Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Liên minh châu Âu dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát về Quy tắc số 593/2008 của Hội đồng châu Âu ngày 17 tháng 6 năm 2008 về luật áp dụng cho nghĩa vụ theo hợp đồng (sau đây gọi tắt là Quy tắc Rome I).

Trải qua hơn 30 năm áp dụng cùng với sự phát triển không ngừng của các quốc gia trong tiến trình hội nhập, Công ước số 80/934/EEC về luật áp dụng cho nghĩa vụ theo hợp đồng (Công ước Rome 1980) đã bộc lộ những hạn chế nhất định, một số quy định của Công ước không còn phù hợp với thực tiễn. Tháng 1/2003, Uỷ ban châu Âu đã đưa ra đề xuất sửa đổi Công ước Rome 1980 thành công cụ pháp lí hiệu quả và hiện đại hơn, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Ngày 17/6/2008, Hội đồng và Nghị viện Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Quy tắc (EC) số 593/2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng (Quy tắc Rome I), thay thế Công ước Rome 1980. Đến ngày 17/12/2010, Quy tắc Rome I được áp dụng trực tiếp trong tất cả quốc gia thành viên EU, trừ Ðan Mạch27. Quy tắc Rome I được xem là một công cụ pháp lý quan trọng trong việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng với mục tiêu “Duy trì và phát triển một khu vực tự do, an toàn và công bằng. Các quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp hợp tác trong lĩnh vực dân sự xuyên biên giới nhằm điều tiết một cách thích hợp thị trường chung”28.

2.1.1. Phạm vi áp dụng của Quy tắc Rome I.

Điều 1 của Quy tắc Rome I đã quy định một cách rõ ràng phạm vi áp dụng của Quy tắc, cụ thể khoản 1 Điều 1 quy định như sau “Quy tắc này được áp dụng trong trường hợp liên quan đến xung đột pháp luật về nghĩa vụ hợp đồng trong lĩnh vực dân sự và thương mại. Nó không áp dụng trong các lĩnh vực tài chính công, hải quan và các vấn đề về hành chính”. Như vậy, một sự kiện pháp lý để có thể áp dụng Quy tắc Rome I phải đáp ứng ba điều kiện sau: (1) đó là những nghĩa vụ trong hợp đồng; (2) có xung đột pháp luật; (3) thuộc lĩnh vực dân sự hoặc thương mại. Điều này có nghĩa là Quy tắc Rome I chỉ áp dụng đối với quan hệ hợp đồng là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế và loại trừ khả năng áp dụng đối với các quan hệ mang tính chất công.

Bên cạnh đó, Điều 1 Quy tắc Rome I cũng chỉ ra những vấn đề không thuộc phạm vi áp dụng của Quy tắc. Những vấn đề này được liệt kê một cách chi tiết tại khoản 2 Điều 1 của Quy tắc. Đó là những vấn đề liên quan đến năng lực pháp lý của cá nhân; các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hôn nhân gia đình; các nghĩa vụ phát sinh từ chế độ sở hữu về hôn nhân, chế độ sở hữu tài sản trong các mối quan hệ tương đương như hôn nhân, di chúc và thừa kế; các nghĩa vụ phát sinh từ hối phiếu, séc và các công cụ chuyển nhượng khác; các thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận lựa chọn tòa án; các vấn đề liên quan đến quỹ tín thác và mối quan hệ giữa người gửi tài sản, người được uỷ thác và người hưởng lợi; các nghĩa vụ phát sinh từ các thoả thuận trước khi kí kết hợp đồng; các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ… Ngoài ra theo quy định tại khoản 3 Điều 1 của Quy tắc thì Quy tắc cũng không áp dụng đối với vấn đề liên quan đến chứng cứ và thủ tục tố tụng. Như vậy, có thể thấy Quy tắc Rome I chỉ áp dụng để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến quan hệ nghĩa vụ hợp đồng thuần túy.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.2. Hiệu lực của Quy tắc Rome I. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Tương tự như các Quy tắc luật hay các Bộ luật khác, khi phân tích hiệu lực của Quy tắc Rome I cũng xuất phát từ ba phương diện sau:

Về mặt thời gian, theo quy định tại Điều 29 của Quy tắc Rome I thì Quy tắc này sẽ có hiệu lực sau 20 ngày kể từ ngày nó được công bố trên Tạp chí chính thức của Liên minh châu Âu. Như vậy, căn cứ theo quy định này thì về mặt thời gian, Quy tắc Rome I chính thức có hiệu lực vào ngày 24 tháng 7 năm 2008 và nó sẽ được áp dụng đối với các hợp đồng ký kết sau ngày 17 tháng 12 năm 2009 ngoại trừ quy định tại Điều 26 của Quy tắc sẽ được áp dụng vào ngày 17 tháng 6 năm 2009. Một vấn đề quan trọng cần lưu ý là Công ước Rome 1980 có hiệu lực đối với Romania, Bulgaria và các nước thành viên khác vào ngày 15 tháng 1 năm 2008.

Như vậy, các hợp đồng được ký kết trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 1 năm 2008 đến ngày 16 tháng 12 năm 2009 vẫn thuộc phạm vi áp dụng của Công ước Rome 198029. Tính đến ngày 17 tháng 12 năm 2010 thì Quy tắc Rome I được áp dụng trực tiếp đối với tất cả các thành viên của Liên minh châu Âu, trừ Đan Mạch.

