Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khai thác các giá trị lịch sử – văn hóa của làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội phục vụ phát triển du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ khi đất nước thực hiện công cuộc Đổi mới, du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, vừa mang lại hiệu quả về kinh tế – xã hội cao; vừa góp phần quảng bá hình ảnh và các giá trị lịch sử – văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Hoạt động du lịch trên thế giới đang diễn ra những thay đổi quan trọng. Các nước đang phát triển và mới phát triển đang mở rộng các loại hình du lịch văn hóa và du lịch sinh thái, bởi có nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn. Thiên nhiên thu hút du khách bởi vẻ hoang sơ, kỳ bí; còn tài nguyên nhân văn mang đến nét cổ kính, truyền thống lâu đời, riêng có của mảnh đất đó.
Việt Nam có tài nguyên du lịch phong phú, được thiên nhiên ưu đãi ban tặng nhiều danh lam thắng cảnh, có bề dày lịch sử – văn hóa hàng nghìn năm. Đây là điều kiện để phát triển nhiều loại hình du lịch, trong đó có loại hình du lịch du khảo đồng quê.
Cuộc sống công nghiệp và đô thị với những bộn bề, áp lực của công việc khiến con người luôn muốn trở về và hòa mình với thiên nhiên, đến các làng quê ngoại thành là một lựa chọn hợp lý. Chính vì thế, du lịch văn hóa làng đang trở thành phổ biến. Mỗi ngôi làng đều chứa đựng rất nhiều giá trị văn hóa, lịch sử khác nhau, mang đậm bản sắc riêng. Hầu hết các làng đều có hệ thống di tích đình, đền, chùa…gắn liền với đó là lễ hội, các trò chơi dân gian, phong tục tập quán phản ánh rõ cuộc sống, lao động và chiến đấu của người dân, qua đó cũng thể hiện ước nguyện, mơ ước đến những giá trị tốt đẹp chân – thiện – mỹ và điểm đặc biệt là còn chứa đựng các diễn biến, dấu tích thời kỳ lịch sử. Những yếu tố truyền thống đó, là nét hấp dẫn, thu hút du khách đến để tìm hiểu, nghiên cứu và tham quan du lịch.
Trong hàng vạn ngôi làng lớn nhỏ trên vùng đồng bằng Bắc Bộ, làng Cổ Loa từ xưa đã nổi danh trong sử sách. Đây là ngôi làng cổ được hình thành từ thuở các Vua Hùng, hai lần chọn làm Kinh đô của đất nước, có hệ thống các di tích phong phú, có hội “bát xã hộ nhi” phản ánh rất rõ nét truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời. Đây còn là một làng quê có bề dày truyền thống cách mạng. Ngày nay, Cổ Loa có nhiều thay đổi cùng với quá trình CNH – HĐH, từ một ngôi làng làm nông đã đang dần chuyển sang công – thương nghiệp. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Những điểm nổi bật mang đặc trưng riêng của làng Cổ Loa là một nét hấp dẫn lớn thu hút nhiều du khách đến tham quan. Việc khai thác các giá trị của hệ thống di tích và lễ hội còn mang một ý nghĩa lớn trong dịp kỷ niệm mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội vừa qua.
Hoạt động du lịch phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị tiềm năng sẵn có của vùng đất Cổ Loa không chỉ góp phần phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa mà còn có ý nghĩa giáo dục và nâng cao ý thức cho cán bộ, nhân dân hiểu được các giá trị tốt đẹp này; từ đó giữ gìn và phát huy những truyền thống vô cùng quý báu của cha ông để lại.
Chính vì những lý do trên, em đã chọn đề tài:“ Khai thác các giá trị lịch sử – văn hóa của làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội phục vụ phát triển du lịch” làm khóa luận tốt nghiệp.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA KHÓA LUẬN
- Làm rõ các giá trị lịch sử – văn hóa của làng Cổ Loa có giá trị phục vụ phát triển du lịch; bao gồm: các di tích đình, đền, am, chùa, các giá trị về tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống….
- Đưa ra một số luận cứ khoa học để chính quyền xã Cổ Loa, các ban ngành có liên quan của huyện Đông Anh (thành phố Hà Nội) tham khảo trong việc khai thác các giá trị văn hóa lịch sử của vùng phát triển du lịch; góp phần phát triển kinh tế, xây dựng ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống đậm chất riêng của làng Cổ Loa.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA KHÓA LUẬN
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hệ thống các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội truyền thống, các phong tục tập quán truyền thống của làng Cổ Loa có giá trị phục vụ phát triển du lịch.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Khóa luận nghiên cứu chính ở làng Cổ Loa, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội; kết hợp khảo sát sơ bộ một số di tích, lễ hội có liên quan ở các làng phụ cận.
- Về thời gian: Khóa luận xem xét, tìm hiểu các thành tố văn hóa truyền thống của làng Cổ Loa còn tồn tại và lưu giữ đến ngày nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Khóa luận được viết trên cơ sở sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và phát triển du lịch.
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn hóa học, Sử học, Dân tộc học; trong đó, phương pháp chủ yếu là điền dã dân tộc học để thu thập các tư liệu.
Khóa luận còn sử dụng phương pháp hệ thống để phân tích các hiện tượng cần nghiên cứu, đánh giá các giá trị truyền thống của làng Cổ Loa.
5. NGUỒN TƯ LIỆU CỦA KHÓA LUẬN
Nguồn tư liệu của khóa luận được xây dựng trên cơ sở thực tế điền dã, kết hợp kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu về các giá trị lịch sử, văn hóa làng Cổ Loa đã được công bố từ trước đến nay.
6. BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Khóa luận được chia làm 3 chương :
- Chương 1: Giới thiệu về làng Cổ Loa.
- Chương 2: Các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa.
- Chương 3: Vấn đề khai thác các giá trị lịch sử – văn hóa làng Cổ Loa phục vụ phát triển du lịch trong thời gian qua
Chương 1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LÀNG CỔ LOA
1.1. ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Cổ Loa là tên của một thôn (làng) thuộc xã Cổ Loa – một trong 24 xã, thị trấn của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay.
Xã Cổ Loa gồm 5 thôn (tức làng cũ): Cổ Loa (Chạ Chủ), Cầu Cả (hay Cầu Kỳ), Mạch Tràng (hay Mạch Dương), Thư Cưu và Sàn Giã (làng Sằn).
Từ trung tâm Hà Nội, qua cầu Chương Dương, theo Quốc lộ 1A cũ, đến cây số 10 là Cầu Đuống. rẽ trái vào Quốc lộ 3, đi khoảng 5 km đến ngã ba, rẽ phải vào đường Đào Duy Tùng, đi tiếp 2 km nữa là đến làng Cổ Loa.
Nếu du khách đi xe buýt thì từ bến xe Mỹ Đình, có thể bắt xe số 46 đi đến thẳng bến xe Cổ Loa và từ đó sẽ thuận tiện cho quý khách tham quan làng. Hoặc từ trạm xe buýt Long Biên, các xe đi Phù Lỗ, Đa Phúc đều có chạy ngang qua Cổ Loa, đi bộ thêm 1 km là đến làng Cổ Loa. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Nếu đi tàu hỏa từ ga Hà Nội, đến Đông Anh, xuống ga Tiên Kiều cũng đến địa phận làng Cổ Loa.
Từ Hải Phòng, có thể đi theo Quốc lộ 5 qua Hải Dương, Hưng Yên đến đầu Long Biên, rẽ vào đường đi Từ Sơn Bắc Ninh thuộc quốc lộ 1A cũ, đến Cầu Đuống đi tiếp vào làng – như con đường đã nêu ở trên.
Làng Cổ Loa nằm ven Quốc lộ 3, cách thị trấn huyện lỵ Đông Anh 3 km về phía Nam, cách trung tâm Thủ đô 18 km về phía Bắc. Xã Cổ Loa nằm gọn trong một vùng được giới hạn và có vị trí địa lý như sau:
- Phía Bắc: Vĩ độ 21015 ( xã Thụy Lâm), tiếp giáp với xã Uy Nỗ.
- Phía Nam: Vĩ độ 21005 ( xã Mai Lâm), tiếp giáp xã Mai Lâm và Đông Hội.
- Phía Đông: Kinh tuyến 105050 (thôn Ngọc Lôi, xã Dục Tú), giáp hai xã Việt Hùng và Dục Tú.
- Phía Tây: Kinh tuyến 105055 (thôn Cổ Dương, xã Tiên Dương), giáp hai xã Vĩnh Ngọc và Xuân Canh.
