng vua. Những đồ tế phẩm này chính là những đặc sản riêng của vùng đất Cổ Loa, rất gần gũi với cuộc sống của người dân, bởi những nguyên liệu tạo sản phẩm ở đây chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp do người dân tự trồng cấy mà làm được. Nổi bật là Bỏng Chủ. Vào dịp đầu năm khi chính thức bắt đầu lễ hội Cổ Loa, khắp vùng trong Bát xã Loa thành thi nhau làm Bỏng Chủ. Ngày xưa, đặc sản Bỏng chủ chính là lương khô để nuôi quân sĩ đánh giặc, sản phẩm này được làm dưới bàn tay khéo léo của những người dân Cổ Loa. Nguyên liệu của Bỏng chủ là thóc nếp cái hoa vàng được mua ở làng Dục Tú (thóc ở làng này thì khi rang lên nổ bỏng to và đều), mật ong (từ Mai Lĩnh, huyện Chương Mỹ), có lạc rang và thêm thảo quả. Các bước tiến hành làm Bỏng cũng rất công phu và kỹ lưỡng, phải chọn đúng loại thóc ngon rang lên thành bỏng, rồi trộn đều với mật ong (có thêm chút gừng để tạo mùi thơm) thảo quả và lạc rang. Trong khi trộn các nguyên liệu phải chú ý cho độ ngọt vừa đủ để có thể bảo quản được lâu.
Ngoài Bỏng Chủ là đồ cúng chính thì trong lễ hội, người Cổ Loa còn làm xôi đóng thành oản, rước vào dâng vua. Sau khi tế, thì Hội bát xã còn có ban giám khảo để chấm thi đua cho các làng. Làng nào đồ xôi khéo, đóng oản chặt, đẹp mà đảm bảo hạt gạo thật trong, thật rền, trang trí sao cho mâm oản đẹp, sẽ được trao giải thưởng.
Đây là một hội lớn, nên công tác chuẩn bị rất kĩ, thu hút hầu hết công sức và thời gian của những người trong làng trong vùng. Điều cao hơn cả chính là hàng năm, những người dân các làng và du khách thập phương có một lễ hội lớn mang đậm tính truyền thống, bản sắc văn hóa riêng có của vùng đất Cổ Loa lịch sử này. Nếu như người dân Việt nói chung coi ngày mùng 1 là Tết thì ở riêng Cổ Loa, ngày mùng 6 tháng Giêng mới là ngày Tết thực sự. Các gia đình đều tất
bật, chu toàn cho việc chuẩn bị, tiếp khách. Họ quan niệm, gia đình đón được nhiều khách đến thì năm đó sẽ thuận lợi và phát đạt công việc, làm ăn. Từng thành viên trong gia đình, mỗi người mỗi việc và ai cũng cố gắng hoàn thành để cả việc nhà, việc làng đều trọn vẹn.
2.2.2.1.2. Nghi lễ tổ chức Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Sau những ngày tất bật để hoàn tất công việc chuẩn bị cho lễ hội. Vào đúng 7 ngày mồng 6 tháng Giêng, giờ lễ hội đã chính thức bắt đầu. Các làng được phân công nhiệm vụ cụ thể đã sẵn sàng khởi kiệu để rước đến làng Cổ Loa. Tùy theo từng làng với nhiệm vụ cụ thể mà ban tổ chức sắp xếp thứ tự vị trí khác nhau:
- Phía bên Tây (ở bên phải đền An Dương Vương) gồm các làng: Mạch Tràng, Sàn Giã, Đài Bi và Cầu Cả, tập trung tại thành ngoại.
- Phía bên Đông (ở bên trái đền An Dương Vương) gồm các làng: Văn Thượng, Ngoạt Sát và Thư Cưu, tập trung tại Chợ Sa.
Trong sân đền được bài trí cờ quạt rực rỡ và trải một hàng chiếu cạp điều làm chỗ để tế thần. Ngoài cửa đền có hai con ngựa gỗ (ngựa hồng, ngựa bạch) đứng chầu. Hai bên đường đi vào đền có các giá gỗ cắm cờ quạt và bộ bát bửu. Trước đền được đặt một hương án lớn, trên để hộp kính đựng đôi hia vàng và các đồ thờ. Trước hương án lớn là hương án nhỏ hơn trên đó có bày những khí giới của An Dương Vương như cung, kiếm, tên và nỏ.