Về mặt không gian, Quy tắc Rome I có hiệu lực ràng buộc toàn bộ và trực tiếp đối với tất cả các thành viên trong Hiệp định thành lập Liên minh châu Âu, trừ Đan Mạch. Đoạn 46 lời mở đầu của Quy tắc Rome I đã thể hiện việc Đan Mạch từ chối áp dụng các quy định của Quy tắc Rome I. Cụ thể, theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 của Nghị định thư về vị trí của Đan Mạch, phụ lục của Hiệp ước châu Âu và Hiệp định thành lập Liên minh châu Âu, Đan Mạch sẽ không tham gia vào Quy tắc Rome I và không chịu sự điều chỉnh của việc áp dụng Quy tắc này. Như vậy, 26 quốc gia còn lại là thành viên của Quy tắc Rome I bao gồm: Áo, Bỉ, Bulgaria, Cypurs, Cộng hoà Séc, Estonia, Phần Lan, Cộng hoà Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Hy Lạp, Hungarry, Ireland, Italia, Latvia, Litva, Luxembourg, Malta, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Romania, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển và Vương quốc Anh. Một vấn đề cần lưu ý là đối với các quốc gia có nhiều đơn vị lãnh thổ riêng biệt thì khi áp dụng Quy tắc Rome I, mỗi đơn vị lãnh thổ riêng biệt đó được xem như một quốc gia khi xác định luật áp dụng theo Quy tắc này30.

Mối quan hệ với các Công ước khác, trước hết là mối quan hệ đối với Công ước Rome 1980. Theo quy định tại Điều 24 của Quy tắc Rome I thì Quy tắc này sẽ thay thế Công ước Rome 1980. Tức khi Quy tắc Rome I có hiệu lực thì cũng đồng nghĩa với việc Công ước Rome 1980 sẽ hết hiệu lực, các vấn đề liên quan đến xung đột pháp luật về nghĩa vụ hợp đồng từ thời điểm đó sẽ do Quy tắc Rome I điều chỉnh. Ngoại trừ, các trường hợp liên quan đến lãnh thổ của các quốc gia thành viên thuộc phạm vi áp dụng theo lãnh thổ của Công ước Rome 1980 thì Quy tắc Rome I sẽ không áp dụng điều chỉnh. Thêm vào đó, bất kỳ tài liệu tham khảo về Công ước Rome 1980 cũng sẽ chỉ được hiểu là tài liệu tham khảo đối với Quy tắc Rome I sau khi Quy tắc này có hiệu lực. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Trong mối quan hệ với các Công ước quốc tế khác, Quy tắc Rome I cũng quy định hết sức rõ ràng tại Điều 25 của Quy tắc theo đó, việc áp dụng Quy tắc này sẽ không làm phương hại đến việc áp dụng các Công ước quốc tế khác mà các quốc gia của Quy tắc này là thành viên khi Quy tắc này được phê chuẩn liên quan đến vấn đề xung đột pháp luật về nghĩa vụ hợp đồng. Điều này có nghĩa là các Công ước quốc tế khác sẽ được áp dụng trong trường hợp có quy định khác với quy định của Quy tắc này. Tuy nhiên, Quy tắc Rome I sẽ được ưu tiên áp dụng so với các Công ước quốc tế được ký kết giữa hai hay nhiều quốc gia thành viên trong trường hợp các Công ước đó liên quan đến vấn đề được điều chỉnh bởi Quy tắc này. Ngoại lệ của quy định này là trong một số ít trường hợp, các Công ước quốc tế khác sẽ được ưu tiên áp dụng so với Quy tắc Rome I mặc dù Công ước đó quy định về các vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy tắc Rome I. Cụ thể đó là Công ước Hague năm 1955 về Luật áp dụng cho mua bán hàng hóa quốc tế có sự tham gia của các quốc gia là thành viên của Quy tắc Rome I như Phần Lan, Pháp, Ý và Thụy Điển; hay Công ước Hague năm 1978 về Luật áp dụng cho hoạt động đại lý có sự tham gia của các quốc gia như Pháp, Hà Lan và Bồ Đào Nha. Như vậy, đối với các quốc gia này thì khi xác định luật áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng sẽ ưu tiên áp dụng các quy định của hai Công ước Hague kể trên thay vì áp dụng Quy tắc Rome I.

2.2. Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.

Để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, căn cứ theo các quy định của Quy tắc Rome 1 có thể nhận thấy Quy tắc Rome 1 đã có sự phân định rõ ràng việc xác định luật áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng trong hai trường hợp cụ thể sau:

Trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Kế thừa Công ước Rome năm 1980, Quy tắc Rome I nhấn mạnh một cách rõ ràng về quyền tự do chọn luật áp dụng trong hợp đồng với tính chất là nguyên tắc thống nhất được đảm bảo áp dụng trên toàn Cộng đồng. Sự tự do của các bên trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng phải là một trong những nền tảng hệ thống các quy phạm pháp luật xung đột trong các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ hợp đồng. Quy tắc Rome I cũng không ngăn cản việc các bên tham khảo và đưa vào hợp đồng điều khoản lựa chọn cơ quan tài phán hoặc lựa chọn giải quyết tranh chấp theo các quy định của pháp luật quốc tế31.

Nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng được Quy tắc Rome I khẳng định một cách trực tiếp tại Điều 3 của Quy tắc, theo đó khoản 1 Điều 3 quy định như sau: “Hợp đồng sẽ chịu sự điều chỉnh của luật do các bên lựa chọn. Sự lựa chọn này được thể hiện một cách rõ ràng hoặc có thể được chứng minh thông qua các điều khoản của hợp đồng hoặc hoàn cảnh cụ thể của vụ việc. Các bên có thể lựa chọn pháp luật điều chỉnh toàn bộ hoặc chỉ một phần của hợp đồng”. Đây được xem là một quy định mang tính thống nhất hóa rất cao khi mà trong các văn bản pháp luật về tư pháp quốc tế liên quan đến lĩnh vực hợp đồng ở các quốc gia là thành viên của Quy tắc Rome I như Liên bang Nga hay Thụy Sỹ cũng có những quy định tương tự32. Với quy định tại Điều 3 thì Quy tắc Rome I đã giải quyết được ba vấn đề lớn của nguyên tắc chọn luật. Cụ thể như sau:

Về hình thức chọn luật, quy định tại Điều 3 Quy tắc Rome I cho thấy so với Công ước Rome 1980 thì hình thức thỏa thuận chọn luật của các bên theo Quy tắc Rome I vừa chặt chẽ, vừa mềm dẻo hơn. Quy định của Quy tắc Rome I chặt chẽ hơn so với Công ước Rome 1980 ở chỗ nếu như Công ước Rome 1980 chỉ yêu cầu hình thức thỏa thuận chọn luật của các bên phải được thể hiện một cách hợp lý và chắc chắn thì theo quy định tại Điều 3 Quy tắc Rome I thì sự thỏa thuận này phải được thể hiện một cách rõ ràng. Sự rõ ràng này được hiểu là sự thỏa thuận của các bên phải được ghi nhận một cách cụ thể trong một điều khoản của hợp đồng. Điều này sẽ hạn chế được việc tòa án giải thích ý chí của các bên một cách mềm dẻo trong việc chọn luật áp dụng33. Tuy nhiên, Quy tắc Rome I lại quy định một cách mềm dẻo hơn so với Công ước Rome 1980 trong vấn đề hình thức thỏa thuận chọn luật ở chỗ, Quy tắc Rome I thừa nhận hình thức thỏa thuận chọn luật “ngầm” của các bên. Theo đó, nguyên tắc để xác định có sự thỏa thuận ngầm của các bên trong việc chọn luật áp dụng là căn cứ vào điều khoản lựa chọn Tòa án có thẩm quyền, tham chiếu đến các công cụ pháp lý của một quốc gia cụ thể, sử dụng các hình thức ký hợp đồng tiêu biểu của hệ thống pháp luật quốc gia nhất định hay sử dụng từ ngữ điển hình của một hệ thống pháp luật quốc gia nhất định…34. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Về luật do các bên lựa chọn, vấn đề này sẽ được phân tích trên hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất liên quan đến vấn đề nguồn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng mà có các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn. Tương tự như Công ước Rome 1980, Quy tắc Rome I chỉ cho phép các bên lựa chọn pháp luật quốc gia mà loại trừ việc các bên lựa chọn Điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế để áp dụng điều chỉnh hợp đồng. Thật ra, trong Dự thảo của Quy tắc Rome I đã có một đề xuất trong phạm vi Điều 3, cho phép các bên lựa chọn một phần của tập quán bao gồm Bộ nguyên tắc Unidroit, PECL và công cụ của Liên minh châu Âu trong tương lai làm luật điều chỉnh hợp đồng và loại trừ việc sử dụng tập quán nói chung không được thừa nhận đầy đủ bởi cộng đồng quốc tế. Nhưng những tập quán như Bộ nguyên tắc Unidroit hay PECL lại có những lỗ hổng là không giải quyết hết các vấn đề của hợp đồng bao quát trong Công ước Rome hay Dự thảo Quy tắc Rome I35. Do đó, đề nghị này không được cơ quan lập pháp châu Âu thông qua. Việc bỏ qua hệ thống pháp luật quốc tế này khiến Quy tắc Rome I bị chỉ trích là xa rời thực tiễn thương mại quốc tế, đi ngược với nguyên tắc tự do ý chí và không nhất quán với pháp luật về trọng tài của nhiều quốc gia. Trên thực tế, việc mở rộng phạm vi quyền tự do ý chí của các bên cũng như của trọng tài cho phép lựa chọn hệ thống pháp luật mang tính trung lập sẽ tạo ra sự tiến bộ hơn nữa cho Quy tắc