Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa có những quy định cụ thể về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn. Theo quy định của Điều 769 BLDS 2005, trong trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ chịu sự điều chỉnh của luật do các bên thỏa thuận. Như vậy, tương tự như Quy tắc Rome I, BLDS 2005 cũng áp dụng nguyên tắc luật do các bên thỏa thuận để điều chỉnh nội dung hợp đồng. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, chẳng hạn khoản 4 Điều 4 Luật Đầu tư 2014 hay khoản 2 Điều 5 Bộ luật Hàng hải 2015. Tuy nhiên, khác với Quy tắc Rome I ghi nhận nguyên tắc này một cách trực tiếp thì BLDS 2005 lại sử dụng cụm từ “nếu không có thỏa thuận khác”, chính cách quy định này đã gây ra khá nhiều tranh luận. Có quan điểm cho rằng, cách quy định của Điều 769 BLDS 2005 đã vô hình chung làm trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đó là sự tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận51 bởi lẽ họ cho rằng với cách quy định như vậy thì ý chí thỏa thuận của các bên là thứ yếu, sau ý chí pháp luật. Tuy nhiên, cũng có quan điểm khác cho rằng, nếu quy định như Quy tắc Rome I, chẳng hạn “Hợp đồng sẽ chịu sự điều chỉnh của luật do các bên các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì áp dụng pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng”, thì lúc này ý chí tự do lại được đặt ở một vị trí cao hơn ý chí pháp luật, điều này là không phù hợp với thực tiễn và hoàn cảnh của nước ta, một quốc gia theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, ý chí pháp luật phải được đặt lên vị trí hàng đầu52. Mỗi quan điểm đều có những lý lẽ thuyết phục riêng, tuy nhiên điều quan trọng nhất khi nhìn nhận cách quy định của Điều 769 BLDS 2005 so với Quy tắc Rome I, đó là việc mặc dù thừa nhận nguyên tắc luật do các bên lựa chọn tuy nhiên với cách quy định tại Điều 769 BLDS 2005 thì có thể thấy rằng sự thừa nhận này là hết sức dè dặt và bỏ ngỏ hay nói cách khác là nó chưa có những quy định cụ thể cho nguyên tắc này về hình thức và thời điểm thỏa thuận chọn luật, quyền thay đổi sự thỏa thuận chọn luật, quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng… Cụ thể như sau: Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Về thời điểm và hình thức thỏa thuận chọn luật. Căn cứ theo quy định của BLDS 2005 cũng như các văn bản pháp luật chuyên ngành có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam chưa có bất kì quy định nào về vấn đề thời điểm và hình thức thỏa thuận chọn luật. Một số học giả cho rằng, không có điều khoản nào nêu rõ các bên phải chọn luật áp dụng vào thời điểm nào và bằng hình thức nào nên thiết nghĩ họ có thể chọn luật ở bất kỳ thời điểm nào, lúc giao kết hay sau đó trong quá trình tố tụng tại Tòa án53 và bằng bất cứ hình thức thỏa thuận nào, bằng văn bản hay có thể được lập bằng hành vi hoặc thậm chí là sự ngầm định. Ví dụ tranh chấp về hợp đồng giữa một công ty Singapore và một doanh nghiệp Việt Nam. Theo phán quyết của Trọng tài “Trong hợp đồng không có quy định gì về luật áp dụng cho hợp đồng. Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn đề xuất dùng luật Việt Nam để áp dụng cho hợp đồng. Trong bản giải trình, bị đơn thống nhất với nguyên đơn lấy luật Việt Nam làm luật điều chỉnh hợp đồng. Như vậy, ý chí chọn luật của hai bên đã thống nhất, Trọng tài tôn trọng sự lựa chọn này và quyết định lấy luật Việt Nam áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa hai bên54”.

Về quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng. Pháp luật Việt Nam trong phạm vi của Điều 769 BLDS 2005 không quy định rõ về vấn đề này. Theo nguyên tắc suy luận thông thường trong lĩnh vực dân sự, không cấm tức là cho phép, nghĩa là pháp luật Việt Nam cho phép các bên chọn luật áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ hợp đồng.

Dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu, có thể thấy Quy tắc Rome I lại quy định hết sức rõ ràng về vấn đề này. Theo đó, về hình thức thỏa thuận, các bên có thể thỏa thuận chọn luật bằng bất cứ hình thức nào nhưng phải được thể hiện một cách rõ ràng hoặc được chứng minh thông qua các điều khoản của hợp đồng hoặc hoàn cảnh cụ thể của vụ việc55. Về thời điểm thỏa thuận, Quy tắc Rome I quy định các bên có thể thỏa thuận chọn luật vào bất cứ thời điểm nào trước, trong hoặc sau khi kí kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên thay đổi việc lựa chọn sau khi đã ký kết hợp đồng thì sự thay đổi này sẽ được chấp nhận nếu nó không làm ảnh hưởng đến tính hợp pháp của hình thức hợp đồng cũng như ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba trong hợp đồng56. Chính sự quy định rõ ràng này sẽ là cơ sở pháp lý chặt chẽ để các chủ thể của hợp đồng cũng như cơ quan có thẩm quyền xét xử dễ dàng áp dụng nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của các bên trong hợp đồng. Ngược lại với cách quy định không rõ ràng như Bộ luật Dân sự 2005 sẽ dẫn đến việc áp dụng quy định này trên thực tế là hết sức tùy nghi phụ thuộc vào quan điểm của từng cơ quan xét xử, có thể cùng một vấn đề nhưng mỗi cơ quan xét xử sẽ có quan điểm khác nhau, điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các bên trong hợp đồng. Chẳng hạn, về thời điểm thỏa thuận chọn luật, pháp luật Việt Nam không có quy định, vì thế các bên có thể thỏa thuận chọn luật vào bất cứ thời điểm nào. Chính sự tùy nghi này sẽ tạo điều kiện cho các bên thực hiện những mục đích không tốt làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan đến hợp đồng. Ví dụ, vì muốn loại trừ quyền lợi của bên thứ ba trong hợp đồng, sau khi giao kết hợp đồng, hai bên đã thay đổi thỏa thuận chọn luật, với những quy định của luật mới do các bên thay đổi thì quyền lợi của bên thứ ba trong hợp đồng sẽ không được đảm bảo so với luật do các bên lựa chọn lúc giao kết hợp đồng, điều này đã làm phương hại đến quyền lợi của bên thứ ba trong hợp đồng. Do đó, để có thể áp dụng nguyên tắc luật do các bên lựa chọn một cách hiệu quả và thống nhất thì đòi hỏi Điều 769 BLDS 2005 cần phải bổ sung những quy định cụ thể về các vấn đề như đã phân tích liên quan đến nguyên tắc luật do các bên lựa chọn trên tinh thần tiếp thu những quy định của Quy tắc Rome I. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Thứ hai, pháp luật Việt Nam quy định hết sức mơ hồ, không rõ ràng về nguồn luật mà các bên có thể thỏa thuận lựa chọn để điều chỉnh hợp đồng. Căn cứ theo quy định của BLDS 200557 thì các bên chỉ được quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật quốc gia để điều chỉnh hợp đồng. Với tập quán quốc tế thì nó chỉ được áp dụng khi quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không được BLDS 2005, các văn bản pháp luật khác cũng như Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên điều chỉnh và hậu quả của việc áp dụng tập quán quốc tế không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam58. Xuất phát từ quy định này rất khó để có thể khẳng định pháp luật Việt Nam có cho phép các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn tập quán quốc tế hay không. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như Bộ luật Hàng hải, Luật Đầu tư hay Luật Thương mại cũng như căn cứ vào thực tiễn xét xử của Tòa án Việt Nam59 lại cho phép các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn tập quán quốc tế. Đối với Điều ước quốc tế, phân tích câu chữ của quy định tại Điều 759 BLDS 2005 thì dường như pháp luật Việt Nam chỉ cho phép áp dụng những Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, vậy câu hỏi đặt ra là liệu các bên có được quyền thỏa thuận lựa chọn những Điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa thành viên để điều chỉnh hợp đồng hay không. Cả BLDS 2005 cũng những các văn bản pháp luật chuyên ngành không có quy định nào về vấn đề này. Do đó, việc các bên có được thỏa thuận lựa chọn Điều ước quốc tế để điều chỉnh hợp đồng hay không còn là một vấn đề bỏ ngỏ theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Không giống như pháp luật Việt Nam, Quy tắc Rome I khẳng định các bên chỉ được quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật quốc gia mà loại trừ khả năng lựa chọn Điều ước quốc tế cũng như tập quán quốc tế. Với lý do rằng, mục đích của Quy tắc Rome I là nhằm áp dụng thống nhất pháp luật đối với các nước thành viên trong khi việc áp dụng Điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế lại không tạo ra sự thống nhất cần thiết, thêm vào đó hạn chế lớn nhất của các Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế là nó có nhiều lỗ hổng không thể bao quát hết các vấn đề liên quan đến hợp đồng và trên thực tế các bên cũng ít khi chọn luật không phải là luật quốc gia để điều chỉnh hợp đồng bởi lẽ việc tiếp cận với pháp luật quốc gia là dễ dàng hơn so với các Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế60. Chính quy định này của Quy tắc Rome I đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của các nước thành viên, vì họ cho rằng việc bỏ qua nguồn luật này khiến Quy tắc Rome I xa rời thực tiễn thương mại quốc tế, đi ngược lại với nguyên tắc tự do ý chí và không nhất quán với pháp luật về trọng tài của nhiều quốc gia. Đồng tình với quan điểm này, thiết nghĩ những giải thích cho lý do loại trừ khả năng lựa chọn Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế của Quy tắc Rome I là hết sức chủ quan. Bởi lẽ, ngay cả những hệ thống pháp luật của các quốc gia phát triển trên thế giới cũng khó tránh khỏi những lổ hổng nhất định, thêm vào đó việc cho phép các bên được lựa chọn Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế là một sự bổ sung kịp thời cho những lỗ hổng của pháp luật quốc gia đồng thời đảm bảo được nguyên tắc tự do thỏa thuận chọn của các bên. Từ những phân tích trên, đề xuất sửa đổi BLDS 2005 theo hướng cho phép các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật quốc gia, tập quán quốc tế và Điều ước quốc tế để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Thứ ba, phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo pháp luật Việt Nam rất hẹp so với với pháp luật của các nước trên thế giới. Căn cứ theo quy định của Điều 769 BLDS 2005 thì có thể hiểu pháp luật được xác định để điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Qua đó cho thấy phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo BLDS 2005 là rất hẹp, vì còn khá nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng chưa được đề cập giải quyết. Việc giới hạn phạm vi áp dụng này sẽ không thể bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của các bên trong hợp đồng; kéo theo đó là khó khăn trong việc xác định luật nào sẽ điều chỉnh các vấn đề khác liên quan đến hợp đồng như giải thích hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng…mà đây lại là những vấn đề thường xuyên xảy ra tranh chấp, nhất là các hợp đồng có yếu tố nước ngoài khi mà hầu hết các bên trong hợp đồng có quốc tịch khác nhau dẫn đến bất đồng ngôn ngữ và khó tránh khỏi việc trong hợp đồng có những điều khoản không rõ ràng xuất phát từ nguyên nhân này61. Tuy nhiên, trong Nghị định số 138/2006/NĐ – CP lại quy định rằng pháp luật được xác định để điều chỉnh hợp đồng sẽ áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng. Sự mâu thuẫn về thuật ngữ giữa hai văn bản có thể khiến cho việc áp dụng quy định này trên thực tế không có sự thống nhất với nhau giữa các cơ quan xét xử.

Trong khi đó theo quy định của pháp luật Liên minh châu Âu thì pháp luật được xác định để điều chỉnh hợp đồng sẽ áp dụng điều chỉnh các vấn đề cụ thể như giải thích hợp đồng, thực hiện hợp đồng, hậu quả của việc vi phạm hợp đồng, hợp đồng vô hiệu…62 Như vậy, phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo pháp luật Liên minh châu Âu là rộng hơn so với pháp luật Việt Nam rất nhiều, nó không chỉ giới hạn trong việc điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên mà còn mở rộng ra nhiều vấn đề pháp lý khác liên quan đến hợp đồng, có thể nhận thấy những vấn đề mà Quy tắc Rome I điều chỉnh là những vấn đề rất dễ xảy ra tranh chấp trên thực tế, do đó nó sẽ bảo vệ được quyền lợi của các bên một cách rõ ràng và tốt nhất. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần phải sửa đổi theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng không chỉ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên mà cần phải điều chỉnh toàn bộ nội dung hợp đồng.

Thứ ba, các quy định về hạn chế quyền thỏa thuận chọn luật còn mang tính áp đặt, chưa rõ ràng và thiếu thuyết phục. Hạn chế quyền thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng sẽ được xem xét dưới hai góc độ: (i) các hợp đồng mà các bên không có quyền chọn pháp luật áp dụng; (ii) các hợp đồng mà quyền chọn luật áp dụng của các bên bị hạn chế trong những hệ thống pháp luật được quy định sẵn trong quy phạm pháp luật xung đột63. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Dưới góc độ thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 769 BLDS 2005 thì đối với hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp này, pháp luật Việt Nam sẽ bắt buộc được áp dụng dù các bên có thỏa thuận chọn luật áp dụng hay không, cũng cần phải lưu ý hạn chế này chỉ được áp dụng khi hợp đồng được giao kết và thực hiện hoàn toàn ở Việt Nam, trong trường hợp các bên giao kết ở nước ngoài nhưng thực hiện hoàn toàn ở Việt Nam hay giao kết ở Việt Nam và thực hiện một phần ở Việt Nam thì các bên vẫn có quyền thỏa thuận luật áp dụng cho hợp đồng trên. Quy định này đã vô hình chung áp đặt pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng mà loại trừ khả năng chọn luật của các bên. Có thể hiểu quy định này nhằm tránh trường hợp các bên lựa chọn một hệ thống pháp luật không liên quan gì đến hợp đồng khi mà tất cả các yếu tố liên quan đến hợp đồng nằm ở Việt Nam. Tuy nhiên đây là một quy định hết sức cứng nhắc, vô tình tước bỏ quyền thỏa thuận chọn luật của các bên. Thêm vào đó, nó sẽ không thuyết phục vì căn cứ theo quy định này thì nếu một hợp đồng được giao kết và thực hiện hoàn toàn ở nước ngoài thì các bên lại được quyền thỏa thuận chọn luật thay vì pháp luật nước đó sẽ được áp dụng. Chính quy định cứng nhắc này sẽ khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy e ngại khi tiến hành đầu tư ở nước ta, điều này là hết sức bất lợi trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài như hiện nay. Tương tự, khoản 2 Điều 769 BLDS 2005 quy định đối với hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp này, pháp luật Việt Nam cũng bắt buộc được áp dụng mà loại trừ khả năng chọn luật của các bên. Quy định này cũng hết sức dễ hiểu khi nó xuất phát từ yếu tố chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhưng cách quy định này là chưa bao quát khiến nó trở nên kém thuyết phục ở chỗ trong trường hợp hợp đồng liên quan đến bất động sản nằm ở nước ngoài thì liệu pháp luật nước nơi có bất động sản có được áp dụng hay là áp dụng luật do các bên lựa chọn. Phân tích các quy định này cho thấy, dường như pháp luật Việt Nam có khuynh hướng giới hạn đến mức có thể phạm vi những vấn đề của hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài mà các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng. Theo quan điểm cá nhân, tác giả hết sức ủng hộ và đồng tình với ý nghĩa của quy định trên. Tuy nhiên, với tư cách là một quy phạm xung đột nhằm giải quyết các quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài đòi hỏi quy định này phải mang tính khái quát, không nên cụ thể, cứng nhắc như quy định hiện hành.

Có thể thấy hai quy định trên chính là sự cụ thể hóa quy định tại khoản 3 Điều 3 Quy tắc Rome I “Tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc tại thời điểm chọn luật nằm ở một quốc gia khác với quốc gia có luật được chọn, thì luật của quốc gia khác đó sẽ được áp dụng mà không làm phương hại đến sự thỏa thuận của các bên”. Quy định của Quy tắc Rome I mang tính khái quát hóa áp dụng cho mọi trường hợp mà Tòa án cho rằng pháp luật của một quốc gia khác có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng hơn pháp luật do các bên lựa chọn. Do đó, kiến nghị sửa đổi Điều 769 BLDS 2005 theo hướng đối với hợp đồng được giao kết và thực hiện hoàn toàn ở một quốc gia cũng như hợp đồng có đối tượng liên quan đến bất động sản nằm ở một quốc gia thì pháp luật quốc gia đó được áp dụng mà loại trừ khả năng chọn luật của các bên. Quy định này sẽ mang tính khái quát hơn so với quy định của pháp luật hiện hành. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Dưới góc độ thứ hai, hiện tại BLDS 2005 chưa có những quy định về việc hạn chế quyền thỏa thuận chọn luật của các bên đối với những hợp đồng có tính chất đặc thù như hợp đồng lao động và hợp đồng tiêu dùng, đây là những hợp đồng mà rõ ràng có một bên yếu thế hơn, ít có khả năng “mặc cả” hơn trong quá trình giao kết hợp đồng. Do đó, đối với những hợp đồng này mà pháp luật Việt Nam vẫn cho phép các bên được tự do thỏa thuận chọn luật thì nhiều khả năng sẽ thể không bảo vệ được bên yếu thế hơn trong hợp đồng, thậm chí là bất lợi cho bên yếu thế hơn.

Nghiên cứu, so sánh với Quy tắc Rome I có thể thấy, đối với hợp đồng lao động và hợp đồng tiêu dùng, Quy tắc Rome I đã quy định sẵn hệ thống pháp luật áp dụng cho hai loại hợp đồng này là pháp luật nơi người lao động, người tiêu dùng thường trú mà loại trừ khả năng chọn luật của các bên. Quy định này của Quy tắc Rome I cũng xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bên yếu thế hơn trong hợp đồng được ghi nhận trong Lời mở đầu của Quy tắc. Do đó, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các bên trong hợp đồng đặc biệt đối với những hợp đồng mang tính chất đặc thù mà rõ ràng có một bên yếu thế hơn, ít có khả năng “mặc cả” hơn, đòi hỏi Điều 769 BLDS 2005 cần phải bổ sung quy định về việc hạn chế thỏa thuận chọn luật đối với những hợp đồng này.

Thứ tư, khó khăn trong việc áp dụng nguyên tắc luật nơi thực hiện hợp đồng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật . Theo quy định của Điều 769 BLDS 2005, trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật thì nguyên tắc luật nơi thực hiện hợp đồng sẽ được áp dụng để xác định luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Việc áp dụng nguyên tắc “luật nơi thực hiện hợp đồng” có ưu điểm đó là một nơi có thực, gắn liền với một hành vi, sự kiện, là nơi tất cả các bên hướng tới, là nơi quy tụ một cách tự nhiên những quyền lợi của họ xuất phát từ hợp đồng qua đó đây được xác định là nơi có quan hệ mật thiết với hợp đồng64. Nguyên tắc này đã mang đến những thuận lợi nhất định cho tòa án Việt Nam vì phần lớn các hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, việc thực hiện ít nhất là một phần hợp đồng sẽ diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, do đó, tòa án Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để áp dụng pháp luật Việt Nam65. Những ưu điểm này sẽ được phát huy trong trường hợp nơi thực hiện hợp đồng đã được quy định một cách rõ ràng trong hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng nguyên tắc này gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ trong một hợp đồng không chỉ có một nghĩa vụ mà có thể có rất nhiều nghĩa vụ, do đó việc áp dụng nguyên tắc này là hết sức phức tạp và sẽ làm phát sinh hàng loạt khó khăn do nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng có thể được thực hiện ở nhiều nước khác nhau66. Chính những hạn chế này mà nguyên tắc luật nơi thực hiện hợp đồng không phải là nguyên tắc được sử dụng rộng rãi trong Tư pháp quốc tế của các quốc gia. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Khác với pháp luật Việt Nam, Quy tắc Rome I áp dụng nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng để xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật. Đây là nguyên tắc khắc phục hầu hết hạn chế của các nguyên tắc khác khi mà nó không đặt ra hay ràng buộc vào một khuôn khổ nào mà nó lại phụ thuộc vào sự đánh giá mức độ quan hệ mật thiết với hợp đồng. Cụ thể Quy tắc Rome I đã đưa ra tám loại hợp đồng thông dụng và luật được áp dụng tương ứng với tám loại hợp đồng này, đó là luật của nước bên thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng thường trú. Bên cạnh đó, nhằm dự liệu cho trường hợp hợp đồng mà các bên kí kết không thuộc tám loại hợp đồng đã được liệt kê, Quy tắc Rome I đã quy định nếu các hợp đồng không thuộc tám loại hợp đồng đã liệt kê thì luật được áp dụng sẽ xác định theo nguyên tắc luật nơi cư trú của bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đặc trưng. Mặt khác, như đã phân tích việc đánh giá mối quan hệ mật thiết với hợp đồng là một việc mang tính chủ quan của nhà làm luật cùng với đó là việc xác định nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng cũng không phải là một công việc đơn giản, do đó tiếp tục khắc phục một cách triệt để hạn chế này, Quy tắc Rome I đã quy định trong trường hợp nếu có căn cứ cho rằng rõ ràng pháp luật của một quốc gia khác với quốc gia được xác định trong tám loại hợp đồng đã liệt kê có mối quan hệ gắn bó mật thiết với hợp đồng hơn thì pháp luật quốc gia đó sẽ được áp dụng. Cùng với đó, trong trường hợp không thể xác định được nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng thì pháp luật của quốc gia có mối quan hệ gắn bó mật thiết nhất với hợp đồng sẽ được áp dụng. Việc chứng minh sẽ thuộc về các bên trong hợp đồng. Như vậy, có thể thấy Quy tắc Rome I đã áp dụng nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng một cách linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể, các quy định bổ sung cho nhau để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro cho các bên cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng. Từ sự so sánh với Quy tắc Rome I cũng như trên cơ sở phân tích những khó khăn trong việc áp dụng quy định của Điều 769 BLDS 2005 trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật trên thực tế, theo quan điểm của tác giả, BLDS 2005 nên tiếp thu quy định của Quy tắc Rome I, theo đó trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật, Điều 769 BLDS 2005 cần phải sửa đổi theo hướng áp dụng luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng thay vì nguyên tắc luật nơi thực hiện hợp đồng như quy định hiện hành.

Thứ năm, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về việc tuân thủ quy phạm áp dụng bắt buộc. Đây là một hạn chế áp dụng pháp luật nước ngoài hết sức quan trọng mà pháp luật Việt Nam chưa quy định, trong khi đó Quy tắc Rome I lại quy định vấn đề này hết sức chi tiết và rõ ràng. Quy tắc Rome I đã giải thích khái niệm này tại Điều 9 như sau: “1. Các điều khoản mang tính bắt buộc là các điều khoản mà sự tuân thủ các điều khoản này đã được nhìn nhận là rất quan trọng đối với một quốc gia trong việc bảo đảm các lợi ích công cộng của nó, như các tổ chức chính trị, kinh tế hoặc xã hội. Các điều khoản này phải có khả năng áp dụng được cho bất kì tình huống nào thuộc vào phạm vi điều chỉnh của nó, bất kể luật áp dụng cho hợp đồng theo Quy tắc này là luật nào. 2. Không gì trong Quy tắc này có thể hạn chế được việc áp dụng các điều khoản mang tính bắt buộc cho hợp đồng theo luật của toà án”. Từ sự giải thích của Quy tắc Rome I về khái niệm quy phạm áp dụng bắt buộc có thể thấy được tầm quan trọng của quy định này trong việc hạn chế áp dụng pháp luật nước ngoài. Đây là hạn chế nhằm bảo vệ những lợi ích mang tính chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế của quốc gia trước sự chênh lệch về trình độ phát trình độ phát triển giữa các nước trên thế giới thông qua đó là bảo vệ được quyền lợi của công dân quốc gia mình trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Việc không quy định hạn chế này là một thiếu sót quan trọng của pháp luật Việt Nam. Do đó, kiến nghị BLDS 2005 cần phải bổ sung quy định về việc tuân thủ quy phạm áp dụng bắt buộc. Lưu ý khi áp dụng quy định này, cần phải có sự phân biệt giữa hai khái niệm “quy phạm áp dụng bắt buộc” và “buộc phải áp dụng bất kể thoả thuận của các bên”.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

3.2. Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn. BLDS 2015 kế thừa quy định của BLDS 2005 khi tiếp tục ghi nhận nguyên tắc luật do các bên lựa chọn để áp dụng điều chỉnh hợp đồng. Tuy nhiên, BLDS 2015 đã ghi nhận nguyên tắc này một cách trực tiếp như cách quy định của Quy tắc Rome I. Đây có thể xem là một sự tiến bộ của BLDS 2015 so với BLDS 2005 khi mà nó đưa nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng trở về đúng vị trí của nó, là nguyên tắc nền tảng trong các quan hệ dân sự. Bên cạnh đó, quy định của BLDS 2015 đã giải quyết được phần nào những bất cập mà BLDS 2005 vấp phải. BLDS 2015 đã quy định cụ thể về quyền thay đổi thỏa thuận chọn luật của các bên, cách quy định của BLDS 2015 khá tương đồng với Quy tắc Rome I tuy nhiên có phần cởi mở và hợp lý hơn, cụ thể các bên có thể thỏa thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng việc thay đổi đó không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý67. Sự cởi mở và hợp lý này thể hiện ở chỗ nếu như căn cứ theo quy định của Quy tắc Rome I thì khả năng từ chối sự thay đổi thỏa thuận chọn luật của các bên sẽ cao hơn khi mà chỉ cần sự thay đổi này ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba trong hợp đồng thì sẽ bị từ chối áp dụng, ý chí pháp luật được đề cao hơn so với ý chí của các bên. Trong khi với quy định của BLDS 2015 thì việc chấp nhận hay từ chối sự thay đổi thỏa thuận chọn luật của các bên sẽ phụ thuộc vào ý kiến của bên thứ ba trong hợp đồng, ở đây ý chí của các bên được đề cao hơn ý chí pháp luật. Theo quan điểm của tác giả, đây là một quy định rất hợp lý khi mà BLDS 2015 đã tôn trọng sự thỏa thuận, định đoạt của các bên thay vì áp đặt ý chí pháp luật lên một quan hệ mà cốt lõi của nó là sự thỏa thuận, định đoạt của các bên. Tuy nhiên, sự thay đổi của BLDS 2015 chưa thật sự triệt để khi mà còn khá nhiều vấn đề liên quan đến nguyên tắc luật do các bên lựa chọn như hình thức thỏa thuận chọn luật, quyền chọn luật điều chỉnh một phần hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng…chưa được BLDS 2015 quy định. Như đã phân tích, đây là những vấn đề khá quan trọng trong quá trình áp dụng nguyên tắc luật do các bên lựa chọn. Do đó, đòi hỏi trong tương lai BLDS 2015 cần phải bổ sung thêm những quy định về vấn đề này. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Về phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng. Phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo quy định của BLDS 2015 đã được mở rộng hơn rất nhiều so với BLDS 2005, theo đó luật do các bên lựa chọn sẽ áp dụng điều chỉnh nội dung hợp đồng thay vì chỉ giới hạn là quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng như BLDS 2005. Nội dung hợp đồng theo quy định của BLDS 2015 cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm từ điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cũng như hậu quả của việc vi phạm điều kiện có hiệu lực đến việc thực hiện, chấm dứt hay giải thích hợp đồng. Đây là một sự thay đổi hoàn toàn hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật các nước trên thế giới, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các bên trong hợp đồng