Các đoàn rước đã đứng theo sự sắp xếp của ban tổ chức. Khi có tiếng trống lệnh phát ra, cả hai đoàn từ phía bên Tây và bên Đông cùng tiến vào đền Thượng, đến đầu hồ ở phía Tây nhập làm một, theo các thứ tự: Số 1: làng Văn Thượng, số 2: làng Mạch Tràng, số 3: làng Sàn Giã, số 4: làng Ngoại Sát, số 5: làng Đài Bi, số 6: làng Cầu Cả, số 7: làng Thư Cưu. Lần lượt theo số thứ tự các đoàn rước tiến vào sân rồng Đền Thượng:
- Số chẵn: 2, 4, 6 các kiệu để bên Tây của đền Thượng.
- Số lẻ: 1, 3, 5, 7 các kiệu để bên Đông khu đền Thượng.
Khi có tiếng trống lệnh tiếp theo, các đơn vị theo thứ tự tiến vào cung vua. Làng được vào tiến cung vua đầu tiên là “Anh Cả Quậy”. Như đã dẫn ở trước đó, Cả Quậy là làng gốc dân Cổ Loa. Khi An Dương Vương quyết dịnh chuyển kinh đô xuống mảnh đất Cổ Loa để xây dựng kinh thành thì đã chuyển dân Chạ Chủ vốn sinh sống ở đây từ trước đến vùng đất khác. Vì vậy, về sau vào những dịp hội Cổ Loa, đầu tiên vào cung tiến vua bao giờ cũng là Anh Cả Quậy. Điều này thể hiện lòng biết ơn, kính trọng đối với những người đi trước – một nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Sau phần tế, Hội Bát xã hộ nhi lần lượt tiến lễ bằng oản phẩm dâng nhà vua, thường gọi là “Thi lễ” cho Bát xã. Thông qua tục lệ này nhằm khuyến khích, động viên nhân dân của Bát xã thi đua lao động sản xuất, giữ gìn làng nghề truyền thống của quê hương, địa phương mình.
Nghi lễ mở đầu cho hội diễn ra trong không khí trang nghiêm, tôn kính mang tính tưởng niệm thiêng liêng, biết ơn An Dương Vương đã có công lao lớn trong sự nghiệp dựng nước và phát triển đất nước Âu Lạc trong 50 năm. Không chỉ riêng ở làng Cổ Loa hay các làng trong vùng thờ An Dương Vương, các làng khác trên đất nước cũng thờ cúng tưởng niệm. Nhưng chỉ khi về với Cổ Loa, du khách mới gặp được cả một không gian lễ hội hoành tráng và thiêng liêng để tưởng niệm vua An Dương Vương mà được sự tham gia, ủng hộ nhiệt tình từ phía nhân dân. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Hội Cổ Loa có thể được phác hoạ thông qua lược đồ lễ hội sau đây:
Ban Bài sáp – Dẹp đường – Đội nhạc trống – Đôi ngựa hồng – Đội múa cờ Đội rước bát bửu ( võ) – Hương án tiền (có bát hương đại) – Kiệu Cao Lỗ (có quạt che kiệu) – Đội múa cờ – Đội rước đồ đồng bát bửu – Đội nhạc bát âm – Đội rước các biển “Hồi tỵ” (tránh xa), “Tính Túc” (đi cho nghiêm túc) – Đội cầm cờ lệnh – Hương án cung nỏ thần (có Lọng vàng che trên) – Hương án long hài (có lọng vàng che trên) – Đội kiếm danh dự – Đội rước biển – Đội cờ lệnh – Kiểng và trống khẩu – Đội rước tàn vàng – Siêu đao – Cờ lệnh – Biển “Hồi tỵ” (tránh xa), “Tính Túc” – Kiệu vua An Dương Vương (Tán tía che màn và có màn che trên)
Kiệu bà chúa Mỵ Châu (Quạt – Tán tía, kiệu Thất phượng là kiệu võng, xung quanh có màn tua che) – Quan viên tế (100 người) – Đội cờ Văn Thượng (ngũ hành) – Đội phất cờ – Đội nhạc lễ – Đồ đồng bát bửu – Biển nghiêm túc – Đội cờ lệnh – tàn vàng – Kiệu Minh Đỉnh – Kiệu bát cống – Quan viên – Đoàn rước Mạch Tràng – Đoàn rước Sằn Giã – Đoàn rước Ngoại Sát – Đoàn rước Đài Bi – Đoàn rước Cầu cả – Đoàn rước Thư Cưu [13].