Vào thời Âu Lạc, làng Cổ Loa nằm vào vị trí “Thượng đỉnh” của tam giác châu thổ Sông Hồng (cách đỉnh Việt Trì khoảng 35km theo đường chim bay, cách biển 65km) là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Theo các nhà địa lý, tam giác Châu thổ Sông Hồng chia làm ba vùng: vùng cao, vùng giữa, vùng thấp. Cổ Loa nằm ở vùng đất cao phía Tây Bắc của tam giác này.
Về đường thuỷ, Làng Cổ Loa có vị trí tương đối thuận lợi. Cổ Loa nằm giữa sông Cà Lồ (về phía Bắc) và sông Đuống, phía Đông và phía Bắc được ngăn chặn bởi một vùng đầm lầy vực sâu tự nhiên, xa xưa là những dải rừng cây hoang dại. Phía nam có con sông Thiếp (hay sông Hoàng Giang) bao bọc, thuở xưa là một nhánh lớn của sông Hồng, chảy qua 5 huyện của vùng trung du và châu thổ (Yên Lãng, Yên Phong, Đông Ngàn, Tiên Du và Vũ Giang) hay còn gọi là Ngũ Huyện Khê đổ nước vào sông Cầu ở vùng Quả Cảm – Thổ Hà (giáp giữa huyện Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh và huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang). Như vậy, sông Ngũ Huyện Khê nối Cổ Loa với vùng trung du và đồng bằng lân cận. Với địa hình đường thuỷ trên, Cổ Loa có thể dễ dàng cho tàu bè thông thương đi lại và hình thành những bãi đất bồi để trồng hoa màu.
Về đường bộ, làng Cổ Loa cũng rất thuận lợi bởi làng có Quốc lộ 3 (Hà Nội – Thái Nguyên) chạy qua, xưa kia là đường Thiên lý từ vùng núi chạy về kinh đô Thăng Long. [14, Tr. 21].
Như vậy, với vị trí thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ, làng Cổ Loa có điều kiện để giao lưu với các địa phương khác trong và ngoài huyện, đồng thời có khả năng để phát triển kinh tế – xã hội.
Đầu thế kỷ thứ XIX, Cổ Loa là một làng, cũng là một xã lớn thuộc tổng Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ năm Minh Mạng thứ 12 – 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh) [22].
Năm Tự Đức thứ 29 (1876), cả tổng Cổ Loa được tách khỏi huyện Đông Ngàn, để lệ thuộc huyện Đông Anh mới được thành lập (theo Đại Nam thực lục). Từ tháng 10 – 1901, huyện Đông Anh thuộc tỉnh Phù Lỗ (tháng 2 – 1904, đổi tên thành tỉnh Phúc Yên [15, tr. 284]. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Cổ Loa hợp nhất với các làng bên thành một xã mang tên Thục Vương thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. Năm 1949, hợp nhất xã Thục Vương với xã Đạt Tam, thành xã Hồng Lạc, sau đó lại đổi thành xã Độc Lập. Từ năm 1950, xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. [3, tr. 177].
Sau Cải cách ruộng đất (năm 1956), xã Độc Lập được chia thành hai xã, trong đó có xã Quyết Tâm gồm các thôn: Cổ Loa, Cầu Cnả, Mạch Tràng, Thư Cưu, Sàn Giã và Đài Bi (thôn này từ năm 1970 cắt sang xã Uy Nỗ).
Ngày 20 – 04 – 1961, Quốc hội khoá II, kỳ họp thứ hai ra nghị quyết về việc mở rộng thành phố Hà Nội. Thực hiện nghị quyết này, ngày 31- 5 – 1961, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 78 – CP về việc tổ chức các đơn vị hành chính của thủ đô Hà Nội. Theo đó, xã Quyết Tâm cùng 22 xã khác của huyện Đông Anh (gồm 17 xã cũ của huyện Đông Anh và 6 xã của huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nhập về) được chuyển về Hà Nội [3, tr.181, 336]. Tháng 10 – 1965, xã Quyết Tâm được đổi thành xã Cổ Loa.
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LÀNG CỔ LOA
Trong mấy chục năm qua, các kết quả khai quật khảo cổ học đã khẳng định Cổ Loa là một trong những điểm sinh tụ đầu tiên của người Việt Cổ. Hình thức cư trú lúc đó là Chạ (Chạ Chủ), giống như Làng. Về sau, cách gọi Chạ Chủ đã được Việt hoá thành Khả Lũ hay Loa Thành. [1].
Cổ Loa là vùng có bề dày lịch sử và truyền thống văn hoá. Nơi đây từng được chọn làm đất dựng đô. Vào thế kỷ thứ III – Trước Công nguyên, lần đầu Cổ Loa là Kinh đô của nước Âu Lạc dưới thời Thục Phán An Dương Vương, với Loa thành kiêng cố và chiếc nỏ thần hữu hiệu, uy linh, thời kỳ này đã thúc đẩy nền văn hóa Đông Sơn và nền văn minh lúa nước phát triển đến đỉnh cao. Cổ Loa còn được biết đến nhiều hơn với những phát hiện khảo cổ suốt mấy chục năm qua như kho mũi tên đồng, trống đồng, lưỡi cày đồng, chứng minh làng được hình thành từ thời các Vua Hùng dựng nước.
Hiện nay, rất khó để xác định được nguồn gốc xuất xứ của làng Cổ Loa, không rõ từ sau khi dân Chạ Chủ gốc phải rời đi để xây Loa thành và sau thất bại của Vua An Dương Vương trước âm mưu thâm hiểm của Triệu Đà cho đến đầu thế kỷ XV, các lớp dân cư chuyển đến sinh sống tại Cổ Loa ra sao [14, tr.40].
Cũng có rất nhiều nguồn khác nhau tìm hiểu về sự hình thành làng Cổ Loa, có thể nhận thấy được một đặc điểm chung giữa các tư liệu là đều dựa chủ yếu vào việc vua An Dương Vương lập ra nhà nước Âu Lạc, sau đó dời đô từ Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ) xuống Cổ Loa, rồi vua cho xây dựng thành Cổ Loa kiêng cố, vững chắc.
Theo các bậc cao niên trong làng, trước khi vua An Dương Vương chọn Cổ Loa làm kinh đô, vùng đất Cổ Loa đã có người dân sinh sống. Để lấy đất xây thành Loa thành, An Dương Vương và triều đình đã buộc người dân sinh sống tại đây di dời xuống vùng đất trũng ở cuối sông Hoàng Giang, nay là các thôn Đại Vĩ, Giao Tác và Châu Phong, thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh.
Làng Cổ Loa là trung tâm của thành và làng có lập chợ Sa, khu vực chợ Sa là nơi đón thủy quân lên thành, trước kia có nhiều di tích liên quan đến điểm quan trọng này trong thành: hai Cầu Dấu tục truyền là nơi đóng dấu quân lính ra vào, một cầu cung (Đông cung) là nơi tập hợp quan từ hào lên. Cổ Loa khi đó, là thị thành đầu tiên của dân tộc Việt, là trung tâm trao đổi kinh tế, văn hóa, trung tâm hội tụ văn minh, một đô thị nông nghiệp, luyện kim và giao dịch. Như thế, có thể thấy được thế mạnh cũng như tầm quan trọng của làng Cổ Loa trong thời kỳ xưa. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Xoay quanh tên làng Cổ Loa có nhiều sách giải thích khác nhau. Trong cuốn “Đất nước Việt Nam qua các đời”, khi trình bày về nước Âu Lạc và vấn đề Loa Thành, Giáo sư Đào Duy Anh viết như sau:
“Thành An Dương Vương là ở làng Cổ Loa, huyện Đông Anh thuộc Hà Nội ngày nay, thành ấy xây hình trôn ốc cho nên được gọi là Loa Thành. Thuỷ kinh chú thì nói rằng trong huyện Bình Đạo có dấu cũ cung thành của An Dương Vương… Mãi đến thế kỉ thứ XV người ta mới thấy trong thư tịch Trung Quốc có sách An Nam Chí [nguyên] chép đến tên Loa Thành là thành hình xoáy ốc mà tập truyền là của An Dương Vương. Trong thư tịch Việt Nam thì tên Loa Thành xuất hiện đầu tiên ở Lĩnh nam chích quái, điều ấy chứng tỏ rằng tên ấy đã có trong tập truyền của nhân dân từ trước. Lê Tắc (thế kỉ XIII) viết sách An Nam Chí Lược trước khi sách Lĩnh Nam trích quái được biên tập thì gọi thành ấy là thành Khả Lũ. Sách An Nam chí nguyên là sách sao tập nhiều đoạn của An Nam chí lược chép rằng Loa Thành cũng có tên là thành Khả Lũ. Cái tên Khả Lũ ấy khiến phải suy nghĩ. Chúng tôi nhận thấy Khả Lũ với Cổ Loa (tên làng hiện nay có di tích Loa Thành) là đồng âm. Nhưng Cổ Loa, theo chúng tôi, không có nghĩa là Loa Thành xưa (cổ)”.
Như vậy, tên gọi Cổ Loa, Loa Thành và Khả Lũ là những tên gọi Hán Việt và chúng xuất hiện trong thư tịch ở Việt Nam và Trung Quốc sớm nhất cũng chỉ thuộc vào từ (hoặc sau) thế kỉ XIII.
Trong bài viết: “Suy nghĩ về hướng tiếp tục tìm hiểu địa danh Cổ Loa” ( Qua cách giải thích địa danh này của GS. Đào Duy Anh). Hai tác giả Trần Trí Dõi và Trần Thị Hồng Hạnh có viết: “ Trong địa danh Cổ Loa có hai yếu tố khác biệt kết hợp lại với nhau là Cổ và Loa. Trong đó, Cổ là dạng thức Hán Việt về sau của âm nôm Kẻ với ý nghĩa “người làng…”, còn Loa là có nguồn gốc Hán do người Trung Quốc đời Tống thấy thành của An Dương Vương xoáy nhiều vòng như hình ốc nên “tưởng tượng” mà gọi như thế (!). Vậy là, theo GS, ý nghĩa của địa danh Cổ Loa sẽ là “người dân làng có Thành Loa, tức là người dân ở làng có thành xoáy hình trôn ốc”. Và như thế, theo cách giải thích của GS, hình như có một loại địa danh theo kiểu Kẻ Loa, trong đó yếu tố Kẻ là thuần Việt, còn yếu tố Loa là do dân gian Việt vay mượn của Hán. Vậy là, địa danh Kẻ Loa xuất hiện đầu tiên do người Việt ghép yếu tố Kẻ của mình với yếu tố Loa của tiếng Hán trong Loa Thành đã có trước đấy. Về sau Kẻ Loa được Hán Việt hoá thành địa danh Cổ Loa. Còn Lê Tắc vào thế kỉ XIII khi viết An Nam chí lược bên Trung Quốc đã phiên Kẻ Loa thành tên gọi Khả Lũ theo cách của tiếng Hán đời Tống”. [10]. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Sự hình thành và phát triển của Cổ Loa còn được thấy rõ qua dấu vết khảo cổ học. Các kết quả khai quật khảo cổ học mấy chục năm qua đã khẳng định: Cổ Loa là một trong những điểm sinh tụ đầu tiên của người Việt cổ. Vào năm 1971-1972, dân làng Cổ Loa đã phát hiện được một số viên đá cuội có dấu vết bàn tay ghè đẽo, gia công ở rìa cạnh, trên hai mặt của hòn đá cuội thường giữ lại vẻ rất tự nhiên, phần lớn các hòn đá cuội này có chức năng của công cụ chặt, nạo, hay cắt, nhìn chung còn khá thô sơ. Việc phát hiện công cụ cuội có gia công trên đây là cứ liệu quan trọng để khẳng định, các đây từ một vạn đến hai vạn năm tại các triền gò, đồi của làng Cổ Loa đã có con người sinh sống.
Theo TS. Nguyễn Doãn Tuân – Trưởng ban Quản lý di tích danh thắng Hà Nội: “Những người đầu tiên được môi trường – cảnh quan tiền Cổ Loa hấp dẫn đến khai phá và làm chủ nơi này là nhóm cư dân đã để lại dấu tích ở Di chỉ Đồng Vông. Vậy những người đầu tiên có mặt ở Cổ Loa – Đồng Vông, từ đâu tới? Các nghiên cứu Khảo cổ học cho biết: Đồng Vông trước hết “là một di chỉ thuộc nhóm di tích giai đoạn Phùng Nguyên” (4000 – 3500 năm Tr.CN), hoặc là Phùng Nguyên muộn. Cố GS. Trần Quốc Vượng cho biết: “Cả một cụm di chỉ phần nhiều là Phùng Nguyên muộn, đầu thời đại đồng thau – đã phát hiện dọc đôi bờ Ngũ Huyện Khê, cũng như ở nhánh Tiêu Tương ở phía hạ lưu của nó, ở khu vực Cổ Loa. Đó là Đồng Vông, là Xuân Kiều, xa hơn chút nữa là chân núi Tiên Sơn và vùng đồi Lim, cho đến tận Võ Cường, mé ngoài thị xã Bắc Ninh, trên sườn đồi giáp mé sông của những làng quan họ sau này”.
Khai phá đầu tiên khu vực Cổ Loa từ nửa đầu thiên niên kỷ thứ II TCN, cư dân Đồng Vông trong khi mở rộng sự phát triển của Văn hoá Phùng Nguyên, về phương diện lịch sử đã tham gia tích cực vào việc khởi phát thời kỳ tiền Hùng Vương – thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Điều này cũng có nghĩa là: Cổ Loa, với sự xuất hiện những cư dân đầu tiên của mình ở Đồng Vông, đã khởi động lịch sử của mình, kèm theo ý nghĩa là một địa vực rất sớm được khai phá, ngay từ buổi đầu thời đại Hùng Vương.
Liền sau nhóm cư dân Đồng Vông là hai nhóm cư dân tiếp tục đến sinh sống ở Cổ Loa. Người xưa đã lưu dấu tích lại ở hai Di chỉ Xuân Kiều và Tiên Hội. Sự phát triển liên tục ấy, bây giờ đã chính thức đến giai đoạn quan trọng nhất: giai đoạn Văn hoá Gò Mun – Đông Sơn ở trên đất Cổ Loa. Hai di chỉ khảo cổ học tiêu biểu cho giai đoạn này đã được phát hiện ở đây là Đình Tràng (Chàng) và Đường Mây. Sự “hội tụ văn hoá” ở Cổ Loa vậy là đã thấy rõ, ở vào thời gian phát triển cuối cùng của di chỉ Đình Chàng. Điều ấy có nghĩa là: khi ấy, cư dân Việt cổ chứng kiến hoặc tham gia vào việc chuyển Cổ Loa từ thời tiền Cổ Loa sang thời Cổ Loa đích thực – Cổ Loa thời An Dương Vương. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Cổ Loa là mảnh đất chứng kiến và cất giữ rất nhiều chứng tích lịch sử, tiêu biểu là sự xuất hiện của chiếc nỏ liên châu (được thần thoại hóa là nỏ thần) đã nhiều lần đánh thắng Triệu Đà có binh hùng tướng mạnh, thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam lúc bấy giờ. Nhưng trước âm mưu thâm độc của Triệu Đà đã dùng con trai của mình là Trọng Thủy sang Cổ Loa làm con tim, thực chất là chiếm được tình cảm của Mỵ Châu – con gái của An Dương Vương, kết thành thông gia, để rồi từ đó học được bí quyết làm nỏ thần. Với âm mưu xâm chiếm được nước Âu Lạc. Sau khi đã mất đất nước vào tay giặc Phương Bắc, nhân dân đã đứng lên khởi nghĩa chống lại ách nô lệ và đồng hóa, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 sau Công nguyên. Trong cuộc khởi nghĩa này, Làng Cổ Loa, cụ thể là Am Mỵ Châu là nơi Hai Bà Trưng dừng chân trên đường dẫn quân tiến xuống đánh vào hang ổ của bọn đô hộ nhà Hán. Chính Mỵ Châu đã âm phù cho Hai Bà, nhân dân Cổ Loa cùng các làng khác trong vùng cũng theo Hai Bà cũng nô nức ra trận, cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi (bản thần phả hiện còn đang lưu trong đền Mỵ Châu và đình Cầu Cả chép theo truyền thuyết dân gian).
Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, làng Cổ Loa lại một lần nữa rơi vào ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, khi nhà Hán sau 3 năm sau lại sai Mã Viện sang đánh nước ta và lúc này cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng đã thất bại. Sau gần nghìn năm bền bỉ chống lại ách thống trị của nhà Hán, nhân dân ta đã giành lại được quyền tự chủ và Cổ Loa trong những năm tháng đấu tranh đó lại có vinh dự lớn là lần thứ hai trở thành kinh đô của đất nước dưới thời Ngô Quyền và các con vua kế vị.
Đến giữa thế kỷ X sau chiến thắng Bạch Đằng, một lần nữa làng Cổ Loa lại làm Kinh đô nước Việt dưới thời Ngô (Ngô Quyền và các vua con kế vị, từ năm 939 – 965). Năm sau (Bính Dần, 966) loạn 12 sứ quân nổi lên. Cùng với đất nước bị rơi vào cuộc nội chiến giữa các thế lực phong kiến, Cổ Loa mất vị thế là kinh đô và trở lại vị thế của một làng quê thanh bình như bao làng quê khác của Việt Nam. [14, tr.39, 40].
Trong một vài cuốn sách về lịch sử, địa chí có ghi lại, từ đầu thời Lý (1009 – 1225) trở đi, kinh đô nước Đại Việt là thành Đại La (sau đổi là Thăng Long). Cổ Loa chỉ được nhắc đến với tên gọi: “thành Khả Lũ”, “Phong Khê”, “Kim Lũ”, “Loa thành”…
Từ nửa sau thế kỷ XV trở đi, cư dân chuyển từ các nơi đến làng Cổ Loa sinh sống ngày một đông và luôn chịu những tác động của mất mùa, đói kém, của nội chiến nên tình trạng hồi cư – nhập cư – phiêu tán rồi lại về sinh sống luôn xảy ra. Chính vì vậy, mà dẫn đến tình trạng sự đa tạp về dân cư hay cư dân, mà người làng hay gọi là “Chín người, mười làng” từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hà Tây, Hà Nam. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Nửa sau thế kỷ XV sau cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Minh, cư dân đã tập trung tụ cư đông đúc về làng Cổ Loa. Đến đầu thế kỷ XVI, làng Cổ Loa cùng các làng xã khác trong huyện Đông Ngàn trở thành bãi chiến trường giữa sự tranh chấp của hai bên quân đội nhà Lê và quân nhà Mạc. Một lần nữa dân cư lại phải phiêu tán đi nơi khác, cho đến đầu thế kỷ XVII, dân làng mới lần lượt hồi cư, đồng thời tiếp nhận dân cư từ các nơi khác đến sinh cơ lập nghiệp. Từ đó, làng xóm ở Cổ Loa mới lại đông đúc với trên 30 dòng họ, trên cơ sở “ chín người, mười làng”. Dòng họ tiêu biểu của làng Cổ Loa như : Họ Đào (xóm Chợ) từ Thanh Hóa chuyển ra, họ Trương (ở xóm Hương) từ Hải Dương chuyển lên, họ Nguyễn (xóm Gà) từ Thường Tín, xứ Sơn Nam (thuộc tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội)…với những biến động theo thời gian như trên, rất khó có thể có những nghiên cứu chính xác nguồn gốc hình thành về làng Cổ Loa, chủ yếu dựa theo các sự kiện lịch sử.
Trong cuốn: “Đông Anh với nghìn năm Thăng Long- Hà Nội”, các tác giả đã chỉ rõ Làng Cổ Loa gồm 12 xóm cũ, bây giờ là các thôn và cùng kết hợp với các xóm, làng khác để thành các thôn mới. Như vậy, hiện nay Cổ Loa gồm 15 đơn vị quản lý hành chính thôn làng. [9].
Theo sách “Tên làng xã và các tỉnh địa dư Bắc Kỳ” của tác giả Ngô Vi Liễn có viết vào năm 1926, làng Cổ Loa có 2.698 nhân khẩu, sinh sống tại 12 xóm trong ba vòng thành cổ, trên một địa dư rất rộng. Dân đinh trong làng xưa được chia làm 24 giáp. [12].
Đến năm 2010, Cổ Loa có diện tích tự nhiên là: 802,38 ha, có 4.448 hộ, 16.514 nhân khẩu ( trong đó: nam: 8.083 người, nữ: 8.431 người).[9].
1.3. CƠ SỞ KINH TẾ CỦA LÀNG CỔ LOA
1.3.1. Nông nghiệp
Nhìn toàn cảnh, làng Cổ Loa có địa hình thấp dần từ Tây Bắc về Đông Nam. Hàng năm, vào mùa mưa, nước từ Yên Lãng về Vực Dê, theo sông Hoàng Giang chảy về đồng làng Cổ Loa và các làng khác và dồn về khu vực Đầm Cả. Với thế đất đó, tạo cơ cấu mùa vụ của đồng ruộng ở Cổ Loa là ruộng chiêm chiếm đến 2/3.
Người làng Cổ Loa có truyền thống lao động cần cù, chịu khó, khắc phục những bất lợi của điều kiện tự nhiên để sản suất. Có lịch sử gắn bó lâu đời với đồng ruộng, người dân làng hiểu rõ được thế đất, thế nước để thích hợp bố trí các mùa vụ, cây trồng đạt năng suất cao nhất. Ở làng Cổ Loa, người dân địa phương đã phân đồng đất thành các loại ruộng sau:
Ruộng dộc: Đây là loại ruộng tốt nhất, tiện nước, cấy được cả hai vụ. Trong đó, vụ chính là vụ chiêm, giống lúa là lúa chiêm Cút, chiêm Bầu cho hạt gạo màu đỏ, cứng, hạt cơm nấu lên ăn rất chắc dạ. Vào vụ mùa, thường cấy nếp cái, nếp dảnh, năng suất thường đạt 90 – 100 kg/ sào. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Ruộng vàn: Loại ruộng này thường chỉ cấy chính mùa, với các giống lúa: Tám thơm, Tám trắng, Dé (tẻ), nếp cái. Năng suất bình quân thường đạt 60 – 70 kg/sào.
Đồng cao (đồng màu): hình thức ruộng này chính là ruộng bậc thang, do vất vả về nguồn nước tưới, chủ yếu phụ thuộc vào nước mưa, khó tát nước, nên chỉ cấy được vụ mùa. Đối với loại ruộng này, thường kết hợp xen canh, luân canh với các giống cây trồng một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện của tiết trời. Sau khi các giống lúa được gặt như: Lúa Ba Giăng (thu hoạch vào rằm tháng Bảy), lúa Di, Dé (gặt vào tháng Tám), các giống lúa Tám Nam, Tám Cạn (gặt vào tháng Mười), thì bà con nông dân lại trồng xen khoai lang (khoai Di), từ tháng Chạp đến tháng Năm, năng suất mỗi sào có thể cho đến 12 thúng, thu khoai xong lại trồng ngô (từ tháng Chạp đến tháng Tư), thu hoạch mỗi sào cũng có thể cho 3 thúng hạt ngô (mỗi thúng khoảng 25 kg). Ngoài ra, có thể trồng thầu dầu (đu đủ) xen canh với vừng, đỗ.
Đồng thấp: là loại ruộng ở sát các đầm, nên luôn chịu ảnh hưởng của nước lũ. Vụ chiêm cấy chỉ đạt năng suất từ 40 – 50 kg/sào, vụ mùa thì khoảng 30 kg/sào. Có nhiều năm, cấy lại đến 3 lần mà thu hoạch cũng không được nhiều. [14, tr. 43, 44 ].
Nhắc đến đặc sản làng Cổ Loa, người dân thường quen thuộc với câu: “Chiêm Cút, mùa Di, sống đem đi, chết để lại”. Giống chiêm Cút, lúa Di thường đạt năng suất cao và ăn ngon. Ngoài ra, phải kể đến một số loại cây trồng cũng gắn liền với mảnh đất Cổ Loa như: Quả Trám đen, cây chè, cây sung, cây mít. Theo lời các cụ trong làng kể lại: Cây trám đen, chè xanh trước đây chỉ trồng ở đất bãi, trên các dỏi đất cao, đất trên Thành cổ ven quanh di tích, nên có sự thơm ngon đặc biệt. Dân các làng trồng nhiều cây Trám, sau 5 năm rừng trám cho thu hoạch, sau 10 năm, mỗi cây có thể cho hàng tạ quả, cây trám có thể thu hoạch trong vài chục năm. Cách đây khoảng vài chục năm, vẫn còn cả những rừng trám từ làng Thư Cưu về xóm Thượng (làng Cổ Loa), hiện nay còn một số cây ở xóm Thượng (Thượng, Cưu, Bãi) làng Cổ Loa ngày nay. Cây mít là cây trồng nhiều, múi mít dai và mùi rất thơm, vì thế mà ở làng Cổ Loa có xóm Mít. Cây sung cũng là cây lương thực thiếu đói của quân sĩ dưới thời vua An Dương Vương, được trồng nhiều ở xóm Mít.
Xưa khi so sánh thế đất giữa làng Giỗ – Quậy và làng Chạ Chủ (Cổ Loa), người trong vùng thường tổng kết:“Quậy ủ Chủ tươi, Quậy cười Chủ khóc” nghĩa là khi người làng Quậy buồn vì mất mùa (do đồng ở thế thấp nên ngập lụt), thì người dân Chạ Chủ lại tươi vì được mùa (Chạ Chủ ở thế đất cao). Ngược lại, vào những khi trời mưa vừa phải thì vùng Quậy được mùa, còn Chạ Chủ lại mất mùa. [14, tr. 32]. Như vậy, nghề làm nông vẫn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, thiên nhiên, có năm sẽ cho năng suất cao, có năm có thể mất mùa hay năng suất thấp.
1.3.2. Nghề thủ công Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Làng Cổ Loa ngoài công việc làm nông là chủ yếu, còn kết hợp làm nghề thủ công. Các điều kiện về văn hóa, phong tục đã tạo cho nơi đây những đặc sản nổi tiếng như: Bỏng, bún, rèn. Nghề làm bún thì cả hai làng Cổ Loa và Mạch Tràng cùng làm và nghề tạo ra sản phẩm mang tính địa phương nhất là làm bỏng mật hay còn gọi là “bỏng Chủ”, đây là đặc sản riêng có của làng Cổ Loa. Cách gọi “bỏng Chủ”, ý chỉ loại bỏng này chỉ riêng có ở Chạ Chủ, gọi tắt là “bỏng Chủ”.
Nhắc đến bỏng Chủ, người dân Cổ Loa tự hào với những câu ca dao:
- “Thập phương khách đến Cổ Loa
- Mua phong bỏng chủ quê nhà Thục Vương
- Nếp hoa, gừng tráng mật đường
- Chày khuôn nén chặt quân lương một thời”.
Theo lưu truyền dân gian, nghề làm bỏng có từ thời Thục Phán An Dương Vương, là lương thực, lương khô cho quân lính cuả triều đình tập luyện và chiến đấu. Thường thường, từ sau khi làm lễ tiến bỏng lên An Dương Vương ở đền Thượng Cổ Loa thì việc làm bỏng mới bắt đầu. Ở làng Cổ Loa, người làm bỏng ngon và lâu đời là bà Học ở xóm Chùa , theo bà Học cho biết: “Nghề làm bỏng này được làm khoảng 40 – 45 năm nay, làm bỏng là để cúng tiến vua An Dương Vương và người dân những lúc nông nhàn làm bỏng để thêm thu nhập”. Công đoạn làm thành loại bỏng này cũng khá công phu. Trước tiên, chọn thóc để làm bỏng là từ nếp cái hoa vàng, thường được mua ở làng Dục Tú, vì lúa này cấy ở đồng màu, hạt thóc khi rang lên thì nổ bỏng đều và to. Thóc được rang trong một chảo to, đáy chảo tráng qua một lượt mỡ để thóc không cháy, lại nổ bỏng nhanh. Dùng 10 que tre nhỏ như que tăm, bó chụm lại làm que để đảo thóc trong chảo cho nóng đều, mỗi đầu bó que có chấm một lớp mỡ, thóc trong chảo bắt đầu nổ thì mới đậy vung từ 3 – 5 phút. Khi thóc đã nổ hết bỏng đem ra xảy bỏ hết trấu, công đoạn tiếp theo là trộn đều với một ít lạc đã rang, rồi hòa với nước mật (hòa nước mật với nước gừng để tạo ra vị thơm, loại mật này thường ở vùng Mai Lĩnh, huyện Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay). Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Mật được cho vào chảo đun kĩ, bắc ra để nguội thời gian từ 8 – 10 tiếng mới đem ra làm; trộn đều hoa bỏng, lạc, thảo quả, mật gừng cho vào khuôn có kích thước từ 37 x 10 x 10 cm. Muốn có khuôn bỏng ngon, phải ép ít nhất là 15 chày, mỗi chày ép bỏng lại rắn chắn thêm. Ép xong phải chờ từ 4 đến 5 tiếng mới dùng dao sắc cắt bỏng thành từng miếng.
Tùy theo mục đích sử dụng mà có từng tỷ lệ mật trộn sẽ ra ba loại bỏng:
Bỏng thửa: Bỏng được làm cho những người đặt để đi lễ hoặc có công việc lớn (cưới hỏi, mừng thọ). Loại bỏng này thường nhiều mật và có thêm thảo quả cho thơm, đây có thể coi là loại bỏng ngon nhất.
Bỏng nặng: Nếu ai ăn ít ngọt thì có thể chọn loại bỏng này, tỷ lệ mật được trộn ít hơn bỏng thửa và không có thảo quả.
Bỏng nhẹ: Đối với những người ăn nhạt hay không thích nhiều đường thì loại bỏng nhẹ này là lựa chọn tốt nhất, làm loại bỏng này không cho thêm thảo quả và không có cả lạc. Loại bỏng nhẹ này cùng bỏng nặng thường được dùng để bán hoặc ăn.
Để ra được sản phẩm bỏng như ý, những người làm nghề này khá vất vả, đặc biệt trong khâu tiêu thụ. Theo các cụ cao niên trong làng thì trước Cách mạng, do người dân không đủ ruộng đất để cày cấy, kết hợp với yếu tố địa hình, khí hậu nên chỉ cấy được vụ mua nên để đảm bảo cuộc sống thì người dân đã làm bỏng để thêm thu nhập. Theo tính toán thì một gia đình trong một ngày làm một xó thóc (khoảng 8 kg) và bán hết hang thì được lãi khoảng 5 kg gạo, đủ lương thực và có thêm tiền chi tiêu, lại tận dụng được sức lao động của cả gia đình trong nhiều tháng làm nghề (từ tháng Giêng đến hết thàng Ba, là thời kỳ nông nhàn, lại có nhiều hội được mở). Khi đã làm bỏng xong thì những người phụ nữ lại phải gánh bỏng đi khắp các chợ trong vùng (trong vòng bán kính 20km) để bán, như các chợ: chợ Sọ (Phù Lỗ), chợ Núi (Sóc Sơn), chợ Chờ (Yên Phong – Bắc Ninh), chợ Me, chợ Giầu (Từ Sơn – Bắc Ninh), thậm chí có khi phải đi xa tận chợ Bưởi (Hà Nội) để bán. Nhiều ngày ế hàng, còn bị thâm hụt vào vốn. Mặc dù, có những vất vả như thế nhưng đặc sản bỏng tế vua An Dương Vương trong ngày hội Cổ Loa thì không bao giờ thiếu được.
Ngày nay, có nhiều loại bánh nên bỏng chủ tiêu thụ chậm, chỉ tập trung làm vào dịp lễ hội để cúng tế vua An Dương Vương và dùng làm quà ẩm thực cho du khách. Đây cũng là một sản phẩm tạo công ăn việc làm, thêm thu nhập cho người dân, nhưng ngoài ra nó còn mang một ý nghĩa cao hơn là giữ vững được nét đẹp truyền thống làng nghề của địa phương Cổ Loa (những gia đình vẫn làm nghề Bỏng chủ như: gia đình bà Học – xóm Chùa, gia đình bà Nha, bà Hiền – xóm Dõng).
1.3.3. Thương nghiệp Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Làng Cổ Loa có thuận lợi về cả đường bộ và đường thủy nên việc thông thương trao đổi hàng hóa với các vùng lân cận khá dễ dàng. Trong 5 làng hợp thành xã Cổ Loa, chỉ có làng Cổ Loa là có chợ, dân ở đây gọi là chợ Sa. Đây là chợ lớn, nơi trung tâm mua bán của làng Cổ Loa nói riêng và các làng gần đó nói chung. Vào năm 1942, theo bản hương ước đã được lập thì chợ có 130 gian hàng, ở chợ Sa số tiền thu thuế này đáp ứng một phần việc chi tiêu của làng, mỗi năm số tiền thuế thu được từ 130 gian hàng là 79 đồng; giá thuế được chia làm ba hạng:
- Hạng một gồm 40 gian, giá thu một đồng một năm.
- Hạng hai gồm 40 gian, thu 0,6 đồng một năm.
- Hạng ba gồm 50 gian, thu 0,3 đồng một năm.
Nhắc đến việc thu thuế tại chợ Sa của làng Cổ Loa, có câu chuyện kể lại rằng: Khi làng Cổ Loa lập chợ Sa, người làng Quậy đến chợ không phải nộp thuế. Nhưng sau vì có nhiều người ở các làng khác mạo nhận là “người làng Quậy”, nên các cụ làng Quậy chủ động đề nghị làng Cổ Loa bỏ lệ này.
Chợ một tháng họp 6 phiên, vào các ngày 1 và 6. Chợ thường bán các loại nông sản, thực phẩm của địa phương, đặc biệt đến với chợ Sa có bán giống lợn nuôi rất tốt. Bên trong chợ có hai nhà cầu để cho người làng Cầu Nôm (Hưng Yên) bán các sản phẩm từ nghề hàn đồng. Xa xưa còn có cả chợ mua bán trâu bò ở khu vực xóm Mít. Chợ Sa là một chợ lớn nên để giữ gìn an ninh trật tự và làm nhiệm vụ quét dọn vệ sinh, làng đã cử ra một người Khán thị ( hay Quản thị). Và nếu người Khán thị này làm việc trong 6 năm mọi việc chu toàn thì sẽ được ngôi trùm (trùm bán).
Chợ Sa nổi tiếng là chợ lớn ở Kinh Bắc, nằm trong khu vực thành Nội, có các di tích đình Miếu thờ vua An Dương Vương, nằm giữa hai làng Cổ Loa và Dục Tú nên nguồn thu của chợ kết hợp với nguồn lợi từ các di tích rất lớn. Truyền thuyết xưa kể lại rằng: cô gái cắt cỏ họ Đỗ người làng Dục Tú sau khi lên làm phi của Ngô Quyền vì không có khả năng sinh con, được Ngô Quyền cho về nhà và cho thả một quả bưởi (có thuyết là thúng trấu), xuống sông Hoàng Giang, để bưởi trôi từ Dục Tú xuống Cổ Loa, khi bưởi trôi đến đâu thì đất thuộc về Dục Tú đến đó. Quả bưởi và dừng lại ở gốc đa ven thành Nội Cổ Loa. Chính vì thế mà dân ở hai làng thường nhắc lại câu:
“ Chợ Sa của Cổ Loa, cây đa của Dục Tú”.
Ngày trước, theo bà: Nguyễn Thị Anh (76 tuổi) – người dân xóm Chợ trong làng kể lại : Khu chợ Sa được họp thành dãy dài xung quanh địa phận của ba xóm: xóm Mít, xóm Chợ và xóm Chùa, ở chợ bày bán những sản phẩm nông nghiệp phong phú, phục vụ dân trong làng và những làng lân cận. Chỗ đặt Chợ Sa Cổ Loa cũ trước đây, giờ vẫn còn cổng chào với chữ “Chợ du lịch làng Cổ Loa”. Đến năm 2007, cùng với việc quy hoạch đất đai, xây dựng con đường mới, khu chợ được chuyển ra đầu làng, du khách đi từ đầu làng vào có thể thấy ngay được chợ Sa mới được xây dựng, nằm đối diện với bến xe Cổ Loa.
1.4. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA LÀNG CỔ LOA Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
1.4.1. Thiết chế tổ chức
Cơ cấu tổ chức của làng Cổ Loa tương đối ổn định từ vào đầu thế kỷ XVII. Ngoài thiết chế theo quan hệ huyết thống là gia đình và dòng họ, trong làng Chạ Chủ còn có các thiết chế khác: xóm, giáp, phường hội và bộ máy quản lý làng xã.
1.4.1.1.Xóm
Cuộc sống là tổng hòa các mối quan hệ, ngoài quan hệ ruột thịt anh em, dòng họ thì còn có quan hệ láng giềng:
“Bán anh em xa, mua láng giềng gần”
“ Xóm giềng tối lửa, tắt đèn có nhau”.
Thiết chế của xóm chính là dựa trên mối quan hệ láng giềng, một xóm bao gồm nhiều hộ gia đình sống cùng với nhau, những hộ gia đình này sống xung quanh trong một xóm ngõ nên cư xử với nhau trên tinh thần hòa đồng, hòa thuận, có những khó khăn thì cùng giúp đỡ nhau. Cũng cùng trong một ngõ của xóm, những người sống với nhau có cùng một dòng họ, có quan hệ anh em, gia đình bên nội, hay gia đình bên ngoại , thậm chí có cả mối quan hệ thông gia. Những mối quan hệ này là trường hợp xảy ra ở làng quê nhiều hơn ở thành thị. Bởi chỉ một gia đình, khi con cái lớn đến tuổi xây dựng gia đình, bố mẹ thường cho phần đất gần nhà để làm chỗ ở: “Gả con chồng gần, có bát canh cần nó cũng mang cho” cũng chính vì thế mà có sự sum họp gần gũi, gắn kết nhau như thế. Vào những dịp trong xóm có cưới xin, ốm đau hay tang ma thì tinh thần gắn bó của mọi người dân trong xóm mới thể hiện rõ.
Mỗi xóm là một cộng đồng nhỏ về đời sống tâm linh. Làng Cổ Loa là một làng điển hình, trong làng tại mỗi xóm thì có một cái điếm thờ, các điếm xóm này được xây dựng khá khang trang, vừa là nơi hội họp của người dân, vừa là nơi cúng giỗ cho những người đặt hậu, cũng là nơi thờ thần linh thổ địa của xóm. Gần điếm xóm có giếng nước, dân trong xóm dùng nguồn nước này để sinh hoạt, giếng nước cũng thể hiện sự hài hòa âm dương. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Tại làng để đảm bảo về tổ chức an ninh, tuần phiên của làng thì được cắt cử theo xóm. Làng Cổ Loa đầu tiên có 9 xóm: Thượng (tên chữ là Thượng Ngõ), Vang (Đa Bang), Chùa (Hậu Miếu), Hương (Hương Giai), Chợ (Ngõ Thị), Nhồi (Viên Lôi), Gà (Quán Kê), Lan Trì, Dõng (Dũng). Từ năm Chính Hòa thứ 25 (1704) có thêm xóm Mít (Cự Nê), xóm Nhồi tách ra thành hai xóm: Nhồi Trên (Viên Lôi Thượng) và Nhồi Dưới (Viên Lôi Hạ), xóm Dõng cũng phát triển thành hai xóm: Dõng Trên (Dũng Thượng) và Dõng Dưới (Dũng Hạ). Các xóm này đều được ghi “Thôn” hay “Ngõ” khi ghi trên các văn bản hành chính và văn tế. [14, tr. 53].
Để bảo vệ an ninh, mười hai xóm của làng Cổ Loa cử đội tuần phiên lên đến 50 người có ở tất cả, gồm 4 đốc canh (trương tuần) chỉ huy và 46 tuần tráng mỗi điếm xóm thì có hai tuần tráng canh phòng tại chỗ, 22 tuần tráng còn lại thì cắt 8 người đi tuần lưu động giữa các điếm, 14 người dưới sự chỉ huy của hai đốc canh chia làm hai ban đi tuần ngoài đồng. Cả đội tuần tra phải canh gác:
“Nội hương ấp, ngoại đồng điền”, nếu mất đâu thì phải bồi thường lại. Những người làm tuần tráng thì được trả thù lao bằng lúa sương túc (mỗi sào một lượm lúa tươi) do làng trả, từ năm 1940, thì được trả bằng tiền, tính mỗi mẫu là 6 hào, thu vào hai vụ gặt (chiêm, mùa). Trương tuần làm việc trong ba năm được chu toàn thì được ngôi xã cựu. Làng Cổ Loa còn có một quy ước, khi trong làng bị trộm cướp đột nhập, cử mỗi điếm một người trông coi, còn tất cả phải đến ứng cứu, ai không đến sẽ bị phạt 5 hào (giá tiền vào đầu năm 40 của thế kỷ XX).
1.4.1.2. Giáp
Giáp là hình thức tổ chức của nam giới trong làng, ngay từ nhỏ các bé trai đã làm lễ vào giáp cho đến các cụ cao tuổi nhất. Xung quanh vấn đề giáp ở làng Cổ Loa còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, vào thế kỷ XV – XVI trở đi, khi các dòng họ từ các nơi về đây lập cư đã có ba cụm dân cư này được hình thành mang hình thức hư một ngôi làng độc lập, có đình, có chùa và nghè riêng của làng mình. Ba làng nằm trong xã Cổ Loa, sau sáp nhập lại, thành một làng Cổ Loa thống nhất, cụ thể:
- Làng Đông Nhất gồm: xóm Thượng (có tên chữ là Thượng Ngõ) và xóm Vang (Đa Bang), một bộ phận của xóm Vang sau chuyển ra sống tại nền lũy làng ở thành Ngoại nên gọi là xóm Trại. Làng có đình ở Cầu Mới (xóm Vang) và chùa ở khu vực Ao Chùa.
- Làng Đông Nhì bao gồm: xóm Chùa (Hậu Miếu), xóm Hương (Hương Giai), xóm Chợ (Ngõ Thị), xóm Mít (Cự Nê), xóm Hương (có đình ở gốc Đống), Chùa Bảo Sơn (Tam Sơn tự). Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
- Làng Đông Tam gồm: xóm Nhồi (Viên Lôi), sau phát triển thành: Nhồi Trên (Viên Lôi Thượng) và Nhồi Dưới (Viên Lôi Hạ), xóm Dõng (Dũng), sau phân chia thành: Dũng Trên (Dũng Thượng) và Dõng Dưới (Dũng Hạ), xóm Gà (Quán Kê), xóm Lan Trì. Làng có đình ở bãi Ngõ Đình, nền chùa thì mới phá bỏ gần đây.
Sau khi hợp nhất thành một làng Cổ Loa, đã xây dựng một đình chung, đình làng Đông Nhất được đưa về làm Tảo mạc của đình chung, đình Đông Nhì sử dụng làm điếm xóm Chùa và đình Đông Tam được làm chỗ ở cho những người đăng cai vào dịp tổ chức lễ hội hàng năm.
Ngoài ra, còn có ý kiến khác, ngay từ giữa thời Trung đại thì làng Cổ Loa vẫn là một khối thống nhất, gồm ba giáp hình thành theo khu vực: Đông Nhất, Đông Nhì, Đông Tam, từng giáp gồm các xóm như đã nêu ở trên. Mỗi giáp gồm một cụm xóm. Vì dân đinh đông lên, chính vì thế xóm Nhồi (gồm Nhồi Trên và Nhồi Dưới) tách ra thành Giáp Đoài Tự và như thế làng Cổ Loa có bốn giáp. Trong mỗi giáp lại chia thành nhiều phe, mỗi phe về cơ bản lại hình thành theo khu vực cụm xóm (có thể gồm đinh nam của một, hai hoặc nhiều xóm). Cũng vì vậy, mà các phe thường mang tên xóm chính gắn với tên giáp gốc như: phe Đông Nhì – Cự Nê, phe Đông Nhất – Đa Bang… Có những tài liệu ghi phe cũng có nghĩa như giáp, điều này là không đúng bởi các công việc chung của làng đều phân chia theo bốn giáp, sau đó bốn giáp mới phân bổ về các phe. Đa số các bậc cao niên, am hiểu của làng Cổ Loa trong cuộc hội thảo tổ chức vào các ngày 29 – 01 – 2005 và ngày 27- 04 – 2005 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã Cổ Loa đã thông qua về số lượng phe của bốn giáp gốc là 12, không như một số tài liệu ghi chép lại là 28 phe. Phe của làng Cổ Loa ở đây chịu trách nhiệm đảm đương các công việc: lo tang lễ cho người quá cố, sửa lễ thờ thành hoàng, phụ giúp giáp thu thuế. Theo tục lệ của làng là mỗi người trai đinh sinh ra ở làng Cổ Loa phải lần lượt vào xóm, vào phe. Số tuổi, ngày và lễ vật gia nhập phe tùy thuộc vào quy định của từng xóm, từng phe. Có quy định chung cho tất cả các trai đinh là phải trải qua các bước:
Khi 18 tuổi thì là Thủ phiên với trách nhiệm chính là “Đầu vai”, “hầu xóm”, nghĩa là lo công việc nhỏ, việc vặt khi phe, xóm có việc, có nhiệm vụ làm trong một năm. Nếu năm sau không có ai bước vào tuổi 18 thì vẫn phải gánh vác công việc ở năm tiếp theo.
Bước qua tuổi 18, tùy theo số lượng trai đinh của từng giáp, phải lần lượt “ Cơm lần, cỗ lượt” cho các kỳ việc của xóm, của giáp. Quan trọng nhất là vào dịp tháng Giêng khi mở hội Cổ Loa thì phải lo cỗ bánh dày, bỏng chủ và chè kho làm lễ cúng. Người sửa cỗ được cấy ruộng cỗ (ruộng này ở ven đầm, nên gọi là Đầm Cỗ). Làng Cổ Loa có số dân đinh đông nên nghĩa vụ gánh vác trong công việc chung của làng không nặng như những làng bên (đặc biệt là nuôi lợn).
Đến gần 50 tuổi (tuổi Trùm), được cử làm Trưởng nhất (mỗi giáp gồm 2 người) và Trưởng Nhì (mỗi giáp cũng 2 người) lo điều hành các công việc của giáp. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Đúng 50 tuổi thì làm lễ lên Trùm (hay gọi là Lềnh), lễ trình gồm: hai mâm xôi ( mỗi mâm hết một nồi gạo 20 kg và một con gà), đó là lễ đối với người có điều kiện, còn những người nghèo không lo được lễ lên trùm thì phải làm trùm ba. Trùm ba có nghĩa là lo việc dọn dẹp, đun nước cho các cuộc họp của các cụ trong năm. Những cụ đã làm xong lễ lên trùm, được tham gia điều hành các công việc xóm cùng các lão của xóm, được ra đình ngồi và tham gia bàn bạc việc của làng. Vào ngày 14 tháng Chạp, các trùm giáp được lên đền Thượng xin keo (khất keo) để chọn ra Quan đám (Ông đám), là người trông nom việc đèn hương, tiếp khách thập phương đến lễ tại đền Thượng, am Mỵ Châu và đình trong năm của tuổi 59. Dưới các Quan đám là các đăng cai, lo việc chuẩn bị cỗ bàn và công việc tế lễ vào hội tháng Giêng. Có ý kiến cho rằng, tất cả các trùm đều được xin khất keo trên đền Thượng (trừ những người mắc tang trở, có dị tật hoặc can án). Lại có ý kiến cho rằng, chỉ các trùm ở tuổi 58 mới được tham gia để sang tuổi 59 làm cai đám, đến tuổi 60 lên lão.
Sau khi được nói chuyện với cụ Nguyễn Văn An – người làng xóm Chùa, hiện giờ cụ đang làm Quan đám hay cách gọi dân gian là Cụ Từ hay Thủ Từ của đền Thượng chăm lo việc đèn hương, tiếp khách đến lễ tại đền. cụ cho biết: Mỗi năm sẽ thay một Ông đám khác, sự thay đổi này hiện nay là do xã bầu cử, mỗi năm bầu cử một lần chọn ra hai cụ một cụ trông coi đền Thượng, một cụ trông coi am Mỵ Châu, mỗi xóm sẽ cử ra một người và cuối cùng xã sẽ làm cuộc bầu cử, ai trúng nhiều số phiếu nhất sẽ trông coi ở đền Thượng và người nhiều phiếu thứ hai sẽ trông coi ở am Mỵ Châu. Nếu năm nay xóm nào có người trúng cử rồi thì ba năm sau sẽ được ứng cử người mới, xóm nào năm nay chưa có người được bầu thì tiếp tục ứng cử vào năm sau, người trúng cử năm nay thì sau hai năm sẽ lại được tham gia ứng cử tiếp. Đối với các Cụ Từ của đền cần có tiêu chuẩn: Gia đình không có tang chế, tuổi từ 60 – 70 và còn cả hai vợ chồng. khi có khách đến lễ bái tại đền thì các cụ thường mặc bộ áo the, đầu đội khăn xếp màu vàng để tiếp khách. Vào dịp hội mùng 6 tháng Giêng đến 20 tháng Giêng thì đền là do địa phương quản lý, người làng Cổ Loa lo việc cúng tế lễ hội. Ngày trước, thời phong kiến những người trông coi tốt ngôi đền sẽ được ruộng, bây giờ các cụ được 1.560.000 VNĐ/ tháng (các cụ ăn, ngủ và trông coi ngay tại đền) do Ban Di tích thành phố Hà Nội trả.
Làm lễ lên lão là các cụ tuổi 60, lúc này người trai đinh coi như là hoàn thành nghĩa vụ với việc của xóm làng, các cụ được ngồi chiếu trên và hưởng các quyền lợi, không phải gánh vác việc làng theo giáp, không phải gánh thuế thân. Cao nhất của việc lên lão là cụ thượng. Ngày xưa, khi tham dự một cuộc họp hay dịp hội của làng thì những chiếu trải trên bao giờ cũng để các cụ già cả nhất ngồi, điều đó thể hiện sự tôn kính đối với các bậc bô lão của làng: “Kính lão, đắc thọ”. Làng Cổ Loa cứ vào dịp hội thì có bốn cụ thượng cao tuổi nhất được ngồi ở chiếu nhất. [14, tr. 61].
1.4.1.3. Bộ máy quản lý Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Bộ máy quản lý làng Cổ Loa gồm hai thiết chế chính để quản lý là: Hội đồng kỳ mục và Bộ máy chức dịch.
Hội đồng kỳ mục: là cơ quan có toàn quyền quyết định như: đấu thầu ruộng đất, tu bổ đình chùa, mở hội…Hội đồng có các thành viên là các quan lại ( gồm cả ngạch văn và võ), các cấp về hưu, các cựu chánh phó tổng, chánh phó lý trong thời gian đương nhiệm không bị can cách. Người đứng đầu Hội đồng là một tiên chỉ, là người có phẩm hàm, học vị cao nhất trong số những người về hưu và người có chức tước cao thứ hai là người có phẩm hàm được gọi thứ chỉ .
Hội đồng kỳ mục đã thay đổi, khi thực dân Pháp tiến hành cuộc cải lương hương chính vào tháng 8 – 1921, để chúng dễ quản lý bằng việc thiết chặt làng xã hơn nữa. Trọng tâm mà thực dân Pháp muốn đạt được là bãi bỏ Hội đồng kỳ mục bằng Hội đồng tộc biểu (gồm đại biểu các dòng họ). Hội đồng tộc biểu đứng đầu có một Chánh hội, một Phó hội và một thư ký. Hội đồng này hoạt động không hiệu quả nên đến năm 1927, thực dân Pháp phải lập lại Hội đồng kỳ mục tồn tại song song với Hội đồng tộc biểu, đến năm 1941, bãi bỏ Hội đồng tộc biểu.
Bộ máy chức dịch: đại diện cho chính quyền cấp cơ sở, chịu trách nhiệm trước Nhà nước phong kiến bên trên về an ninh, các khoản thuế, điều động phu dịch của từng cơ sở (xã). Trong Bộ máy chức dịch, đứng đầu là một Lý trưởng và Phó lý giúp việc, ở làng Cổ Loa có bốn Phó lý. Ngoài hai chức chính trong Bộ máy còn có các chức danh: Hộ lại (phụ trách việc hộ tịch, hộ khẩu), Chưởng bạ (chịu trách nhiệm giấy tờ về ruộng đất), Thủ quỹ (giữ ngân quỹ của làng), Trương tuần (phụ trách việc an ninh trong làng).
1.4.1.4. Các phường hội.
Bên cạnh thiết chế quản lý chung, thì ở mỗi làng còn có các thiết chế dân dã. Với thiết chế dân dã này, thì do các thành viên tự nguyện trên tinh thần tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày (các hội, phường gạo, tiền…), cũng có khi xuất phát từ mục đích nghề nghiệp, tín ngưỡng. Nổi lên trong thiết chế này, là vai trò của Hội Tư văn. Hội đảm nhiệm việc tế lễ trong dịp lễ tiết, hội làng, các đám tang của các gia đình khá giả. Phường gạo hay tiền là hình thức mọi người cùng chung góp theo hàng tháng sẽ có một người đứng lên làm Cái thu tiền hay gạo do mọi người tham gia đóng trong từng tháng, người làm Cái sẽ chia lại cho từng thành viên tham gia theo tháng hay quý. Hình thức này thường phổ biến trong mỗi làng.
1.4.2. Ngôi thứ đình trung Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Đình là nơi bàn việc làng hay là nơi sinh hoạt văn hóa của người dân trong xóm làng. Ở làng Cổ Loa, trước Cách mạng Tháng Tám thì vấn đề “đẳng cấp xã hội”, được quan tâm và phân chia dân cư dựa trên bằng cấp, phẩm hàm, chức tước, tuổi tác. Việc phân chia như trên thể hiện rõ ở chỗ ngồi trong đình, đình trở thành “trung tâm” đời sống của làng.
Theo bản hương ước được lập vào năm 1942, ở làng Cổ Loa trong đình phân thành 5 dòng (tức 5 vị trí ngôi thứ theo 5 hạng):
Hạng một gồm: Quan văn từ Tứ phẩm trở lên, quan võ từ Tam phẩm trở lên, những người khoa mục từ hạng trung khoa (vào thời Pháp gồm cả những người có bằng trung học).
Hạng hai: là những người từ tuổi 50 trở lên, khi ngồi trong đình theo trật tự tuổi tác ngồi từ trên xuống.
Hạng ba gồm các tân, cựu Chánh phó tổng, các nghị viên được thưởng hàm chánh phó lý, các trương tuần (phụ trách an ninh trong làng), quản lộ, quản thị cùng những người có bằng phó lý.
Hạng tư: gồm các Chánh phó hương hội, thư ký Hội đồng tộc biểu (đại biểu của dòng họ) và các tộc biểu.
Hạng năm: Ngoài ngôi thứ dành cho những người có bằng cấp, phẩm hàm, chức tước là những người có phẩm hàm mua, ngôi thứ mua. Làng có ngôi thứ dành cho người bỏ tiền ra mua , nhằm có một chút vinh dự, tinh thần gắn liền với một số vật chất và được giảm một số nghĩa vụ (như canh gác, tuần phòng).
Gắn với các ngôi thứ là việc khao vọng. Ở mỗi làng đều có lễ khao khác nhau, riêng ở làng Cổ Loa thì quy định số tiền phải nộp khao cho các chức danh và vị trí ngôi thứ được ghi lại rất rõ trong bản hương ước cải lương lập lại vào năm 1942.
Hệ thống ngôi thứ được phân chia ở làng Cổ Loa tạo mặt tích cực là làm cho mọi người có động lực phấn đấu trong học hành, binh nghiệp để tạo vị thế của mình trước xã hội. Nhưng mặt khác, các khoản khao nộp chung và cỗ khao đã gây tốn kém cho những người có chức danh. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Các vấn đề về cơ cấu tổ chức, ngôi thứ được ghi trong hương ước của riêng làng. Làng Cổ Loa còn lại bản hương ước gồm nhiều lệ được lập và bổ sung qua nhiều thời kỳ, trong đó có 108 lệ lập ngày 17 tháng Giêng năm Tự Đức thứ 28 (1875), 45 lệ lập ngày mùng 4 tháng Chín năm Thành Thái thứ ba(1891), 68 lệ lập ngày mùng 9 tháng Chạp năm Thành Thái thứ chín (1898), 17 lệ lập ngày mùng 6 tháng Hai năm Khải Định thứ sáu (1921), được lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
1.5. Tiểu kết chương 1
“Cổ Loa ở vào vị trí trung tâm của đất nước và đầu mối của các hệ thống giao thông đường thủy. Cổ Loa lại ở giữa vùng đồng bằng đông dân, kinh tế phát đạt”, có một vị trí thuận lợi để phát triển về kinh tế và văn hóa. Cổ Loa là một ngôi làng cổ, một vùng đất có vinh dự được biết đến nhiều lần trong lịch sử bởi đây là nơi được hai lần làm kinh đô của đất nước, lần đầu là dưới thời vua An Dương Vương và lần hai dưới thời vua Ngô (vua Ngô Quyền và các con nối dõi). Cùng với các làng Việt khác thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, làng Cổ Loa cũng mang đậm dấu ấn riêng của làng được thể hiện rõ nét trong bản hương ước, các nghi thức, thiết chế, các giá trị văn hóa còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa cổ của làng mình để kết nối tính cộng đồng làng xóm, gia đình, dòng tộc thêm bền chặt, gần gũi hơn và ý thức trách nhiệm cao của mỗi thành viên trong cộng đồng. Tại mảnh đất này, các cuộc khảo cổ học đã chứng minh dấu vết của người Việt cổ sống ở đây và những hiện vật lưỡi cày đồng, mũi tên đồng, khẳng định làng được hình thành từ thời các Vua Hùng dựng nước. Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa.
Chính bởi sự hình thành lâu đời, cùng với những giá trị văn hóa – lịch sử truyền thống tiêu biểu mà mỗi thành viên trong cộng đồng làng Cổ Loa có ý thức để lưu truyền, gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp tại mảnh đất truyền thống này.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của làng Cổ Loa […]