Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng – nhìn từ góc độ so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên minh châu Âu dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Hiện nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ tín dụng tài chính với hơn 200 tổ chức quốc tế và diễn đàn quốc tế. Trong bối cảnh đó, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng gia tăng, nhất là các quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Tình hình đó tất yếu sẽ kéo theo những hậu quả làm phát sinh các vụ tranh chấp có liên quan đến hợp đồng đòi hỏi pháp luật phải kịp thời giải quyết. Khác với việc giải quyết các quan hệ hợp đồng thông thường, việc giải quyết hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến nguyên tắc chọn luật áp dụng vì nó xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật, do một quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của ít nhất hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau xuất phát từ những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội khác nhau. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Dựa trên học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trước sự phát triển không ngừng của nền kinh tế đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi theo để bắt kịp sự phát triển mạnh mẽ đó. Bộ luật Dân sự 2005 – cơ sở pháp lý quan trọng nhất trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngoài đã trải qua gần 10 năm áp dụng trên thực tiễn. Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ đáng kể so với Bộ luật Dân sự trước đó về việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên trong quá trình áp dụng trên thực tiễn, Bộ luật Dân sự 2005 đã bắt đầu bộc lộ những bất cập gây khó khăn cho việc áp dụng cũng như có nhiều quy định đã trở nên lỗi thời không còn phù hợp với thực tiễn. Trước tình hình này, tại kỳ họp thứ 8 khóa XIII năm 2014, Quốc hội đã cho ý kiến về dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005. Kết quả là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2015 sau khi được Quốc hội thông qua vào ngày 24 tháng 11 năm 2015 và chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2017. Phân tích những quy định của Bộ luật Dân sự 2015 có thể thấy Bộ luật Dân sự 2015 đã khắc phục được rất nhiều bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 liên quan đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 vẫn còn tồn tại một số bất cập đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện trong tương lai. Cụ thể: (i) Bộ luật Dân sự 2015 chưa quy định rõ ràng về việc áp dụng nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. (ii) Bộ luật Dân sự 2015 thiếu những quy định về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn, quy định về quyền lựa chọn Điều ước quốc tế để áp dụng điều chỉnh hợp đồng, quy định về việc tuân thủ quy pháp pháp luật bắt buộc.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng – nhìn từ góc độ so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên minh châu Âu”, tác giả sẽ đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 cũng như các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Đồng thời, dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu cũng như thực tiễn xét xử của Tòa án và Trọng tài Việt Nam, tác giả sẽ chỉ ra những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 cùng với đó là những đề xuất nhằm hoàn thiện những bất cập trên. Bên cạnh đó, trên cơ sở những bất cập và định hướng hoàn thiện này, tác giả sẽ so sánh với những thay đổi của Bộ luật Dân sự 2015 để có thể đánh giá Bộ luật Dân sự 2015 đã giải quyết được những bất cập nào, còn tồn tại những bất cập nào nhằm tiếp tục đề xuất hướng hoàn thiện cho những bất cập còn tồn tại trong tương lai. Do đó, với những gì mà đề tài làm được cho thấy đây là một đề tài mang tính cấp thiết vào thời điểm hiện tại.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Ở nước ta, vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng không phải là một đề tài mới, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này. Căn cứ vào tình hình nghiên cứu đề tài này, có thể chia thành hai nhóm sau:
Nhóm 1: Các công trình nghiên cứu về những vấn đề chung của Tư pháp quốc tế, trong đó có quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2006), Tư pháp Quốc tế Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình nghiên cứu về các vấn đề mang tính lý luận chung của Tư pháp quốc tế, chẳng hạn như khái niệm, phương pháp giải quyết xung đột pháp luật, lẩn tránh pháp luật, bảo lưu trật tự công cộng. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu này còn đi sâu phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như quan hệ hôn nhân gia đình, hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ tài sản. Trong quá trình phân tích, tác giả cũng nêu lên những hạn chế của pháp luật Việt Nam dưới góc độ so sánh với pháp luật nước ngoài và quá trình áp dụng pháp luật trên thực tiễn, đồng thời đề xuất định hướng hoàn thiện những bất cập trên.
Đỗ Văn Đại (2013), “Quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (2). Công trình nghiên cứu đã nêu lên thực trạng ghi nhận quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, phân tích những mặt tích cực và hạn chế của quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế, so sánh quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam và pháp luật một số nước. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất pháp luật Việt Nam nên mở rộng quyền lựa chọn pháp luật trong nhiều quan hệ dân sự khác như quan hệ thừa kế, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ sở hữu tài sản và cả quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp Quốc tế, NXB Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu này có thể chia làm hai nội dung chính. (i) Nghiên cứu về các vấn đề lý luận chung của Tư pháp quốc tế như khái niệm, đối tượng điều chỉnh, nguồn luật điều chỉnh, các vấn đề về xung đột pháp luật…; (ii) Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như hợp đồng, hôn nhân gia đình, thừa kế, sở hữu trí tuệ, lao động, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…
Trần Minh Ngọc (2015), “Góp phần hoàn thiện Phần 5 Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Luật học, (3). Công trình nghiên cứu đã phân tích những điểm mới của Dự thảo Bộ luật Dân sự 2015 về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật đối với một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định trong Dự thảo của Bộ luật Dân sự 2015, đồng thời nêu lên những bất cập trong quy định mới của Dự thảo cùng với đó là đề xuất hoàn thiện những bất cập này. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Vũ Thị Hương, Lê Hồng Sơn (2015), “Hình thức và thời điểm thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng của các bên trong Tư pháp quốc tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (19). Công trình nghiên cứu tập trung phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn ở khía cạnh hình thức và thời điểm chọn luật của các bên. Các tác giả đã nêu lên được bất cập của pháp luật Việt Nam trong việc quy định hình thức và thời điểm thỏa thuận chọn luật dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu. Qua đó, nêu lên định hướng hoàn thiện cho những bất cập này.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, còn có khá nhiều công trình nghiên cứu khác có nội dung tương tự. Tuy nhiên, điểm chung của hầu hết các công trình này là nó thiên về nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận chung trong lĩnh vực xung đột pháp luật, việc phân tích chuyên sâu về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam mà chủ yếu là Bộ luật Dân sự 2005 dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu cũng như đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 thì các công trình này chưa giải quyết được vấn đề đó.
Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu về vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
Nguyễn Lê Hoài (2015), Hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam về hợp đồng – Kinh nghiệm từ pháp luật của một số nước, Luận văn thạc sĩ. Công trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng quy định của Bộ luật Dân sự 2005 cũng như một số văn bản pháp luật chuyên ngành về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng trên cơ sở so sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới để đưa ra định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Điểm nổi bật của công trình nghiên cứu này là việc tác giả đã phân tích, đánh giá được những điểm mới của Dự thảo Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Bành Quốc Tuấn (2012), “Hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng yếu tố nước ngoài”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (121, 122). Công trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài ở một số nội dung như hình thức và thời điểm chọn luật, quyền chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, quyền lựa chọn Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế…. Dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu, tác giả đã nêu lên những bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về các nội dung trên cùng với đó là định hướng hoàn thiện cho những bất cập này. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ở khía cạnh quyền thỏa thuận chọn luật. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Bùi Thị Thu (2015), “Bàn về khái niệm “Luật có mối quan hệ mật thiết nhất” trong quan hệ hợp đồng”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (8/2015). Công trình nghiên cứu đã có cái nhìn tổng quan về nguồn gốc, cách thức áp dụng và hướng dẫn việc xác định luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng trên cơ sở phân tích và đánh giá nguyên tắc dưới góc độ phân tích pháp luật Liên minh châu Âu. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất pháp luật Việt Nam cần ghi nhận nguyên tắc này trong việc giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng chỉ là một trong số rất nhiều nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Nguyễn Thị Hồng Trinh (2010), “Nguyên tắc tự do chọn luật cho hợp đồng từ Công ước Rome 1980 đến Quy tắc Rome I 2008 và nhìn về Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (6) và Bùi Thị Thu (2013), “Thống nhất hóa nguyên tắc chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng theo Quy tắc Rome I, hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam”, Tạp chí luật học, (10). Điểm chung của hai công trình nghiên cứu này là việc tác giả đã phân tích chuyên sâu những quy định của pháp luật Liên minh châu Âu về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Trên cơ sở đó, so sánh với quy định của Bộ luật Dân sự 2005 để nêu lên những bất cập của Bộ luật này, đồng thời kiến nghị hoàn thiện những quy định của Bộ luật Dân sự 2005.
Lê Thị Nam Giang, Nguyễn Lê Hoài (2013), “Từ kinh nghiệm của pháp luật các nước, kiến nghị sửa đổi Điều 769 Bộ luật dân sự 2005”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (12) và Lê Thị Nam Giang, Trần Ngọc Hà (2014), “Từ kinh nghiệm của pháp luật các nước, kiến nghị sửa đổi Điều 769 Bộ luật dân sự 2005”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (1). Đây là hai công trình nghiên cứu một cách tổng quan và chuyên sâu quy định của Điều 769 Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng dưới góc độ so sánh với pháp luật của một số hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu….Trên cơ sở đó, tác giả đã nêu lên thực trạng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện.
Như vậy, có thể thấy rằng các công trình trên đây chủ yếu nghiên cứu vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Việc phân tích chuyên sâu những quy định của pháp luật Liên minh châu Âu cũng như việc đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, đề xuất hướng hoàn thiện cho Bộ luật Dân sự 2015 trong tương lai thì gần như chưa có công trình nghiên cứu nào làm được điều này. Trong khi đó, với đề tài này, bên cạnh việc phân tích quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, tác giả đã phân tích, đánh giá một cách tổng thể và chuyên sâu những quy định của pháp luật Liên minh châu Âu làm cơ sở cho việc so sánh pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích, đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 đồng thời chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong Bộ luật Dân sự 2015 và tiếp tục đề xuất hướng hoàn thiện những bất cập này trong tương lai. Đây chính là một hướng tiếp cận hoàn toàn mới liên quan đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng của đề tài này so với các công trình nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích: (i) phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; (ii) so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên minh châu Âu về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; (iii) đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; (iv) định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra:
Thứ nhất, tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng như khái niệm, nguyên nhân phát sinh, phương pháp giải quyết, nguồn luật điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực đồng…
Thứ hai, tìm hiểu các quy định về nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Liên minh châu Âu, theo Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Thứ ba, so sánh nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh châu Âu.
Thứ tư, dưới góc độ so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu nêu lên những bất cập của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, đồng thời đưa ra định hướng hoàn thiện những bất cập đó.