Sau các lễ thức tế, các làng vào đền làm lễ. Cuộc lễ kéo dài đến trưa mới xong. Lễ hội tiếp tục với phần rước thần.
- Đi đầu là cờ quạt rồi đến long đình, cùng với lộ bộ bát bửu.
- Tiếp theo là phường bát âm và các quan viên đội mũ tế áo thụng, đai hia, tay bưng các vũ khí của nhà vua.
- Liền sau đó là chức sắc và trai đinh xóm Chùa làng Cổ Loa khiêng long đình trên có bài vị của nhà vua; chức sắc và dân của các làng khác, mỗi làng rước kiệu của mình, với cờ quạt, phường bát âm riêng.
Toàn bộ đám rước rất dài, lại đi rất chậm, đàn sáo tưng bừng. Ðường đi bắt đầu từ đền Thượng vòng quanh giếng Ngọc rồi theo đường chân thành Nội tới đình Ngự Triều. Ði sau mỗi kiệu có 4 trai đinh mỗi người cầm một cây cờ đại, vừa đi vừa múa. Tới ngã tư ở cửa điếm làng Cổ Loa kiệu làng nào quay về làng ấy. Riêng kiệu của làng Cổ Loa thì quay vào Đình Ngự triều di quy, được đặt trước sân đình và dân Cổ Loa lại làm lễ thần lần nữa. Buổi chiều tế xong, kiệu được rước sang đền Thượng.
Các đoàn rước rộn ràng trong không khí tưng bừng của ngày lễ hội. Các làng hồ hởi đón các đoàn rước về đình làng. Kiệu được hạ xuống sân đình trong không khí trang nghiêm. Các làng để kiệu và tổ chức cho đến hết ngày hội.
Sau ngày hội chính, các làng cũng tổ chức hội riêng ở làng mình.: làng Văn Thượng ngày mùng 8, làng Đài Bi và làng Ngoại Sát vào ngày mùng 9, làng Mạch Tràng ngày mùng 10, làng cầu Cả ngày 11 và làng Thư Cưu ngày 16.
Riêng làng Cổ Loa ngày mùng 6 tháng Giêng cũng là ngày hội chính của làng; còn làng Sằn Giã vì là một làng nhỏ nên không tổ chức hội riêng. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Để hội làng diễn ra được, người dân các làng đều đóng góp theo khẩu phần ăn và nhờ sự tài trợ của các cá nhân hay gia đình có điều kiện.
Ngày nay, tuy cuộc sống có nhiều bộn bề, tất bật nhưng dân làng ở vùng đất Cổ Loa vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của địa phương bằng việc hàng năm tái hiện lại lễ hội Cổ Loa. Việc tổ chức một hội lớn như vậy thể hiện sự nỗ lực, quan tâm của chính quyền, các ban ngành, đoàn thể cùng với những người dân trong làng Cổ Loa và các làng khác trong tám làng xã. Tất cả những việc làm trên là đều hướng đến điều thiện, sự thiêng liêng, thành kính và lòng biết ơn đối với công lao của những thế hệ cha ông đi trước.
2.2.2.2. Phần hội
Đến với lễ hội Cổ Loa, du khách không chỉ được hòa trong không khí thiêng liêng của các nghi thức tế lễ mà còng được đắm mình trong các trò chơi dân gian truyền thống và hiện đại.
Các trò chơi dân gian được tổ chức tại đây là bắn nỏ, đánh đu, chọi gà, đánh vật, chơi cờ người, kéo co, leo dây, ném còn …, nhằm tái hiện lại không gian sống một thời dưới đời vua An Dương Vương; thu hút rất nhiều thanh niên tham gia tạo không khí vui tươi, rộn ràng trong ngày hội của làng.
