Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
3.1. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước ngày càng đẩy mạnh việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế. Các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất… mọc lên ngày càng nhiều, kéo theo diện tích đất của người dân ngày càng một bị thu hẹp đi. Nếu không giải quyết tốt vấn đề quyền lợi của người bị thu hồi đất, sẽ dẫn đến tình trạng mất ổn định chính trị, xã hội, sẽ gây phản ứng mạnh trong dân cư với những khiếu nại, tố cáo kéo dài, đặc biệt là khiếu nại tập thể liên quan đến người bị thu hồi đất theo dự án kinh tế cụ thể.
Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để quản lí, điều tiết các mối quan hệ trong xã hội. Với tính bắt buộc cùng cơ chế đảm bảo sự thực hiện, pháp luật chính là cơ sở để người dân bị thu hồi đất được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn đã có những hoàn thiện đáng kể và có một số nội dung mới, đặc biệt là về giá đất bồi thường. Nhưng nhìn chung vẫn chủ yếu dừng lại ở việc luật hóa, hệ thống lại các quy định trong các Nghị định hướng dẫn Luật Đất đai năm 2003 trước kia.
Thực trạng triển khai việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian qua đã có những bước tiến nhất định. Tuy nhiên, tình trạng dự án treo kéo dài từ những năm trước đây vẫn chưa có cơ chế khắc phục hiệu quả, những khiếu nại về giá bồi thường, những vướng mắc trong công tác tái định cư và tạo việc làm sau khi thu hồi cho người nông dân vẫn còn tiếp diễn. Luật Đất đai năm 2013 mới có hiệu lực không lâu, nhưng đã bộc lộ một số hạn chế. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về đảm bảo quyền lợi của người dân khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.
Bồi thường, giải phóng mặt bằng là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, mặc dù các quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập. Tuy nhiên, trên thực tế việc thi hành chế định pháp luật này gặp không ít khó khăn, sự không đồng thuận của người bị thu hồi đất với phương án bồi thường dẫn đến việc cố tình không bàn giao đất đúng thời gian quy định, tranh chấp khiếu kiện thường xuyên xảy ra, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị- xã hội…Để khắc phục những khiếm khuyết này, trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP. Ninh Bình, Tỉnh Ninh Bình, tác giả cho rằng việc hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cần dựa trên 1 số định hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề này. Pháp luật là sự thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng. Hay nói cách khác, quan điểm, đường lối của Đảng là sự định hướng chính trị cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu đất nhằm bảo đảm tính định hướng về mặt chính trị.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất dựa trên việc giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của nhà đầu tư. Trong đó cần quan tâm hơn nữa đến quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất, chủ thể yếu nhất trong mối quan hệ ba bên này. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho thấy địa phương nào giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của nhà đầu tư thì sẽ nhận được sự đồng thuận của người dân, công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện nhanh chóng, không phát sinh những tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài. Vì vậy, để công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, tránh phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị thì việc hoàn thiện chế định pháp luật này cần giải quyết tốt hơn mối quan hệ ba bên này. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị thu hồi đất. Do vậy tất cả những vấn đề liên quan đến bồi thường thu hồi đất như: lý do thu hồi, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án bồi thường, hỗ trợ…đều phải được công khai để người bị thu hồi đất được biết và tham gia nhằm bảo vệ các quyền lợi ích chính đáng của mình. Nhờ việc công khai này mà người dân có thể đánh giá được tính đúng đắn, tính hợp pháp của các quyết định liên quan đến vấn đề bồi thường thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất cần có những quy định để đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai và minh bạch. Có như vậy, pháp luật về lĩnh vực này mới có thể thực sự phát huy được ý nghĩa bù đắp những thiệt hại, tổn thất gây ra từ việc thu hồi đất của người sử dụng đất.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải hướng đến sự phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư không chỉ giải quyết, bù đắp các thiệt hại vật chất thực tế như giá trị đầu tư, thành quả lao động của người sử dụng đất; chi phí còn lại hoặc giá trị của các tài sản gắn liền với đất được thu hồi. Hơn thế nữa nó còn phải xử lý được các vấn đề an sinh xã hội, các hậu quả phát sinh trực tiếp từ việc Nhà nước thu hồi đất như thiệt hại “vô hình” mà người sử dụng đất phải gánh chịu do việc Nhà nước thu hồi đất gây ra, bao gồm: bị mất vị trí, địa thế kinh doanh; mất công ăn việc làm; cộng đồng dân cư phải rời khỏi quê hương, nơi cư trú, sinh sống lâu đời gắn với phong tục, tập quán, đời sống tâm linh của người dân; chú trọng đến việc đảm bảo quyền lợi chính đáng cho những đối tượng yếu thế trong xã hội như người già, phụ nữ, trẻ em, người tàn tật, đồng bào dân tộc thiểu số bị mất đất ở, đất sản xuất…Khi xây dựng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cần xóa bỏ quan niệm đánh đổi sự hy sinh lợi ích của người nông dân cho sự phát triển của đất nước. Bởi vì, mọi sự đánh đổi cần có cái giá của nó, người bị thu hồi đất phải được hưởng lợi từ việc Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cần xem xét, tham khảo kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của các nước trên thế giới về lĩnh vực này. Hiện nay nước ta đã trở thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế trong khu vực và thế giới như Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)…là nước thứ 12 đàm phán gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đạt gia yêu cầu Việt Nam phải cam kết tuân thủ luật lệ của các tổ chức này. Muốn vậy, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng của nước ta phải tương thích với các quy tắc và luật lệ chung của thế giới. Mặt khác, việc xây dựng và thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu trong điều kiện kinh tế thị trường là một điều đặc trưng ở Việt Nam và chưa có tiền lệ trên thế giới. Hơn nữa, thực tiễn thi hành pháp luật này cho thấy đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp do nó trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích thiết thực của các bên có liên quan. Vì vậy, chúng ta phải từng bước xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển đất nước đặt trong bối cảnh kinh tế thị trường. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của những nước trên thế giới (đặc biệt là kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của những nước có nhiều điểm thương đồng về chính trị, lịch sử, văn hóa, pháp luật… với Việt Nam) là rất cần thiết. Điều này không chỉ giúp chúng ta lựa chọn, tiếp thu những kinh nghiệm bổ ích để vận dụng sáng vào quá trình hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và làm cho lĩnh vực này tương thích với pháp luật của các nước, mà còn giúp nước ta tránh lập lại những sai lầm mà các nước đã gặp phải trong quá trình phát triển đất nước dưới tác động của toàn cầu hóa.
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Một số quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn cho thấy vẫn chưa giải quyết được triệt để những vướng mắc, bất cập, đáp ứng được yêu cầu thực tế. Do vậy để đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế tác giả xin đề xuất một số kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật sau đây:
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
Mặc dù đã có nhiều thay đổi tích cực được ghi nhận trong Luật Đất đai năm 2013, song một số quy định về đất đai, đặc biệt là các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn còn những điểm hạn chế và chưa thể hiện được đầy đủ nguyện vọng của nhân dân, do vậy đòi hỏi phải nỗ lực hơn nữa trong quá trình hoàn thiện pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.
Thứ nhất, quy định về nguyên tắc định giá đất. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, giá bồi thường đất là giá đất cụ thể do nhà nước quy định và giá này phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng”. Vậy thế nào là “phù hợp” đây là một khái niệm mang tính định tính mà không mang tính định lượng. Điều này sẽ gây ra những cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực thi, tạo “kẽ hở” cho việc áp đặt ý muốn chủ quan của các cơ quan công quyền trong áp dụng. Quy định giá đất phổ biến trên thị trường là giá lúc định giá đất khi quy hoạch sử dụng đất hay giá lúc thu hồi, đấu giá? Bởi từ lúc định giá đến lúc bồi thường, giá đất có thể đã biến động rất khác.
Việc pháp luật xác định rõ ràng, chính xác giá đất cụ thể trong bồi thường là điều kiện tiên quyết để vận dụng, thi hành pháp luật được chính xác. Vì vậy, Nhà nước phải có hướng dẫn, quy định cụ thể về tiêu chí “phù hợp với giá đất thị trường” để quy định này có thể thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền định giá đất. Luật Đất đai năm 2013 vẫn quy định thẩm quyền xác định giá đất do Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, tuy nhiên có một điểm mới so với Luật Đất đai năm 2003 đó là quy định thành lập hội đồng thẩm định giá đất để thẩm định giá trước khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đất trong những trường hợp cụ thể. Trong Hội đồng thẩm định giá bắt buộc có sự tham gia của tổ chức có chức năng tư vấn định giá đất, tức là tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập[1]. Tuy nhiên quy định này chưa làm rõ việc sử dụng dịch vụ định giá đất có bắt buộc hay không. Vì khoản 3 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để tư vấn xác định giá đất cụ thể.” Theo quy định này thì việc thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất là không bắt buộc. Nhưng cũng tại khoản 3 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013 lại quy định: “Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định.” lại khiến người ta hiểu việc việc thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất là bắt buộc. Sự phức tạp này cũng không được lí giải rõ ràng trong Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 04 năm 2014 Quy định về giá đất. Sự không rõ ràng này rất dễ dẫn đến tình trạng áp dụng tùy tiện vì vậy cần thiết có sự hướng dẫn cụ thể trong các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013, xem trường hợp nào việc thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất là bắt buộc, trường hợp nào thì không. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Hơn thế nữa, Chính phủ cũng cần quy định hướng dẫn cụ thể về thành phần của Hội đồng thẩm định giá đất, quy đinh ý kiến của tổ chức tư vấn về giá đất chiếm bao nhiêu phần trăm trong quyết định cuối cùng của Hội đồng thẩm định về giá đất. Bởi lẽ, nếu theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thì tổ chức tư vấn giá đất chỉ là một thành viên trong Hội đồng thẩm định giá đất. Các thành viên còn lại đều là đại diện của cơ quan nhà nước. Thông thường, Hội đồng làm việc theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số. Vì vậy, ý kiến của tổ chức tư vấn về giá đất chỉ là ý kiến thiểu số nên giá cuối cùng của Hội đồng thẩm định lại do cơ quan nhà nước quyết định. Nên vai trò của tổ chức tư vấn về giá đất chỉ mang tính hình thức và quy định này của Luật Đất đai năm 2013 thực chất cũng chỉ là “bình mới rượu cũ”.
Thứ ba, qui định về thời điểm xác định giá bồi thường. Pháp luật trong thời gian tới cần có quy định cụ thể, rõ ràng và chi tiết việc giải quyết trong trường hợp có sự phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cho dân. Theo đó, cần phân biệt rõ các trường hợp có sự phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cho dân. Bên cạnh đó, cần có sự phân biệt rõ các trường hợp cụ thể và nguyên nhân của sự chênh lệch đó xuất phát từ đâu để quy trách nhiệm tương ứng cho từng trường hợp, tránh tình trạng tất cả đều quy về trách nhiệm cho nhà đầu tư. Nếu có sự chênh lệch về giá đất, theo đó, giá tại thời điểm phê duyệt với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cũng thấp xa so với giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường mà nguyên nhân do lỗi của người sử dụng đất không chấp hành các quy định của pháp luật để di rời, giải tỏa thì thiệt thòi này họ phải tự gánh chịu mà không thể yêu cầu Nhà nước hay nhà đầu tư phải điều chỉnh lại mức bồi thường. Nếu có sự chênh lệch về giá đất trong trường hợp nêu trên mà nguyên nhân do phía nhà đầu tư sai phạm, găm đất, giữ đất mà không thực hiện đầu tư… thì nhà đầu tư phải có trách nhiệm bù đắp khoản chênh lệch này cho người dân nếu Nhà nước điều chỉnh lại đơn giá bồi thường cho phù hợp với giá thị trường tại thời điểm chi trả bồi thường. Nếu có sự chênh lệch về giá đất trong trường hợp nêu trên nhưng nguyên nhân do cơ quan nhà nước chậm trễ trong việc thực hiện việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng thì Nhà nước phải có trách nhiệm chi trả khoản chênh lệch đó cho người dân từ nguồn tiền ngân sách nhà nước. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Thứ tư, về nâng cao sự đồng thuận của người dân đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Luật Đất đai năm 2013 đã có quy định tại Điều 43 về việc lấy ý kiến người dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Để phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do cơ quan có thẩm quyền đưa ra phù hợp, nhận được sự đồng thuận của người dân, đảm bảo việc hỗ trợ được khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định, thì cần bổ sung quy định tỷ lệ cụ thể sự đồng thuận của người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt. Hậu quả của thu hồi đất là người nông dân bị mất cả sinh kế từ nông nghiệp mà gần như không có cơ hội tìm sinh kế mới. Vì vậy, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần thiết phải có sự đồng thuận của người dân, cần lấy ý kiến của toàn bộ cộng đồng dân cư địa phương (không chỉ lấy ý kiến của người bị thu hồi đất) và phương án chỉ được phê duyệt khi đạt được một tỉ lệ đồng thuận nhất định. Ngoài ra người mất đất cũng cần có quyền được giới thiệu các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập tham gia vào danh sách đấu thầu cung cấp dịch vụ giá đất.
Thứ năm, về thu hồi đất, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước chỉ thu hồi đất trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Cho dù Hiến pháp chỉ rõ như vậy và Luật Đất đai năm 2013 khẳng định các dự án quan trọng cấp quốc gia phải do Thủ tướng và Quốc hội quyết định, cấp tỉnh sẽ có thêm sự tham gia của Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013 vẫn chưa làm rõ được giới hạn của cụm từ “thật sự cần thiết” mà đã được chỉ ra trong Hiến pháp năm 2013. Thực tế, trong Luật Đất đai năm 2013 đã cụ thể hóa một phạm vi quá rộng các trường hợp được phép thu hồi đất. Do đó, các quy định pháp luật về thu hồi đất trong tương lai cần làm rõ hơn nữa vai trò kiểm soát việc thu hồi đất của Hội đồng nhân dân nhằm hạn chế thu hồi đất tràn lan như trước đây, nếu không việc quy định một phạm vi quá rộng về thu hồi đất như thế mà không làm rõ khái niệm “thật sự cần thiết” sẽ có thể tiếp tục dẫn tới lạm dụng trong thu hồi đất[2].
3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
Về chính sách bồi thường, hỗ trợ để đảm bảo ổn định sinh kế của người bị thu hồi đất. Luật Đất đai năm 2013 chủ yếu được bổ sung một số quy định của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009. Cách tiếp cận này không thể giải quyết được những bất cập về mất sinh kế, mất việc làm của người bị thu hồi đất đang diễn ra ở nhiều địa phương. Việc hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp cần phân biệt rõ hai nhóm đối tượng bị thu hồi đất để thực hiện chính sách hỗ trợ cho phù hợp, đó là: nhóm thứ nhất là nhóm nông dân trong độ tuổi lao động, nhóm thứ hai là nhóm nông dân ngoài độ tuổi lao động.
Nhóm thứ nhất sẽ được Nhà nước hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm mới. Để giải quyết việc làm cho họ có thể có các giải pháp sau: đối với lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Việc giải quyết việc làm phải gắn với đào tạo nghề, nghĩa là Nhà nước nên hỗ trợ về kinh phí đào tạo những nghề mà trong thị trường lao động đang cần để có thể tận dụng tối đa nguồn lao động. Ngoài ra, Nhà nước nên yêu cầu các doanh nghiệp có dự án đầu tư phải ưu tiên bố trí lao động địa phương vào làm việc trong các doanh nghiệp, phát triển các làng nghề truyền thống thu hút lao động đối với những nơi có các làng nghề truyền thống lâu đời và có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Còn đối với nhóm thứ hai, họ đã không còn hoặc còn rất ít khả năng lao động thì cần có sự hỗ trợ để họ có thể dưỡng lão, an tâm với cuộc sống mới. Độ tuổi lao động được quy định đối với nam là dưới 60 tuổi, với nữ là dưới 55 tuổi. Mặc dù vậy, trên thực tế, ở nông thôn Việt Nam, những người ngoài độ tuổi này vẫn tham gia các hoạt động nông nghiệp. Theo số liệu thống kê cho thấy có tới 77% số người này vẫn phải làm việc tăng thu nhập và 42% là lao động chính để nuôi sống gia đình và việc làm chủ yếu của họ vẫn là trên đồng ruộng. Khi bị thu hồi đất nông nghiệp, nhóm đối tượng ngoài độ tuổi lao động hầu như không có cơ hội và khả năng để chuyển đổi nghề nghiệp hay có việc làm mới phù hợp. Trong khi đó, nếu không bị mất đất nông nghiệp thì cho dù đến 60 tuổi, họ vẫn có khả năng lao động nông nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần có sự quan tâm hơn tới đối tượng này khi thu hồi đất nông nghiệp, thông qua các chính sách để hỗ trợ cho người nông dân ngoài độ tuổi lao động như: cấp 100% kinh phí bảo hiểm y tế hay hỗ trợ một khoản tiền dưỡng lão đủ để họ duy trì cuộc sống khi về già.35
3.3.3. Kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.
Thứ nhất, các địa phương trong tỉnh cần có quy hoạch tổng thể tốt về phát triển kinh tế-xã hội, để từ đó đồng bộ trong việc quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch công nghiệp, đô thị, quy hoạch nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm đảm bảo, phát triển đồng bộ, tránh lãng phí đất cũng như làm xáo trộn cuộc sống ổn định của người dân. Ngoài ra, Nhà nước trong quá trình lập quy hoạch phát triển công nghiệp, đô thị nên nghiên cứu xem xét nên quy hoạch tại những khu vực đất nông nghiệp có năng suất thấp, không nên quy hoạch khu công nghiệp, đô thị tại những vùng có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp để đảm bảo sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên đất.
Thứ hai, việc định giá đất cụ thể trên địa bàn các tỉnh, thành phố cần phải có đơn vị tư vấn độc lập, có đầy đủ chức năng và các điều kiện để hành nghề tư vấn xác định giá đất theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thực hiện để đảm bảo việc tư vấn giá đất được phản ánh một cách khách quan, trung thực và tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp định giá đất theo quy định tại Điều 112 của Luật Đất đai năm 2013. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Thứ ba, công tác lập quy hoạch xây dựng các khu, điểm tái định cư để phục vụ các dự án đầu tư, dự án phát triển trên địa bàn tỉnh, huyện cần được thực hiện trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp tỉnh, huyện. Trên cơ sở các dự án đã được ghi vốn đầu tư, được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua kế hoạch thu hồi đất để thực hiện dự án. Cần xác định số hộ cần phải bố trí tái định cư và nhu cầu tái định cư về đất ở, về nhà ở của các hộ bị thu hồi đất trong kế hoạch sử dụng đất của các dự án để chủ động xây dựng các khu, điểm tái định cư hoàn chỉnh, đồng bộ về hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án được triển khai và là điều kiện cần thiết trước khi Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất.
Thứ tư, Ủy ban nhân dân tỉnh cần ban hành cơ chế chính sách trong việc bố trí, sử dụng nguồn vốn đầu tư, đơn vị quản lý các khu đất ở, nhà ở tái định cư phục vụ cho nhu cầu tái định cư của các dự án. Quy định bắt buộc về trách nhiệm của các chủ đầu tư trong việc bố trí nguồn vốn xây dựng khu tái định cư; đồng thời có chính sách khuyến khích các chủ đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất tham gia xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đất tái định cư và nhà ở tái định cư nhằm ngày càng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tái định cư và đưa pháp luật đất đai vào đời sống xã hội.
3.3.4. Giải pháp về bổ trợ, tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật nâng cao hiệu quả bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Để cho công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật của người dân khi thực hiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng đạt được hiệu quả cao tác giả xin được được đưa ra một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, cần nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho những người có trách nhiệm làm công tác này. Bởi lẽ, không ít trường hợp ở các địa phương những người làm công tác tuyên truyền còn có trình độ nhận thức thấp, chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, do vậy hiệu quả của công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật của người dân chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Bộ máy cán bộ tuyên truyền pháp luật có vai trò hết sức quan trọng, cán bộ thực hiện công tác này cần được chuyên trách, chuyên nghiệp hóa, bồi dưỡng trình độ chuyên môn về pháp luật đất đai đồng thời có tinh thần trách nhiệm với nhân dân. Ngoài ra trong quá trình tuyên truyền giáo dục pháp luật, cán bộ tuyên truyền cần thường xuyên rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất mới nhất. Phải luôn đảm bảo người dân được tiếp cận với những văn bản pháp luật mới, có hiệu lực. Ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số, nhiều người dân không nói được tiếng phổ thông. Chính vì vậy nhà nước cần có biện pháp đào tạo và sử dụng các cán bộ tuyên truyền là người địa phương, có thể nói được tiếng dân tộc để tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai cho chính người dân tộc mình.
Thứ hai, các cơ quan thẩm quyền địa phương nên đa dạng hóa hơn nữa các hình thức tuyên truyền kết hơp với tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, hiện đại hóa phương tiện tuyên truyền. Trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng cần có sự kết hợp các hình thức tuyên truyền miệng, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản, tờ rơi, tuyên truyền thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ, bài dự thi, tuyên truyền thông qua các hoạt động trợ giúp pháp lí… Tổ chức các đoàn, các tổ tuyên truyền đến từng hộ gia đình để phổ biến những quy định của pháp luật về vấn đề này. Ngoài ra với sự phát triển của công nghệ truyền thông, internet là một kênh tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật hết sức hiệu quả, các địa phương có thể đăng các chính sách, quy định của nhà nước về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng lên website của địa phương. Đồng thời, có thể tổ chức các lớp học ngắn hạn đào tạo cung cấp những kiến thức cơ bản cho người dân để người dân hiểu rõ hơn về vấn đề này. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật của người dân trong việc thực thi các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thi hồi đất để giải phóng mặt bằng chỉ thực sự hiệu quả khi được thực hiện thường xuyên liên tục. Vì vậy, các địa phương tiếp tục thực hiện hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng cho người dân một cách thường xuyên, liên tục và tập trung truyền thông để người dân hiểu và tạo ra sự đồng thuận của người dân trong quá trình triển khai thực hiện.
Thứ tư, các địa phương cần duy trì thường xuyên và có sự kiểm tra đôn đốc trong việc thực hiện công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức người dân về thực thi các quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng nhằm phát hiện những sai sót để kịp thời uốn nắn sửa chữa. Đồng thời có những biện pháp cụ thể để động viên khen thưởng kịp thời những đơn vị thực hiện tốt việc giáo dục và phổ biến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.
Tóm lại, xuất phát từ lý luận cũng như các quy định hiện hiện hành và thực tiễn đã đề cập ở hai chương trước, nội dung của chương 3 chủ yếu đề cập tới những kiến nghị nhằm hoàn thiện hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và các kiến nghị về bổ trợ, tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật. Các kiến nghị được đề xuất ở chương này nhằm đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp cho các đối tượng bị thu hồi đất, cho Nhà nước cũng như chủ đầu tư khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Khi các đối tượng có đất thu hồi có được sự đền bù thỏa đáng sẽ giúp giảm thiểu tình trạng khiếu nại, khiếu kiện liên quan tới vấn đề thu hồi đất, cũng như không có các phản ứng tiêu cực khi bị cưỡng chế thu hồi đất. Theo đó, Nhà nước và các nhà đầu tư cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án. Dẫn tới việc mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước cũng như mục tiêu lợi nhuận của các nhà đầu tư cũng đạt được dễ dàng hơn.
KẾT LUẬN Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp do đó đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý báu với người dân. Hơn thế nữa, những năm gần đây để hòa nhập với thế giới, tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa cũng được thúc đẩy không ngừng. Đất nông nghiệp, đất ở của người dân bị thu hồi để phục vụ cho việc xây dựng các công trình vì mục tiêu phát triển lâu dài của đất nước. Thực tiễn cho thấy việc bồi thường cho người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất có rất nhiều bất cập, chính vì vậy số đơn khiếu nại, tố cáo về vấn đề này không ngừng gia tăng. Do đó, đòi hỏi cấp bách và thiết thực hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vô cùng cần thiết.
Nhận thức được tính phức tạp và cấp thiết của đề tài, luận văn đã trình bày một số vấn đề lí luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua việc làm rõ khái niệm, sự cần thiết về thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; so sánh giữa những quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Luật Đất đai năm 2003 để từ đó làm nổi bật lên những thay đổi trong các quy định của Nhà nước về vấn đề thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, chỉ ra thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình thông qua 2 dự án đã nêu tại chương 2. Qua đây, tác giả phân tích, đánh giá những ưu điểm cũng như hạn chế còn tồn tại khi áp dụng các quy định về pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vào đời sống thực tiễn. Để từ đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng. Tác giả hi vọng những kiến nghị này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com