Thứ năm, đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 dưới góc độ hoàn thiện những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005, tiếp tục đề ra định hướng hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2015 trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài và nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh châu Âu. Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết xung đột trong lĩnh vực hợp đồng, so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu để chỉ ra những bất cập về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất những định hướng góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong lĩnh vực hợp đồng, xung đột pháp luật có thể xảy ra ở rất nhiều khía cạnh như tư cách pháp lý của chủ thể, hình thức hợp đồng, nội dung hợp đồng…Tuy nhiên, trong đề tài này, chỉ giới hạn nghiên cứu xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng trên cơ sở phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và pháp luật Liên minh châu Âu cũng như những thay đổi trong Bộ luật Dân sự 2015 cùng với các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, để có thể đưa ra được những nhận định, kết quả đúng đắn mang tính khoa học đòi hỏi phải kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh – đối chiếu, phương pháp nghiên cứu lịch sử…để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. Các phương pháp được vận dụng linh hoạt, phù hợp với từng vấn đề cần giải quyết. Cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: phương pháp này được sử dụng một cách xuyên suốt trong đề tài nhằm phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật Liên minh châu Âu liên quan đến vấn đề xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Từ những phân tích đó, tác giả sẽ tổng hợp lại để đưa ra kết luận chung cho từng vấn đề được đặt ra.
Phương pháp so sánh – đối chiếu: đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong chương 3 của đề tài nhằm mục đích so sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Liên minh châu Âu về nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, song song đó là việc đối chiếu những thay đổi của Bộ luật Dân sự 2015 với những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 nhằm tiếp tục đề xuất định hướng hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2015 với những bất cập còn tồn tại mà Bộ luật Dân sự 2015 chưa giải quyết hoặc có giải quyết nhưng chưa triệt để. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Phương pháp thực tiễn: phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 2 và chương 3 nhằm mục đích phân tích, tổng hợp kinh nghiệm xét xử của Tòa án, Trọng tài thông qua các án lệ để chứng minh cho những vấn đề mang tính lý luận. Đồng thời từ việc phân tích, tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn để làm rõ những bất cập, lỗi thời của các quy định pháp luật khi áp dụng trên thực tế, từ đó đưa ra những đề xuất hoàn thiện hợp lý, hiệu quả và mang tính ứng dụng cao.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần vào công tác hoàn thiện, củng cố vững chắc cơ sở lý luận cho những quy định của pháp luật trong việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Đồng thời đây là cũng có thể là một công trình nghiên cứu có thể giúp ích cho công tác giảng dạy, nghiên cứu Tư pháp quốc tế trong bối cảnh Bộ luật Dân sự 2015 sắp có hiệu lực với nhiều thay đổi đáng kể so với Bộ luật Dân sự 2005.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đã chỉ ra được những bất cập trong quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng trên cơ sở so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu. Căn cứ vào những định hướng hoàn thiện cho Bộ luật Dân sự 2005, tác giả đã so sánh, đối chiếu với những quy định của Bộ luật Dân sự 2015 nhằm đánh giá quá trình hoàn thiện của Bộ luật Dân sự 2015 song song đó là việc tiếp tục đề xuất những định hướng hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2015 trong tương lai về những bất cập trong Bộ luật Dân sự 2005 mà Bộ luật Dân sự 2015 chưa đề cập giải quyết hoặc có giải quyết nhưng chưa triệt để. Điều này có ý nghĩa hết sức thiết thực cho công tác lập pháp cũng như áp dụng pháp luật trên thực tế, góp phần hoàn thiện và phát triển Bộ luật Dân sự Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu đề tài.
Đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
- Chương 2: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Liên minh châu Âu
- Chương 3: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC HỢP ĐỒNG. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
1.1. Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.1 Khi có yếu tố nước ngoài, hợp đồng trở thành đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế với những đặc thù riêng của nó. Tuy nhiên hiện nay chưa có quy định nào thể hiện khái niệm hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài một cách trực tiếp cũng như vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm này2. Xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng là một quan hệ dân sự, vì vậy có thể định nghĩa hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài thông qua định nghĩa quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo đó, Điều 758 Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội ngày 14 tháng 6 năm 2005 quy định: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. So với Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội ngày 14 tháng 6 năm 2005 (BLDS 2005), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 24/11/2015 (BLDS 2015) có nhiều thay đổi về cách thức quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Một điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 là việc BLDS 2015 đã lược bỏ chủ thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài, không xem đây là một chủ thể để xác định yếu tố nước ngoài trong các quan hệ dân sự. Sự lược bỏ này có thể xem là hợp lý, nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định tư cách tố tụng của loại chủ thể này đồng thời khắc phục những bất cập trong quá trình áp dụng quy định này trên thực tế khi mà khái niệm “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” chưa được định nghĩa một cách cụ thể và đơn nghĩa ở bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào, thậm chí về mặt nội hàm của thuật ngữ này cũng không hoàn toàn