Ngoài các trò chơi, còn có các cuộc vui văn nghệ. Những ai yêu thích những điệu chèo hay hát giao duyên, dân ca Quan họ , thiết tha và đầy tình tứ của các liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc thì về với Cổ Loa dịp lễ hội sẽ được thưởng thức tại Hồ bán nguyệt trước đền Thượng. Có năm hội còn có cả chương trình múa rối nước rất hấp dẫn sự quan tâm của mọi người.
Một điều thú vị thu hút du khách đến với hội Cổ Loa là ẩm thực. Tại đây, mọi người có thể tham gia thi nấu các món ăn truyền thống đặc trưng của vùng, ngoài Bỏng chủ thì món bún cần cũng được chú trọng. Loại bún ở Cổ Loa không giống với các loại bún khác, bởi cách thức và công đoạn làm ra. Nước dùng để làm bún thì được lấy từ Giếng Trọng Thủy, tạo nên một thứ bún không trắng ngần như thường thấy; mà sợi bún hơi đen và dai hơn, thường được dùng kèm với nem cuốn sống hay đậu phụ chấm mắm tôm. Tương truyền bún cần có từ thời An Dương Vương, tại lễ ăn hỏi công chúa Mỵ Châu. Món bún xào cần là món ăn không thể thiếu trong dịp ăn “sêu” và dịp lễ hội ở Cổ Loa (ăn sêu là ngày Triệu Đà đem lễ vật ăn hỏi công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy, cả kinh thành Cổ Loa mở tiệc ăn mừng vào ngày 13 tháng Tám). Ngày nay, vào ngày này, người dân Cổ Loa vẫn tổ chức ăn mừng ngày công chúa Mỵ Châu ăn sêu vui vẻ: Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
- “Mười ba tháng Tám cả thành Loa
- Ăn sêu chúa Mỵ chọn chồng Tần
- Cầm sắt đương nồng, dây đứt nhịp
- Vui buồn sáo trộn cổ kinh Loa”.
Ngoài đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, còn có đền thờ vua (Đền Cuông) ở chân núi Mộ Dạ, thuộc tỉnh Nghệ An; song mỗi khi nhắc đến đời An Dương Vương, người dân thường nhớ đến mảnh đất Cổ Loa lịch sử. Đến với làng Cổ Loa vào dịp hội là thời điểm hợp lý để tìm hiểu về những nét văn hóa hay giá trị lịch sử. Những ngày lễ hội tại đền Thượng cũng là ngày nhân dân trong vùng nói riêng và du khách thập phương nói chung có dịp ôn lại lịch sử đánh giặc giữ nước của tổ tiên; chiêm ngưỡng những di sản văn hóa còn lại của kinh thành cũ và đặc biệt là tham gia vào các trò chơi dân gian hấp dẫn trong lễ hội.
2.2.2.3. Ý nghĩa của lễ hội
Từ xa xưa cho đến ngày nay, lễ hội đã trở thành một nét đẹp truyền thống của từng vùng miền trên khắp đất nước Việt. Hội được tổ chức để tưởng nhớ những người có công với làng, với nước; thể hiện những nét văn hóa, giá trị lịch sử đặc trưng cho vùng miền. Hội Cổ Loa cũng mang những ý nghĩa tốt đẹp đó.
Hòa trong không khí của những ngày đầu xuân, hội Cổ Loa được tổ chức với quy mô lớn có sự tham gia của tám làng xã. Bằng các nghi lễ, hội đã tái hiện đầy sinh động các nét đẹp văn hóa, lịch sử cùng với đặc sản riêng của vùng. Đây là dịp mọi người có thể cùng nhau tham gia vào sinh hoạt chung mang tính gắn kết cộng đồng, để làm lên sự thành công của lễ hội đòi hỏi mọi người phải đoàn kết, cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Hội Cổ Loa được tổ chức nhằm ghi lại những dấu ấn của một mảnh đất đã hai lần được vinh dự làm kinh đô của đất nước; thể hiện tấm lòng thành kính, biết ơn công lao của An Dương Vương đã xây dựng và gìn giữ đất nước Âu Lạc trong vòng 50 năm; giúp cho các thế hệ sau có thể tự hào về tổ tiên, các bậc cha ông và ý thức được tầm quan trọng của việc gìn giữ, phát huy những truyền thống của đời trước để lại.