Rome I36. Mặc dù không cho phép các bên lựa chọn Điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế để áp dụng điều chỉnh hợp đồng nhưng Quy tắc Rome I không loại trừ khả năng các bên vận dụng những tập quán và những Điều ước quốc tế vào những điều khoản của hợp đồng37. Một vấn đề khác cũng khá quan trọng liên quan đến việc chọn luật của các bên, theo quy định tại Điều 2 Quy tắc Rome I thì các bên có quyền thỏa thuận chọn luật của một quốc gia không phải là thành viên của Liên minh châu Âu để áp dụng điều chỉnh hợp đồng, cụ thể như sau: “Bất cứ luật được chỉ định bởi Quy tắc này sẽ được áp dụng cho dù đó có phải là luật của nước thành viên hay không”. Đây là một quy định mang tính kế thừa Công ước Rome 198038, tuy nhiên cách quy định của Quy tắc Rome I lại mang tính bao trùm hơn so với Công ước Rome 1980. Khía cạnh thứ hai liên quan đến vấn đề quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng của các bên. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Quy tắc Rome I có thể nhận thấy, Quy tắc Rome I cho phép các bên được lựa chọn pháp luật để điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng. Quy định này đồng nghĩa với việc Quy tắc Rome I phải chấp nhận trường hợp các bên sẽ chọn nhiều hệ thống pháp luật để điều chỉnh hợp đồng, đó có thể là mỗi phần của hợp đồng sẽ chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật hoặc toàn bộ hợp đồng sẽ chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật để phòng ngừa tình huống có những nội dung mà hệ thống pháp luật đó không điều chỉnh. Bởi ngay cả những hệ thống pháp luật lớn trên thế giới cũng có những khe hở hoặc những quy định không rõ ràng. Việc cho phép các bên được lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật để áp dụng điều chỉnh hợp đồng nhằm bảo vệ một cách tốt quyền và lợi ích của các bên. Vấn đề này nhận được nhiều sự đồng tình từ phía các chuyên gia về Tư pháp quốc tế trên thế giới39. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Về thời điểm chọn luật, kế thừa quy định của Công ước Rome 1980, Quy tắc Rome I cũng cho phép các bên được tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào, cụ thể khoản 2 Điều 3 quy định “Bất cứ thời điểm nào, các bên cũng có thể lựa chọn luật khác với luật điều chỉnh hợp đồng trước đây. Bất kì sự thay đổi luật điều chỉnh hợp đồng sau khi kí kết không được làm phương hại đến hình thức của nó quy định tại Điều 11 hoặc làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba”. Mặc dù cho phép các bên được tự do lựa chọn luật vào bất cứ thời điểm nào có thể là trước, trong hoặc sau khi giao kết hợp đồng, tuy nhiên đối với trường hợp các bên thay đổi lựa chọn của mình sau khi hợp đồng đã được giao kết thì Quy tắc Rome I đòi hỏi sự thay đổi đó phải không làm phương hại đến hình thức hợp đồng quy định tại Điều 11 của Quy tắc hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba. Đây là một quy định rất hay của Quy tắc Rome I, góp phần bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích của các bên. Ví dụ, hai bên giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, vì một lý do nào đó chẳng hạn bên mua phát hiện có một nhà cung cấp hàng hóa khác với giá rẻ hơn bên bán cho nên bên mua không muốn thực hiện hợp đồng đã giao kết, vì vậy họ tìm cách thỏa thuận với bên bán để thay đổi luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng và bên bán không biết được rằng theo quy định của luật do các bên thay đổi thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu về mặt hình thức. Sự vô hiệu về hình thức hợp đồng có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu, qua đó bên mua sẽ đạt được mục đích không tốt của mình, thay vào đó có thể bên bán sẽ bị thiệt hại vì sự vô hiệu này.

Mặc dù thừa nhận nguyên tắc tự do áp dụng chọn luật, tuy nhiên Quy tắc Rome I cũng đặt ra những giới hạn nhất định trong việc chọn luật của các bên. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, luật do các bên lựa chọn phải có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Giới hạn này không được Quy tắc Rome I quy định một cách trực tiếp mà được quy định gián tiếp thông qua khoản 3 Điều 3 của Quy tắc. Theo đó, nếu tại thời điểm chọn luật, tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc nằm tại một quốc gia khác với quốc gia mà các bên chọn luật thì luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng mặc dù các bên có thỏa thuận. Như vậy, nếu có căn cứ chứng minh được rằng luật của một quốc gia khác với luật mà các bên lựa chọn có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng thì luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng bất kể việc các bên có thỏa thuận chọn luật. Quy định này một mặt góp phần hạn chế được tình trạng các bên cố tình lựa chọn một hệ thống pháp luật không liên quan gì đến hợp đồng để có thể lẩn tránh pháp luật, mặt khác nó cũng góp phần bảo vệ quyền lợi của các bên một cách khách quan, công bằng và hợp lý với tính mật thiết của hệ thống pháp luật đó với hợp đồng.

Thứ hai, trong trường hợp tại thời điểm chọn luật, tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc nằm ở một hoặc nhiều quốc gia thành viên thì bất kể các bên có chọn luật, luật tòa án sẽ được áp dụng40. Như vậy, trong trường hợp này, Quy tắc Rome I cũng loại trừ việc áp dụng luật do các bên lựa chọn. Với việc một hợp đồng có những đặc điểm pháp lý như nơi giao kết, nơi thực hiện, đối tượng của hợp đồng nằm ở các quốc gia khác nhau thì sẽ rất khó khăn để xác định được rằng luật của quốc gia nào có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng này nhưng nếu áp dụng luật do các bên lựa chọn thì lại không thỏa mãn được quy định tại khoản 3 Điều 3 của Quy tắc, do đó đối với những trường hợp này thì Quy tắc Rome I quy định luật tòa án sẽ được áp dụng. Điều này có nghĩa là luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng sẽ là luật của quốc gia nơi có tòa án xét xử khi các bên xảy ra tranh chấp. Thông thường, tòa án có thẩm quyền xét xử sẽ là toà án nơi cư trú của một trong các bên, do đó luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng cũng sẽ có mối quan hệ nhất định đối với hợp đồng. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Tóm lại, từ những phân tích trên có thể thấy rằng, nguyên tắc tự chọn luật đã được Quy tắc Rome I quy định hết sức cụ thể và chi tiết. Theo đó, mặc dù ngay từ lời mở đầu, Quy tắc Rome I đã khẳng định nguyên tắc tự do chọn luật sẽ là nền tảng trong pháp luật về hợp đồng của Liên minh châu Âu, tuy nhiên sự tự do này không phải là tuyệt đối mà nó luôn có những hạn chế nhất định.

Trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật

Mặc dù Quy tắc Rome I cho phép các bên được tự do chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng, tuy nhiên không phải trong mọi hợp đồng các bên đều có thỏa thuận chọn luật hoặc nếu có thỏa thuận chọn luật nhưng sự thỏa thuận này là không rõ ràng dẫn đến tranh chấp về luật được áp dụng điều chỉnh hợp đồng hoặc không thể giải quyết được vấn đề pháp lý phát sinh hoặc sự thỏa thuận đó không được công nhận hiệu lực. Trong trường hợp này có thể coi là các bên không có thỏa thuận chọn luật. Để giải quyết vấn đề này, Điều 4 Quy tắc Rome I không đặt ra những nguyên tắc chung nhất để xác định luật áp dụng mà chia thành ba trường hợp sau đây:

Trường hợp thứ nhất, Quy tắc Rome I đưa ra nguyên tắc xác định hệ thống pháp luật được coi là gắn bó nhất với hợp đồng phụ thuộc vào từng loại hợp đồng. Theo đó, Quy tắc Rome I liệt kê ra tám loại hợp đồng cùng với đó là luật được áp dụng tương ứng với tám loại hợp đồng này. Cụ thể như sau: (i) đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thì luật được áp dụng là luật của nước nơi người bán thường trú. (ii) đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ thì luật được áp dụng là luật của nước nơi người cung ứng dịch vụ thường trú. (iii) đối với hợp đồng liên quan đến quyền đối với bất động sản hoặc thuê nhà gắn với bất động sản thì luật được áp dụng là luật của nước nơi có tài sản. (iv) đối với hợp đồng thuê nhà gắn với bất động sản được ký kết vì mục đích sử dụng tạm thời của cá nhân trong một thời gian không quá sáu tháng liên tục thì luật được áp dụng là luật của nước nơi chủ nhà thường trú với điều kiện là người thuê nhà là cá nhân và nơi thường trú của người đó là trong cùng một quốc gia. (v) đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại thì luật được áp dụng là luật của nước nơi bên nhận quyền thường trú. (vi) đối với hợp đồng phân phối thì luật được áp dụng là luật của nước nơi mà nhà phân phối thường trú. (vii) đối với hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá thì luật được áp dụng luật của nước nơi tiến hành bán đấu giá nếu nơi đó có thể xác định được. (viii) đối với hợp đồng được kí kết theo hình thức đa phương (như thị trường tài chính hoặc thị trường chứng khoán), mà việc tạo điều kiện cho việc tham gia của nhiều bên thứ ba khác… hợp đồng đó lại chịu sự điều chỉnh của luật duy nhất thì luật áp dụng cho hợp đồng đó là luật duy nhất ấy. Trong trường hợp này, đó là luật nơi diễn ra hoặc tổ chức thị trường tài chính đó41. Đây là tám loại hợp đồng đặc trưng và thông dụng nhất ở châu Âu. Từ những quy định này có thể nhận thấy rằng, Quy tắc Rome I đã đưa ra một số tiêu chí để làm căn cứ xác định luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng, đó có thể là nơi cư trú của bên thực hiện nghĩa vụ đặc trưng nhất trong hợp đồng hay cũng có thể nơi có bất động sản đối với hợp đồng liên quan đến bất động sản.

Bên cạnh đó, việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng theo nguyên tắc này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ bên yếu thế hơn trong quan hệ hợp đồng. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Trường hợp thứ hai, trên thực tế, bên cạnh tám loại hợp đồng trên sẽ còn có rất nhiều loại hợp đồng khác, chẳng hạn hợp đồng Li-xăng, hợp đồng thuê tài sản thông thường hay hợp đồng vay… Đối với những hợp đồng không thuộc cũng như không có những dấu hiệu hay yếu tố của tám loại hợp đồng kể trên thì nguyên tắc xác định luật áp dụng đối với các hợp đồng này là luật của nước mà bên phải thực hiện nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng của cư trú42. Thiết nghĩ việc xác định nghĩa vụ nào là nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng sẽ do Tòa án quyết định dựa trên tính chất của loại hợp đồng mà các bên kí kết. Chẳng hạn, đối với hợp đồng Li-xăng thì nghĩa vụ đặc trưng của loại hợp đồng này sẽ là nghĩa vụ chuyển giao quyền đối với đối tượng của quyền sở hữu tài sản hay đối với hợp đồng vay tài sản thì nghĩa vụ đặc trưng sẽ là nghĩa vụ trả tài sản vay…Việc xác định nghĩa vụ đặc trưng này bên cạnh việc dựa vào tính chất của hợp đồng, Tòa án còn phải tính đến việc bảo vệ bên yếu thế hơn trong hợp đồng. Bởi lẽ đây là một nguyên tắc đã được Quy tắc Rome I đặt ra ngay trong lời mở đầu43.

Trường hợp thứ ba, dự liệu cho những trường hợp không thể xác định luật áp dụng cho hợp đồng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 4 Quy tắc Rome I, khoản 4 Điều 4 Quy tắc Rome I quy định “Trong trường hợp không thể xác định luật áp dụng cho hợp đồng theo khoản 1 và khoản 2 thì hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng”. Vấn đề quan trọng nhất để quy định này có thể áp dụng trên thực tế đó việc xác định nước nào sẽ là nước có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng hay nói cách khác là tiêu chí nào để đánh giá mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Các yếu tố được coi là có mối quan hệ gắn bó với hợp đồng được sử dụng trong luật hợp đồng thương mại quốc tế tại Hoa Kỳ gồm: Nơi thực hiện các hoạt động kinh doanh, nơi các bên thường trú, nơi soạn thảo hoặc kí kết hợp đồng, nơi thực hiện một phần hoặc một số nghĩa vụ hợp đồng; ngôn ngữ và đồng tiền thanh toán (nếu có) cũng là các yếu tố được tính đến để xác định hệ thống pháp luật có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng44. Như vậy tương tự trong vấn đề xác định nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng thì việc xác định luật có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng cũng sẽ do Tòa án thực hiện trên cơ sở cân nhắc những yếu tố liên quan đến hợp đồng cũng như việc tham khảo pháp luật của một số quốc gia khác. Tham khảo án lệ sau: Trong vụ kiện hợp đồng được ký năm 1995, giữa công ty Ennstone Building Products Limited là một công ty của Anh (Nguyên đơn) và công ty Stanger Limited (Bị đơn) – công ty của Anh nhưng có trụ sở tại Scottland, liên quan đến cung ứng đá xây dựng giữa nguyên đơn là bên cung cấp đá cho các công trình xây dựng, bị đơn là bên cung cấp các dịch vụ về kiểm định chất lượng và tư vấn xây dựng. Tranh chấp phát sinh khi nguyên đơn cung cấp đá cho công trình xây dựng tòa nhà the Standard Life building

Edinburgh không đạt chất lượng yêu cầu. Tranh chấp được đưa ra Tòa án Anh. Một trong những vấn đề đặt ra với Tòa án là xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng giữa các bên. Kết luận cuối cùng thẩm phán đã chấp nhận áp dụng luật Anh là luật có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng, với lập luận rằng: Hợp đồng có nhiều mối liên hệ với cả luật Scotland và luật của Anh… Mặc dù hợp đồng được soạn thảo, thông qua tại Scottland, nơi thực hiện một phần hợp đồng là nơi thanh toán các khoản phí dịch vụ tại Scotland, nhưng việc tư vấn về chất lượng đá xây dựng và các báo cáo đều được gửi về trụ sở chính của công ty tại Anh nên luật Anh được coi là có mối liên hệ gắn bó45. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Ngoài ra, Quy tắc Rome I cũng đặt ra một số ngoại lệ trong việc xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật. Ngoại lệ này được hiểu ra mặc dù đáp ứng được những đặc điểm của hợp đồng được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 nhưng lại không áp dụng theo quy định tại hai khoản này. Đó là trong trường hợp tất cả các đặc điểm của hợp đồng rõ ràng là có mối quan hệ mật thiết hơn với một quốc gia khác với quốc gia được quy định tại khoản 1 và khoản 2 thì luật của quốc gia có mối quan hệ mật thiết hơn đó sẽ được áp dụng46 thay vì áp dụng luật của quốc gia được xác định theo quy định tại khoản 1 và khoản 2. Thiết nghĩ đây là một quy định nhằm khắc phục những hạn chế của quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4. Bởi lẽ, với khoản việc nhà làm luật liệt kê tám loại hợp đồng cũng như luật áp dụng tương ứng cho tám loại hợp đồng này là hoàn toàn dựa trên ý chí chủ quan của họ trong việc đánh giá những đặc điểm của hợp đồng, do đó nó sẽ không tránh khỏi được sự hạn chế. Còn đối với khoản 2 thì việc xác định nghĩa vụ nào là nghĩa vụ đặc trưng là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp nhất là đối với những hợp đồng không có tính chất đặc thù, sự khó khăn này cũng chính là hạn chế lớn nhất của quy định tại khoản 2, thêm vào đó khoản 2 cũng vướng một hạn chế tương tự như khoản 1 đó là việc xác định nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng là do Tòa án thực hiện, và việc xác định này cũng dựa trên ý chí chủ quan của Tòa án trong việc đánh giá tính chất hợp đồng. Chính vì vậy, quy định tại khoản 3 sẽ góp phần khắc phục được những hạn chế này khi trao cho các bên trong hợp đồng quyền chứng minh là luật của một quốc gia khác sẽ có mối quan hệ mật thiết hơn với hợp đồng.

Bên cạnh ngoại lệ trên, đối với một số hợp đồng đặc thù thì theo quy định của Quy tắc Rome I cũng sẽ không áp dụng các nguyên tắc xác định luật như trên. Cụ thể, đối với hợp đồng vận chuyển hàng hóa, trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng thì pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật của nước nơi thường trú của bên vận chuyển, miễn là nơi nhận hoặc nơi giao hàng hoặc nơi cư trú thường xuyên của bên được vận chuyển nằm trên quốc gia đó. Đối với hợp đồng vận chuyển hành khách, pháp luật được áp dụng trong trường hợp các bên trong hợp đồng không có thỏa thuận là pháp luật của nước nơi thường trú của bên được vận chuyển miễn là nơi đến hoặc nơi đi được xác định là ở tại quốc gia đó trong trường hợp các yêu cầu trên không thoả mãn thì pháp luật của nước nơi thường trú của bên vận chuyển sẽ được áp dụng. Đối với hợp đồng bảo hiểm, nếu các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng thì pháp luật được áp dụng là pháp luật của quốc gia nơi bên cung cấp bảo hiểm cư trú thường xuyên. Trong trường hợp hoàn cảnh thực tế cho thấy hợp đồng bảo hiểm rõ ràng có mối liên hệ chặt chẽ với một quốc gia khác hơn thì luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng. Đối với hợp đồng tiêu dùng, luật áp dụng trong trường hợp không có thỏa thuận chọn luật là luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú thường xuyên nếu: (i) người cung cấp thực hiện hoạt động kinh doanh ở nước nơi người tiêu dùng cư trú thường xuyên, hoặc (ii) hoạt động kinh doanh của người cung cấp hướng đến quốc gia nơi người tiêu dùng cư trú thường xuyên hoặc nhiều quốc gia khác trong đó có quốc gia đó47. Đối với hợp đồng lao động, luật được áp dụng là luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc theo hợp đồng lao động. Trong trường hợp không thể xác định được nơi thường xuyên thực hiện công việc theo hợp đồng lao động thì luật áp dụng sẽ là luật của nước nơi có trụ sở kinh doanh mà người lao động được tuyển dụng. Tuy nhiên, nếu hoàn cảnh thực tế cho thấy hợp đồng lao động có mối liên hệ mật thiết hơn với một quốc gia khác với trường hợp được xác định ở trên thì luật của quốc gia có mối liên hệ mật thiết sẽ được áp dụng48. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định, nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng được đưa ra bởi Quy tắc Rome I là nguyên tắc hợp lý và mang lại hiệu quả cao. Vì bên cạnh việc đưa ra nguyên tắc chung cho việc xác định pháp luật áp dụng là áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng, Quy tắc này đã đưa ra nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng phù hợp với từng loại hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài thông dụng như hợp đồng mua bán, hợp đồng phân phối… Đồng thời, Quy tắc cũng quy định pháp luật áp dụng đối với một số hợp đồng đặc thù như hợp đồng vận chuyển hàng hóa, vận chuyển hành khách. Đây là những hợp đồng mà đối tượng của hợp đồng, chủ thể hợp đồng…mang tính chất rất riêng biệt. Chẳng hạn, đối với hợp đồng tiêu dùng hay hợp đồng lao động thì rõ ràng có một bên yếu thế hơn và ít có khả năng “mặc cả” hơn là người lao động, người tiêu dùng. Do đó, Quy tắc Rome I dành cho những hợp đồng này quy định riêng trong việc xác định luật áp dụng là hoàn toàn hợp lý trên tinh thần bảo vệ bên yếu thế hơn trong hợp đồng. Trong trường hợp không thể xác định pháp luật áp dụng theo các nguyên tắc nêu trên thì việc xác định luật áp dụng quay trở lại với nguyên tắc chung là luật của nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng. Việc xác định hệ thống pháp luật của quốc gia nào sẽ được coi là có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng thuộc về cơ quan xét xử49.

Một vấn đề hết sức quan trọng liên quan đến việc áp dụng pháp luật được xác định để điều chỉnh hợp đồng, đó là phạm vi áp dụng. Vấn đề này được quy định hết sức cụ thể tại Điều 12 của Quy tắc Rome I. Theo đó, phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo quy định này là rất rộng, bao gồm các vấn đề pháp lý sau: giải thích hợp đồng, thực hiện hợp đồng, hậu quả của việc vô hiệu hợp đồng, phương thức chấm dứt nghĩa vụ hợp đồng và thời hiệu, giới hạn của hành vi trong phương thức đó, hậu quả của việc vi phạm một phần hoặc toàn bộ hợp đồng và thậm chí là việc đánh giá mức độ thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Quy định tại Điều 12 gần như đã bao quát hầu hết các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng, điều này sẽ tạo ra được sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật đồng thời bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các bên trong hợp đồng. Bởi lẽ, đây là những vấn đề pháp lý cực kỳ quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên và cũng rất dễ xảy ra tranh chấp trên thực tế.