giống nhau trong cách thức quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam số 24/2008/QH12 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 13/11/20083 và Nghị định số 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2006 Quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 4 dẫn đến tư cách pháp lý của chủ thể này chưa được xác định rõ ràng trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài5. Bên cạnh đó, sự thay đổi này là phù hợp với chính sách của Nhà nước ta đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới, cụ thể chính sách này khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, Nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để chủ thể này tham gia các quan hệ pháp luật trong nước, đồng thời tôn trọng pháp luật của quốc gia nước sở tại, dành cho chủ thể này những quyền lợi như một công dân trong nước6. Do đó, nếu họ tham gia quan hệ hợp đồng với tư cách là công dân Việt Nam thì hợp đồng này không được xem là hợp đồng có yếu tố nước ngoài nhưng nếu họ tham gia với tư cách là công dân của quốc gia mà họ định cư thì hợp đồng này được xem là hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo trường hợp có một bên chủ thể là cá nhân nước ngoài. Ngoài ra, một điểm mới khác về yếu tố chủ thể của BLDS 2015 so với BLDS 2005 là BLDS 2015 đã thay thế chủ thể cơ quan, tổ chức nước ngoài bằng pháp nhân nước ngoài. Sự thay đổi này đã tạo ra được tính nhất quán trong việc sử dụng thuật ngữ cho toàn BLDS 2015. Không những thế nó còn thống nhất với quy định của pháp luật các nước trên thế giới về chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Đồng thời, sự thay đổi này giúp cho việc xác định luật áp dụng cho các hợp đồng có yếu tố nước ngoài trở nên dễ dàng và chính xác hơn so với khái niệm cơ quan, tổ chức khi áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch của pháp nhân. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Thứ hai, tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Có thể nhận thấy đây là một hạn chế của BLDS 2005, khi mà trên thực tế đối tượng của hợp đồng có thể là tài sản, công việc trong hợp đồng dịch vụ, con người trong hợp đồng bảo hiểm…Trong khi đó, BLDS 2005 đã giới hạn đối tượng của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài chỉ là tài sản liên quan đến quan hệ nằm ở nước ngoài. Việc giới hạn này đã gián tiếp loại bỏ những quan hệ dân sự mà đối tượng của nó không phải là tài sản. Khắc phục hạn chế này, BLDS 2015 đã sử dụng cụm từ “đối tượng của quan hệ” thay cho cụm từ “tài sản liên quan đến quan hệ” trong BLDS 2005. Đối tượng của quan hệ dân sự sẽ có nghĩa rộng hơn rất nhiều so với tài sản liên quan đến quan hệ. Sự điều chỉnh này được xem là hợp lý trong bối cảnh ở nước ta ngày càng có nhiều hơn những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà đối tượng của nó không đơn thuần chỉ là tài sản mà có thể là công việc, con người hay thậm chí là trách nhiệm dân sự.
Thứ ba, căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài. Yếu tố này có thể hiểu chỉ cần một trong các sự kiện pháp lý liên quan đến quan hệ dân sự được điều chỉnh bởi luật nước ngoài hoặc phát sinh ở nước ngoài thì quan hệ dân sự đó được xác định là có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, quy định này lại có một hạn chế là nó mang tính trùng lặp, thiếu logic. Bởi lẽ, việc các bên tham gia quan hệ dân sự đều là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ này theo pháp luật nước ngoài như vậy đồng nghĩa với việc các căn cứ này xảy ra ở nước ngoài hay phát sinh ở nước ngoài thì pháp luật nước ngoài mới có thể được áp dụng để điều chỉnh. Khắc phục hạn chế này, BLDS 2015 quy định căn cứ xác lập, thay đổi, thực hiện và chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài. Như vậy, bên cạnh căn cứ xác lập, thay đổi và chấm dứt quan hệ, BLDS 2015 đã bổ sung thêm yếu tố thực hiện quan hệ đồng thời thay cụm từ “theo pháp luật nước ngoài, phát sinh ở nước ngoài” bằng cụm từ “xảy ra ở nước ngoài”. Cụm từ này mang tính bao hàm cả hai vấn đề được quy định trong BLDS 2005. Do đó, theo quan điểm tác giả đây là một sự thay đổi hợp lý và rất hay của BLDS 2015.
Trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành của nước ta cũng có những khái niệm tương tự về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Chẳng hạn, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Bộ Luật Hàng hải số 95/2015/QH13 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 25/11/2015 thì một hợp đồng được xác định là có yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một bên chủ thể là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài. Tại khoản 4 Điều 4 Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2014 cũng có cách xác định tương tự. Như vậy, điểm chung của hai văn bản này là đều dựa vào đặc điểm chủ thể để xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng. Trong khi đó, theo quy định của Luật Thương mại số 36/2005/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 14/6/2005, hoạt động mua bán hàng hoá được coi là mua bán hàng hoá quốc tế không phụ thuộc vào nơi cư trú, trụ sở hay quốc tịch của các bên là Việt Nam hay nước ngoài. Luật Thương mại 2005 lấy tiêu chí vận chuyển hàng hoá qua biên giới để xác định quan hệ mua bán hàng hoá là mua bán hàng hoá quốc tế7. Như vậy, phạm vi xác định yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật thương mại 2005 là hẹp hơn rất nhiều so với BLDS 2005.
Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức phê duyệt gia nhập Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hợp quốc (CISG). Theo đó, Công ước này cũng có một quy định gián tiếp về khái niệm hợp đồng có yếu tố nước ngoài, cụ thể Điều 1 Công ước quy định: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”. Như vậy, theo quy định tại Điều 1 CISG thì yếu tố quốc tế của hợp đồng được xác định bởi một căn cứ duy nhất là trụ sở thương mại của các bên phải đặt tại các quốc gia khác nhau mà không phụ thuộc vào địa điểm kí kết hợp đồng và cũng không xét đến việc hàng hoá có được dịch chuyển qua biên giới hay không. Do đó, với tư cách là thành viên của Công ước đòi hỏi Luật Thương mại năm 2005 cần phải có sự điều chỉnh về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho phù hợp với quy định của Công ước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Công ước trên thực tế.