2.2.3. Phong tục tập quán Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Nền văn hóa truyền thống của người Việt được hình thành trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp mà cụ thể là văn minh lúa nước. Cuộc sống của mỗi người dân Việt đều gắn bó mật thiết với xóm làng, quê hương với những hình thức, thói quen sinh hoạt, văn hóa khác nhau, được con người lưu truyền từ đời này sang đời khác. Từ đó, hình thành các phong tục tập quán mang tính truyền thống rõ nét riêng có của từng vùng.
2.2.3.1. Tục trọng lão
Cũng giống như các tục lệ của làng khác, luôn coi trọng những người cao tuổi. Người con trai ngay từ khi còn bé cho đến lúc cao tuổi nhất đều vào giáp để tham gia các công việc của làng. Tùy từng lứa tuổi mà tham gia vào ngôi thứ của làng. Tuổi được trọng vọng nhất là những người có tuổi cao, bậc cao niên nên làng có tục khao lão hay lên lão làng Cổ Loa, tuổi lên lão là 60. Những người có độ tuổi lên lão được coi là những người trai đinh đã hoàn thành nhiệm vụ với làng, với nước, không phải gánh việc làng theo đơn vị giáp, không phải gánh thuế thân, được ngồi chiếu trên để hưởng quyền lợi, lên cao hơn là cụ thượng. Theo bản hương ước lập lại vào năm 1942, có quy định số tiền nộp khao: Đối với hương lão 50 tuổi, có lễ khao gồm 5 đồng, 1 buồng cau và hai chai rượu, đối với hương lão 61 tuổi trở lên có lễ khao là 2 chai rượu và 1 buồng cau. Đây cũng được coi là một nét đẹp của truyền thống văn hóa“ Kính già, già để tuổi cho” hay “Kính lão đắc thọ”.
2.2.3.2. Tục kết nghĩa
Tục kết nghĩa ở làng Cổ Loa vừa mang những nét chung của kết nghĩa làng xã, vừa có những nét độc đáo riêng.
Trước Cách mạng, làng đã kết nghĩa với làng dân Chạ Chủ gốc là làng Quậy (nay thuộc xã Liên Hà). Xóm Thượng làng Cổ Loa kết nghĩa với làng Thư Cưu và làng Lương Quán. Hình thức kết nghĩa mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, trở thành mỹ tục được lưu truyền cho đến ngày nay. Nét đẹp này được hình thành và cũng xuất phát từ nhiều lý do và các đặc điểm sau:
Những người dân của làng gọi người của làng kết chạ với mình (xét theo bình diện cá nhân hay cũng như cả cộng đồng) là “Quan anh” và xưng mình là “em” hay “bên em”.
Xét theo quan hệ hôn nhân thì trai gái hai bên không được phép yêu nhau và đi đến hôn nhân; bởi khi kết nghĩa với nhau thì cũng như anh em trong một nhà. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Vào mỗi mùa lễ hội của làng hay những ngày thờ thần được tổ chức hàng năm, cũng là dịp để hai bên làng kết nghĩa với nhau có cuộc giao lưu, thăm viếng qua lại. Tinh thần đoàn kết anh em còn được thể hiện rõ nét trong dịp hai bên có công to việc lớn như: Dựng, sửa chữa đình đền, đắp đê, xây dựng các công trình thủy lợi…; hoặc những lúc có khó khăn, hoạn nạn (hỏa hoạn, mất mùa đói kém, gặp thiên tai lũ lụt) đều được bên “Quan anh” đến chia sẻ hay giúp đỡ, dù có lời mời hay không. Chẳng hạn, xóm Thượng làng Cổ Loa do đông đinh, lại cận cư, cận canh nên luôn giúp làng Thư Cưu trong việc bảo vệ an ninh và tổ chức tang lễ cho người mất.