Về nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mà các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn. So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã ghi nhận một cách trực tiếp quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật quốc gia và tập quán quốc tế để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài68 thay vì quy định một cách mơ hồ, không thống nhất như BLDS 2005. Đây là một sự thay đổi được đánh giá là hợp lý, bởi lẽ như đã phân tích việc cho phép các bên lựa chọn tập quán quốc tế là sự bổ sung kịp thời những lỗ hổng của pháp luật quốc gia khi mà luật quốc gia thường xuyên ít phù hợp với các quan hệ quốc tế. Hơn nữa, nếu cho phép các bên lựa chọn tập quán quốc tế sẽ thuận lợi cho họ có thể chọn một luật trung gian để điều chỉnh hợp đồng; và sẽ tạo được sự bình đẳng cho các bên vì thông thường, thỏa thuận chọn luật hay luật điều chỉnh trong trường hợp không có thỏa thuận chọn luật áp dụng là luật quốc gia của một trong các bên hợp đồng, và như vậy, một bên sẽ có lợi thế “sân nhà” hơn69. Bên cạnh đó, nó còn phù hợp với thực tiễn xét xử của Tòa án và Trọng tài Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên về việc có cho phép các bên lựa chọn Điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên để điều chỉnh hợp đồng hay không thì BLDS 2015 lại tiếp tục bỏ ngỏ vấn đề này. Theo quy định tại Điều 664 BLDS 2015 thì chỉ có các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên được xác định để áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Về việc xác định luật áp dụng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật. Nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng đã được ghi nhận trong BLDS 2015 theo đó, trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng70. Tương tự như Quy tắc Rome I, BLDS 2015 cũng đưa ra một số loại hợp đồng thông dụng cùng với đó là luật được áp dụng tương ứng với hợp đồng trên cơ sở đánh giá mối quan hệ mật thiết với hợp đồng của hệ thống pháp luật đó. Những hệ thống pháp luật mà BLDS 2015 quy định cho từng loại hợp đồng là khá tương đồng với quy định của Quy tắc Rome I71. Theo quan điểm của tác giả, năm loại hợp đồng mà BLDS 2015 liệt kê tại khoản 2 Điều 683 BLDS 2015 là rất hợp lý. Đây là năm loại hợp đồng thông dụng nhất ở Việt Nam hiện nay nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sự hợp lý này sẽ tạo ra được sự thống nhất trong việc thực thi quy định này trên thực tế, bên cạnh đó nó còn giúp cho công tác xác định luật áp dụng cho hợp đồng của cơ quan xét xử trở nên dễ dàng hơn, góp phần làm cho việc áp nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng đạt được hiệu quả cao, hướng đến mục đích cuối cùng là bảo vệ quyền lợi của các bên trong hợp đồng một cách tốt nhất. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Về việc hạn chế áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng. Tiếp thu quy định của Quy tắc Rome I, Bộ luật Dân sự 2015 quy định trong trường hợp chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật được nêu tại khoản 2 Điều này có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước đó72. Như đã phân tích, khoản 2 Điều 683 BLDS 2015 quy định về năm loại hợp đồng thông dụng và cách thức xác định luật áp dụng tương ứng với năm loại hợp đồng đó trên cơ sở đánh giá mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Quy định tại khoản 3 Điều 683 BLDS 2015 mang tính khắc phục hạn chế của quy định tại khoản 2 khi mà sự áp đặt những hệ thống pháp luật cho từng loại hợp đồng được liệt kê ở khoản 2 là hoàn toàn dựa trên sự đánh giá chủ quan của nhà làm luật trong việc xác định luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Do đó, nếu các bên trong hợp đồng chứng minh được có một hệ thống pháp luật khác gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật đó sẽ được áp dụng. Đây là một quy định rất hay, nó không mang tính áp đặt hoàn toàn mà vẫn tôn trọng ý kiến của các bên trong hợp đồng nếu họ chứng minh thuyết phục. Tuy nhiên, để có thể áp dụng quy định này một cách hiệu quả trên thực tế, đòi hỏi nhà làm luật cần phải lập ra một danh sách những tiêu chí làm cơ sở để đánh giá mối quan hệ mật thiết với hợp đồng của các hệ thống pháp luật. Thông qua quy định này, còn một vấn đề mà theo quan điểm tác giả, BLDS 2015 quy định hợp lý hơn so với Quy tắc Rome I. Đó là việc hạn chế quy định tại khoản Điều 683 BLDS 2015 chỉ áp dụng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật trong khi đó hạn chế này theo quy định của Quy tắc Rome I thì nó áp dụng cả trong trường hợp các bên có thỏa thuận chọn luật. Như vậy, có thể khẳng định BLDS 2015 cho phép các bên được quyền lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối liên hệ thực chất với hợp đồng. Đây là một quy định hết sức hợp lý, một mặt nó thể hiện sự tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Mặt khác, trên thực tế, đôi khi chính vì không có mối quan hệ gì với hợp đồng mà luật đó được lựa chọn như là một luật trung gian, qua đó tạo ra sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Ví dụ, trong hợp đồng giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh nghiệp Singapore, các bên có ghi: “Trường hợp Trọng tài thương mại quốc tế Paris không có thẩm quyền thì hợp đồng được điều chỉnh theo luật Anh và tòa án Anh”73. Tuy nhiên, quy định tại khoản 3 Điều 683 BLDS 2015 lại tồn tại một bất cập khá lớn. Đó là việc quy định này chỉ áp dụng đối với năm loại hợp đồng tại khoản 2 Điều 683 BLDS 2015, trong khi đó trên thực tế còn rất nhiều loại hợp đồng khác mà pháp luật Việt Nam chưa quy định như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng nhượng quyền… Do đó, trong tương lai đòi hỏi BLDS 2015 cần phải sửa đổi theo hướng trong trường hợp tất cả các yếu tố liên quan đến hợp đồng gắn với một quốc gia thì pháp luật quốc gia đó sẽ được áp dụng. Ngoài ra, BLDS 2015 cũng đã bổ sung những hạn chế áp dụng pháp luật điều chỉnh đối với một số hợp đồng đặc thù, cụ thể là hợp đồng lao động và hợp đồng tiêu dùng, theo đó trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng74. Theo quan điểm của tác giả, so với quy định của Quy tắc Rome I thì quy định này của BLDS 2015 là hợp lý hơn. Bởi lẽ, vì mục đích bảo vệ quyền lợi của một bên yếu thế hơn trong hợp đồng mà loại trừ khả năng chọn luật của các bên để bắt buộc phải áp dụng một hệ thống pháp luật mà gần như lợi thế hoàn toàn nghiêng về một bên như Quy tắc Rome I là không thật sự công bằng và khách quan trong mối tương quan về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Không phải bất cứ lúc nào sự thỏa thuận chọn luật của các bên cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của bên yếu thế hơn trong hợp đồng, có chắc chắn rằng luật của nước nơi người lao động, người tiêu dùng thường trú sẽ bảo vệ quyền lợi của họ tốt hơn so với luật do các bên lựa chọn hay không. Do đó, pháp luật chỉ nên can thiệp khi sự thỏa thuận chọn luật của các bên rõ ràng là ảnh hưởng đến quyền lợi của bên yếu thế hơn so với pháp luật của nước nơi mà họ thường trú. BLDS 2015 đã khắc phục khá triệt để những vấn đề liên quan đến hạn chế thỏa thuận chọn luật, ngoài hai vấn đề vừa phân tích, BLDS 2015 cũng đã sửa đổi cách quy định đối với những hạn chế liên quan đến hợp đồng có đối tượng là bất động sản, cụ thể trường hợp hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì pháp luật áp dụng đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là pháp luật của nước nơi có bất động sản75. Quy định này không còn mang tính áp đặt như quy định của BLDS 2005, mà nó mang tính khái quát hơn rất nhiều đúng với tính chất của một quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Từ những phân tích trên có thể nhận thấy quyền thỏa thuận chọn luật của các bên theo quy định của BLDS 2015 có phần cởi mở và khái quát hơn rất nhiều so với BLDS 2005.

3.3. Định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.

a) Ban hành Nghị định hướng dẫn BLDS 2015 về một số vấn đề liên quan đến nguyên tắc xác định pháp luật điều chỉnh hợp đồng. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ so với BLDS 2005, tuy nhiên BLDS 2015 vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập, nhiều quy định của BLDS 2015 chưa thật sự rõ ràng. Điều này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho việc áp dụng những quy định trên thực tế, do đó ngay khi BLDS 2015 có hiệu lực đòi hỏi Chính phủ phải ban hành Nghị định hướng dẫn BLDS 2015 về một số vấn đề sau đây:

Một là, hướng dẫn việc áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 683 BLDS 2015.

Dưới góc độ quy định của pháp luật, khoản 3 Điều 683 BLDS 2015 quy định: Trường hợp chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật được nêu tại khoản 2 Điều này có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước đó. Đây là một quy định chưa thật sự rõ ràng và còn nhiều thiếu sót ở chỗ: (i) nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết hợp đồng là nguyên tắc lần đầu được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam, tuy nhiên BLDS 2015 lại chưa đưa ra được những tiêu chí xác định luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng cũng như nghĩa vụ chứng minh luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng trong trường hợp này là thuộc về cơ quan xét xử hay các bên trong hợp đồng. (ii) khoản 2 Điều 683 BLDS 2015 chỉ liệt kê năm loại hợp đồng thông dụng ở Việt Nam là hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ, hợp đồng lao động và hợp đồng tiêu dùng trong khi đó trên thực tế nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện này bên cạnh năm loại hợp đồng này sẽ còn rất nhiều loại hợp đồng khác như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng nhượng quyền thương mại… Đối với những loại hợp đồng này thì BLDS 2015 lại chưa ra đưa ra được nguyên tắc xác định luật áp dụng.

Dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu có thể nhận thấy Quy tắc Rome I cũng quy định theo hướng liệt kê một số loại hợp đồng thông dụng cùng với đó là luật được áp dụng tương ứng với mỗi loại hợp đồng, đó là luật của nước bên thực hiện nghĩa vụ chính trong hợp đồng thường trú. Bên cạnh đó, nhằm dự liệu cho trường hợp hợp đồng mà các bên kí kết không thuộc một số loại hợp đồng đã được liệt kê, Quy tắc Rome I đã quy định nếu các hợp đồng không thuộc một số loại hợp đồng đã liệt kê thì luật được áp dụng sẽ xác định theo nguyên tắc luật nơi cư trú của bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đặc trưng. Trong trường hợp đồng không thể xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng theo cả hai quy định trên thì luật có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng sẽ được áp dụng. Xuất phát từ những án lệ của Liên minh châu Âu, để xác định luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng, các tòa án ở châu Âu thường dựa vào các tiêu chí như nơi cư trú76, quốc tịch77, nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng78

Từ những phân tích trên, kiến nghị pháp luật Việt Nam cần phải ban hành Nghị định hướng dẫn BLDS 2015 về việc áp dụng quy định tại khoản 3 Điều BLDS 2015 như sau: Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Thứ nhất, đưa ra nguyên tắc chung về việc xác định luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng đối với những hợp đồng không thuộc một trong năm loại hợp đồng được liệt kê tại khoản 2 Điều 683 BLDS 2015. Theo đó, trong trường này, thiết nghĩ cần áp dụng nguyên tắc luật nơi thực hiện nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng. Bởi lẽ, đây là một nguyên tắc rất gần gũi với pháp luật Việt Nam, nó là sự chi tiết, cụ thể hóa của nguyên tắc luật nơi thực hiện hợp đồng mà BLDS 2005 đã quy định trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật, đồng thời nó cũng phù hợp quy định của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế sẽ trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn cho các Tòa án Việt Nam. Bên cạnh đó, Nghị định hướng dẫn cần phải quy định rõ việc xác định nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng thuộc về cơ quan xét xử. Bởi vì, việc xác định nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng là một việc không đơn giản, đòi hỏi phải mang tính khách quan cũng như kinh nghiệm từ quá trình xét xử. Nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng phải là kết quả của việc nghiên cứu, đánh giá dựa trên những yếu tố, đặc điểm đặc trưng của hợp đồng cùng với đó là mối tương quan về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng nhằm bảo vệ bên yếu thế hơn.

Thứ hai, trong trường hợp không thể xác định được nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng cũng như không thể xác định luật điều chỉnh hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 683 BLDS 2015 thì luật có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng sẽ được áp dụng. Theo đó, để có thể áp dụng quy định này một cách có hiệu quả và thống nhất trên thực tế đòi hỏi Nghị định hướng dẫn cần phải đưa ra được các tiêu chí để xác định mối quan hệ mật thiết với hợp đồng và các tiêu chí này cần phải được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên áp dụng bắt đầu từ những tiêu chí được đánh giá là có mối quan hệ mật thiết nhất. Cụ thể: Luật của nước quan hệ mật thiết với hợp đồng được xác định dựa trên cơ sở đánh giá mối liên hệ giữa toàn bộ các yếu tố của quan hệ cụ thể, bao gồm yếu tố các bên, đối tượng hợp đồng, nơi giao kết, thực hiện nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng, nơi phát sinh tranh chấp và các yếu tố khác có liên quan. Việc đánh giá mối liên hệ này phải tính đến sự hài hòa về lợi ích, luật pháp của các nước có liên quan nhưng cốt lõi là bảo đảm sự công bằng giữa các bên tham gia quan hệ, bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại, bảo vệ được lợi ích của bên yếu thế hơn trong hợp đồng. Các yếu tố sự thuận lợi trong việc xác định luật áp dụng và việc áp dụng pháp luật đó cũng có thể được tính tới nhưng đóng vai trò thứ yếu79. Ngoài ra, Nghị định cũng cần phải quy định rõ trong trường hợp các bên trong hợp đồng chứng minh được pháp luật của một quốc gia khác với pháp luật được quy định tại khoản 2 Điều 683 BLDS 2015 cũng như pháp luật được xác định theo nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng có mối quan hệ mật thiết hơn với hợp đồng thì áp dụng pháp luật quốc gia đó. Đây là một quy định vừa khắc phục được hạn chế, vừa bổ sung kịp thời cho hai quy định trên. Bởi lẽ trong cả hai quy định trên việc xác định luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 683 BLDS 2015 cũng như việc xác định nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng đều thuộc về cơ quan xét xử và việc xác định là hết sức chủ quan. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Hai là, bổ sung quy định về hình thức thỏa thuận chọn luật của các bên.

Hình thức thỏa thuận chọn luật là một nội dung khá quan trọng, đây là cơ sở để chứng minh sự tồn tại việc thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng. Nội dung này được ghi nhận rất cụ thể trong Quy tắc Rome I theo đó, các bên có thể thỏa thuận chọn luật bằng bất cứ hình thức nào nhưng phải được thể hiện một cách rõ ràng hoặc được chứng minh thông qua các điều khoản của hợp đồng hoặc hoàn cảnh cụ thể của vụ việc. Bên cạnh đó, Quy tắc Rome I cũng thừa nhận hình thức thỏa thuận chọn luật “ngầm” của các bên. Việc quy định một cách rõ ràng sẽ góp phần áp dụng một cách thống nhất quy định này trên thực tế. Do đó, BLDS 2015 cần phải quy định một cách rõ ràng về hình thức thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng theo hướng hình thức thỏa thuận chọn luật phải được thể hiện một cách rõ ràng thông qua điều khoản chọn luật trong hợp đồng và không nên chấp nhận hình thức thỏa thuận ngầm vì các lý do sau: (i) sự hiểu biết về pháp luật nói chung, pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng của các chủ thể Việt Nam chưa cao, việc quy định rõ ràng trong hợp đồng về luật áp dụng sẽ tránh cho các bên sự tranh chấp không cần thiết; (ii) việc giải thích pháp luật tại Việt Nam chưa thống nhất và chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, việc quy định rõ ràng trong hợp đồng sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tránh được khó khăn khi xác định ý chí của các bên trong việc giải thích hợp đồng; (iii) phù hợp với truyền thống pháp luật thành văn của hệ thống pháp luật Việt Nam khi mà trình độ lập pháp chưa được hoàn thiện thì việc quy định cụ thể sẽ tốt hơn. Đồng thời, BLDS 2015 cũng cần quy định rõ nếu các bên không đáp ứng được yêu cầu này thì thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng sẽ không có hiệu lực pháp luật80.

Ba là, bổ sung quy định về quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng của các bên.

Dưới góc độ lý luận và thực tiễn cho thấy có những hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài đặc biệt là các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có nội dung rất dài và bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Chính vì vậy, đôi khi phát sinh nhu cầu thực tế là các bên cần thỏa thuận chọn nhiều hệ thống pháp luật và một hệ thống pháp luật chỉ áp dụng điều chỉnh một phần của hợp đồng. Thậm chí ngay cả khi thỏa thuận chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng vẫn có trường hợp các bên lựa chọn nhiều luật áp dụng cho hợp đồng để phòng ngừa tình huống một hệ thống pháp luật không điều chỉnh hết các vấn đề của hợp đồng81. Dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu, Quy tắc Rome I quy định cho phép các bên được quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng. Đây là một vấn đề tương đối phổ biến trong thực tế. Theo các chuyên gia châu Âu về tư pháp quốc tế thì nên chấp nhận cho phép các bên chọn hai hay nhiều hệ thống pháp luật để chi phối hợp đồng. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự 2015 lại chưa quy định này về vấn đề này. Do đó, trong tương lai, Bộ luật Dân sự 2015 cần bổ sung quy định về việc cho phép các bên được quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

b) Bổ sung quy định về việc cho phép các bên được quyền lựa chọn Điều ước quốc tế để điều chỉnh hợp đồng.

Dưới góc độ lý luận, BLDS 2015 trong tương lai cần ghi nhận việc cho phép các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn Điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên để điều chỉnh hợp đồng. Bởi lẽ, (i) pháp luật thực chất của một nước là pháp luật được thiết lập cho những quan hệ trong nước nên thường xuyên không phù hợp với quan hệ quốc tế trong khi đó Điều ước quốc tế lại được thiết lập để điều chỉnh những quan hệ vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ của một quốc gia; (ii) thông thường bên nước ngoài không thích áp dụng pháp luật Việt Nam và bên Việt Nam không hài lòng khi bị ép buộc chọn pháp luật nước ngoài vì cả hai bên không hiểu biết tốt về pháp luật của nhau, trong khi đó Điều ước quốc tế lại dễ nhận biết và hiểu hơn vì các quy phạm này được dịch sang nhiều thứ tiếng, với sự phát triển của công nghệ thông tin có thể dễ dàng tiếp cận những quy phạm này82; (iii) Việt Nam chưa có điều kiện gia nhập nhiều Điều ước quốc tế đa phương điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài nên việc chỉ cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn những Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên sẽ hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên và quan trọng nhất là cản trở giao lưu dân sự quốc tế83.

Dưới góc độ so sánh, Quy tắc Rome I chỉ cho phép các bên được lựa chọn pháp luật quốc gia mà loại trừ khả năng các bên được lựa chọn Điều ước quốc tế để điều chỉnh hợp đồng. Như đã phân tích, chính quy định này đã khiến cho Quy tắc Rome I vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nước thành viên của Quy tắc, vì họ cho rằng việc bỏ qua nguồn luật này khiến Quy tắc Rome I xa rời thực tiễn thương mại quốc tế, đi ngược lại với nguyên tắc tự do ý chí và không nhất quán với pháp luật về trọng tài của nhiều quốc gia.

Dưới góc độ thực tiễn, trước đây khi Việt Nam chưa là thành viên của Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp Quốc (CISG) về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tuy nhiên hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế các bên đều viện dẫn các quy định của CISG để áp dụng điều chỉnh hợp đồng và khi xét xử, Tòa án và Trọng tài Việt Nam đều công nhận sự thỏa thuận này và đã áp dụng các quy định của CISG để giải quyết tranh chấp. Ví dụ: Hợp đồng giữa người bán Liechtenstein (Liên bang Nga) và người mua Việt Nam về mua bán thép tấm. Trong hợp đồng, hai bên đã lựa chọn CISG làm luật áp dụng và khi xét xử tranh chấp, trọng tài quốc tế do hai bên lựa chọn đã áp dụng CISG84. Như vậy, có thể thấy mặc dù pháp luật không quy định nhưng trên thực tiễn, các Tòa án và Trọng tài Việt Nam đã cho phép và áp dụng các Điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên để điều chỉnh hợp đồng theo sự lựa chọn của các bên. Hiện nay, có khá nhiều Điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài nhất là các Công ước trong lĩnh vực hàng hải, chẳng hạn như Công ước của Liên Hợp Quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển năm 1978, Công ước Liên Hợp Quốc về vận chuyển hàng hóa bằng vận tải đa phương thức năm 1980 hay Công ước Athen về vận chuyển hành khách và hành lý bằng đường biển năm 1974 (được sửa đổi bởi Nghị đinh thư năm 1976 và Nghị định thư năm 1990)…

Từ những phân tích, kiến nghị trong tương lai BLDS 2015 cần bổ sung quy định cho phép các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn Điều ước quốc tế để điều chỉnh hợp đồng nhất là trong bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng nhiều các tổ chức quốc tế, điều này đồng nghĩa với việc sẽ có rất nhiều loại hợp đồng có yếu tố nước ngoài phát sinh mà pháp luật Việt Nam chưa có những quy định để kịp thời điều chỉnh. Do đó, việc cho phép các bên được lựa chọn Điều ước quốc tế là một sự bổ sung kịp thời cho pháp luật quốc gia.

c) Bổ sung quy định về việc tuân thủ quy phạm áp dụng bắt buộc. Dưới góc độ lý luận, quy phạm áp dụng bắt buộc bắt nguồn từ khoản Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Điều 3 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804. Mục đích chính của quy phạm áp dụng bắt buộc không phải là để khuyến khích, phát triển quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà là để bảo vệ cơ cấu tổ chức hoạt động xã hội, kinh tế, chính trị của nước mà nó được thiết lập. Trong thực tế, quy phạm áp dụng bắt buộc là những quy phạm pháp luật quốc gia mà vai trò tự nhiên của nó là điều chỉnh các quan hệ trong nước nhưng lại được áp dụng bắt buộc để điều chỉnh trực tiếp một vài chi tiết của quan hệ có yếu tố nước ngoài, đồng thời làm vô hiệu hóa các quy phạm xung đột đáng lẽ được áp dụng. Ưu điểm của quy phạm áp dụng bắt buộc là việc sử dụng quy phạm áp dụng bắt buộc phần nào giống với việc sử dụng bảo lưu trật tự công cộng tuy nhiên việc sử dụng quy phạm này là đơn giản hơn rất nhiều so với bảo lưu trật tự công cộng khi mà việc sử dụng quy phạm này không cần áp dụng quy phạm xung đột và cũng không cần phải áp dụng luật nước ngoài đồng thời cũng không cần phải xác định hậu quả xấu của việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Thêm vào đó việc cho rằng hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là một vấn đề rất tế nhị. Chính vì điều này mà trên thực tế các Tòa án rất hạn chế sử dụng bảo lưu trật tự công cộng thay vào đó là sử dụng các quy phạm bắt buộc áp dụng85.

Dưới góc độ so sánh, việc sử dụng quy phạm áp dụng bắt buộc để điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài đã được thừa nhận trong Công ước Rome 1980 và tiếp tục được kế thừa trong Quy tắc Rome I năm 2008. Cụ thể Điều 9 Quy tắc Rome I có quy định: “Không gì trong bản quy định này có thể hạn chế được việc áp dụng các điều khoản mang tính bắt buộc cho hợp đồng theo luật của toà án”. Ngoài ra, nhiều nước ở châu Âu cũng đã thừa nhận việc sử dụng quy phạm này như Thụy Sĩ, Đức, Nga… Qua đó cho thấy, đây là một xu hướng phổ biến trong Tư pháp quốc tế hiện nay.

Dưới góc độ thực tiễn, việc sử dụng quy phạm áp dụng bắt buộc để điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài là một vấn đề tương đối mới mẻ với pháp luật Việt Nam. Thực tế, trong pháp luật Việt Nam đã tồn tại một số quy phạm áp dụng bắt buộc song chúng chỉ tồn tại trong những văn bản pháp luật chuyên ngành và khi ban hành các nhà lập pháp đã nêu rõ đây là các quy phạm áp dụng bắt buộc86. Bên cạnh đó, còn có khá nhiều quy phạm mà rất có thể Tòa án nước ta muốn coi chúng là quy phạm áp dụng bắt buộc đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và họ muốn áp dụng chúng ngay cả khi các bên có thỏa thuận chọn luật điều chỉnh hợp đồng bởi lẽ những quy định này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong vấn đề bảo vệ cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế của nước ta, chẳng hạn như quy định tại Điều 141 Bộ luật Lao động 2012, Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005, Điều 14, Điều 15 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…. Tuy nhiên nó lại không được các nhà lập pháp nêu rõ đó là các quy phạm áp dụng bắt buộc. Điều này dẫn đến việc Tòa án không thể viện dẫn những quy định này để hạn chế quyền thỏa thuận chọn luật của các bên nhằm bảo vệ các lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia.

Từ những phân tích trên, kiến nghị trong tương lai, BLDS 2015 cần phải bổ sung quy định về việc thừa nhận quy phạm áp dụng bắt buộc. Việc bổ sung quy định này không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia mà còn góp phần phổ biến, truyền bá pháp luật Việt Nam đến với các nước trên thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Chương 3 đã đề cập giải quyết những khía cạnh thực tiễn liên quan đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, Bộ luật Dân sự 2005 tồn tại khá nhiều bất cập trong việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, có thể kể đến như Bộ luật Dân sự 2005 chưa có những quy định cụ thể về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn, khó khăn trong việc áp dụng nguyên tắc luật nơi thực hiện hợp đồng, phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng rất hẹp so với pháp luật các nước trên thế giới, những quy định liên quan đến vấn đề hạn chế quyền thỏa thuận chọn luật không rõ ràng, áp đặt và cứng nhắc, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mà các bên có quyền thỏa thuận quy định mơ hồ, không rõ ràng, chưa có quy định về việc tuân thủ quy phạm pháp luật bắt buộc… Trên cơ sở so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu, tác giả đã đề xuất hướng hoàn thiện cho những bất cập trên.

Thứ hai, Bộ luật Dân sự 2015 được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/2017 có nhiều quy định mới so với Bộ luật Dân sự 2005, chẳng hạn Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung quy định về quyền thay đổi pháp luật lựa chọn của các bên, mở rộng phạm vi áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng, thay thế nguyên tắc luật nơi thực hiện hợp đồng bằng nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng… Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập mà Bộ luật Dân sự 2015 vẫn chưa giải quyết triệt để cũng như một số quy định mới của Bộ luật Dân sự 2015 còn chưa rõ ràng, điều này sẽ gây rất nhiều khó khan trong việc áp dụng Bộ luật trên thực tế. Do đó, tác giả tiếp tục đề xuất hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam trong tương lai về việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo hướng: (i) Ban hành Nghị định hướng dẫn Bộ luật Dân sự 2015 về một số vấn đề liên quan đến nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; (ii) Bổ sung quy định quy định về quyền lựa chọn Điều ước quốc tế để điều chỉnh hợp đồng; (iii) Bổ sung quy định về việc tuân thủ quy phạm pháp luật bắt buộc.

KẾT LUẬN Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

Đề tài đã có cái nhìn tổng quan về các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật Liên minh châu Âu liên quan đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Đồng thời, tác giả cũng đã nêu lên được những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 cùng với đó là những đề xuất hoàn thiện liên quan đến vấn đề này. Không những thế, đề tài còn đi sâu phân tích những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 nhằm đánh giá mức độ hoàn thiện của Bộ luật Dân sự 2015 để có thể tiếp tục hoàn thiện nó trong tương lai. Cụ thể đề tài đã đạt được những kết quả như sau:

Thứ nhất, đề tài đã nghiên cứu, đánh giá được những vấn đề lý luận chung về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng: (i) cách thức xác định hợp đồng có yếu tố nước ngoài dưới góc độ so sánh quy định của Bộ luật Dân sự 2005 với các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng như Công ước quốc tế; đồng thời đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 liên quan đến nội dung trên. (ii) phân tích khái niệm, nguyên nhân phát sinh, phương pháp điều chỉnh, nguồn luật điều chỉnh, một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.

Thứ hai, đề tài đã phân tích, đánh giá được những quy định của pháp luật Liên minh châu Âu, cụ thể là Quy tắc Rome I về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Qua đó làm nổi bật hai nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng chủ đạo của Quy tắc Rome I là nguyên tắc luật do các bên lựa chọn và nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng. Quy tắc Rome I quy định một cách rất cụ thể, chi tiết và linh hoạt về hai nguyên tắc này.

Thứ ba, đề tài đã chỉ ra được thực trạng quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu. Đồng thời, đề tài cũng đã phân tích, đánh giá được những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005, qua đó nêu lên những bất cập còn tồn tại trong Bộ luật Dân sự 2015.

Trên cơ sở những bất cập còn tồn tại trong Bộ luật Dân sự 2015, đề tài đã đưa ra một số đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng:

  • Một là, ban hành Nghị định hướng dẫn Bộ luật Dân sự 2015 ngay khi Bộ luật này có hiệu lực về một số vấn sau: (i) hướng dẫn việc áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015; (ii) bổ sung quy định về quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng; (iii) bổ sung quy định về hình thức thỏa thuận chọn luật.
  • Hai là, Bộ luật Dân sự 2015 cần bổ sung quy định về quyền lựa chọn Điều ước quốc tế để điều chỉnh hợp đồng của các bên.
  • Ba là, Bộ luật Dân sự 2015 cần bổ sung quy định về việc tuân thủ quy phạm áp dụng bắt buộc. Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
2 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng […]

trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật hợp đồng […]

2
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993