Xuất phát từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm hợp đồng có yếu tố nước ngoài như sau: “Hợp đồng có yếu tố nước ngoài là hợp đồng có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài hoặc là hợp đồng giữa các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, thực hiện, chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước ngoài hoặc đối tượng của hợp đồng nằm ở nước ngoài”. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
1.2. Khái quát về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Như đã phân tích, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phải có một trong ba đặc điểm sau: chủ thể phải có ít nhất một bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, đối tượng của quan hệ nằm ở nước ngoài và căn cứ xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với việc các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không chỉ được điều chỉnh bởi pháp luật của một quốc gia mà sẽ có ít nhất hai hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ dân sự đó. Khó khăn đặt ra ở đây là khi một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh thì hầu như tất cả các quốc gia có liên quan đến quan hệ đó đều có thẩm quyền xét xử trừ một số trường hợp pháp luật quốc gia đó quy định họ không có thẩm quyền và quốc gia nào cũng muốn được áp dụng pháp luật của họ để giải quyết quan hệ đó nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích cho công dân của quốc gia mình. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau là không hoàn toàn giống nhau, cùng một vấn đề nhưng pháp luật của mỗi quốc gia sẽ có cách điều chỉnh khác nhau xuất phát từ mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Do đó đòi hỏi cơ quan xét xử phải lựa chọn một hệ thống pháp luật phù hợp nhất nhằm giải quyết quan hệ dân sự đó.
Như vậy, hiện tượng mà hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được gọi là hiện tượng xung đột pháp luật8. Từ đó, có thể suy ra khái niệm xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài như sau: Xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Trong quan hệ hợp đồng thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế thường sẽ xảy ra xung đột pháp luật ở một số vấn đề sau: Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Thứ nhất, xung đột pháp luật về tư cách pháp lý của chủ thể tham gia kí kết hợp đồng. Trong BLDS 2005, tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng được thể hiện ở chỗ chủ thể tham gia ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự. Theo đó, người tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực hành vi dân sự nếu không giao dịch dân sự đó sẽ vô hiệu9. Theo đó, sẽ có ít nhất hai hệ thống pháp luật có thể cùng được áp dụng để điều chỉnh vấn đề tư cách pháp lý của các chủ thể, đó là pháp luật Việt Nam và pháp luật của quốc gia mà các chủ thể nước ngoài này mang quốc tịch. Ví dụ: Ông A (20 tuổi) là người Việt Nam ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với ông B (17 tuổi) là người bang North Carolina của Mỹ. Theo đó, nếu căn cứ theo pháp luật Việt Nam thì ông B là người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ10 dẫn đến hợp đồng trên sẽ vô hiệu. Tuy nhiên nếu căn cứ vào pháp luật của bang North Carolina thì ông B là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ vì theo quy định của pháp luật bang North Carolina thì người từ đủ 16 tuổi trở lên là người thành niên hay người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Như vậy rõ ràng cùng một vấn đề pháp lý nhưng mỗi quốc gia sẽ có cách quy định khác nhau và chính điều này đã dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật.
Thứ hai, xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng. Nhìn chung Bộ luật dân sự của một số nước trên thế giới cũng ghi nhận những hình thức của hợp đồng tương tự như pháp luật Việt Nam. Chẳng hạn, theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì hợp đồng dân sự có thể được thể hiện dưới dạng lời nói, hành vi pháp lý, hoặc bằng văn bản11. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau trong việc quy định hình thức nào sẽ được áp dụng cho một loại hợp đồng cụ thể, xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng xuất phát từ chính sự khác nhau này. Ví dụ: Ông A (quốc tịch Việt Nam) kí kết hợp đồng mua bán xe hơi với ông B (quốc tịch Pháp) hình thức của hợp đồng này là bằng văn bản, không có công chứng, chứng thực. Nếu căn cứ theo pháp luật Việt Nam thì hình thức của hợp đồng này là hoàn toàn đúng pháp luật, tuy nhiên nếu căn cứ theo pháp luật Pháp thì hợp đồng này lại không tuân thủ về hình thức vì theo pháp luật Pháp thì các hợp đồng mua bán phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực12. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Thứ ba, xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng. Đối chiếu những quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật về hợp đồng của một số quốc gia trên thế giới có thể nhận thấy rằng, cách thức quy định về nội dung hợp đồng của các nước là khá tương đồng với nhau. Tuy nhiên điểm khác biệt để dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng chính là ở nội dung của các điều khoản trong hợp đồng. Chẳng hạn, pháp luật Hoa Kỳ cho phép các bên được mua bán vũ khí, trong khi đó vũ khí lại là đối tượng bị cấm giao dịch theo pháp luật Việt Nam. Như vậy, nếu pháp luật Hoa Kỳ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng này thì hợp đồng này hoàn toàn đúng pháp luật nhưng nếu pháp luật Việt Nam được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng này thì nó lại vô hiệu.
Ngoài ba vấn đề thường xảy ra xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng trên, thì vẫn còn một số vấn đề khác chẳng hạn giao kết hợp đồng vắng mặt, chuyển quyền sở hữu, chuyển rủi ro… Tuy nhiên trong giới hạn của khóa luận này, chỉ tập trung nghiên cứu xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng.
1.2.2 Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Xuất phát từ khái niệm xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, có thể nhận thấy xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng phát sinh từ hai nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng. Nguyên nhân này bắt nguồn từ bản chất của quan hệ hợp đồng trong Tư pháp quốc tế là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Khác với các quan hệ hành chính, hình sự, quan hệ dân sự là một quan hệ mang tính chất “tư”, đề cao sự tự do thỏa thuận của các bên, do đó nó có thể được áp dụng bởi nhiều quy phạm pháp luật “tư”, kèm theo đó là yếu tố nước ngoài dẫn đến việc một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ liên quan đến những quy phạm pháp luật “tư” không phải của một quốc gia, mà nó có thể được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật “tư” của nhiều quốc gia trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó, tuy nhiên pháp luật của các nước khác nhau là không hoàn toàn giống nhau chính điều này đã dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật13. Bên cạnh đó, nguyên nhân này còn xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng, chủ quyền giữa các quốc gia. Theo đó, khi một quan hệ hợp đồng phát sinh có liên quan đến nhiều quốc gia chẳng hạn, hợp đồng được giao kết ở Anh, thực hiện ở Việt Nam nhưng đối tượng của hợp đồng là bất động sản lại nằm ở Pháp thì về mặt lý luận, các quốc gia trên đều có thẩm quyền giải quyết trừ trường hợp pháp luật quốc gia quy định hợp đồng này không thuộc thẩm quyền của mình. Do đó, trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia thì quan hệ hợp đồng sẽ có thể chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của các quốc gia có liên quan.