Khi gặp phải các xích mích thì hai làng thường giải quyết bằng cách nhường nhịn, tự nhận lỗi và phần thiệt về mình. Nếu như mâu thuẫn đến mức độ lan rộng hơn, ảnh hưởng đến “Quan anh” thì làng phải đứng ra xin lỗi “Quan anh” hoặc cá nhân hay chính người gây ra lỗi, phiền phức thì có trách nhiệm chịu trách phạt của dân làng.
Ngoài ra, bên cạnh việc các làng kết chạ với nhau thì ở ngay trong các xóm, thôn cũng duy trì hình thức này. Và ở làng Cổ Loa là một điển hình và tiêu biểu. Đây có thể coi là một nét đẹp tạo tính đoàn kết không chỉ cho những người dân ở trong thôn, xóm của làng Cổ Loa mà còn mang tính gắn kết cộng đồng với những làng khác trong vùng. Chính bởi điều này, hình thức kết chạ vẫn được duy trì cho đến ngày nay.
2.3. ĐÁNH GIÁ CÁC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ – VĂN HÓA LÀNG CỔ LOA
2.3.1. Giá trị lịch sử
Khu Di tích Cổ Loa là một trong những minh chứng sống cho lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông trên mảnh đất lâu đời này. Ngôi làng này từ khi ra đời đến nay đã chứng kiến nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử.
Khi An Dương vương từ Bạch Hạc (Phú Thọ) xuống đồng bằng đã chọn mảnh đất Cổ Loa làm kinh đô, cho xây dựng thành Cổ Loa hay Loa thành. Đây là một công trình có giá trị lịch sử to lớn, không chỉ của riêng của làng Cổ Loa mà nó còn có ý nghĩa lớn đối với đất nước. Loa thành được xây dựng đã đánh dấu sự thay đổi lớn của một đất nước. Nếu dưới thời các Vua Hùng, kinh đô được đặt ở trên vùng núi thì dưới thời An Dương Vương lại đặt ở vùng đồng bằng. Đó là một quyết định đúng đắn của vua vì đồng bằng có nhiều điều kiện thuận lợi cho nhân dân sinh sống, trồng cấy. Trong bài viết về “Di tích Cổ Loa”, TS. Nguyễn Doãn Tuân viết: “Thành Cổ Loa là tòa thành có niên đại cổ nhất ở Việt Nam được xây dựng vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc. Thành gắn liền với những truyền thuyết kỳ thú của người Việt, về An Dương Vương định đô xây thành, về nỏ thần Kim Quy bắn một phát hạ hàng trăm tên giặc, về mối tình bi thương và cảm động của Mỵ Châu – Trọng Thủy…Từ bao đời nay, dấu vết của ngôi thành cổ này cùng với những nhân vật được huyền thoại hóa đã đi vào tiềm thức của người dân Việt Nam”. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Bên cạnh các diễn biến lịch sử cũng phải kể đến những nhân vật gắn liền với giá trị lịch sử đó. Đó là An Dương Vương – người có công trong việc xây dựng và phát triển nhà nước Âu Lạc trong vòng 50 năm; thần Cao Lỗ có công trong việc chế tạo nỏ thần giúp vua chống giặc. Những nhân vật này được nhân dân trong vùng thờ trong các đền, đình để ghi nhớ công lao đối với làng và đất nước. Đây là nơi đã chứng kiến mối tình đẹp của công chúa Mỵ Châu với Trọng Thủy, tuy mối tình đó dẫn đến họa mất nước, bi thương nhưng rất cảm động lòng người.
Ngày nay, trong khu Di tích vẫn còn giữ lại được nhiều đoạn tường thành. Chúng là điểm nhấn, dấu ấn thu hút mỗi du khách đến với làng Cổ Loa, bởi vẻ rộng lớn của vòng thành và các ngôi đình, đền đượm vẻ đẹp truyền thống của kiến trúc Việt Nam.
2.3.2. Giá trị tâm linh
Trong đời sống cộng đồng ở các vùng quê, yếu tố tâm linh luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng.
Nét độc đáo trong đời sống tâm linh của người dân làng Cổ Loa thể hiện rõ nét ở tính phức hợp của tín ngưỡng và tục lệ, tập quán, thể hiện rõ nét ở hệ thống thờ cúng trong quần thể Di tích đình, đền, am và chùa làng.
Đền thờ An Dương Vương được xây dựng dựa trên những quan niệm về tín ngưỡng cổ truyền và theo phong thủy“Tụ phúc, Tụ thủy, Tụ Linh”. Người được tôn vinh ở ngôi đình này là An Dương Vương cùng với các tướng lĩnh có công với đất nước. Đặc biệt, trong đền thờ chiếc nỏ thần – một vũ khí quan trọng, thần kỳ và hiệu nghiệm trong chiến đấu. Cũng trên đền Thượng còn có nhà bia với những tấm bia ghi lại được những diễn biến hay sự kiện xảy ra ở làng Cổ Loa. Tại ngôi đền này cũng là nơi tổ chức Hội bát xã vào ngày mùng 6 tháng Giêng. Những điều trên cũng hiểu được sự quan tâm và lòng biết ơn của người dân đối với những thế hệ cha ông đi trước.
Chùa Cổ Loa không chỉ thông thường là thờ phật như các ngôi chùa khác mà còn thể hiện được các quan niệm về sinh tử và tín ngưỡng của người Việt. Đó là việc thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào – Bắc Đẩu, Thập Điện Diêm Vương. Ngoài ra, quan niệm này còn được thể hiện ở việc thờ Mẫu, thờ Thánh. Ngôi chùa này, có giá trị cao về nghệ thuật thẩm mĩ và lịch sử. Bởi không chỉ thờ Phật mà còn là nơi hội tụ hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng, nơi thể hiện cái tinh túy của tư tưởng nhân nghĩa, tránh xa cái xấu, cái ác để cuộc sống tốt đẹp và có ý nghĩa.
Ngày nay, các di tích đình, đền, chùa của làng Cổ Loa còn lưu giữ khá nguyên vẹn. Đó chính là một minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt của các vị thần linh trong đời sống tâm linh của người Cổ Loa. Điều này chứng tỏ người dân nơi đây luôn hướng đến các vị thần linh – những vị thần thiêng liêng luôn che chở, bảo vệ cho cuộc sống của họ được an lành và may mắn. Qua đó, cũng thể hiện đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam “Uống nước, nhớ nguồn”, biết ơn đến tổ tiên; đồng thời có ý nghĩa giáo dục ý thức cho cộng đồng và cho các thế hệ trẻ biết đến công lao của cha ông để từ đó kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương mình.
Trải qua các quá trình phát triển của đất nước, đời sống của dân làng Cổ Loa có nhiều đổi thay; nhưng các giá trị tâm linh và vẻ đẹp truyền thống vẫn còn giữ tương đối nguyên vẹn; trở thành một nét đẹp mang đặc trưng và sắc thái riêng có ở ngôi làng cổ này. Đây cũng chính là yếu tố tạo nên một sức hấp dẫn đặc biệt để thu hút khách thập phương đến với mảnh đất Cổ Loa giàu giá trị văn hóa và lịch sử.
2.3.3. Giá trị cộng đồng Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Tính cố kết, gắn bó cộng đồng là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi làng xã. Yếu tố này giúp cho con người gần gũi, quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc khó khăn; làm cho cuộc sống có ý nghĩa và tốt đẹp hơn.
Hệ thống di tích làng Cổ Loa khá phong phú. Để có được những công trình như vậy đòi hỏi sự đồng lòng, cùng hợp sức xây dựng mới có được. Điều này thể hiện rõ tính cộng đồng của con người trên mảnh đất này. Khi An Dương Vương chọn Cổ Loa là nơi đặt kinh đô, dựng thành – một công trình kiến trúc cổ mang tầm cỡ lớn. Sau này, dưới thời phong kiến, làng đã khởi dựng được một hệ thống các di tích với quy mô khá lớn: đền Thượng (đền An Dương Vương), đình Cổ Loa (đình Ngự triều di quy), am Mỵ Châu (am Bà chúa), chùa Bảo Sơn, nhà bia, đền thờ Cao Lỗ…Để có được công trình kiến trúc này, ngoài ngân sách của triều đình, phần lớn đều từ sự đóng góp công của của cộng đồng – từ người đang sống ở làng đến những người dân đi nơi khác. Khi xây dựng đền An Dương Vương, người đóng góp nhiều nhất là ông Hoàng Công Tài cùng hai người vợ là Nguyễn Thi Vinh và Phạm Thị Huyên, góp 75 quan; Trong đó, tổng số tiền đóng góp của người dân trong làng là 549 quan 3 mạch 76 tiền. Những đóng góp này được ghi trên các bia đá, chuông đồng. Để giữ gìn được hệ thống các di tích đến ngày nay cũng là do ý thức của chính quyền, của cộng đồng địa phương đã bảo quản, tu bổ và tôn tạo.