Bên cạnh những hạn chế riêng về việc áp dụng pháp luật được xác định để điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật cũng như không có thỏa thuận chọn luật, Quy tắc Rome I còn quy định những hạn chế chung áp dụng cho cả hai trường hợp trên. Cụ thể như sau: Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng. Công thức chung trong hầu hết các Điều ước quốc tế khi xây dựng và áp dụng các quy phạm thống nhất là đều phải tôn trọng các vấn đề thuộc trật tự công của các quốc gia thành viên do tính chất đặc thù của từng quốc gia khi tham gia hệ thống pháp luật quốc tế, Quy tắc Rome I cũng không phải là ngoại lệ. Theo Điều 21 Quy tắc Rome I, trong trường hợp phải áp dụng luật của quốc gia nào đó để điều chỉnh hợp đồng mà hậu quả của việc áp dụng luật của quốc gia đó trái với những nguyên tắc thuộc về vấn đề bảo lưu trật tự công cộng thì Tòa án có quyền từ chối áp dụng luật của quốc gia đó. Như vậy, một mặt Quy tắc Rome I vẫn phải đảm bảo áp dụng các quy định một cách thống nhất, mặt khác quy định này cũng mở rộng thẩm quyền đối với các hệ thống pháp luật quốc gia có liên quan trong việc áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng50.

Vấn đề áp dụng quy pháp pháp luật bắt buộc. Quy tắc Rome I cũng hạn chế việc áp dụng pháp luật được xác định điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp, tòa án của quốc gia thấy cần thiết phải áp dụng những quy định có tính chất bắt buộc trong pháp luật quốc gia. Khái niệm quy định có tính chất bắt buộc được Quy tắc Rome I giải thích cụ thể tại Điều 9. Theo đó, quy định có tính chất bắt buộc là những quy định được coi là rất quan trọng đối với một quốc gia để bảo vệ lợi ích công cộng, chẳng hạn như chính trị, xã hội hoặc kinh tế. Các quy định này phải có khả năng áp dụng được cho bất kì tình huống nào thuộc vào phạm vi điều chỉnh của nó, bất kể luật áp dụng cho hợp đồng được xác định theo Quy tắc này. Pháp luật của các quốc gia luôn có những quy định có tính chất bắt buộc, xuất phát từ sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, xã hội, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa dân tộc giữa các quốc gia và chính những quy định này sẽ góp phần bảo vệ được quyền và lợi ích của công dân cũng như những quan hệ pháp luật của quốc gia đó. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng việc áp dụng quy định bắt buộc này không đồng nghĩa với việc loại trừ việc áp dụng pháp luật được xác định để điều chỉnh hợp đồng, nó phải được hiểu theo hướng có những quy định trong pháp luật được xác định để điều chỉnh hợp đồng bị từ chối áp dụng thay vào đó sẽ áp dụng những quy định có tính chất bắt buộc này, các quy định khác trong pháp luật nước ngoài vẫn được áp dụng. Điều này hoàn toàn khác với việc hạn chế áp dụng pháp luật được xác định điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp bảo lưu trật tự công cộng, theo đó nếu Tòa án thấy việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc công cộng của quốc gia thì Tòa án sẽ từ chối áp dụng pháp luật được xác định đó.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

Chương 2 đã cung cấp những nội dung cơ bản về quy định của pháp luật Liên minh châu Âu trong việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Từ sự phân tích quy định của Quy tắc Rome I về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, có thể nhận thấy hai nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật chi phối gần như toàn bộ quy định của Quy tắc Rome I đó là nguyên tắc luật do các bên lựa chọn và nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng.

Quy tắc Rome I đã có những quy định hết sức rõ ràng và chi tiết về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn ở các vấn đề như hình thức và thời điểm chọn luật, quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mà các bên có quyền lựa chọn… đúng với tinh thần được ghi nhận ngay trong Lời mở đầu của Quy tắc Rome I, xem đây là nguyên tắc nền tảng về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Mặc dù thừa nhận nguyên tắc này, nhưng sự tự do thỏa thuận chọn luật theo quy định của Quy tắc Rome I là không hoàn toàn tuyệt đối mà có những hạn chế nhất định liên quan đến vấn đề bảo lưu trật tự công cộng, áp dụng quy pháp pháp luật bắt buộc và đặc biệt là hạn chế liên quan đến vấn đề bảo vệ bên yếu thế hơn trong hợp đồng.

Nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng được vận dụng một cách linh hoạt trong Quy tắc Rome I trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật, dù bất kì cách quy định nào nhưng cuối cùng nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng vẫn được ưu tiên áp dụng. Đây là một nguyên tắc rất hay trong Tư pháp quốc tế, nó góp phần khắc phục tới mức tối đa hạn chế của các nguyên tắc khác. Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng chính là một trong những hạn chế liên quan đến quyền thỏa thuận chọn luật của các bên. Theo đó, trong trường hợp tất các các yếu tố liên quan đến hợp đồng nằm ở một quốc gia thì pháp luật quốc gia đó sẽ được áp dụng mà loại trừ khả năng chọn luật của các bên. Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993