Thứ hai, có sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng khi giải quyết cùng một vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng. Hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… chính những yếu tố này sẽ tạo ra tính đặc trưng của pháp luật mỗi quốc gia. Do đó mặc dù về mặt lý luận, pháp luật là kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, được xây dựng trên cơ sở hạ tầng nhưng do chịu sự ảnh hưởng và chi phối của các quy phạm đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán … mà các nước có cùng chế độ kinh tế, chính trị, xã hội nhưng pháp luật thì không giống nhau14. Chính sự khác nhau này mà trong cùng một vấn đề pháp lý nhưng pháp luật của mỗi nước lại có cách quy định khác nhau làm xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật.
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Trong khoa học tư pháp quốc tế hiện nay có hai phương pháp giải quyết xung đột pháp luật đó là phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm thực chất và phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột.
Phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm thực chất. Theo phương pháp này, các quy phạm thực chất trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên cũng như các hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với bên đương sự vi phạm mà không cần bất cứ một sự dẫn chiếu nào của quy phạm xung đột15. Quy phạm thực chất có thể được tìm thấy trong các Điều ước quốc tế, nó giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết xung đột pháp luật16. Chẳng hạn theo quy định tại Điều 68 Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì “Người mua nhận rủi ro về mình đối với những hàng hóa bán trên đường vận chuyển kể từ lúc hàng hóa được giao cho người chuyên chở là người đã phát chứng từ xác nhận một hợp đồng vận chuyển. Tuy nhiên, nếu vào lúc ký kết hợp đồng mua bán, người bán đã biết hoặc đáng lẽ phải biết sự kiện hàng hóa đã bị mất mát hay hư hỏng và đã không thông báo cho người mua về điều đó thì việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa do người bán phải gánh chịu”. Như vậy với quy định này đã trả lời cho câu hỏi sau khi hàng hóa được giao cho người chuyên chở đối với những hàng hóa trên đường vận chuyển nếu xảy ra rủi ro thì ai sẽ phải chịu rủi ro này mà không cần phải đi tìm pháp luật của nước nào để điều chỉnh vấn đề này thông qua quy phạm xung đột. Nếu đặt lên bàn cân giữa quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài so với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khác như lao động, hôn nhân gia đình, sở hữu trí tuệ hay thừa kế thì có thể nói rằng quan hệ hợp đồng là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ít phát sinh xung đột pháp luật nhất, điều này xuất phát từ bản chất của hợp đồng chính là sự thỏa thuận, sự tự do ý chí của các bên, ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố chính trị, xã hội và đây là một quan hệ dân sự thông dụng và thường xuyên xảy ra nhất trong bối cảnh hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế như hiện nay. Chính vì lẽ đó, các quốc gia trên thế giới có xu hướng thỏa thuận với nhau để kí kết các Điều ước quốc tế nhằm điều chỉnh thống nhất các vấn đề pháp lý xoay quanh hợp đồng, điều này đã làm hạn chế đi rất nhiều các xung đột pháp luật phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Phương pháp xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột. Phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý mà chỉ quy định việc chọn pháp luật nước ngoài để điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Quy phạm xung đột có thể được tìm thấy trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như trong các văn bản pháp luật của quốc gia. Chẳng hạn, Điều 34 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên bang Nga có quy định: “Hình thức hợp đồng về bất động sản tuân theo pháp luật của Bên ký kết nơi có bất động sản đó”. Như vậy nếu căn cứ theo quy định này thì sẽ không biết được hình thức hợp đồng sẽ là hình thức nào văn bản, lời nói hay hành vi cụ thể mà chỉ có thể biết được hình thức hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản; ví dụ ông A (quốc tịch Việt Nam) và ông B (quốc tịch Nga) kí kết với nhau hợp đồng mua bán nhà và căn nhà này nằm ở Nga, căn cứ theo quy định trên thì hình thức hợp đồng này sẽ phải tuân theo quy định của pháp luật Nga về hình thức hợp đồng. Tương tự trong pháp luật quốc gia, quy phạm xung đột tồn tại trong rất nhiều các văn bản pháp luật chuyên ngành của Việt Nam như Bộ luật Hàng hải, Luật Đầu tư, Luật Hàng không dân dụng… nhưng quan trọng nhất vẫn là Bộ luật Dân sự. Quy phạm xung đột được quy định trong BLDS 2005 từ Điều 761 đến Điều 773 nhằm giải quyết các vấn đề như năng lực pháp luật của cá nhân, pháp nhân nước ngoài, quyền sở hữu tài sản, thừa kế, hợp đồng …Ví dụ Điều 769 BLDS 2005 quy định “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”. Mặc dù đây là một phương pháp khá phổ biến tuy nhiên trên thực tiễn khi bình luận về phương pháp này, một số luật gia cho rằng nó quá phức tạp, phải chọn nhiều hệ thống pháp luật khác nhau và đặc biệt lại càng phức tạp hơn trong trường hợp có sự dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật nước khác, thêm vào đó áp dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật trong một số trường hợp không đảm bảo được tính đa dạng và đặc thù của quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài17.
Bên cạnh hai phương pháp trên, trong một số tài liệu liên quan đến vấn đề xung đột pháp luật, các tác giả còn đưa ra một số phương pháp khác như chuẩn hóa luật thực chất, áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng quy phạm bắt buộc…18. Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm khác nhau do đó để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật cho phù hợp.
1.2.4. Nguồn luật điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng nói chung, hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói riêng, sự tự do thỏa thuận của các bên luôn được đặt lên vị trí hàng đầu đặc biệt là trong vấn đề chọn pháp luật để áp dụng điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng. Chính điều này dẫn đến việc sẽ có nhiều nguồn luật có thể được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng, đó có thể là pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế… Cụ thể như sau: Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Thứ nhất, Điều ước quốc tế. Để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, các quốc gia đã tiến hành thỏa thuận và ký kết nhiều Điều ước quốc tế nhằm điều chỉnh một cách thống nhất các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng; đó có thể là các quy phạm thực chất thống nhất hoặc cũng có thể là các quy phạm xung đột thống nhất. Chẳng hạn như Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Với tư cách là thành viên của Công ước này, các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa Việt Nam và các thành viên khác của Công ước sẽ luôn phải chịu sự điều chỉnh trực tiếp từ các quy định của Công ước và Công ước này sẽ được ưu tiên áp dụng theo nguyên tắc “Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó”19. Bên cạnh các quy phạm thực chất thống nhất trực tiếp điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, trong các Điều ước quốc tế cũng tồn tại các quy phạm xung đột thống nhất. Chẳng hạn, Điều 38 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, lao động, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Bê-la-rút có quy định: “Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi giao kết hợp đồng, nếu các bên tham gia hợp đồng không lựa chọn pháp luật áp dụng”.
Thứ hai, pháp luật quốc gia. Pháp luật quốc gia là một trong những nguồn cơ bản, chủ yếu để điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Xuất phát từ việc quan hệ hợp đồng mà pháp luật điều chỉnh phát sinh giữa các chủ thể là công dân, pháp nhân của quốc gia đó. Trong pháp luật quốc gia để điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng chủ yếu là các quy phạm xung đột. Hiện nay, để điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, pháp luật Việt Nam đã xây dựng khá nhiều các quy phạm xung đột trong các văn bản pháp luật khác nhau có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng. Chẳng hạn, Điều 770 BLDS 2005 quy định: “Hình thức hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng…” hay khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất”. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Thứ ba, tập quán quốc tế. Tập quán quốc tế là những tập quán được áp dụng một thời gian dài trong thực tiễn quan hệ quốc tế, thể hiện qua việc tập quán đó được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong một quá trình liên tục và các quốc gia khi áp dụng tập quán đó tin chắc là mình xử sự như vậy là đúng. Do đó, bên cạnh các Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, trong một số trường hợp các bên của hợp đồng cũng có thể thỏa thuận lựa chọn tập quán quốc tế để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng. Ví dụ: Khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 quy định “Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Thực tiễn xét xử ở Việt Nam gần đây cho thấy các tập quán thương mại quốc tế thường xuyên được các bên lựa chọn để áp dụng điều chỉnh cho các hợp đồng có yếu tố nước ngoài, chẳng hạn như các quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, Incoterm 2010 hay UCP 500, tập quán dung sai…
1.2.5. Một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Nguyên tắc luật của người ký kết hợp đồng lựa chọn. Nguyên tắc này lần đầu được Rochus Curtius đưa ra vào đầu thế kỉ XV, nguyên tắc này trước hết xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận – một trong những nguyên tắc căn bản của pháp luật dân sự. Đây là một nguyên tắc đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết xung đột pháp luật. Ngày nay trong thực tiễn pháp luật của các nước đều ghi nhận nguyên tắc luật của người ký kết hợp đồng lựa chọn trong pháp luật nước mình. Nhưng với điều kiện luật được chọn phải ghi rõ trong hợp đồng và việc chọn luật phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định20. Trong trường hợp các bên lựa chọn một hệ thống pháp luật mà việc áp dụng nó dẫn đến vô hiệu hợp đồng một cách tuyệt đối (hoàn toàn trái với ý muốn của các bên) thì sự lựa chọn ấy sẽ không được chấp nhận21. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam, cụ thể khoản 3 – Điều 759 BLDS 2005 quy định “Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Nguyên tắc này bắt nguồn từ pháp luật Anh, đây là một nguyên tắc khá đặc thù và trừu tượng trong Tư pháp quốc tế, việc giải thích và áp dụng nguyên tắc này ở các nước cũng khá phức tạp. Trong trường hợp các bên một cách trực tiếp hay gián tiếp không lựa chọn pháp luật áp dụng để điều chỉnh hợp đồng thì Tòa án sẽ đưa ra cái gọi là ý chí giả định của các bên: trong những tình huống, hoàn cảnh tương tự, những người có lý trí sẽ lựa chọn luật của quốc gia nào để áp dụng điều chỉnh với hợp đồng này. Xuất phát từ tiêu chí công bằng, hợp lý các Thẩm phán Anh khi nghiên cứu các tình tiết của vụ việc đã xác định luật đặc trưng cho hợp đồng này tức là luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Khi xác định các thẩm phán sẽ không bị ràng buộc bởi các trói buộc xung đột cứng nhắc22. Dưới góc độ luật pháp quốc tế, nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng xuất hiện lần đầu trong Công ước Rome 198023. Theo quan điểm của tác giả, nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết là nguyên tắc hay nhất trong tất cả các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng khi mà nó khắc phục gần như hoàn toàn hạn chế của các nguyên tắc khác xuất phát từ việc nguyên tắc này không bị ràng buộc vào một yếu tố cụ thể mà lại phụ thuộc vào sự đánh giá của chủ thể áp dụng dựa trên những tiêu chí nhất định. Đồng thời, việc áp dụng nguyên tắc này sẽ bảo vệ được quyền lợi của các bên trong hợp đồng một cách công bằng và khách quan nhất trên cơ sở luật được áp dụng có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Tuy nhiên, để có thể áp dụng nguyên tắc này một cách có hiệu quả đòi hỏi các nhà làm luật phải đưa ra được những tiêu chí cụ thể giúp đánh giá mối quan hệ mật thiết với hợp đồng. Tham khảo thực tiễn áp dụng Công ước Rome 1980, có thể nhận thấy tiêu chí đánh giá luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng là căn cứ vào nghĩa vụ chính hay nghĩa vụ đặc trưng của hợp đồng. Theo đó, luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng là luật nơi thường trú của bên thực hiện nghĩa vụ đặc trưng đó. Nguyên tắc này cũng lần đầu được pháp luật Việt Nam ghi nhận trong BLDS 2015. Cụ thể khoản 1 – Điều 683 BLDS 2015 quy định: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”.