Vào dịp đầu xuân, hầu hết các làng đều nhộn nhịp tổ chức các hội. Lễ hội dân gian truyền thống luôn là một nét đẹp độc đáo, thu hút được rất nhiều người tham gia. Điều này, thể hiện rõ tính gắn kết cộng đồng. Đến với hội làng Cổ Loa cũng vậy. Vào ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm, các làng lại tưng bừng, nô nức trong không khí của mùa lễ hội. Những người con xa quê hương vì bận rộn cho cuộc sống, cho công việc cả một năm vào những ngày đầu xuân có dịp về sum họp với gia đình và tham dự hội lớn của làng mình. Hội không chỉ là dịp để cho người dân tưởng nhớ đến vua, đến những người có công với làng, với đất nước, tổ tiên , những thế hệ cha ông đi trước mà còn là dịp tất cả những người con của vùng đất này có cơ hội để hội họp, sum vầy trong một không khí sắc xuân tươi vui và ước mong cho một năm mới với may mắn, được mùa và hạnh phúc. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
Trong chính cuộc sống hàng ngày với những phong tục, tập quán của mỗi gia đình, dòng họ, thôn xóm, cùng với nhiều nghi thức lễ tục, hương ước… phản ánh được cách thức tổ chức chặt chẽ, quy củ của cộng đồng làng xã và đặc biệt là ý thức của mỗi người dân đối với cộng đồng. Từ đó, hình thành nên bản sắc riêng tại làng Cổ Loa. Đó là việc luôn đề cao người lao động chân chính, trọng người hiền tài, trọng việc học, gắn kết cộng đồng, biết ơn tổ tiên, coi trọng nếp sống có phép tắc, gia phong…
2.4. Tiểu kết chương 2
Cổ Loa là làng quê tiêu biểu cho làng xã xứ Kinh Bắc, hội tụ nhiều nét đẹp đặc trưng là hệ thống di tích được gắn liền với những diễn biến lịch sử – văn hóa, đến các nhân vật lịch sử của làng nói riêng và của cả đất nước nói chung. Cuộc sống có nhiều thay đổi, nhưng các hình ảnh rất đỗi thân quen của một vùng nông nghiệp, hình ảnh thân thiện và gần gũi của người dân nơi đây như níu chân du khách đến tham quan và tìm hiểu về ngôi làng lịch sử này.
Một nét độc đáo, tạo nên điểm nhấn riêng có ở làng Cổ Loa là hội Cổ Loa với sự tham gia của Bát xã (8 xã) trong vùng, diễn ra tại đền Thượng của làng Cổ Loa. Hội Cổ Loa được kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng dân gian như Đạo giáo, Phật giáo…Đây là một lễ hội lớn thu hút nhiều sự quan tâm không chỉ riêng của người dân trong vùng mà còn khách thập phương từ các nơi đổ về dự hội, tạo không khí nô nức, tưng bừng sống động cả một vùng. Với một bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, mỗi người con của vùng đất này có quyền tự hào về quê hương của mình. Để từ đó, có tinh thần tự giác và ý thức trong việc bảo vệ, giữ gìn những giá trị tốt đẹp của làng. Như vậy, làng Cổ Loa có một tiềm năng phát triển du lịch nếu biết tổ chức và đầu tư quy hoạch hợp lý, để nơi đây trở thành một điểm du lịch văn hóa hấp dẫn du khách đến tham quan và tìm hiểu. Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Vấn đề khai thác giá trị lịch sử văn hóa làng Cổ Loa
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa […]