Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Nội dung chính

2.1. Các quy định về đối tượng phải lập Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp

Việc xác định đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường được coi là giai đoạn sàng lọc của quá trình Đánh giá tác động môi trường. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam đã đưa ra một cách tương đối rõ ràng danh mục các dự án cần phải tiến hành Đánh giá tác động môi trường. Hiện nay, các đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường được quy định tại Điều 18 Luật Bảo vệ môi trường 2014, phụ lục II Nghị định 18/2015/NĐ-CP về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường.

ĐTM là công cụ hữu ích, có ý nghĩa thiết thực trong mọi hoạt động phát triển. Do Đánh giá tác động môi trường là một quá trình nghiên cứu, phân tích tổng hợp phức tạp, đòi hỏi chuyên gia có kinh nghiệm, tốn kém về thời gian và kinh phí. Nên việc Đánh giá tác động môi trường một cách đầy đủ chỉ tiến hành đối với các dự án phát triển quan trọng, tức là căn cứ vào tính chất của dự án (mục đích, nội dung của dự án; quy mô của dự án; địa điểm thực hiện dự án).

Ngày 23/6/2014, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoa XIII đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, có hiệu lực ngày 01/01/2015, đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường. Các quy định về Đánh giá tác động môi trường trong luật mới đã có một số điểm mới. Trong đó, đối tượng phải lập Đánh giá tác động môi trường trong Luật bảo vệ môi trường 2014 đã được rút ngắn xuống còn 3 đối tượng so với Luật cũ 2005 có 7 đối tượng. Mặc dù Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định gồm 7 nhóm đối tượng cụ thể đánh giá tác động môi trường đã phần nào hạn chế được việc lạm dụng yêu cầu phải làm báo cáo Đánh giá tác động môi trường và tính lý thuyết không phù hợp với thực tiễn của một số báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Nhưng cũng chính việc cụ thể hóa các đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường lại vô hình chung không bao quát được tất cả các dự án cần lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Xã hội ngày càng có những chuyển biến phức tạp, đặc biệt là vấn đề môi trường bởi lẽ môi trường xung quanh chúng ta rất đa dạng: môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí….Việc quy định cụ thể các đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi con người khó có thể lường trước được các đối tượng tác động đến môi trường trong tương lai. Tại điểm c khoản 1 điều 18 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định chung về “các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường” đã bao hàm các dự án trong nhiều lĩnh vực, tạo nên tính tổng quát và không bị bỏ thiếu bất cứ dự án nào có ảnh hưởng xấu đến môi trường. Từ đó khiến cho nội dung quy định đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường tưởng hẹp mà lại không hề hẹp. Hay nói cách khác, đối với điểm c, khoản 1, Điều 18 của Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã bao hàm tất cả các đối tượng gây ảnh hưởng xấu đến môi trường trong đó có các khu công nghiệp. Với tính chất và đặc thù của các khu công nghiệp là chuyên sản xuất các hàng hóa, dịch vụ công nghiệp nên việc làm ảnh hưởng đến môi trường là không tránh khỏi.  Nên đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình Đánh giá tác động môi trường hoặc quan tâm đến sự phát triển của các dự án Đánh giá tác động môi trường bao gồm: chủ dự án, nhóm chuyên gia tư vấn thực hiện Đánh giá tác động môi trường, Cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường cấp Trung ương/địa phương nơi thực hiện dự án, Tổ chức tài trợ dự án, Các thành viên hội đồng thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường…  Những quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã có một bước tiến mới tác động đến các khu công nghiệp .

Như vậy, đối với các khu công nghiệp, các dự án trong khu vực này thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường như quy định tại Điều 18 Luật Bảo vệ môi trường 2014 và cụ thể tại phụ lục 2 của NĐ 18 thì phải thực hiện việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật. Nghị định 18/2015/NĐ-CP mặc dù đã làm rõ cụ thể đối tượng nào phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nhưng cơ chế đại diện của Nghị định lại không được quy định rõ ràng và cụ thể.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.2. Các quy định về nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường trong các KCN Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã quy định rõ 11 nội dung chính của báo cáo đánh giá tác động môi trường tại Điều 22. Những nội dung này là cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường có thể nắm rõ những hoạt động của mình trong công tác đánh giá. Đối với các khu công nghiệp, nơi mà tập trung các doanh nghiệp khác nhau chuyên sản xuất hàng hóa và dịch vụ công nghiệp thì những tác động đến môi trường là rất lớn. Để thực hiện tốt công tác quản lý môi trường tại các khu công nghiệp thì Bộ tài nguyên và môi trường đã ban hành Thông tư 05/2008/TT-BTNMT để đáp ứng yêu cầu thực hiện nội dung báo cáo Đánh giá tác động môi trường ở khu công nghiệp. Cụ thể đối với nội dung cơ bản của báo cáo Đánh giá tác động môi trường là xác định, mô tả, dự báo và đánh giá những tác động tiềm tàng trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài dạn tích cực và tiêu cực do việc thực hiện dự án Xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp có thể gây ra cho môi trường[1]. Trên cơ sở những báo cáo và đánh giá của báo cáo Đánh giá tác động môi trường sẽ đưa ra những biện pháp để giảm thiểu những tác động tiêu cực đến môi trường. Cũng theo Hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì một báo cáo Đánh giá tác động môi trường của một dự án khu công nghiệp thì cần phải có những nội dung sau: (1) Mở đầu; (2) Chương 1: Mô tả tóm tắt dự án; (3) Chương 2: Điều kiện tự nhiên, môi trường kinh tế – xã hội; (4) Chương 3: Đánh giá tác động môi trường; (5) Biện pháp giảm thiểu tác động xấu, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường; (6) Chương 5: Chương trình quản lý và giám sát môi trường; (7) Chương 6: Tham vấn ý kiến cộng đồng; (8) Kiến nghị và kết luận.15

Các chủ dự án khu công nghiệp tự mình hoặc thuê người đại diện thực hiện những nội dung đánh giá tác động môi trường mà Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã quy định. Hầu hết các chủ dự án khu công nghiệp đều chọn phương thức thuê người đại diện để thực hiện báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Thực chất việc thuê đại diện giống như một hợp đồng thương mại mà bên được thuê phải cam kết thực hiện đúng đủ báo cáo đánh giác tác động môi trường. Tình trạng này dẫn đến nội dung báo cáo Đánh giá tác động môi trường của khu công nghiệp đúng và đủ nhưng thực tế thì hoạt động của dự án vẫn gây ô nhiễm môi trường, hệ thống xử lý nước thải không đạt tiêu chuẩn… Hiện nay đây là tình trạng chung của đa số các khu công nghiệp, các chủ dự án không muốn mất thời gian cho việc lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường và họ tìm đến những bên đại diện hoặc thuê một công ty thực hiện cho mình đúng nội dung báo cáo Đánh giá tác động môi trường mà pháp luật môi trường đã quy định.

So với Luật bảo vệ môi trường 2005, nội dung bản báo cáo Đánh giá tác động môi trường trong Luật bảo vệ môi trường 2014 đã chú tâm hơn trong việc tiến hành dự án khi các nhà làm luật quyết định đưa kết quả tham vấn trở thành 1 trong các nội dung của báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Luật Bảo vệ môi trường 2014 đưa ra các nội dung cụ thể ở trước, trong và cả sau khi thực hiện dự án bao gồm việc đưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường; giảm thiểu tác động môi trường; chương trình quản lý và giám sát môi trường cũng như các biện pháp xử lý chất thải… trong khi Luật Bảo vệ môi trường 2005 chỉ chú tâm đến vấn đề đánh giá môi trường mà không đưa ra được các giải pháp cụ thể khi có sự cố tác động xấu đến môi trường trong quá trình thực hiện dự án. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

2.3. Các quy định về lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp

2.3.1. Mức độ chấp hành quy định về lập và thực hiện báo cáo Đánh giá tác động môi trường

Theo như kết quả điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2008 cho thấy nhiều dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh dịch vụ đã đi vào hoạt động nhưng không lập Báo cáo Đánh giá tác động môi trường, nhiều dự án mở rộng quy mô thay đổi công nghệ sản xuất không lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường bổ sung. “ Qua thanh tra của Bộ Tài nguyên và môi trường các năm 2005, 2006, 2007 tại các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy (gồm một phần TP Hà Nội và 5 tỉnh: Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, Hòa Bình và Ninh Bình) còn 34/135 (chiếm 25,2%) cơ sở không lập Báo cáo Đánh giá tác động môi trường hoặc Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường”[2]

Việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường sẽ là cơ sở để doanh nghiệp biết rõ hơn về hiện trạng chất lượng môi trường của mình để có thể đưa ra những biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, kết quả giám sát chất lượng môi trường sẽ là cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đánh giá về công tác bảo vệ môi trường của doanh nghiệp nói riêng và khu công nghiệp nói chung. Theo nhận định của các chuyên gia nghiên cứu về môi trường hiện nay một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng môi trường của các khu công nghiệp bị suy thoái là do công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường còn gặp nhiều bất cập khó khăn trong việc áp dụng thực tế.

Các hệ thống văn bản hướng dẫn về đánh giá tác động môi trường vẫn còn những bất cập, chưa đồng bộ gây khó khăn khi thực hiện với cả cơ quan quản lý và các khu công nghiệp. Ngoài ra, sự phối hợp giữa chủ dự án và các cơ quan tư vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường còn chưa thật sự chặt chẽ. Điển hình đó là có quá nhiều trường hợp chủ dự án khu công nghiệp đã giao khoán, phó mặc cho các bên tư vấn đánh giá tác động môi trường trong khi trách nhiệm này thuộc về họ. “Thế nhưng, trong những năm qua Bộ Công Thương tỉnh Bình Dương hầu như không thực hiện việc thẩm định, phê duyệt, báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền của mình. Và nhiều dự án được phê duyệt trên địa bàn tỉnh mặc dù đã được phê duyệt nhưng đến khi kiểm tra công tác bảo vệ môi trường của các khu công nghiệp công thương này thì cho thấy việc thực hiện nội dung cam kết của doanh nghiệp vẫn chưa đầy đủ đặc biệt là trong vấn đề xây dựng, lắp đặt các công trình bảo vệ môi trường”[3].

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Dương các Doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp và các doanh nghiệp khác thực hiện xác nhận hoàn thành công trình, biện pháp bảo vệ môi trường ngay cả trước khi đưa dự án đi vào hoạt động chính thức. Nhưng đến khi báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt, dự án đi vào hoạt động mới thấy được sự yếu kém của các biện pháp bảo vệ mà doanh nghiệp đã xác nhận trước đó. Nghiêm trọng hơn, nhiều doanh nghiệp còn chưa nắm rõ được các quy định nên không chịu làm báo cáo Đánh giá tác động môi trường để giảm chi phí cho doanh nghiệp. “Một số chủ đầu tư dự án khu công nghiệp đã thỏa thuận với các nhà đầu tư khi có lưu lượng thải lớn hay các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất gia tăng lượng nước thải so với ban đầu vào khu công nghiệp để thải ra hệ thống nước mưa”[4]. Chính vì hiện trạng này, đã làm cho công tác quản lý của tỉnh Bình Dương càng trở nên khó khăn và rất đáng quan ngại. Việc thực hiện những nội dung trên đối với các doanh nghiệp ở khu công nghiệp là vô cùng cần thiết khi lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đối với một khu công nghiệp cần phải có những tiêu chuẩn, nghiên cứu kĩ càng về môi trường sống, môi trường kinh tế xã hội xung quanh cũng như cần xác định các yếu tố khí hậu trong khu vực dự án để có thể bước đầu đi đến với việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Nghị định số 29/2011/NĐ-CP còn gặp rất nhiều khó khăn trên lý thuyết và thực tiễn, làm cho hiệu quả pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở các khu công nghiệp chưa đạt. Chính vì vậy Nghị định 18/2015/NĐ-CP ra đời thay thế cho nghị định 29/2011/NĐ-CP  để khắc phụ những tình trạng nói trên bằng những thay đổi có chiều hướng tích cực. Ngoài ra, việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường được cụ thể hóa trong các quy định của Luật môi trường 2014. Theo khoản 1 Điều 19 thì báo cáo Đánh giá tác động môi trường được lập bởi chính nhà đầu tư hoặc được nhà đầu tư thuê các tổ chức  lập theo quy định của pháp luật. Hay nói cách khác, chủ thể lập báo Đánh giá tác động môi trường chính là các chủ đầu tư. Vấn đề là: tổ chức nào có đủ tiêu chuẩn để tiến hành lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Khoản 2 Điều 19, Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã nói rõ, việc thực hiện đánh giá tác động môi trường phải được thực hiện trong quá trình chuẩn bị dự án. Mọi chi phí liên quan đến việc lập đánh giá tác động môi trường đều thuộc nguồn vốn đầu tư dự án do chủ dự án chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, để được thông qua báo cáo đánh giá tác động môi trường, báo cáo phải thông qua giai đoạn thẩm định về phê duyệt do các cơ quan chức năng thực hiện. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Cùng với mục đích của việc lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường để biết được tầm ảnh hưởng của dự án đến môi trường xung quanh, từ đó xem xét có cấp quyết định phê duyệt dự án hay không đã tạo ra sự ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường. Việc lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường cũng vô hình chung khiến các doanh nghiệp chủ động hơn trong công tác bảo vệ môi trường. Có thể thấy rằng báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã trở thành công cụ hữu hiệu trong công tác quản lý môi trường có tính chất phòng ngừa và giúp các cơ quan quản lý môi trường thực hiện tốt vai trò, nâng cao chất lượng trong các quyết định của mình. Hơn nữa, khi lập báo cáo đánh giá tác động môi trường sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí trong việc phát triển lâu dài sau này và quan trọng hơn là Đánh giá tác động môi trường góp phần và việc thúc đẩy sư phát triển bền vững.

 Thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường là nội dung quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước về môi trường. Thông qua hoạt động này các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, với tư cách là cơ quan phản biện các báo cáo Đánh giá tác động môi trường, sẽ thay mặt Nhà nước để xem xét và cân đối một cách toàn diện mối liên hệ giữa lợi ích kinh tế mà các dự án đem lại với lợi ích môi trường cần phải bảo vệ; giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.

Mặc dù Bộ Tài nguyên và môi trường đã quy định thời gian tất cả các khâu từ khi chủ dự án nộp Báo cáo Đánh giá tác động môi trường cho các cơ quan có thẩm quyền ký là 45 ngày, song trên thực tế ít có báo cáo Đánh giá tác động môi trường nào được thẩm định đúng thời hạn. Nhiều dự án mặc dù đã được xây dựng đi vào vận hành nhưng báo cáo Đánh giá tác động môi trường vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền thẩm định hay phê duyệt và các cơ quan này cũng không có động thái trả lời nào bằng văn bản cho các khu công nghiệp. “Ở Thái nguyên chỉ có 1/25 khu công nghiệp có lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường song trong số 18/31 dự án của khu công nghiệp này đã đi vào hoạt động từ năm 2001 đến nay vẫn chưa có Quyết định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường”[5]. Không chỉ chậm trễ trong hoạt động thẩm định mà hoạt động này còn mang tính chất hình thức, qua loa dẫn đến nhiều sự cố môi trường xảy ra khu đi vào hoạt động. “Ví dụ, Cụm công nghiệp Láng Lớn (Châu Đức) bị rút giấy phép đầu tư vì nguy cơ ô nhiễm nguồn nước hồ Đá Đen; hai dự án cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp Tóc Tiên I (huyện Tân Thành) và cụm công nghiệp Hòa Hội I (huyện Xuyên Mộc) thì không cho sinh hoạt do nằm gần nguồn cấp nước sinh họa. Ngoài ra, công tác thẩm định và phê duyệt còn đi ngược lại những quy định về Bảo vệ môi trường của Chính phủ cũng như Ủy ban nhân dân các địa phương đề ra. Cũng tại Bà Rịa – Vũng Tàu vào tháng 10-2008, Đoàn Thanh tra của Bộ Tài nguyên và môi trường khi kiểm tra các cơ sở nằm trong khu công nghiệp trên lưu vực sông Thị Vải thuộc địa bàn tỉnh, đã phát hiện những sai sót trong công tác thẩm định và phê duyệt Báo cáo Đánh giá tác động môi trường.”[6]

Cũng tương tự như vậy trong thời gian gần, tại Bắc Ninh Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh đã tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường 15 dự án mới đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn tỉnh. Phối hợp cùng với Sở Tài nguyên và Môi trường kiểm tra xác nhận những công trình bảo vệ của các dự án thẩm định và kiểm tra việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường của một số doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Từ đó Ban quản lý các khu công nghiệp đã đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Tiên Du xử lý dứt điểm tình trạng đổ rác thải xuống mương dẫn nước sinh hoạt vào khu công nghiệp VSip. Đồng thời làm việc với các chủ đầu tư khu công nghiệp Hanaka, Thuận Thành 2 và Quế Võ 2 về việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung khu công nghiệp. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Mặc dù Ban quản lý các khu công nghiệp ở Bắc Ninh đã phối hợp với Sở Tài nguyên và môi trường để tổ chức thẩm định cho các dự án mới của khu công nghiệp nhưng phải nói rằng việc thẩm định đòi hỏi người làm công tác này phải có một trình độ chuyên môn cao không chỉ trong ngành mà còng trong một số những ngày khác để đảm bảo tính chính xác về mặt khoa học và nội dung của báo Đánh giá tác động môi trường. Áp dụng quy định tại khoản 7, Điều 21 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì Bộ tài nguyên và môi trường tổ chức hội đồng thẩm định và tuyển chọn tổ chức thực hiện thẩm định, còn các cơ quan ngang bộ thì tổ chức thẩm định đối với những đánh giá tác động môi trường ở địa phương. Có thể thấy rằng với Ban quản lý các khu công nghiệp cùng với Sở Tài nguyên môi trường đã thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của mình trong công tác tổ chức thẩm định. Tuy vậy, hiện nay nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao ở địa phương còn hạn chế về số lượng, việc đánh giá trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có lẽ còn thiếu tính chính xác và chân thực. Hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường 2014 dành riêng một điều luật quy định về thẩm quyền thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường (Điều 23). Theo đó quy định các cơ quan có trách nhiệm phải nỗ lực tổ chức kiểm tra, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư kỹ thuật của khu công nghiệp có ảnh hưởng xấu đến môi trường. Trước những quy định trên, các tổ chức có thẩm quyền thẩm định Báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã tổ chức thẩm định BC Đánh giá tác động môi trường của rất nhiều khu công nghiệp, để các dự án của họ đi vào hoạt động. Tuy nhiên, nhiều báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt về mặt nội dung đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, nhưng khi khi áp dụng vào thực tế thì lại bộc lộ ra nhiều thiếu sót.  Số dự án thuộc thẩm quyền thẩm định của Bộ TN&MT nhiều hơn so với Luật Bảo vệ môi trường 2005, quy định thêm thẩm quyền thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường của Bộ quốc phòng và Bộ công an. Với quy định như vậy sẽ hạn chế được nhiều khó khăn trong việc thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường do thiếu các chuyên gia có chuyên môn, kinh nghiệm và năng lực đảm bảo các báo cáo Đánh giá tác động môi trường được thẩm định chính xác.

2.3.3. Phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường

Chủ thể có thẩm quyền phê duyệt 

Căn cứ vào kết quả thẩm định của Hội đồng thẩm định, cơ quan có quyền phê duyệt ra quyết định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Nội dung của quyết định của cơ quan phê duyệt là chấp nhận nội dung của báo cáo Đánh giá tác động môi trường hoặc không chấp nhận hoặc chấp nhận nhưng kèm theo các yêu cầu (điều kiện) nhất định. Tại khoản 1, Điều 25 Luật Bảo vệ môi trường đã quy định trong 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo Đánh giá tác động môi trường thì các cơ quan thẩm định, thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan phải có trách nhiệm làm công tác phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường này. Trong trường hợp nếu như các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhận thấy rằng không thể phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đó thì phải trả lời cho chủ dự án bằng văn bản.

Theo quy định trên, đối với hoạt động phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường thì trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được chỉnh sửa theo yêu cầu của cơ quan thẩm định, Thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan thẩm định có trách nhiệm phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. Trong trường hợp không phê duyệt báo cáo này thì phải trả lời cho chủ đầu tư bằng văn bản và nêu rõ lý do.Việc phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án có ý nghĩa quan trọng để doanh nghiệp được cấp phép xây dựng, thực hiện dự án.

Hậu quả pháp lý của quyết định phê duyệt

Các dự án được quy định thuộc đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường chỉ được cấp phép đầu tư, xây dựng khai thác khi báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt. Hay nói cách khác là báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt là căn cứ pháp lý để dự án đầu tư được phê duyệt, cấp phép, triển khai hoạt động xây dựng, khai thác dự án. Báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt đồng nghĩa quyền và nghĩa vụ của các chủ dự án được xác định. Do vậy, Đánh giá tác động môi trường vừa là căn cứ để dự án đầu tư được đi vào hoạt động vừa là ràng buộc pháp lý giữa doanh nghiệp với trách nhiệm bảo vệ môi trường.

Thời hạn phê duyệt  Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 Luật Bảo vệ môi trường 2014, Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được chỉnh sửa theo yêu cầu của cơ quan thẩm định, thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan thẩm định có trách nhiệm phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; trường hợp không phê duyệt phải trả lời cho chủ dự án bằng văn bản và nêu rõ lý do. So với Luật Bảo vệ môi trường 2005, thời gian phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường tăng 05 ngày (theo Luật Bảo vệ môi trường 2005 là 15 ngày). Điều này nhằm đảm bảo cơ quan phê duyệt có thêm thời gian để xem xét quyết định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường .

Tuy nhiên phải nói đến tình trạng phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn ồ ạt dẫn đến tình trạng rất nhiều  khu công nghiệp lạc hậu cũng được phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Nhiều chủ khu công nghiệp hiện nay đã xây dựng hoàn thành công tác bảo vệ môi trường trước khi đưa dự án vào hoạt động nhưng khi dự án đi vào hoạt động thì những công trình xử lý chất thải đều trở nên vô ích bởi không đánh giá chính xác lượng chất thải nguy hại của khu công nghiệp khi hoạt động sẽ thải vào môi trường.

Đối với các khu công nghiệp, tại Khoản 6 Điều 14 Nghị định 18/2015/NĐCP có quy định “ Bộ TN&MT hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền thẩm định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường cho ban quản lý các khu công nghiệp trên cơ sở xem xét đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và đánh giá năng lực của từng ban quản lý các khu công nghiệp; hướng dẫn chi tiết biểu mẫu các văn bản liên quan đến việc thẩm định, phê duyệt, xác nhận báo cáo Đánh giá tác động môi trường”. Mặc dù, quy định này trong Nghị định 18/2015/NĐ-CP đã thể hiện được điểm tiến bộ nhưng lại không làm rõ cơ chế ủy quyền thẩm định và phế duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là như thế nào. Các điều kiện về ủy quyền ra sao? Người ủy quyền phải có trình độ chuyên môn như thế nào? Trong trường hợp nào thì không được ủy quyền? Vấn đề không rõ ràng trong cơ chế này làm cho việc áp dụng trên thực tế còn gặp nhiều bất cập.

2.3.4. Kiểm tra, giám sát sau thẩm định Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Trách nhiệm của chủ đầu tư dự án sau khi báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt

Trước đây, thông tư số 26/2011/TT-BTNMT quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 29/2011/NĐ-CP quy định trách nhiệm của chủ dự án sau khi báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt được quy định tại khoản 2, Điều 16, bao gồm: Điều chỉnh dự án đầu tư để đảm bảo phù hợp với yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt; Công khai thông tin về dự án đã được phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường; Thực hiện các trách nhiệm theo quy định trước khi đưa dự án đi vào vận hành chính thức.

Điều 26, Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định về trách nhiệm của chủ đầu tư dự án ngắn gọn hơn, cụ thể: thực hiện các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường; Trường hợp thay đổi quy mô, công suất, công nghệ làm tăng tác động xấu  đến môi trường so với phương án trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt nhưng chưa đến mức phải lập lại báo cáo Đánh giá tác động môi trường, chủ đầu tư dự án phải giải trình với cơ quan phê duyệt và chỉ được thực hiện sau khi có văn bản chấp thuận của cơ quan phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường.

Trách nhiệm của chủ đầu tư dự án trước khi đưa dự án vào vận hành chính thức 

Theo quy định tại Điều 23, Nghị định số 29/2011/NĐ-CP, trách nhiệm của chủ đầu tư dự án trước khi đưa dự án vào vận hành chính thức như sau: Tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn thi công xây dựng dự án; quan trắc môi trường theo yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.;  Thiết kế, xây lắp các công trình bảo vệ môi trường; vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải của dự án; nghiệm thu các công trình bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; lâp, phê duyệt và thực hiện kế hoạch thu dọn vệ sinh vùng lòng hồ trước khi tích nước trong trường hợp dự án có nội dung đầu tư xây dựng hồ chứa thủy lợi hoặc hồ chứa thủy điện.;  Lập hồ sơ đề nghị kiểm tra, xác nhận việc đã thực hiện các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án theo quy định tại Điều 25 Nghị định này và gửi cơ quan được quy định tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định này để được kiểm tra, xác nhận trước khi đưa dự án vào vận hành chính thức.;  Hợp tác và tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan quản lý về bảo vệ môi trường kiểm tra việc thực hiện kế hoạch quản lý môi trường và việc triển khai thực hiện các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường; cung cấp đầy đủ các thông tin, số liệu liên quan đến dự án khi được yêu cầu.; Trong quá trình thực hiện dự án, nếu để xảy ra sự cố gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường và sức khỏe cộng đồng phải dừng ngay các hoạt động của dự án gây ra sự cố; tổ chức ứng cứu khắc phục sự cố; thông báo khẩn cấp cho cơ quan quản lý về môi trường cấp tỉnh và các cơ quan có liên quan nơi có dự án để chỉ đạo và phối hợp xử lý.

Hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định về trách nhiệm của chủ dự án đầu tư trước khi đưa dự án vào vận hành chính thức tại Điều 27: Tổ chức thực hiện biện pháp bảo vệ môi trường theo quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.; Phải báo cáo cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ vận hành dự án đối với dự án lớn, có nguy cơ tác động xấu đến môi trường do Chính phủ quy định. Những dự án này chỉ được vận hành sau khi cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2014 ngắn gọn, súc tích nhưng không làm mất đi tính khách quan của vấn đề.

Trách nhiệm của cơ quan phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường 

Theo pháp luật hiện hành, trách nhiệm của cơ quan phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường được quy định tại Điều 28, Luật Bảo vệ môi trường 2014 :  Chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm định và quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.; Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo hoàn thành công trình bảo vệ môi trường của chủ đầu tư dự án được quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật này, cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường phải tổ chức kiểm tra và cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường của dự án. Trường hợp phải phân tích các chỉ tiêu môi trường phức tạp thì thời gian cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường của dự án có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.

Như vậy, các chủ có quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội dung báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Hoạt động kiểm tra giám sát việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, các cam kết trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường để nhanh chóng phát hiện những hành vi sai phạm của chủ dự án và có biện pháp phòng ngừa những tác động xấu xảy ra đối với môi trường. Có điều, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn lỏng lẻo. Có thể thấy trong vụ việc cá chết hàng loạt ở Hà Tĩnh và nguyên nhân chủ yếu được cho là từ việc xả thải của khu công nghiệp Formosa. Sở Tài nguyên và Môi trường của tỉnh Hà Tĩnh thực hiện công tác kiểm tra mẫu nước thải của khu công nghiệp và đưa ra kết quả sơ bộ tại buổi họp báo. Điều đáng nói ở đây là, Sở Tài nguyên và Môi trường trước giờ chỉ dựa vào báo cáo định kỳ của khu công nghiệp này để đánh giá môi trường. Chỉ khi có hiện tượng bất thường đối với môi trường thì Sở Tài nguyên và Môi trường mới bắt tay vào việc kiểm tra mẫu nước thải của khu công nghiệp. Như vậy, bình thường công tác kiểm tra, giám sát của Sở Tài nguyên và môi trường rất bị động bởi lẽ Sở chỉ căn cứ vào việc báo cáo định kỳ của khu công nghiệp mà không có những đợt kiểm tra, giám sát việc xử lý chất thải của Formosa thường xuyên.

Ngoài ra, hoạt động kiểm tra giám sát việc thực hiện Đánh giá tác động môi trường cũng có sự tham gia của cộng đồng, vì cộng đồng trực tiếp chịu ảnh hưởng từ các tác động về môi trường của nơi thực hiện dự án. Việc tham gia của cộng đồng vào quá trình thực hiện Đánh giá tác động môi trường hiện nay góp phần làm tăng tính minh bạch của Đánh giá tác động môi trường, thu thập thông tin chưa được công bố,… Nhận thức được vai trò của cộng đồng, pháp luật môi trường hiện nay đã có những quy định cụ thể và chi tiết hơn về sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động Đánh giá tác động môi trường. Thế nhưng, cộng đồng dân cư còn thờ ơ với việc bảo vệ môi trường chỉ khi hậu quả đã xảy ra rồi họ mới thể hiện được vai trò của mình.

2.3.5. Trình tự, thủ tục, thẩm định, phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Dựa vào Luật Bảo vệ môi trường 2014 và NĐ 18/2015/NĐ-CP quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, ta thấy việc thực hiện một báo cáo Đánh giá tác động môi trường tại các khu công nghiệp được thực hiện như sau:

  • B1: Xác định phạm vi: xác định các vấn đề môi trường liên quan và phạm vi nghiên cứu Đánh giá tác động môi trường
  • B2: Tiến hành khảo sát điều kiện địa lý, địa chất, điều kiện môi trường khu vực dự án xác định sự phù hợp với yêu cầu của dự án và yêu cầu bảo vệ môi trường khu vực
  • B3: Đánh giá hiện trạng môi trường, các nguồn và mức độ gây ô nhiễm của các chất thải phát sinh, công tác bảo vệ môi trường của cơ sở từ khi chuẩn bị xây dựng đến thời điểm hiện tại
  • B4: Báo cáo đánh giá các biện pháp phòng ngừa, xử lý chất thải đã và đang sử dụng.
  • B5: Xây dựng các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm cho giai đoạn xây dựng. Đề xuất phương án quản lý, dự phòng, xử lý thu gom và xử lý chất thải rắn từ hoạt động của dự án.
  • B6: Xác định nhóm cộng đồng liên quan / quan tâm đến quá trình Đánh giá tác động môi trường dự án: chủ dự án, nhà đầu tư (người/tổ chức tài trợ hoặc cho vay tiền), Bộ Tài nguyên và Môi trường, chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư.
  • B7: Lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường trình nộp Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh / thành (Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương).
  • B8: Tiến hành gửi hồ sơ đến hội đồng thẩm định và phê duyệt dự án.

Quá trình Đánh giá tác động môi trường được thực hiện với trình tự trên, trách nhiệm lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường thuộc chủ dự án, hoặc các tổ chức tư vấn do chủ dự án thuê (Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường 2014). Các tổ chức thực hiện dịch vụ lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường thì phải có cán bộ thực hiện việc đánh giá tác đông môi trường có bằng đại học trở lên và có chứng chỉ tư vấn đánh giá tác động môi trường đúng chuyên ngành do bộ TN&MT cấp ( Điều 13, nghị định 18/2015/NĐ-CP về đánh giá môi trương chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường).

Quy định này là điểm mới của Nghị định 18/2015/NĐ-CP so với NĐ9/2011.NĐCP. Trước đây NĐ 29 chỉ yêu cầu cán bộ tư vấn lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường có trình độ đại học. Quy định mới trong NĐ 18 sẽ góp phần cải thiện chất lượng cán bộ làm việc trong lĩnh vực tư vấn môi trường. Khi tổ chức tư vấn lập báo cáo môi trường được nhà đầu tư thuê, thì sẽ hải chịu hoàn toàn trách nhiệm với nội dung mà mình tư vấn. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Điều 20 Luật Bảo vệ môi trường 2014 cũng quy định bổ sung vấn đề lập lại báo cáo Đánh giá tác động môi trường: Chủ dự án phải lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường trong các trường hợp sau: “Không triển khai dự án trong thời gian 24 tháng kể từ thời điểm quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; Thay đổi địa điểm thực hiện dự án so với phương án trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt; Tăng quy mô, công suất, thay đổi công nghệ làm tăng tác động xấu đến môi trường so với phương án trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt.”

Đây là một quy định hoàn toàn mới mà trong luật bảo vệ môi trường 2005 không đề cập đến. Quy định này giúp nâng cao tính trách nhiệm của các chủ dự án trong quá trình lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường, tránh tình trạng làm hình thức, không đảm bảo chất lượng, loại bỏ các dự án, báo cáo gây những tác động xấu đến môi trường sau này. Nghị định 18/2015/NĐ-CP cũng đã bổ sung trường hợp phải lập lại báo cáo Đánh giá tác động môi trường tại điểm c, d khoản 1 điều 15 của Nghị định:

“c) Có thay đổi về quy mô, công suất, công nghệ hoặc những thay đổi khác dẫn đến các công trình bảo vệ môi trường không có khả năng giải quyết được các vấn đề môi trường gia tăng;

d) Theo đề nghị của chủ dự án.”

Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay pháp luật đã quy định rõ ràng trình tự thủ tục để các cơ quan có chức năng tổ chức thẩm định phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, cơ quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng đồng thời là cơ quan phê duyệt báo cáo. Điểm mạnh của cơ chế này là giúp đảm bảo tính thống nhất, nhưng đồng thời cũng là hạn chế trong việc đặt ra vấn đề về tính minh bạch khi cơ quan thẩm định cũng chính là cơ quan phê duyệt báo cáo.

2.4. Các quy định về tham vấn ý kiến cộng đồng trong quá trình lập báo cáo ĐTM Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Báo cáo Đánh giá tác động môi trường thực chất là lời cam kết của chủ dự án trước các cơ quan quản lý môi trường và cộng đồng dân cư liên quan đến dự án về việc khắc phục các tác động xấu về môi trường của dự án. Cùng với các cơ quan quản lý có trách nhiệm thì cộng đồng dân cư sẽ chịu tác động về môi trường của dự án phải được biết về nội dung cũng như những biện pháp của chủ dự án để khắc phục để chấp nhận hay không. Vì vậy mà tham vấn cộng đồng (TVCĐ) trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường có mục đích làm cho báo cáo đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế và có tính khả thi cao trong các biện pháp thực hiện.

Điều 21 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định đối tượng được tham vấn là cơ quan, tổ chức, cộng đồng chịu tác động trực tiếp bởi dự án. Tuy nhiên, việc xác định cụ thể đối tượng chịu tác động trực tiếp lại không hề đơn giản. Do các dự án của các khu công nghiệp có nhiều giai đoạn khác nhau, việc phân kỳ và phân loại tác động có vai trò quan trọng để xác định đối tượng cần tham vấn. Trên thực tế mỗi giai đoạn có một tác động khác nhau vì đối tượng chịu tác động có thể thuộc nhiều nhóm khác nhau.

Như vậy, Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã mở rộng đối tượng tham vấn nhưng việc lựa chọn đối tượng là chưa phù hợp nên dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả và sự quan tâm của người được tham vấn.

Các chủ dự án khu công nghiệp cần thực hiện tham vấn, nhằm mục đích hoàn thiện báo cáo đánh giá tác động môi trường, hạn chế thấp nhất các tác động xấu đến môi trường và con người, bảo đảm sự phát triển bền vững của dự án. Theo quy định tại Nghị định số 29/2011/NĐ-CP thì chủ dự án phải tổ chức tham vấn ý kiến: Ủy ban nhân dân xã, đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức chịu tác động trực tiếp của dự án trong quá trình lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Và cũng trong Nghị định 29/2011/NĐ-CP cũng quy định về các dự án không phải thực hiện tham vấn bao gồm 3 nhóm dự án: (1) Dự án đầu tư vào khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng với điều kiện dự án đó phải phù hợp với các quy hoạch ngành nghề trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt; (2) Dự án đầu tư nằm trên vùng biển chưa xác định được cụ thể trách nhiệm quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã; (3) Dự án đầu tư thuộc danh mục bí mật nhà nước;

Tham vấn cộng đồng là một nội dung quan trọng trong thực hiện Đánh giá tác động môi trường và cần thiết để biết được quan điểm của cộng đồng chịu tác động trong quá trình triển khai thưc hiện dự án. Tham vấn cộng đồng hiệu quả sẽ góp phần đáng kể trong công tác đánh giá tác động môi trường bởi lẽ TVCĐ sẽ hỗ trợ việc xác định các vấn đề kinh tế xã hội và môi trường then chốt tại thời điểm thực hiện dự án. Ngòai ra việc TVCĐ còn  hỗ trợ cho việc đánh giác tác động kinh tế – xã hội và môi trường trực tiếp, gián tiếp. Hơn nữa, khi TVCĐ thì các chủ dự án sẽ xác định được các biện pháp phù hợp về quản lý, bảo vệ môi trường, cải thiện quy hoạch cho các khu tái định cư của cộng đồng dân cư.

Khi Luật Bảo vệ môi trường 2014 ra đời, đã cụ thể hóa một số nội dung liên quan đến quyền môi trường. Trong Chương II của Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã đưa quy định về việc tham vấn trong Quy hoạch Bảo vệ môi trường và trong Đánh giá tác động môi trường. Trước đây, Luật Bảo vệ môi trường 2005 và Nghị định số 29/2011/NĐ-CP đã hướng dẫn thi hành TVCĐ qua cơ chế đại diện. Theo đó, chủ dự án phải tham vấn đại diện cộng đồng dân cư nơi chịu tác động trực tiếp của dự án. Tuy nhiên, pháp luật về môi trường lại không quy định cụ thể về chủ thể đại diện cho cộng đồng dân cư. Khắc phục điểm này Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã có những bước tiến bộ khi mở rộng đối tượng tham vấn không chỉ bao gồm cộng đồng dân cư mà còn các các cơ quan, tổ chức phải chịu tác động của dự án. Thêm vào đó Nghị định số 18/2015/NĐ-CP hướng dẫn về tham vấn trong quá trình lập Đánh giá tác động môi trường tại khoản 5,6 Điều 12 và đã khắc phục hạn chế của cơ chế đại diện cộng đồng trước đây. Hiện nay, người dân được tham vấn trực tiếp thông qua các buổi họp cộng đồng dân cứ do chủ đầu tư và Ủy ban nhân dân xã chủ trì. Điều này cho thấy được tầm quan trọng của việc tham vấn cộng đồng trong quá trình lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

TVCĐ báo cáo Đánh giá tác động môi trường là việc làm cần có kiến thức và trình độ chuyên môn cao. Ở Việt Nam có nhiều những dự án phát triển KTXH có báo cáo Đánh giá tác động môi trường được tham vấn đầy đủ, công phu, thực hiện trong nhiều tháng. Quy trình để TVCĐ báo cáo Đánh giá tác động môi trường của dự án được hướng dẫn cụ thể trong Nghị định 18/2015/NĐ-CP và trong thông tư 27/2015/TT-BTNMT về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường cũng có quy định về thời hạn tham vấn tại khoản 6,7 điều 7:

Điều 7. Tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường:

6.Thời hạn trả lời bằng văn bản đối với cơ quan, tổ chức được tham vấn ý kiến tối đa là mười lăm (15) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản xin ý kiến tham vấn do chủ dự án gửi đến.

7. Trường hợp dự án thuộc địa bàn từ hai (02) xã trở lên, chủ dự án được lựa chọn hình thức cuộc họp tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án theo từng xã hoặc liên xã.”

Thế nhưng, hiện nay vấn đề tham vấn ở các doanh nghiệp cũng như khu công nghiệp có dự án phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường còn yếu và kém. Xuất phát từ suy nghĩ đối phó với công tác thanh tra kiểm tra các báo cáo Đánh giá tác động môi trường của các doanh nghiệp thực hiện công tác tham vấn còn chưa đi vào thực chất. Trước khi Luật bảo vệ môi trường 2014 có hiệu lực thì cấc quy định liên quan đến TVCĐ được thực hiện theo Luật Bảo vệ môi trường 2005 và Nghị định 29/2011/NĐ-CP. Mặc dù đã được sửa đổi bổ sung với những thay đổi tích cực song tham vấn cộng đồng trong Đánh giá tác động môi trường vẫn chưa đạt được hiệu qua như mong muốn đề ra. Công tác TVCĐ còn gặp nhiều khó khăn khi thành phần cộng đồng được quy định trong Đánh giá tác động môi trường còn khá hạn chế, cán bộ chuyển môn phải có kiến thức rộng thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề trong khi đó Ủy ban nhân dân xã không thể bao quát hết được…

2.5. Vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp

2.5.1. Vi phạm pháp luật về Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp

Vi phạm pháp luật về môi trường ở các khu công nghiệp đang diễn ra hết sức phức tạp và có chiều hướng ngày càng gia tăng. Các vi phạm về môi trường ở các khu công nghiệp chủ yếu liên quan đến hệ thống xử lý nước thải, khí thải… của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Nhìn nhận từ khía cạnh pháp luật, các hàng vi vi phạm vào pháp luật của các khu công nghiệp hiện nay chủ yếu dưới một số hình thức. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Thứ nhất, các khu công nghiệp hiện nay hầu như đã thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường thế nhưng vẫn còn những khu công nghiệp không có báo cáo Đánh giá tác động môi trường hoặc báo cáo Đánh giá tác động môi trường không đúng thời hạn cho cơ quan phê duyệt về kế hoạch bảo vệ môi trường. Trong năm 2010, các cơ quan chức năng đã thanh tra 27 khu công nghiệp trên địa bàn 12 tỉnh Tây Nam bộ thì có tới 4/27 khu công nghiệp không có báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt, 2/27 khu công nghiệp không lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường bổ sung theo quy định, 8/27 khu công nghiệp chưa xây lắp hệ thống công trình xử lý môi trường, 4/27 khu công nghiệp thực hiện không đầy đủ báo cáo Đánh giá tác động môi trường phê duyệt. Năm 2012, thực hiện Quyết định số 551/QĐ-BTNMT của Bộ trưởng Bộ TN&MT về việc thanh tra công tác Bảo vệ môi trường trên địa bàn các tỉnh An Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh và Vĩnh Long đối với 44 cơ sở sản xuất và chủ đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp đã phát hiện nhiều hành vi vi phạm như: 9/44 cơ sở không thực hiện đúng và đầy đủ nội dung Bảo vệ môi trường như Đánh giá tác động môi trường đã phê duyệt; 16/44 cơ sở chưa được xác nhận hoàn thành các công trình Bảo vệ môi trường; 8/44 cơ sở vận hành công trình xử lý môi trường không liên tục, xây lắp công trình xử lý không đúng theo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt [8]… Công tác thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường ở một số khu công nghiệp tại một số địa phương cũng còn nhiều hạn chế. Một số dự án có trình độ công nghệ lạc hậu vẫn được đưa vào sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt giai đoạn 2006 – 2012 có xác nhận hoàn thành các công trình xử lý môi trường chỉ đạt khoảng 30% số dự án đã thẩm định.

Thứ hai, các khu công nghiệp hiện nay hầu hết ưu tiên về phát triển kinh tế mà có những hành vi báo cáo sai sự thật cho cơ quan đã phê duyệt báo cáo Đánh giá tác động môi trường về kế hoạch môi trường. Trên thực tế hiện nay các khu công nghiệp đều bỏ tiền để thuê các công ty thực hiện báo cáo Đánh giá tác động môi trường cho dự án của mình. Những bản báo cáo Đánh giá tác động môi trường mà các công ty chuyên làm thuê này thực hiện dựa trên những thông tin mà các doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy mà những dự án của các khu công nghiệp này vẫn hoạt động với một bản báo cáo Đánh giá tác động môi trường đầy đủ nội dung cần có, ngay cả vấn đề tham vấn cộng đồng dân cư. Chính vì những hành vi như vậy nên dẫn đến việc xem nhẹ công tác báo cáo Đánh giá tác động môi trường của các khu công nghiệp cũng như xem nhẹ giá trị của việc tham vấn cộng đồng dân cư xung quanh dự án. Hơn nữa, những báo cáo thiếu tính minh bạch này lại là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường đáng báo động ở các khu công nghiệp như hiện nay. Các chủ đầu tư còn chưa tuân thủ những nội dung về pháp luật Đánh giá tác động môi trường và coi báo cáo Đánh giá tác động môi trường là công cụ đối phó với các cơ quan quản lý môi trường. Bởi vậy mới dẫn đến con số có 75% khu công nghiệp và 85% Cụm công nghiệp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long là chưa có hệ thống xử lý nước thải hoặc có hệ thống xử lý nước thải chưa đạt tiểu chuẩn[9]. Hay nói đến khu công nghiệp Tằng Loỏng (Lào Cai) sơ khai là việc xây dựng Nhà máy tuyển luyện quặng Apatit từ năm 1980, đến năm 2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai chính thức quy hoạch thành cụm công nghiệp – đô thị. Năm 2011, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai ra Quyết định số 285/QĐ ngày 10/2/2011 về việc quy hoạch mở rộng cụm công nghiệp – đô thị thành khu công nghiệp Tằng Loỏng. Hiện nay, khu công nghiệp Tằng Loỏng có 16 nhà máy hoạt động, trong đó mỗi nhà máy có đánh giá tác động môi trường riêng nhưng cả khu khu công nghiệp lại không có đánh giá tác động môi trường chung. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Trong khi đó tỉnh Lào Cai đã duyệt Đề án Bảo vệ môi trường trên giấy và chưa biết bao giờ mới triển khai với khoản đầu tư nhiều trăm tỷ đối với khu công nghiệp Tằng Loỏng như: Xây dựng hệ thống thu gom nước thải của tất cả các nhà máy và đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung cho cả khu công nghiệp với số vốn đầu tư 500 tỷ đồng; xây dựng khu xử lý chất thải rắn tập trung với tiền đầu tư khoảng 200 tỷ đồng… thì người dân nơi đây từng ngày vẫn “sống mòn” trong ô nhiễm[10]. Bất kể là theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 hay Luật Bảo vệ môi trường hiện hành thì biện pháp xử lý chất thải vẫn luôn là một trong những nội dung chính mà một báo cáo Đánh giá tác động môi trường phải có. Do vậy có thể suy đoán rằng hầu hết các báo cáo Đánh giá tác động môi trường của dự án xây dựng khu công nghiệp đã được thông qua đều phải đề cập đến nội dung này, thậm chí để được phê duyệt thì nội dung xử lý chất thải trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường phải đưa ra được các phương án rõ ràng, khả thi. Tuy nhiên, đó là xét trên lý thuyết, thực tế thì hoàn toàn ngược lại bởi như đã đề cập ở trên, đa phần sai phạm về Bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp đều liên quan đến xứ lý chất thải.

Thứ ba, các khu công nghiệp còn có những hành vi không thực hiện tất cả các biện pháp bảo vệ môi trường trong giai đoạn vận hành dự án hoặc không dừng các hoạt động gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng. Năm 2008, trong tổng số 10 khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã được Chính phủ phê duyệt cho triển khai thì mới có 5 khu công nghiệp lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Cả 5 khu công nghiệp này đã có các doanh nghiệp vào đầu tư và đi vào hoạt động sản xuất nhưng tất cả đều không có hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu. Có khu công nghiệp ngay từ đầu triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung như khu công nghiệp Nam Sách, nhưng do xây dựng thiếu đồng bộ nên cũng không vận hành được. Nước thải của các doanh nghiệp hầu hết không được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường đã xả ra môi trường xung quanh và gây ô nhiễm.[11] Việc thực hiện chương trình giám sát môi trường ở hầu hết các doanh nghiệp đều không tuân thủ theo đúng tần suất và chỉ tiêu giám sát, cá biệt có những doanh nghiệp nhiều năm đã không thực hiện chương trình này. Tỷ lệ các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chỉ chiếm vài phần trăm. Việc lập sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại với Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các doanh nghiệp có phát sinh chất thải nguy hại được ghi trong quyết định phê chuẩn báo cáo cho đến nay mới có khoảng 20% số doanh nghiệp tuân thủ, còn lại là không thực hiện.

Trường hợp tại khu công nghiệp Phố Nối A thuộc địa bàn tỉnh Hưng Yên, kết quả thanh tra trong lĩnh vực môi trường của Bộ TN & MT đầu năm 2015 cũng cho thấy cho đến nay, nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp vẫn chưa có xác nhận hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường được phê duyệt. Không xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung với công suất thiết kế theo báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) giai đoạn 1 của dự án. Theo qui định, khi lấp đầy khu công nghiệp nhà đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung với công suất 10.200m3/ngày/đêm. Đến nay mới xây dựng được hệ thống xử lý nước thải tập trung với công suất 3.000 m3/ngày/đêm.[12]

2.5.2. Xử lý vi phạm về Đánh giá tác động môi trường trong các khu công nghiệp Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Hiện nay, công tác về bảo vệ môi trường càng trở nên chặt chẽ và bao quát hơn, pháp luật hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ về trách nhiệm của các doanh nghiệp, chủ đầu tư khu công nghiệp trong việc thực hiện đầy đủ cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Tuy nhiên đối với những hành vi vi phạm về Đánh giá tác động môi trường pháp luật hiện nay mới chỉ dừng lại việc phạt vi phạm theo Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Hình phạt chính bao gồm Cảnh cáo Phạt tiền tối đa  đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức.

Hình phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính).

Theo quy định trên, hình thức xử phạt chính đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vự bảo vệ môi trường gồm cảnh cáo, phạt tiền tối đa 01 tỷ đồng đối với cá nhân vi phạm và 02 tỷ đồng đối với tổ chức. Trước đây, trong NĐ 117/2009/NĐ-CP, mức phạt tiền cao nhất tối đa là 500 triệu đồng, chưa tương xứng với hành vi vi phạm, không phân biệt cá nhân hay tổ chức vi phạm hành chính. Mức phạt như vậy là không đảm bảo công bằng, không đủ sức răn đe đối với tổ chức và cá nhân. Trong khi đó NĐ 179/2013/NĐ-CP quy định mức phạt tiền cao hơn, đã có sự phân biệt xử lý vi phạm đối với tổ chức – cá nhân với mức phạt tiền tối đa là 1 tỷ đồng đối với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ chức. Như vậy, mức phạt tối đa theo quy định tại NĐ 179/2013/NĐ-CP cao gấp 4 lần so với mức phạt tối đa quy định tại NĐ 117/2009/NĐ-CP. NĐ 179/2013/NĐ-CP đưa ra mức phạt như vậy một phần nào đó góp phần hạn chế những hành vi vi phạm của các cá nhân, tổ chức trong việc đánh giá tác động môi trường.

Nghị định 179/2009/NĐ-CP  còn quy định cụ thể mức xử phạt đối với những hành vi vi phạm pháp luật Đánh giá tác động môi trường tại Điều 9 và Điều 12. Theo đó, Nghị định xác định cụ thể các hành vi vi phạm, phân loại theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm; xác định mức xử phạt từ cảnh cáo đến phạt tiền 250.000.000 đồng (bằng 25% mức phạt tiền tối đa); áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động của bộ phận, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và buộc khắc phục hậu quả vi phạm theo quy định. Ngoài ra, các hành vi vi phạm các quy định về dịch vụ tư vấn báo cáo Đánh giá tác động môi trường và cung ứng dịch vụ thẩm định Đánh giá tác động môi trường cũng bị xử phạt khi có sai phạm. NĐ 179/2013/NĐ-CP đã quy định vấn đề này tại Điều 10. Theo đó, mức phạt là từ 5.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng theo từng mức độ vi phạm.

Như vậy, các khu công nghiệp tính cho tới thời điểm hiện nay thì chỉ bị phạt vi phạm hành chính đối với việc vi phạm pháp luật Đánh giá tác động môi trường. Mức phạt đối chính với một khu công nghiệp không hoàn thành pháp luật về Đánh giá tác động môi trường còn chưa đủ nghiêm khắc. Hay hình phạt bổ sung như khôi phục lại hiện trạng môi trường thì có những khu công nghiệp không thực hiện công tác này hoặc thực hiện việc khắc phục hiện trạng môi trường nhưng sau một thời gian lại xả thải và gây ô nhiễm môi trường. Thêm vào đó các mức phạt hành chính hiện nay trong Nghị định 170/2013/NĐ-CP còn thiếu tính rõ ràng nên khi cho áp dụng vào thực tế thì lại khiến cho các cơ quan chức năng còn lúng túng trong việc giải quyết.

Về Pháp luật Dân sự : hiện nay có đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra đối với các chủ thể là cá nhân và tổ chức. Nhưng trong Bộ Luật Dân sự 2015 đã có sự tiến bộ khi thay thế cụm từ “cá nhân, tổ chức” thành “chủ thể” trong pháp luật bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường. Sự thay đổi này đã làm cho vấn đề bồi thường thiệt hại do gây ra ô nhiễm môi trường trở nên bao quát hơn , không bỏ sót đối tượng vi phạm. Tuy nhiên pháp luật dân sự phải đối mặt với việc là hiện nay chưa có quy định nào xác định được mức độ thiệt, việc xác định thiệt hại của các cơ quan có thẩm quyền còn yếu dẫn đến tình trạng khó khăn trong vấn đề bồi thường thiệt hại. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

Còn đối với pháp luật Hình sự: Bô luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 mới chỉ quy định chủ thể của hành vi vi phạm là cá nhân. Cho nên đối với các khu công nghiệp trong hoạt động của mình gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường và đời sống người dân trong khu vực lại không thể áp dụng pháp luật hình sự. Tuy nhiên Bộ luật Hình sự 2015 đã có sự thay đổi rất lớn khi thêm pháp nhân là chủ thể vi phạm pháp luật. Thay đổi này mở ra một hành lang pháp lý chặt chẽ hơn, nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm về môi trường. Có điều là Bộ luật Hình sự 2014 quy định về các loại tội phạm môi trường nhưng lại không có hình sự hóa vấn đề vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường của các doanh nghiệp.

Có thể nhận thấy rằng pháp luật về Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn thiếu những yêu cầu, tiêu chí cần thiết để đảm bảo báo cáo Đánh giá tác động môi trường có chất lượng. Các quy định hiện hành đã cố gắng khắc phục những chỗ còn thiếu và yếu bằng phương thức khác nhau nhưng lại thiếu những quy định về đánh giá báo cáo Đánh giá tác động môi trường. Chính vì vậy mà hoạt động báo Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn chủ quan và nhiều vi phạm xảy ra mà những chế tài xử lý hiện nay còn thiếu tính thống nhất giữa các Luật với nhau. Ngoài ra, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn khá nhẹ nhàng đối với một số khu công nghiệp. Họ sẵn sàng chi ra một khoản tiền phạt vi phạm hay bồi thường thiệt hại để khu công nghiệp vẫn hoạt động tiếp đảm bảo doanh thu và lợi nhuận. Vậy nên cần có những giải pháp thiết thực, phù hợp với thực tế, nghiêm khắc về chế tài trong pháp luật đánh giá tác động môi trường nhất là với đối tượng là khu công nghiệp. Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Giải pháp PL về tác động môi trường ở các KCN

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Thực trạng PL về tác động môi trường trong các KCN […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993