Nguyên tắc luật nơi thực hiện nghĩa vụ. Thực hiện nghĩa vụ là mục đích chính, là yếu tố quan trọng nhất của quan hệ hợp đồng giữa các bên. Do đó về mặt lý luận cũng như thực tiễn thì “nơi thực hiện nghĩa vụ” là tiêu chuẩn để chọn luật áp dụng cho hợp đồng, bởi vì nơi thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng luôn là một nơi có thực, gắn liền với một hành vi, sự kiện. Do vậy, áp dụng luật nơi thực hiện nghĩa vụ để điều chỉnh quan hệ hợp đồng là mang tính thực tế, được pháp luật của nhiều nước trên thế giới quy định24. Đồng tình với quan điểm này, năm 1938 ông Savigny đã chủ trương áp dụng luật nơi thực hiện hợp đồng vì theo ông đây chính là nơi tất cả các bên hướng tới, là nơi quy tụ một cách tự nhiên những quyền lợi của họ xuất phát từ hợp đồng, đồng thời cũng là nơi họ biết đến, kể cả trong trường hợp phát sinh vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng25. Từ những phân tích trên cho thấy, luật nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là luật có mối quan hệ mật thiết với hợp đồng, qua đó bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên một cách khách quan nhất. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng nguyên tắc này trên thực tiễn đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn nhất định, đó là việc trong một hợp đồng không chỉ có một nghĩa vụ mà có rất nhiều nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Chẳng hạn như trong hợp đồng mua bán hàng hóa thì sẽ có nghĩa vụ của người bán, nghĩa vụ của người mua; nghĩa vụ của mỗi người lại bao gồm nhiều nghĩa vụ khác như nghĩa vụ giao hàng, nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu của người mua…26. Mỗi nghĩa vụ lại có thể được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau. Để khắc phục hạn chế cố hữu này đòi hỏi cần phải xác định một nghĩa vụ duy nhất được chọn để áp dụng pháp luật, theo đó trong thực tiễn ở hầu hết các nước đều lựa chọn nghĩa vụ chính của hợp đồng để áp dụng pháp luật và nơi thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng là nơi cư trú thường xuyên của người phải thực hiện nghĩa vụ chính đó.
Trên đây là một số nguyên tắc thường được áp dụng để giải quyết xung đột trong lĩnh vực hợp đồng, bên cạnh những nguyên tắc này trong pháp luật các nước còn có những nguyên tắc khác, tùy từng trường hợp cụ thể và căn cứ theo quy định của pháp luật quốc gia mà áp dụng các nguyên tắc cho phù hợp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Chương 1 của đề tài đã đề cập và giải quyết được những vấn đề mang tính lý luận chung về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Cụ thể chương I đã đạt được những kết quả nghiên cứu sau:
Thứ nhất, đưa ra được khái niệm về hợp đồng có yếu tố nước ngoài thông qua việc phân tích khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài dưới góc độ so sánh giữa quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng như các Điều ước quốc tế. Điểm nổi bật ở nội dung này, chính là việc tác giả đã có những phân tích, đánh giá điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về cách thức xác định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, phân tích những vấn đề mang tính lý luận chung về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng ở các nội dung sau: Khái niệm xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, nguyên nhân phát sinh, phương pháp giải quyết và nguồn luật điều chỉnh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã phân tích một số xung đột pháp luật thường xảy trong lĩnh vực hợp đồng như tư cách pháp lý, hình thức hợp đồng và nội dung hợp đồng cùng với đó là một số nguyên tắc thường được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng như nguyên tắc luật do các bên lựa chọn, nguyên tắc luật nơi thực hiện nghĩa vụ và đặc biệt là nguyên tắc luật có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng – một nguyên tắc hoàn toàn mới mẻ đối với pháp luật Việt Nam và lần đầu được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015.
Với những phân tích, đánh giá mang tính khoa học và logic, chương 1 đã phản ánh được bức tranh tổng quan về vấn đề xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về vấn đề này trong những chương tiếp theo của đề tài. Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Giải quyết xung đột lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng […]