Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp ở Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, ô nhiễm môi trường đang ngày trở nên phức tạp và gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng trong đời sống của con người. Điều đó làm dấy lên hồi chuông báo động đòi hỏi các quốc gia trên thế giới phải có những biện pháp thiết thực để bảo vệ môi trường (sau đây viết tắt là Bảo vệ môi trường).  Bảo vệ môi trường là vấn đề bức thiết mang tính chất toàn cầu, nó trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Ở Việt Nam, sau khi gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới – WTO đã giúp nền kinh tế có vị thế mới, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội thì vấn đề bảo vệ môi trường cũng như công tác bảo vệ môi trường hiện nay còn quá nhiều bất cập cần phải khắc phục. Tình trạng ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường đang trở nên phổ biến tại nhiều nơi, đặc biệt là tại khu vực đô thị và các thành phố công nghiệp.

Nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của vấn đề trên, trong những năm qua nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện những chính sách tích cực nhằm bảo về môi trường. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề Bảo vệ môi trường, trong đó có công tác đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Hệ thống các văn bản chính sách, pháp luật về  Bảo vệ môi trường  liên tục được rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Một số văn bản quan trọng được ban hành như: Nghị quyết số 41-NQ/TW  ngày 15 tháng 11 năm 2004 của  Bộ Chính trị về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp  hoá, hiện đại hoá đất nước, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết  41-NQ/TW, Chiến lược Bảo vệ môi trường  quốc  gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật như Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/2/2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP, Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, Đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường, Quyết định số 13/2006/QĐ-BTNMT ngày 08/9/2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường, Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18/7/2011 quy định chi tiết một số điều của quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 quy định về đánh giá môi trường chiến lược, Đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường… Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Trên thực vẫn xảy ra nhiều vụ việc vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng mà nguồn gây ô nhiễm chủ yếu phát sinh từ hoạt động khu công nghiệp. Hoạt đông sản xuất của các khu công nghiệp gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường xung quanh như: Công ty cổ phần công nghiệp Tungkuang (doanh nghiệp FDI của Đài Loan) tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương với thủ đoạn xây dựng hệ thống cống thoát ngầm thường xuyên bơm xả nước thải không qua xử lý ra sông Giẽ ; Công ty TNHH Longtech Precision Việt Nam (doanh nghiệp FDI của Đài Loan) tại khu công nghiệp Quế Võ, Bắc Ninh đã có hành vi lắp đặt đường ống không có trong sơ đồ thiết kế được phê duyệt để đưa nước thải quá trình mạ ra môi trường…Và gần đây nhất là Khu công nghiệp Formosa trong quá trình sản xuất thải bỏ chất thải ra biển, làm cho nước biển bị nhiễm độc dẫn đến hiện tượng cá chết hàng loạt ở Hà Tĩnh.

Tại sao những vụ việc như vậy vẫn xảy ra và càng ngày càng có xu hướng gia tăng? Liệu hoạt động quản lý môi trường tại khu công nghiệp đã thực sự hiệu quả? Cần có những giải pháp, biện pháp như thế nào để khắc phục tình trạng trên? Để trả lời những câu hỏi trên, chúng ta cần hơn bao giờ hết những công  trình nghiên cứu về Bảo vệ môi trường nói chung và Đánh giá tác động môi trường tại khu công nghiệp nói riêng.

Luật Bảo vệ Môi trường 2014 ra đời trên tinh thần kế thừa và khắc phục những hạn chế, bất cập các nội dung của Luật bảo vệ Môi trường 2005. Đặc biệt là những thay đổi tích cực về công tác đánh giá tác động môi trường (ĐTM) tại Điều 18, Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định chỉ với 3 nhóm đối tượng phải lập Đánh giá tác động môi trường thay vì 7 nhóm như trước kia.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vấn đề bảo vệ môi trường cũng như công tác đánh giá tác động môi trường còn gặp nhiều trở ngại. Do đó việc nghiên cứu các quy định hiện hay và thực tiễn áp dụng pháp luật đánh giá tác động môi trường ở khu công nghiệp Việt Nam để từ đó đưa ra được những giải pháp có tính định hướng và hiệu quả trong việc thực thi, áp dụng, góp phần vào việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường. Vì vậy người viết chọn đề tài “Pháp luật đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp ở Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong khóa luận là Pháp luật đánh giá tác động môi trường trong khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu: khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2014 và một số văn bản dưới Luật khác về pháp luật Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đối với hoạt động trong các khu công nghiệp. Ngoài ra, tác cũng tham khải những quy định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế có liên quan đến Đánh giá tác động môi trường.

3. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp luận của nghĩa MacLênin, và các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành: phương pháp so sánh pháp luật, hệ thống, phân tích, tổng hợp, mô hình hóa và tham khảo những báo cáo tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu…

4. Ý nghĩa của khóa luận Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Khóa luận làm rõ các khái niệm về nội dung các quy định pháp luật về Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp. Phân tích được thực tiễn pháp luật và thực thi pháp luật Đánh giá tác động môi trường tại khu vực này. Nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về xây dựng và thực hiện pháp luật Đánh giá tác động môi trường. Từ đó đưa ra những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật Đánh giá tác động môi trường ở nước ta.

5. Bố cục khóa luận

Khóa luận gồm có 3 phần chính: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Phần nội dung bao gồm các chương:

  • Chương 1: Những vấn đề chung về pháp luật đánh giá tác động môi trường trong khu công nghiệp.
  • Chương 2: Thực trạng pháp luật về Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp Việt Nam
  • Chương 3: Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở các khu công nghiệp Việt Nam.

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP 

1.1. Thực trạng môi trường tại khu công nghiệp

1.1.1. Khái niệm về khu công nghiệp

Khu công nghiệp được hình thành là công cụ đắc lực để nước ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.

Theo tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc (viết tắt là UNIDO) năm 1997 đã định nghĩa rằng “Khu công nghiệp là một vùng đất có quy hoạch, được phát triển và chia ra thành các mảnh đất căn cứ theo một quy hoạch tổng thể, có hoặc không có các nhà xưởng xây dựng trước, có hoặc không có công trình hỗ trợ dùng chung, là nơi tập trung nhiều các cơ sở công nghiệp”[1]. Tại Việt Nam, khu công nghiệp được định nghĩa là khu chuyên sản xuất hàng hóa công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Luật bảo vệ môi trường 2014 cũng đưa khái niệm khu công nghiệp vào Điều 3 để làm rõ hơn khái niệm và tính chất của khu công nghiệp  “Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp”

Trong khu công nghiệp có các loại hình doanh nghiệp sau: doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này có thể hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, khai thác hạ tầng, hoạt động sản xuất, gia công hàng xuất khẩu hay thị trường nội địa, cung ứng các dịch vụ công nghiệp và nghiên cứu phát triển sản phẩm mới. Các khu công nghiệp có thể được thành lập và khai thác bởi các doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp có vốn nước ngoài hay liên doanh, gọi chung là Công ty phát triển hạ tầng khu công  nghiệp. Doanh nghiệp quản lý và khai thác khu công nghiệp có quyền cho thuê đất cho các doanh nghiệp khác muốn đầu tư vào khu công nghiệp và cung cấp các dịch vụ khác phù hợp với nội dung của giấy phép đầu tư. Một vài Khu công nghiệp cung cấp cho các doanh nghiệp cơ sở hạ tầng hiện đại và hiệu quả, chẳng hạn như giao thông thuận tiện đến các trục đường lớn, cảng biển và sân bay quốc tế cũng như hệ thống cung cấp nước, điện và xử lý nước thải.

Từ quy định trên, có thể thấy, khu công nghiệp là một khu vực có những đặc điểm riêng biệt sau :

Thứ nhất, về không gian: khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, phân biệt với các vùng lãnh thổ khác và thường không có cư dân sinh sống. Các khu công nghiệp đều được xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống hàng rào khu công nghiệp, phân biệt với các vùng còn lại thuộc lãnh thổ quốc gia. Mọi hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh bên trong hàng rào đó, không chỉ được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật hiện hành mà còn phải tuân thủ quy chế pháp lý riêng và được hưởng rất nhiều ưu đãi (điều 20 Luật đầu tư 2014). Toàn bộ hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp này được xây dựng phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ phục vụ công nghiệp, không phục vụ mục đích sống của dân cư, kể cả người Việt Nam hay người nước ngoài làm việc trong khu công nghiệp.

Thứ hai, về chức năng hoạt động: khu công nghiệp là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp này là sản xuất công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong khu công nghiệp, không có các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho loại hình sản xuất này. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Thứ ba, về thành lập: Khu công nghiệp không phải là khu vực được thành lập tự phát mà được thành lập theo quy định của Chính phủ, trên cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt. Để đảm bảo cho các khu công nghiệp phát triển thì Nhà nước đã có những chính sách chặt chẽ trong điều kiện thành lập các khu công nghiệp. Một khu công nghiệp được thành lập khi mà đáp ứng cả hai điều kiện sau “Phù hợp với quy định tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được phê duyệt” và “Tổng diện tích đất công nghiệp đã được thành lập… ít nhất là 60%”. Còn điều kiện ban hành Quyết định thành lập khu công nghiệp gồm: Quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trường hợp khu công nghiệp đã thành lập và phần mở rộng của khu công nghiệp đó không có cùng chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thì điều kiện mở rộng khu công nghiệp được áp dụng như điều kiện thành lập mới khu công nghiệp.

Thứ tư, về đầu tư cho sản xuất: theo quy định của pháp luật hiện hành, trong khu công nghiệp, có khu vực hoặc doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Phụ thuộc vào quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được phê duyệt và dự án đầu tư, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, trong phạm vi khu công nghiệp có thể thành lập khu vực riêng bao gồm: các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ hoặc cũng có thể chỉ thành lập doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu.

1.1.2. Thực trạng môi trường tại các khu công nghiệp và nhu cầu điều chỉnh pháp luật

Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện mục tiêu đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Để được công nhận là một quốc gia công nghiệp đòi hỏi phải có một nền công nghiệp phát triển ở trình độ cao cả về năng lực sản xuất, trình độ kỹ thuật công nghệ, hình thức tổ chức sản xuất… Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước và từ thực tiễn phát triển của Việt Nam cho thấy, tổ chức sản xuất công nghiệp tập trung tại các khu công nghiệp (KCN) đã thật sự mang lại nhiều hiệu quả to lớn không chỉ riêng cho sự phát triển của ngành công nghiệp, mà còn đổi mới cả nền kinh tế – xã hội ở một quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp.

Thống kê trong hơn 20 năm qua cho thấy số lượng khu công nghiệp trên cả nước được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã diễn ra rất nhanh từ 1 khu công nghiệp (năm 1991) lên đến 289 khu công nghiệp (năm 2012), trong đó có 179 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Các Cụm công nghiệp cũng hình thành theo cấp số nhân, đến cuối năm 2012 cả nước đã có 878 Cụm công nghiệp (CCN), trong đó 65 Cụm công nghiệp đang hoạt động. Riêng vùng đồng bằng Sông Cửu Long, hiện có 120 khu công nghiệp-CCN với tổng diện tích khoảng 25.000ha và định hướng đến năm 2020 toàn vùng sẽ có khoảng 240 khu công nghiệp-CCN, tương đương với diện tích 50.000ha.[2] Cùng với sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của đất nước thì các khu công nghiệp cũng theo đà hình thành và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp đang trở nên trầm trọng. Nó đã trở thành mối quan tâm hàng đầu không chỉ của các cơ quan quản lý môi trường mà của toàn xã hội. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Hiện trạng ô nguồn nước: Ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ khu công nghiệp trong những năm gần đây là rất lớn, tốc độ gia tăng này cao hơn rất nhiều so với tổng nước thải từ các lĩnh vực khác. Cụ thể, theo nhiều người dân sinh sống tại khu vực kênh Tham Lương (Thành phố Hồ Chí Minh) thì nguồn nước ở đây từ khi xuất hiện khu công nghiệp Tân Bình đã trở lên ô nhiễm trầm trọng, không sử dụng được vào bất cứ mục đích nào. Đáng báo động hơn nữa, hiện nay kênh Tham Lương còn được liệt vào dòng kênh “chết” do không có thứ gì, kể cả cây cỏ có thể tồn tại được ở dòng kênh mà trước kia từng rất trong xanh này. Nguyên nhân của tình trạng này không quá khó để biết được chính là do khu công nghiệp Tân Bình với hàng loạt nhà máy, xí nghiệp cùng hàng ngàn công nhân sinh hoạt hàng ngày thải ra.. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế thì những vấn đề phát sinh trong các khu công nghiệp hiện nay đó là ô nhiễm môi trường (ÔNMT). Ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nước thải từ các khu công nghiệp có thành phần đa dạng, chủ yếu là các chất lơ lửng dầu mỡ và một số kim loại nặng. Thông thường, ở các khu công nghiệp thường có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Tính đến tháng 6/2012 có khoảng 62% các khu công nghiệp đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng theo đánh giá của Cục cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường PC49 thì những công trình hệ thống này hoạt động hiệu quả không cao và dẫn đến tình trạng 75% nước thải của khu công nghiệp thải ra ngoài có lượng ô nhiễm `1 các hệ thống xử lý nước thải của các khu công nghiệp đều xả thải ra sông, kênh gần đó. Điều đáng nói, hiện nay có khá nhiều những doanh nghiệp lắp đặt những hệ thống nước ngầm để xả trực tiếp nước thải trong hoạt động công nghiệp ra sông, rạch dẫn đến tình các con sông này bị ô nhiễm trên diện rộng. Sự phát triển không ngừng về số lượng các khu công nghiệp-CCN giải quyết được bài toán về phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, hỗ trợ đắc lực phát triển các thế mạnh của từng địa phương… nhưng lại phát sinh nhiều vấn đề nan giải về môi trường. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong số 179 khu công nghiệp đang hoạt động thì chỉ có 143 khu công nghiệp đang vận hành hoặc đang xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Ước tính số lượng nước thải phát sinh từ 179 khu công nghiệp này là 622.773m3/ngày/đêm, trong đó các hệ thống xử lý nước thải tập trung chỉ xử lý được khoảng 362.450m3/ngày/ đêm, đạt khoảng 58% tổng lượng nước thải. Như vậy, trung bình mỗi ngày có tới 240.000m3 nước thải từ các khu công nghiệp được xả thẳng ra môi trường chưa qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, đặc biệt là tại các khu vực gần khu công nghiệp…[3]

Hiện trạng môi trường không khí: Ở các khu công nghiệp cũng đang ở mức báo động khi mà không khí ở nơi đây bị ô nhiễm nặng bởi bụi và một số khí sản xuất trong công nghiệp như CO, SO2, NO2… Ô nhiễm môi trường không khí có tính lan tỏa nhanh hơn so với Ô nhiễm môi trường nước, đất và thường xuất hiện ở các khu công nghiệp cũ có công nghệ lạc hậu chưa đầu tư hệ thống xử lý chất thải. Đặc biệt là khí thải di chuyển ảnh hưởng đến đời sống của người dân sống xung quanh khu công nghiệp.

Hiện trạng về chất thải rắn: Theo thống kê, năm 2011 mỗi ngày các khu công nghiệp nước ta thải ra khoảng 8000 tấn chất thải rắn (CTR) tương đương với khoảng 3 triệu tấn mỗi năm. Sự gia tăng phát thải trên đơn vị diện tích đã phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất công nghiệp, xuất hiện các ngành có mức phát thải cao và quy mô ngày càng lớn tại các khu công nghiệp và tổng phát thải CTR từ các khu công nghiệp năm 2015  khoảng 6 đến 7,5 triệu tấn/năm và đến năm 2020 đạt từ 9 đến 13,5 triệu tấn/năm [4]. Một con số khổng lồ nếu tính trên tổng số diện tích và con người sinh sống quanh các khu công nghiệp. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chính là, lượng chất thải rắn đang tăng lên cùng với việc gia tăng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp. Nghĩa là, càng về sau, những khu đất trống dùng để xử lý, chôn lấp chất thải khan hiếm đi, trong khi số lượng lại tăng lên mới là điều đáng lo ngại. Cụ thể, nếu như tính trung bình cả nước, năm 2005 – 2006, một ha diện tích đất cho thuê phát sinh chất thải rắn khoảng 134 tấn/năm, thì đến năm 2008 – 2009, con số này đã tăng lên 204 tấn/năm (tăng 50%).[5]

Hiện trạng môi trường đất: theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính hết năm 2014, cả nước đã có 295 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 84 nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 56 nghìn ha, chiếm khoảng 66% tổng diện tích đất tự nhiên. 212 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 60 nghìn ha và 83 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 24 nghìn ha. Trong năm 2014, các khu công nghiệp đã cho các nhà đầu tư thuê mới 2 nghìn ha, nâng tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các khu công nghiệp đạt 26 nghìn ha, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp đạt 48%, riêng các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, tỷ lệ lấp đầy đạt trên 65%. Đến cuối năm 2014, trong số 295 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp trên cả nước, có 212 dự án đã hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào hoạt động, các dự án còn lại đang trong giai đoạn triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.[6] Các khu công nghiệp xây dựng và hoạt động trên phần lớn diện tích đất tự nhiên hiện nay làm thu hẹp đất trồng và đất ở của người dân xung quanh. Thêm vào đó những rác thải có chứa hóa chất được một số các khu công nghiệp chôn vào lòng đất sau một thời gian dài sẽ phá hủy độ dinh dưỡng của đất làm đất bạc màu, làm mạch nước ngầm bị ô nhiễm.

Với một số lượng các khu công nghiệp ngày càng tăng như vậy, nếu sự tăng lên về số lượng này đi đôi với sự tăng lên về lượng chất thải không được xử lý thải ra môi trường thì trong tương lai gần chúng ta sẽ “đuổi kịp” Trung Quốc về thành tích đứng đầu thế giới về ô nhiễm môi trường. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Thiết nghĩ, với vai trò là một quá trình phân tích, dự báo và đề xuất các biện pháp phòng ngừa thì việc thực hiện đánh giá tác động môi trường các khu công nghiệp là vô cùng quan trọng và cần thiết. Hơn nữa tác động đến môi trường có thể tốt hoặc xấu, có lợi hoặc có hại nhưng việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp những nhà đầu tư ra quyết định chủ động lựa chọn những phương án khả thi và tối ưu về kinh tế và kỹ thuật trong bất cứ một kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội nào. Hay nói cách khác, nhu cầu điều chỉnh pháp luật về môi trường tại các khu công nghiệp là một vấn đề đang hết sức cấp bách và cần thiết.

1.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về Đánh giá tác động môi trường

Khái niệm về Đánh giá tác động môi trường xuất hiện đầu tiên tại Hòa Kỳ và được định hình chính thức vào năm 1969. Thông qua Đạo luật chính sách môi trường Mỹ (National Envirimental Policy Act, NEPA) đã quy định, yêu cầu phải tiến hành Đánh giá tác động môi trường của các hoạt động lớn, quan trọng có thể gây ra tác động đáng kể đến môi trường[7]. Một số thuật ngữ đã được đưa ra liên quan tới quá trình tuân thủ Đạo luật chính sách môi trường của Mỹ. Trong đó, ba thuật ngữ quan trọng nhất là: kiểm kê hiện trạng môi trường (environmental Inventory); đánh giá tác động môi trường (Environmental Impact Assessment); tường trình tác động môi trường (Environmental impact Statement – EIA). Thông qua Đạo luật chính sách môi trường của Mỹ thì mục tiêu, ý nghĩa và thủ tục thi hành Đánh giá tác động môi trường đã được xác định bằng văn bản.

Sau Mỹ, Đánh giá tác động môi trường được áp dụng ở nhiều nước. Nhóm các nước sớm nhất gồm: Nhật, Singapo, Hồng Kông (1972), tiếp theo là Canada (1973), úc (1974), Đức (1975), Pháp (1976), Philippin (1977), Trung Quốc (1979)[9]. Có thể nói Đánh giá tác động môi trường không chỉ có ở các nước lớn có nền công nghiệp phát triển mà ngay cả những nước nhỏ cũng đã có nhận thức nhất định về vấn đề môi trường và vai trò của Đánh giá tác động môi trường .

Ngoài ra, các tổ chức quốc tế cũng rất quan tâm đến công tác Đánh giá tác động môi trường, những tổ chức hàng đầu thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) … đang góp phần tài lực vào sự phát triển công tác Đánh giá tác động môi trường của các quốc gia trên thế giới.

Ở Việt Nam, nhiều nhà khoa học đã tiếp cận công tác Đánh giá tác động môi trường thông qua các hội thảo khoa học cũng như các khóa đào tạo về môi trường và Đánh giá tác động môi trường từ những năm 1980. Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và môi trường do Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước triển khai và đặt nền móng quan trọng cho việc nghiên cứu, thực hiện Đánh giá tác động môi trường tại Việt Nam. Tháng 4/1984, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội kết hợp với Chương trình nghiên cứu quốc gia về Môi trường, đã tổ chức khoá huấn luyện về Đánh giá tác động môi trường cho các giảng viên từ các trường Đại học và Viện nghiên cứu Trung ương (TW) đầu tiên tại Việt Nam. Sau đó, Đánh giá tác động môi trường đã được xác định cụ thể trong các văn bản quan trọng của Nhà nước về đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, cụ thể là: Nghị quyết số 246 – Hội đồng Bộ trưởng ngày 20.9.1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Tiếp đó là một loạt các thông tư hướng dẫn các công việc cần làm ngay để bảo vệ môi trường. Từ 1987, chương trình đào tạo sau Đại học về quản lý môi trường và Đánh giá tác động môi trường được Trung tâm Tài nguyên Môi trường thuộc Đại học Tổng Hợp Hà Nội thường xuyên tổ chức. Tuy nhiên, cũng vào thời điểm đó thì mức độ và quy mô còn chưa đồng bộ và rộng khắp ở các nghành và các địa phương. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Năm 1993, Luật Bảo vệ Môi trường ở Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 27/12 gồm 07 chương và 55 điều, nhiều thuật ngữ chung về môi trường đã được định nghĩa, những quy định chung về bảo vệ môi trường trên lãnh thổ Việt Nam đã được đưa ra. Đặc biệt, Điều 11, 17 và 18 trong luật này có định nghĩa Đánh giá tác động môi trường và những quy định các dạng dự án đang hoạt động và sẽ triển khai trên lãnh thổ Việt Nam nhất thiết phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường; điều 37 và 38 quy định các cơ quan chức năng có trách nhiệm thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Ngoài ra, Chính phủ đã ra Nghị định về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường vào 10/1994.

Sau khi Luật Bảo vệ Môi trường được thông qua và có hiệu lực, công tác Đánh giá tác động môi trường đã được triển khai nhanh chóng. Từ năm 1993 – 1995 đã có 423 báo cáo Đánh giá tác động môi trường trình nộp lên Bộ KHCN&MT. Ngoài ra, một số lớn báo cáo Đánh giá tác động môi trường được nộp cho Sở KHCN&MT ở các tỉnh. Kể từ khi có Luật Bảo vệ môi trường, công tác Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam mới được triển khai có hệ thống, bài bản và đồng bộ từ các Bộ, nghành, Trung ương đến các địa phương.

Đến năm 2005, Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam đã sửa đổi và được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Trong đó có nhiều quy định bổ sung về Đánh giá tác động môi trường tại chương 3 và kèm theo Nghị định 80 quy định chi tiết hơn về Đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường (tại mục 2). Thông tư này có kèm theo các phụ lục về biểu mẫu liên quan đến lập báo cáo, xin thẩm định và phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường chiến lược, Đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường. Năm 2008, nghị định 21/2008/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 80/2006. Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.[10]

Ngày 23/6/2014, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Bảo vệ Môi tường số 55/2014/QH13. Có những thay đổi căn bản về Đánh giá tác động môi trường từ đối tượng, nội dung, thẩm quyền thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường… đặc biệt là vấn đề tham vấn môi trường. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật này có hiệu lực. Năm 2015 cùng với sự ra đời của nghị định 18/2015/ NĐ-CP quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường và Thông tư 27/2015/TT-BTNMT về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường.

1.3. Nhận thức về pháp luật Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

1.3.1. Khái niệm về Đánh giá tác động môi trường      

Khái niệm Đánh giá tác động môi trường đã xuất hiện trên nhiều quốc gia với những trường phái khác nhau. Có những quốc gia đi theo trường phái Đánh giá tác động môi trường là một khái niệm rộng, cần phải có tính bao quát trên phạm vi rộng. Bên cạnh đó có những quốc gia lại theo trường phái Đánh giá tác động môi trường là khái niệm cần ngắn gọn dễ hiểu hơn. Vì vậy, trong Chương trình môi trường Liên hợp quốc UNEP đã đưa ra một khái niệm về Đánh giá tác động môi trường với phạm trù rộng hơn khi cho rằng: “ĐTM là quá trình nghiên cứu nhằm dự báo các hậu quả môi trường của một dự án phát triển quan trọng. Đánh giá tác động môi trường sẽ xem xét việc thực hiện dự án đó gây ra những vấn đề gì đối với đời sống của con người tại khu vực dự án, tới kết quả chính của dự án đó và các hoạt động khác tại vùng đó. Sau dự báo Đánh giá tác động môi trường phải xác định các biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực, làm dự án đó thích hợp với MT của nó.”[11] Cũng giống như định nghĩa của Mun (1979): “ĐTM là cần phải phát hiện và dự đoán những tác động đối với môi trường cũng như đối với sức khỏe và sự thịnh vượng của con người, của các đề xuất, các chính sách, chương trình, dự án, quy trình hoạt động và cần phải chuyển giao và công bố những thông tin về các tác động đó.”[12] Với hai khái niệm trên, chúng ta có thể thấy Đánh giá tác động môi trường được gắn liền với những chính sách về đời sống, sự thịnh vượng của con người và những hoạt động cần công bố thông tin tác động tới môi trường.

Tuy nhiên, Ủy ban Liên hợp quốc về các vấn đề kinh tế Châu Âu năm 1991 đã đưa ra một định nghĩa ngắn gọn và cụ thể hơn: “Đánh giá tác động môi trường là đánh giá tác động của một hoạt động có kế hoạch môi trường”. Với khái niệm ngắn gọn này cho thấy được Đánh giá tác động môi trường là một hoạt động cần thiết trong công tác bảo vệ môi trường của bất kì dự án nào có tác động đến môi trường. Nội dung này đã bao hàm cả vấn đề con người, cơ sở vật chất của dự án khi có kế hoạch bảo vệ môi trường.

Tại Việt Nam khi Luật bảo vệ môi trường đầu tiên được ban hành, các vấn đề đánh giá môi trường phát triển kinh tế đã được quan tâm. Hoạt động được đưa ra để quản lý và giảm thiểu tác động của một dự án cụ thể tới môi trường là: “Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM)” và đưa ra cách hiểu về Đánh giá tác động môi trường tại khoản 11, điều 2 quy định: “ Đánh giá tác động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường của các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi trường.”

Các dự án phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường được quy định rõ ràng trong Luật bảo vệ môi trường. Sau 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường (1993), các nhà quản lý đã nhận ra Đánh giá tác động môi trường chưa thực sự được thực hiện tốt bởi vẫn còn rất nhiều những dự án mặc dù  đã lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường dường như không có tác dụng thực tiễn. Chính vậy mà luật bảo vệ môi trường năm 2005 sau quá trình học hỏi kinh nghiệm từ các nước trên thế giới đã đưa ra một khía niệm tổng quan về Đánh giá tác động môi trường. Theo khoản 20, điều 3 quy định “Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó.” Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Luật bảo vệ môi trường năm 2014 ra đời,và khái niệm về Đánh giá tác động môi trường không có gì thay đổi so với luật cũ. Các nhà làm luật vẫn giữ nguyên quan điểm theo tinh thần luật Bảo vệ môi trường 2005 về Đánh giá tác động môi trường quy định tại khoản 23, Điều 3. Với mục đích để hạn chế lạm dụng yêu cầu phải làm báo cáo Đánh giá tác động môi trường, Luật bảo vệ môi trường quy định chỉ còn 3 nhóm đối tượng phải lập Đánh giá tác động môi trường thay vì là 7 nhóm như Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định.

Tóm lại, về mặt bản chất, dưới góc độ pháp lý, có thể hiểu, Đánh giá tác động môi trường là hoạt động phân tích các yếu tố hiện tại và dự báo các tác động có thể xảy ra đối với môi trường trong tương lai. Báo cáo Đánh giá tác động môi trường là một văn bản tạo cơ sở pháp lý cho mọi quyết định và hoạt động từ quy trình Đánh giá tác động môi trường của các chủ thể liên quan. Khi có những vi phạm trong việc lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường thì các tổ chức, cá nhân sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

1.3.2. Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp

Từ những quy định chung về Đánh giá tác động môi trường và đặc điểm của khu công nghiệp, có thể nói, đánh giá tác động môi trường ở các khu công nghiệp là hoạt động dự báo, đánh giá các khả năng, các nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường trong tương lai của các dự án, các hoạt động trong các công nghiệp, từ đó làm cơ sở cho việc xem xét ra quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc cho phép sự hoạt động của dự án đồng thời xây dựng các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường tại các khu vực có dự án.

Pháp luật về đánh giá tác động môi trường là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường nhằm đảm bảo đánh giá tác động môi trường như một công cụ pháp lý trong công tác quản lý môi trường. Những hành vi vi phạm quy định trong quá trình Đánh giá tác động môi trường sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Đi cùng với sự phát triển kinh tế hiện nay là sự phát triển đầy cạnh tranh và không ngừng nghỉ của các khu công nghiệp. Tăng cường doanh thu, lợi nhuận và giảm các chi phí khác là mục tiêu hoạt động của bất kỳ khu công nghiệp nào. Bởi vậy, nhiều khu công nghiệp “mải miết” trong việc phát triển kinh tế mà quên đi trách nhiệm của mình với môi trường. Hiện nay, pháp luật môi trường đã sử dụng tốt công cụ báo cáo Đánh giá tác động môi trường để ràng buộc các doanh nghiệp với vấn đề bảo vệ môi trường. Pháp luật Đánh giá tác động môi trường đang dần đi vào quỹ đạo và có hiệu quả đối với các khu vực hoạt động sản xuất công nghiệp. Đối với khu công nghiệp hay Khu chế xuất đã được pháp luật cụ thể hóa tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP quy định về khu công nghiệp, khu kinh tế và khu chế xuất. Trong đó có quy định rằng điều kiện để thành lập khu công nghiệp thì hồ sơ cần có báo cáo đánh giá tác động môi trường và báo cáo này do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có khu công nghiệp, khu kinh tế hay khu chế xuất hoạt động thẩm định. Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và môi trường còn ban hành thông tư số 27/2015/TT-BTNMT về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. Quy định chi tiết hơn về thẩm quyền phê duyệt đánh giá  tác động môi trường ở khu công nghiệp. Đối với các khu công nghiệp thuộc thẩm quyền thẩm định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ được phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường đến Bộ TN&MT, Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã nơi thực hiện dự án và gửi quyết định phê duyệt kèm báo cáo Đánh giá tác động môi trường tới Ban quản lý các khu công nghiệp trong trường hợp dự án trong khu công nghiệp. Ngoài ra thông tư 27/2015/TT-BTNMT còn quy định về Ủy quyền cho Ban quản lý các khu công nghiệp thẩm định, phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Điều kiện để được ủy quyền hoạt động trên thì khu công nghiệp này phải được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, cơ sở hạ tầng, đã hoàn thành xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung hoặc được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành công trình bảo vệ môi trường theo quy định pháp luật. Hiện nay, pháp luật về đánh giá môi trường ở các khu công nghiệp ngày càng chặt chẽ hơn trong công tác thẩm định về phê duyệt báo cáo. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Như vậy có thể nói rằng pháp luật đánh giá tác động môi trường giúp chúng ta xem xét nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là công nghệ xử lý chất thải, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường và giám sát môi trường. Pháp luật Đánh giá tác động môi trường xem xét các dự án trong xu thế phát triển chung của khu vực, của quốc gia và rộng hơn là toàn thế giới. Pháp luật Đánh giá tác động môi trường huy động được sự đóng góp của đông đảo tầng lớp trong xã hội. Nó góp phần nâng cao trách nhiệm của các cấp quản lý, của chủ dự án đến việc bảo vệ môi trường. Đồng thời liên kết được các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau, nhằm giải quyết công việc chung là đánh giá mức độ tác động môi trường của dự án, giúp cho người ra quyết định chọn được dự án phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường. Pháp luật Đánh giá tác động môi trường cũng phát huy được tính công khai của dự án và ý thức của cộng đồng trong việc tham gia đánh giá tác động môi trường nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. Pháp luật Đánh giá tác động môi trường còn giúp kết hợp với công tác bảo vệ môi trường trong thời gian dài. Mọi tác động được tính đến không chỉ qua mức độ mà còn theo khả năng tích lũy, khả năng kéo dài thời gian. Tuy nhiên pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở các khu công nghiệp còn chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn và sử dụng có hiệu quả. Quy định của pháp luật về Đánh giá tác động môi trường hiện nay vẫn còn những lỗ hổng để các doanh nghiệp, khu công nghiệp dựa vào đó lách luật trốn tránh trách nhiệm của mình đối với môi trường. Đối với chủ các khu công nghiệp thì Đánh giá tác động môi trường chỉ là công cụ để đối phó với công tác thanh, kiểm tra của cơ quan môi trường chứ không phải là biện pháp để phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường khi đưa dự án của khu công nghiệp vào hoạt động.

1.4. Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở một số quốc gia trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam

1.4.1. Trung Quốc

Đứng trước hiện trạng người dân Bắc Kinh phải mua những túi không khí sạch đem theo mình khi đi ra ngoài đường. Hay bầu trời lúc nào cũng âm u không một gợn mây trắng. Chính phủ Trung Quốc đã đẩy mạnh công tác Bảo vệ môi trường và thu lại những thành tựu đáng kể. Trong những năm gần đây, công tác Bảo vệ môi trường của Trung Quốc đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, đặc biệt là đã ban hành được một hệ thống văn bản pháp luật về Bảo vệ môi trường “đồ sộ”, trong đó có Luật Đánh giá tác động môi trường. Luật này được thông qua ngày 28/10/2002 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 0/9/2003. Đây là một văn bản khá hoàn chỉnh quy định về công tác Đánh giá tác động môi trường bao gồm 5 chương, 38 điều. Các quy định của Luật này có nhiều điểm tiến bộ mà Việt Nam có thể nghiên cứu, tham khảo nhằm cải thiện chất lượng môi trường cũng như để phòng ngừa đến mức tối đa những tác hại đến môi trường của các dự án đầu tư, trong đó có các dự án tại các khu công nghiệp.

Đối với Trung Quốc, các quy định pháp luật về việc lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường có rất nhiều điểm khác biệt với pháp luật của Việt Nam. Có thể nói, pháp luật Trung Quốc có những quy định rất cụ thể đối với hoạt động đánh giá tác động môi trường. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Thứ nhất, về chuyên môn và trách nhiệm của người lập báo cáo: Pháp luật Trung Quốc tiếp cận vấn đề này rất chặt chẽ. Cụ thể, tất cả các BC Đánh giá tác động môi trường đều phải được lập bởi người có chứng chỉ hành nghề. Chứng chỉ hành nghề còn được chia thành 2 loại A và B, trong đó loại A được phép lập BC Đánh giá tác động môi trường và Đánh giá tác động môi trường chiến lược cho tất cả các dự án, còn loại B chỉ được phép lập BC Đánh giá tác động môi trường ở cấp địa phương. Muốn có chứng chỉ, một cá nhân phải trải qua kỳ thi do nhà nước tổ chức và 4 năm một lần phải thi lại để được gia hạn.

Thứ hai, đảm bảo sự tham gia của cộng đồng và công khai thông tin:  Sự tham gia của cộng đồng là yếu tố bắt buộc trong pháp luật về Đánh giá tác động môi trường tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự tham gia này thường được thể hiện trong nhiều giai đoạn: tham vấn ý kiến rộng rãi khi lập BC, tự do góp ý trong khâu thẩm định BC và giám sát việc thực hiện BC. Luật pháp Trung Quốc đảm bảo sự tham gia của người dân vào bốn giai đoạn: lập BC, thẩm định BC, lập BC thực hiện và giám sát thực hiện. Trong đó, với quá trình lập BC Đánh giá tác động môi trường và Đánh giá tác động môi trường chiến lược, chủ dự án phải tham vấn ý kiến rộng rãi của người dân; đối với quá trình tham vấn, cơ quan thẩm định phải công bố công khai các báo cáo. Tất cả các ý kiến được tiếp thu hoặc từ chối đều phải được giải trình và được lưu kèm với BC. Kết thúc giai đoạn xây dựng BC, chủ dự án phải lập BC Thực hiện. BC này cũng phải được tham vấn ý kiến của người dân trước khi gửi cho cơ quan nhà nước để giám sát. Người dân cũng có quyền phản ánh trực tiếp đến cơ quan giám sát về những sai sót của chủ dự án trong quá trình xây dựng dự án. Cuối cùng, toàn bộ nội dung và các tài liệu liên quan nêu trên đều phải được lưu trữ và người dân có quyền tiếp cận miễn phí.

Thứ ba, Đảm bảo tính độc lập của hội đồng thẩm định: Tính độc lập của hội đồng thẩm định là một trong những yêu cầu quan trọng nhất nhằm đảm bảo chất lượng của các BC Đánh giá tác động môi trường, đặc biệt là các BC Đánh giá tác động môi trường chiến lược do BC này được lập bởi các cơ quan nhà nước. Pháp luật Trung Quốc quy định rất chặt chẽ về vấn đề này. Theo đó Bộ Bảo vệ Môi trường (BVMT) của Trung Quốc công bố một danh sách tất cả các chuyên gia về Đánh giá tác động môi trường trên phạm vi toàn quốc. Đối với mỗi BC Đánh giá tác động môi trường hoặc Đánh giá tác động môi trường chiến lược, hội đồng thẩm định sẽ được thành lập dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách (có loại bỏ các trường hợp xung đột lợi ích như các mối quan hệ gia đình, quan hệ lao động). Pháp luật Trung Quốc còn nghiêm cấm mọi tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp giữa chủ dự án và thành viên hội đồng, kể cả khi thành viên hội đồng chủ động liên hệ. Sau quá trình thẩm định, hội đồng sẽ viết BC thẩm định với ba nội dung chính: (1) có thông qua BC Đánh giá tác động môi trường chiến lược, Đánh giá tác động môi trường không, (2) có yêu cầu sửa đổi gì trong BC không, và (3) giải thích lý do. Các ý kiến không đồng tình phải được cũng phải được ghi nhận riêng. BC Đánh giá tác động môi trường chiến lược, Đánh giá tác động môi trường chỉ được thông qua khi có 3/4 số thành viên tán thành.

Thứ tư, nghiêm minh trong xử lý vi phạm : Pháp luật Trung quốc quy định rất rõ các hành vi vi phạm đối với 3 chủ thể:  người trực tiếp lập BC Đánh giá tác động môi trường, Đánh giá tác động môi trường chiến lược, người thẩm định BC và người phê duyệt Quy hoạch và kế hoạch và dự án. Theo đó, người lập BC Đánh giá tác động môi trường, Đánh giá tác động môi trường chiến lược sẽ bị tước thẻ hành nghề nếu có sai sót trong quá trình lập BC Đánh giá tác động môi trường chiến lược, Đánh giá tác động môi trường. Thành viên hội đồng thẩm định cũng sẽ bị loại ra khỏi danh sách của Bộ Bảo vệ môi trường nếu có sai sót trong quy trình hoặc nội dung BC thẩm định, hoặc BC Đánh giá tác động môi trường, Đánh giá tác động môi trường chiến lược (trừ các thành viên đã bỏ phiếu phản đối). Nếu sai sót đó dẫn đến hậu quả thực tế thì người lập BC và thành viên hội đồng thẩm định có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Một quan chức phê duyệt Quy hoạch và kế hoạch hoặc dự án hay cấp giấy phép xây dựng, giấy phép đầu tư dựa theo BC Đánh giá tác động môi trường chiến lược không theo quy định sẽ bị cách chức.

1.4.2. Nhật Bản Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Đánh giá tác động môi trường đã được giới thiệu vào Nhật Bản từ 1972, tuy nhiên đến năm 1984 Chính phủ mới quy định chính thức về thực hiện Đánh giá tác động môi trường cho các dự án và Luật riêng về “Đánh giá tác động môi trường” (Environmental Impact Asessment Law) được ban hành tháng 6 năm 1997 (Hàn Quốc vào năm 1993, Trung Quốc vào năm 2003 đã ban hành “Luật đánh giá tác động môi trường”). Hệ thống Đánh giá tác động môi trường ở Nhật Bản có một vài sự khác biệt với Việt Nam mà chúng ta có thể nghiên cứu, so sánh và học tập:

Thứ nhất, số loại hình cần bắt buộc Đánh giá tác động môi trường rất hạn chế: ít hơn nhiều so với yêu cầu của Việt Nam: chỉ có 13 loại hình dự án cần lập Đánh giá tác động môi trường (đường bộ, chỉnh trị sông, đường sắt, cảng hàng không, nhà máy điện, khu đổ thải, cải tạo đất, điều chỉnh sử dụng đất, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng thành phố mới, tổ hợp trung tâm phân phối, phát triển đất ở và đất công nghiệp do các tổ chức chuyên dụng). Mỗi loại hình có một số kiểu dự án và được chia thành 2 loại: dự án loại 1 và dự án loại 2, theo quy mô hoặc diện tích. Mỗi loại có yêu cầu riêng về mức độ Đánh giá tác động môi trường.  Tuy nhiên, số loại hình dự án cần Đánh giá tác động môi trường ít như vậy có thể không phù hợp với nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, Đánh giá tác động môi trường được thực hiện rất thận trọng trong cả khâu nghiên cứu lập báo cáo và cả khâu thẩm định, một báo cáo Đánh giá tác động môi trường  ở Nhật Bản cần trung bình 3 năm từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định (ở Việt Nam thường chỉ mất 0,6 – 2,0 năm đối với dự án quy mô lớn cấp Bộ TN-MT thẩm định (kể cả thời gian chờ) và chỉ 3 – 9 tháng đối với dự  án nhỏ do các Sở TN-MT thẩm định, vậy mà còn bị nhiều bộ, ngành, nhà đầu tư than phiền). Chính sự thận trọng này giúp các dự án tại Nhật Bản hạn chế đến mức thấp nhất các tác động xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội.

1.4.3. Cộng hòa liên bang Đức

Cộng hòa liên bang Đức là một trong những nước đưa ra chính sách mạnh mẽ nhất thế giới nhằm Bảo vệ môi trường, trong đó có việc ban hành các đạo luật về môi trường. Với 3 phần, 2 phụ lục và 25 điều Bộ luật Đánh giá tác động môi trường của Đức đã được nhiều chuyên gia về pháp luật và môi trường trên thế giới đánh giá cao.

Theo quy định của bộ luật này thì khi tiến hành các hoạt động ở khu công nghiệp phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường với 2 bước cơ bản. Bước đầu tiên là lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường sơ bộ được thực hiện ngay từ khi có ý tưởng dự án để lựa chọn địa điểm thực hiện dự án. Trong giai đoạn này, báo cáo Đánh giá tác động môi trường chỉ cần có những thông số rất đơn giản để các nhà đầu tư so sánh, lựa chọn sao cho phù hợp nhất. Bước thứ hai là lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường chi tiết, được thực hiện trong quá trình lập Báo cáo khả thi của dự án.

Trong giai đoạn này, báo cáo Đánh giá tác động môi trường được lập bao gồm những nội dung:

  • Xác định, mô tả và đánh giá tác động trực tiếp và gián tiếp của dự án tới: 
  • Con người, động vật, thực vật trong vùng dự án;
  • Đất, nước, không khí, khí hậu và cảnh quan thiên nhiên;
  • Di sản văn hóa và các tài sản vật thể khác;
  • Sự tương tác giữa các thành phần tên ” ( Điều 2 Bộ luật Đánh giá tác động môi trường)

Như vậy, báo cáo Đánh giá tác động môi trường đối với hoạt động của khu công nghiệp phải thực hiện qua 2 bước, quy định này rất tiến bộ và tương đồng với các nước khác trên thế giới như Mỹ, Anh… Ở Việt Nam, hiện nay trong bộ luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chỉ mới yêu cầu chủ dự án lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường chung và thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị dự án, và được coi là báo cáo Đánh giá tác động môi trường chi tiết. Điều này đã làm giảm đi ý nghĩa của báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Về sự tham gia của cộng đồng đối với báo cáo Đánh giá tác động môi trường, Đức quy định rất cụ thể trình tự phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường, theo đó sự tham gia của cộng đồng vào việc lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường là một thủ tục bắt buộc. Đồng thời, Luật cũng chỉ ra cách thức và trình tự để người dân có thể tham gia vào việc lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường, cụ thể như sau:

  1. Công khai dự án;
  2. Công khai trong một khoảng thời gian hợp lý để công chúng kiểm tra các tài liệu của dự án;
  3. Công chúng được tạo điều kiện để tham gia thảo luận;
  4. Thông báo cho người dân địa chỉ có thể tìm nội dung quyết định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường hoặc từ chối phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường kèm bản giải thích lý do” (Điều 9 Bộ Luật Đánh giá tác động môi trường)

Theo các quy định này thì cơ quan có thẩm quyền phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường sẽ tổ chức các phiên điều trần để nghe quan điểm của công chúng về báo cáo Đánh giá tác động môi trường của dự án trên cơ sở tài liệu đã cung cấp. Phiên điều trần sẽ được thực hiện theo luật hành chính.

Như vậy, qua phân tích ở trên ta thấy Bộ luật Đánh giá tác động môi trường của Đức đã quy định rất chặt chẽ về quy trình lập, nội dung, thủ tục phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường…đặc biệt là các thủ tục phải xin ý kiến cộng đồng khi thực hiện dự án. Điều này đã góp phần tăng cường công tác Bảo vệ môi trường của Đức và Đức hiện được đánh giá là một trong những nước có môi trường trong lành nhất thế giới. Khóa luận: Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp.

Hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam 2014 cũng đã đưa ra quy định về tham vấn trong quá trình thực hiện Đánh giá tác động môi trường (Điều 21), nhưng trên thực tế thủ tục này vẫn bị xem nhẹ và thường chỉ “làm cho xong”, nên dẫn đến tình trạng báo cáo Đánh giá tác động môi trường không đảm bảo chất lượng.

Những kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc, và Cộng hòa Liên Bang Đức về công tác Đánh giá tác động môi trường, Việt Nam nên chọn lọc học hỏi đánh giá để đưa ra những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của Môi trường hiện nay. 

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993