Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn giải phóng mặt bằng trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Pháp luật thực định điều chỉnh hoạt động bồi thường  hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

2.1.1. Trình tự thủ tục thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Thứ nhất, trước khi có quyết định thu hồi đất, trong trường hợp đất phi nông nghiệp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo chậm nhất là 180 ngày; và 90 ngày đối với đất nông nghiệp. Thông báo phải được gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất bị thu hồi; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã. Sau khi có kết quả thống nhất, hoặc hết thời hạn thông báo thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất. Đây là một trong những điểm mới của Luật Đất đai năm 2013, việc thông báo trước một khoảng thời gian nhất định cho người dân có đất bị thu hồi và họp lấy ý kiến của người dân giúp cho người dân nắm rõ được  kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm đồng thời có thể giải thích cho họ hiểu việc thu hồi đất để thực hiện dự án là phục vụ cho lợi ích phát triển của đất nước nói chung hay chính bản thân họ nói riêng. Như vậy, việc giải phóng mặt bằng sẽ diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn.

Thứ hai, sau khi có quyết định thu hồi, Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm phối hợp với ban bồi thường, giải phóng mặt bằng tiến hành kế hoạch thu hồi đất, kiểm tra, khảo sát, đo đạc. Khi này thì những cá nhân, tổ chức có đất bị thu hồi có trách nhiệm phối hợp thực hiện nhiệm vụ trên. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Thứ ba, trên cơ sở kết quả kiểm tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì ban bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đất thu hổi để lấy ý kiến. Sau khi phương án chi tiết được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng bị thu hồi đất. Hình thức lấy ý kiến là: tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nơi có đất bị thu hồi biết được rõ ràng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để từ đó biết được mình có thuộc đối tượng được bồi thường không, nếu thuộc đối tượng bồi thường  thì được bồi thường như thế nào? Lựa chọn hình thức bồi thường bằng việc giao đất mới hay bằng tiền cũng như có thể phản ánh với Ủy ban nhân dân cấp xã lí do tại sao không đồng ý với phương án bồi thường. Để từ đó tìm cách tháo gỡ tránh tình trạng người dân có những phản ứng gay gắt khi bị cưỡng chế thu hồi đất.

Thứ tư, phương án được duyệt và thực hiện trên thực tế. Tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đất bị thu hồi bàn giao mặt bằng cho ban dự án, nhận tiền bồi thường và hưởng phương án tái định cư được lập và thông qua. Trường hợp người có đất bị thu hồi không bàn giao mặt bằng thì bị cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai năm 2013.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.2. Qui đinh về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

2.1.2.1. Điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Các đối tượng được bồi thường hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75, Điều 100, Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013; Từ Điều 5 tới Điều 8, Điều 13, Điều 15 của nghị định số 47/2014/NĐCP Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất  thì được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Điều kiện đối với hộ gia đình, cá nhân: Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng  đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Thứ hai, hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành mà chưa được cấp. Đó là các trường hợp sau đây:

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận không có tranh chấp và có một trong các loại giấy tờ như: những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất; giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993. Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật; giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất. Ngoài ra các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ cũng được công nhận. Nếu hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định nêu trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì vẫn thuộc đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định không có tranh chấp.

Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ nào về quyền sử dụng đất nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định quy định tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013 đó là  việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không có bất kì loại giấy tờ nào về quyền sử dụng đất, nhưng có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà trước đây cơ quan nhà nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai, tài sản đó trong quá trình thực hiện chính sách của Nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa thực hiện, hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.

Thứ ba, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.

Điều kiện đối với tổ chức Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc tổ chức có đất nhận thừa kế quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà chưa được cấp. Ngoài ra, đất mà tổ chức được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc đất tổ chức được  nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả cho việc chuyển nhượng  không có nguồn từ ngân sách nhà nước thì cũng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.

Điều kiện đối với cộng đồng dân cư:

Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà chưa được cấp.

Ta có thể thấy Luật Đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể và làm rõ các điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với từng loại đối tượng mà Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai năm 2013 bổ sung thêm 2 trường hợp được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đó là:

Trường hợp thứ nhất, bổ sung bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa người sử dụng đất theo hình thức thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê với người được giao đất có thu tiền sử dụng đất (có cùng nghĩa vụ tài chính như nhau).

Trường hợp thứ hai, bổ sung bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất mà không phải là đất do nhà nước giao, cho thuê và có giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 này mà chưa được cấp. Luật Đất đai năm 2003 chưa quy định việc bồi thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi công nghiệp, làm cơ sở hoạt động từ thiện, không phải đất do được nhà nước giao mà có nguồn gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp pháp hoặc khai hoang trước ngày 01/7/2004 nên gây vướng mắc trong thực hiện tại nhiều địa phương. Vì vậy, việc bổ sung thêm quy định này có ý nghĩa quan trọng, góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được quy định trong  Điều 41, Điều 42, và Điều 43 của Luật Đất đai năm 2003 trên thực tế đã chưa thể chế hết các quy định mang tính nguyên tắc này để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 2 điều riêng biệt là Điều 74 và Điều 88 trong Luật Đất đai năm 2013. Trong đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện.

2.1.2.2 Nội dung các qui định bồi thường về đất Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Nguyên tắc bồi thường về đất

Các nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại Điều 74 Luật Đất đai năm 2013. Theo đó bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường. Nếu người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường để hoàn trả ngân sách nhà nước. Cụ thể, việc trừ khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai vào số tiền được bồi thường quy định tại Khoản 4 Điều 93 của Luật Đất đai năm 2013.

Thứ hai, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền theo quy định sau:

Nếu tiền bồi thường về đất lớn hơn tiền đất ở, nhà ở hoặc tiền nhà ở tại khu tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch đó. Tuy nhiên, trường hợp tiền bồi thường về đất nhỏ hơn tiền đất ở, nhà ở hoặc tiền nhà ở tái định cư thì người được bố trí tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 22 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014.

Thứ ba, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.

Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Điều 112 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định các nguyên tắc xác định giá đất. Nó được xây dựng trên cơ sở khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai năm 2003. Các quy định về nguyên tắc định giá đất trong Luật Đất đai năm 2003 chưa định lượng được thế nào là “sát” với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường và chưa làm rõ được thế nào là “trong điều kiện bình thường”, chưa quy định theo mục đích sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất; đồng thời, chưa bao hàm hết đối với những nơi, những loại đất không có giao dịch mà việc định giá phải áp dụng các phương pháp khác. Vì vậy, Luật Đất đai năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung và quy định riêng tại Điều 112 Luật Đất đai năm 2013 về nguyên tắc để xác định giá đất nhằm khắc phục những bất cập trên. Theo đó, khi thực hiện xác định giá đất phải tuân theo  bốn nguyên tắc: Thứ nhất, theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá.

Thứ hai, theo thời hạn sử dụng đất.

Thứ ba, phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất.

Thứ tư, cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau.

Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất và khung giá đất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua bảng giá đất trước khi ban hành. Bảng giá đất được xây dựng định kỳ 5 năm một lần và công bố công khai vào ngày 1 tháng 1 của năm đầu kỳ. Trong thời gian thực hiện bảng giá đất, khi Chính phủ điều chỉnh khung giá đất hoặc giá đất phổ biến trên thị trường có biến động thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp.

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Chính phủ ban hành khung giá đất định kì 5 năm một lần đối với từng loại đất, theo từng vùng. Khung giá đất này sẽ là căn cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tại các địa phương ban hành “bảng giá đất” và “giá đất cụ thể”. Trong đó, “bảng giá đất” được xây dựng định kì 5 năm một lần và công bố công khai vào ngày 1 tháng 1 của năm đầu kì, bảng giá đất được sử dụng làm căn cứ xác định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất trong quá trình sử dụng đất như tính tiền sử dụng đất trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân, tính thuế sử dụng đất, tính phí và lệ phí trong quản lí, sử dụng đất… Còn “giá đất cụ thể” được xác định trong những trường hợp cụ thể và được sử dụng làm căn cứ để tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đối với phần diện tích đất ở vượt hạn mức. Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất. Đặc biệt, “giá đất cụ thể” này sẽ được sử dụng làm căn cứ để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013). Đây là điểm mới và tiến bộ của Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003. Luật Đất đai năm 2003 quy định khung giá đất chung để áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó có việc xác định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất và tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đây là quy định chứa nhiều bất cập bởi các nghĩa vụ tài chính như nộp tiền sử dụng đất, nộp thuế sử dụng đất, nộp lệ phí địa chính… là những nghĩa vụ mà hầu hết người sử dụng đất đều phải thực hiện đối với Nhà nước trong quá trình sử dụng đất. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Trong khi đó, việc Nhà nước thu hồi đất và thực hiện bồi thường chỉ thực hiện đối với một nhóm người sử dụng đất nhất định, ở những khu vực quy hoạch để phục vụ cho quốc phòng an ninh hay phát triển đô thị hoặc xây dựng các khu công nghiệp. Do vậy, việc thu hồi đất chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của một bộ phận người bị thu hồi đất, Nhà nước cần phải xác định giá đất bồi thường như thế nào cho phù hợp để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Để khắc phục sự bất cập về việc xác định giá đất bồi thường, trong Luật Đất đai năm 2003 đã quy định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải thường xuyên điều chỉnh bảng giá đất hàng năm cho sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường. Tuy nhiên, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường có những thời điểm tăng cao khiến  Ủy ban nhân dân tỉnh buộc phải  điều chỉnh bảng giá đất hàng năm tăng theo. Đồng nghĩa với việc nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với nhà nước của người sử dụng đất cũng tăng lên. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới những người sử dụng đất có thu nhập thấp ở khu vực đô thị hay người dân ở khu vực nông thôn. Bởi vì nghĩa vụ tài chính về sử dụng đất lúc này quá cao so với mức thu nhập của họ. Ngược lại, giá đất này được sử dụng để tính bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thì lại không được người sử dụng đất chấp nhận, bởi vì khi họ bị thu hồi đất họ phải đối mặt với việc phải thay đổi nơi ăn chốn ở, công việc của họ cũng có thể bị ảnh hưởng, với số tiền bồi thường đó, người dân không thể nhận lại được một mảnh đất có giá trị sử dụng tương ứng. Vì vậy, việc Nhà nước quy định một loại giá đất làm cơ sở để thực hiện các nghĩa vụ tài chính và tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là không hợp lí. Luật Đất đai năm 2013 đã khắc phục hạn chế này bằng cách quy định hai loại giá đất, đó là giá đất theo “bảng giá đất” và “giá đất cụ thể”. Do tính chất ổn định của bảng giá đất nên nó được sử dụng làm căn cứ để tính các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất. Còn “giá đất cụ thể” được xác định ở thời điểm nhất định, dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai. Giá đất cụ thể được xác định làm căn cứ tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Quy định này giúp cho giá đất bồi thường sát thực và phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị thu hồi đất.

Qui định bồi thường đối với đất nông nghiệp

Quy định về bồi thường đất nông nghiệp được quy định tại Điều 77, Điều 78 Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất như sau:

Thứ nhất, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại theo quy định sau đây: Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong hạn mức. Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại. Đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn mức trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành thì việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Điều 4 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 1 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật Đất đai năm 2013

Thứ hai, đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo.

Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường về đất; mức bồi thường về đất được xác định theo thời hạn sử dụng đất còn lại.

Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm khi Nhà nước thu hồi đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nếu chi phí này không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Trường hợp đất nông nghiệp không phải là đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên của tổ chức kinh tế đã giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân nhận khoán không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.

Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường về đất theo quy định của  Điều 5 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày  15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Qui định bồi thường với đất phi nông nghiệp Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Thứ nhất, Quy định về bồi thường đất phi nông nghiệp không phải là đất ở được quy định tại Điều 80 và Điều 81 Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể như sau:

Một là, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại đối với đất sử dụng có thời hạn. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, khi Nhà nước thu hồi đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng.

Hai là, đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở  qui định bồi thường với đất phi nông nghiệp như sau:

Tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở, đất nghĩa trang, nghĩa địa, khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại.

Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất để làm nghĩa trang, nghĩa địa quy định tại khoản 4 Điều 55 của Luật Đất đai năm 2013; doanh nghiệp liên doanh sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở do nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất quy định tại Điều 184 của Luật Đất đai năm 2013 khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 47/2014/NĐ- CP ngày  15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, khi Nhà nước thu hồi đất nếu đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường về đất theo thời hạn sử dụng đất còn lại.

Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm, khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.

Ba là, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất phi nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai 2013 thì được bồi thường về đất theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày  15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Thứ hai, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp là đất ở  được quy định tại Điều 79 Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể như sau: Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Một là, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường thường bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc bằng tiền nếu không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở với trường hợp họ không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi. Tuy nhiên, nếu họ còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở. Ngoài ra, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất.

Hai là, tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất để thực hiện dự án xây dựng nhà ở khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì được bồi thường về đất.

2.1.2.3 Nội dung các qui định bồi thường về tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất Nguyên tắc bồi thường về tài sản trên đất

Tại Điều 88 Luật Đất đai năm 2013 quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất như sau:

Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.

Thứ hai, khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại.

Đây là một điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003 khi quan tâm tới việc bồi thường không chỉ đất và các tài sản hữu hình trên đất mà còn quan tâm tới bồi thường những thiệt hại về tài sản vô hình là hệ quả để lại của việc thu hồi đất, đó là việc các tổ chức, cá nhân có đất phải ngừng sản xuất kinh doanh khi bị Nhà nước thu hồi đất. Vì đất là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên ngoài việc bồi thường giá trị như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho người mất đất. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Qui định bồi thường thiệt hại đối với nhà ở, công trình xây dựng trên đất

Việc bồi thường thiệt hại về nhà ở, công trình xây dựng trên đất được quy định tại Điều 89 Luật Đất đai năm 2013 như sau:

Thứ nhất, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi Nhà nước thu hồi đất phải tháo dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Nếu phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì bồi thường theo thiệt hại thực tế.

Thứ hai, đối với nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất không thuộc trường hợp thứ nhất nêu trên, khi Nhà nước thu hồi đất mà bị tháo dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Thứ ba, đối với công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội gắn liền với đất đang sử dụng không thuộc trường hợp thứ nhất và thứ hai nêu trên thì mức bồi thường tính bằng giá trị xây dựng mới của công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Đối với vật nuôi, cây trồng hoa màu trên đất

Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng thì việc bồi thường thực hiện theo quy định sau đây:

Đối với cây hàng năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất. Đối với cây lâu năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất mà không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất. Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại. Đối với cây rừng trồng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng, quản lý, chăm sóc, bảo vệ thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây; tiền bồi thường được phân chia cho người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.

Thứ hai, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với vật nuôi là thủy sản thì việc bồi thường thực hiện theo quy định sau đây:

Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không phải bồi thường. Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.

2.1.3. Qui định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

2.1.3.1 Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003 và được quy định tại Khoản 1 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013.

Cụ thể như sau:

Thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ.

Thứ hai, việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật.

2.1.3.2 Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điêu 89 Luật Đất đai năm 2013. Theo đó bao gồm:

Thứ nhất, hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất.

Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở.

Thứ ba, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở.

Thứ tư, hỗ trợ người đang thuê nhà ở không thuộc sở hữu Nhà nước.

Thứ năm, hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn.

Thứ sáu, hỗ trợ khác đối với người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Ngoài việc hỗ trợ quy định nêu trên, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống, sản xuất và công bằng đối với người có đất thu hồi; trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét hỗ trợ cho phù hợp với thực tế của địa phương; trường hợp đặc biệt trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

2.1.4. Qui định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

2.1.4.1 Lập và thực hiện dự án tái định cư

Việc lập và thực hiện dự án tái định cư được quy định tại Điều 85 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 26 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Theo đó:

UBND cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư. Dự án tái định cư được lập và phê duyệt độc lập với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng phải bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất. Việc lập dự án tái định cư, lựa chọn chủ đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư và phải bảo đảm các quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013.

Khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án; nhà ở, đất ở trong khu tái định cư được bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp với các mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư. Đối với dự án khu tái định cư tập trung có phân kỳ xây dựng theo các dự án thành phần thì tiến độ thu hồi đất và hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư được thực hiện theo tiến độ của từng dự án thành phần nhưng các công trình cơ sở hạ tầng của từng dự án thành phần trong khu tái định cư phải bảo đảm kết nối theo đúng quy hoạch chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

2.1.4.2. Qui định bố trí tái định cư cho người có đất ở thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở.

Thứ nhất, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện giao trách nhiệm bố trí tái định cư phải thông báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án bố trí tái định cư. Nội dung thông báo gồm địa điểm, quy mô quỹ đất, quỹ nhà tái định cư, thiết kế, diện tích từng lô đất, căn hộ, giá đất, giá nhà tái định cư; dự kiến bố trí tái định cư cho người có đất thu hồi.

Thứ hai, người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Có sự ưu tiên vị trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi là người có công với cách mạng. Phương án bố trí tái định cư đã được phê duyệt phải được công bố công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư.

Thứ ba, giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư, giá bán nhà ở tái định cư do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Thứ tư, trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu. Theo Điều 27 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày  15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở hoặc bằng nhà ở hoặc bằng tiền để phù hợp với việc lựa chọn của người được bố trí tái định cư. Cụ thể được quy định như sau: nếu  suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở thì diện tích đất ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích tối thiểu được phép tách thửa tại địa phương và diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Còn nếu suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng nhà ở thì diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Ngoài ra, trường hợp suất tái định cư tối thiểu được tính bằng tiền thì khoản tiền cho suất tái định cư tối thiểu tương đương với giá trị một suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở, nhà ở tại nơi bố trí tái định cư.

2.1.5. Qui định các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cũng là một qui định mới của Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003, được quy định tại Điều 87 Luật Đất đai năm 2013. Tuy nhiên Điều luật này chủ yếu là luật hóa Điều 38 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP  ngày 3 tháng 12 năm 2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà đã phù hợp với thực tiễn. Theo đó các trường hợp đặc biệt đó là:

Thứ nhất, đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế – xã hội, truyền thống văn hóa của cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Thứ hai, đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì thực hiện theo khung chính sách đó.

Thứ ba, đối với trường hợp thu hồi ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư  khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh Ninh Bình.

2.2.1.1. Về điều kiện tự nhiên

Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà Nam, phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, phía tây giáp Thanh Hóa, phía nam giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam. Kết quả thống kê đất đai năm 2010 của các xã, thị trấn, thành phố  trên địa bàn Tỉnh cho thấy, tính đến ngày 01/01/2010, tổng diện tích đất theo địa giới hành chính của tỉnh là 1.400 km, dân số: 898.459 người (điều tra dân số 01/04/2009), mật độ dân số 642 người/km². Tỉnh Ninh Bình có 2 thành phố và 6 huyện (145 đơn vị hành chính cấp xã gồm 121 xã, 17 phường và 7 thị trấn). Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc bao gồm các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Vùng đồng bằng ven biển ở phía đông nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp. Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc dụng các loại. Có 4 khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường Vân Long, rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim Sơn. Khu rừng đặc dụng Hoa Lư – Tràng An đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An. Ninh Bình có bờ biển dài 18 km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển và biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Hiện có 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn Mờ.

2.2.1.2. Về điều kiện kinh tế- xã hội

Ninh Bình có vị trí quan trọng của vùng cửa ngõ miền Bắc và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Đây là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa khu vực châu thổ sông Hồng với Bắc Trung Bộ, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng rừng núi Tây Bắc. Thế mạnh kinh tế nổi bật của Ninh Bình là các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch.

Trong những năm gần đây kinh tế Ninh Bình liên tục tăng trưởng ở mức 2 con số, Năm 2015 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh xếp thứ 30/63, liên tục nằm trong nhóm tỉnh đứng đầu miền Bắc. Ninh Bình là một trong những tỉnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam;  tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2015 đạt trên 4.368 tỷ đồng, vượt 35,7% so với dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, tăng trưởng 38,6% so với cùng kỳ. trong khi diện tích và dân số tỉnh chỉ đứng thứ 56/63 và 43/63. Cơ cấu kinh tế trong GDP  trong năm 2014: Về cơ cấu kinh tế trong GDP: công nghiệp – xây dựng chiếm 46%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 14%; dịch vụ chiếm 40%.

2.2.2. Nội dung các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về tổ chức thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải phóng mặt bằng, vì vậy để thống nhất công tác bồi thường thu hồi đất, Ủy ban nhân dân Tỉnh Ninh Bình đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này như: quyết định số 953/QĐ-UBND ngày 15 tháng 09 năm 2015 phê duyệt báo cáo kinh tế- kỹ thuật công trình xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng dự án tuyến đường kết nối cao tốc Cầu giẽ – Ninh Bình với quốc lộ 1A tại xã Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình; quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19 tháng 9 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc ban hành quy định một số chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Quyết định số 09/2016/QĐ-UBND ngày 13 tháng 04 năm 2016 về việc sửa đổi bổ sung một số điều tại bản quy định một số chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ban hành kèm theo Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19/09/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình. Các quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh đã dựa trên cơ sở các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các nghị quyết hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013 đồng thời quy định cụ thể hơn về các chính sách bồi thường đối với các đối tượng bị thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Đặc biệt là quy định cụ về giá đất bồi thường cho từng loại đất, trên từng địa bàn khác nhau thuộc tỉnh Ninh Bình. Đây cũng chính là căn cứ giúp cho các cán bộ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng nắm được và áp dụng các chính sách, quy định pháp luật về vấn đề bồi thường dễ dàng hơn. Cụ thể các Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về tổ chức thi hành quy định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có những nội dung cơ bản như sau: Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Thứ nhất, về nguyên tắc thực hiện, công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng trên tỉnh Ninh Bình thực hiện theo nguyên tắc công khai, dân chủ đúng quy định của Pháp luật, chính sách hiện hành của Nhà nước, các quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh.

Thứ hai, một số quy định bổ sung về chính sách khi nhà nước thu hồi đất như: đối với hộ gia đình thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định của pháp luật mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một thửa đất ở bị thu hồi thì được giao mỗi cặp vợ chồng hoặc mỗi hộ gia đình một suất tái định cư tối thiểu và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. Đối với việc bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài sản khác gắn liền với đất đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công trình có hành lang bảo vệ trong trường hợp không làm thay đổi mục đích sử dụng đất, đối với công trình đường dây dẫn điện trên không có điện áp từ 110 KV đến 220 KV được quy định như sau:

Một là, đất ở; đất vườn, ao không được công nhận là đất ở trong cùng thửa đất có nhà ở hợp pháp trong hành lang bảo vệ an toàn bị hạn chế khả năng sử dụng đất thì chủ sử dụng đất được bồi thường một lần do hạn chế khả năng sử dụng đất với mức bằng 50% mức bồi thường đối với trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất. Người được bồi thường không được bố trí tái định cư. Trường hợp người sử dụng thửa đất nằm dưới hành lang bảo vệ an toàn tự tìm được đất ở mới và có nguyện vọng di chuyển khỏi hành lang bảo vệ an toàn mới mà tự thực hiện việc di chuyển thì được bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định đối với trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất và còn được hỗ trợ chi phí di chuyển tài sản.

Hai là, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất trong hành lang bảo vệ an toàn bị hạn chế khả năng sử dụng thì chủ sử dụng đất được bồi thường một lần do hạn chế khả năng sử dụng đất với mức bằng 30% mức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất.

Ba là, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân xây dựng trên đất hợp pháp được bồi thường một lần do hạn chế khả năng sử dụng đất và ảnh hưởng trong sinh hoạt như sau: nếu nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt có một phần hoặc toàn bộ diện tích nằm trong hành lang bảo vệ an toàn được xây dựng trước ngày thông báo thực hiện dự án công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được bồi thường đối với diện tích trong hành lang an toàn với mức 50% mức bồi thường giá trị của nhà, công trình tương đương. Trường hợp nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt bị phá dỡ một phần mà phần còn lại vẫn tồn tại, sử dụng được và đáp ứng các điều kiện quy định thì được bồi thường phần giá trị bị phá dỡ và chi phí cải tạo hoàn thiện lại công trình theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà ở, công trình trước khi bị phá dỡ.

Bốn là, đối với tài sản là cây có trước khi thông báo thực hiện dự án công trình trên đất đủ điều kiện bồi thường về đất trong hành lang bảo vệ an toàn do hạn chế khả năng sử dụng đất thì được bồi thường một lần với mức bồi thường như sau: trường hợp cây phải chặt bỏ thì được bồi thường theo quy định hiện hành. Trường hợp cây không phải chặt bỏ thì được bồi thường với mức 80% mức bồi thường cây bị chặt bỏ. Đối với cây cối, hoa màu trồng trên đất sử dụng không hợp pháp được hỗ trợ công chặt hạ, di chuyển, mức hỗ trờ bằng 80% mức bồi thường theo quy định, trường hợp trồng sau khi có thông báo thì phải chịu mọi chi phí. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh còn quy định mức giá đối với việc bồi thường về di chuyển mồ mả như sau: mộ chưa được cải táng có thời gian hung táng dưới một năm là 20.000.000 đồng/1 mộ; mộ chưa cải táng có thời gian hung táng từ đủ 1 năm đến dưới hai năm là 15.000.000/1 mộ; mộ chưa cải táng có thời gian hung táng từ đủ 2 năm đến đủ 3 năm là 10.000.000 đồng/1 mộ; mộ chưa được cải táng có thời gian hung táng trên 03 (ba) năm là: 7.000.000 đồng/mộ; mộ đã được cải táng là: 3.000.000 đồng/1 mộ.

Về mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ và chi trả hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước có thu hồi đất được quy định như sau: hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng được hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ như sau: thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở. Người bị thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở đến nơi mới mà không còn chỗ ở nào khác thì trong thời gian chờ tạo lập chỗ ở mới được bố trí nhà ở tạm thời hoặc được hỗ trợ tiền thuê nhà ở là 06 tháng với mức 2.000.000 đồng/1 tháng. Trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ là 24 tháng. Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ 12 tháng cho trường hợp không phải di chuyển chỗ ở và 24 tháng cho trường hợp phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển chỗ ở đến địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì hỗ trợ 36 tháng. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu của hộ gia đình, cá nhân được tính bằng tiền tương đương với 30kg gạo/tháng theo giá trung bình do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại thời điểm hỗ trợ. Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì được hỗ trợ ổn định sản xuất bằng tiền với mức cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế, theo mức thu nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó. Người lao động do tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng thuê lao động theo hợp đồng lao động thì được áp dụng hỗ trợ chế độ trợ cấp ngừng việc theo quy định của pháp luật về lao động nhưng thời gian trợ cấp không quá 6 tháng.

Mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền theo quy định còn được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm với mức hỗ trợ tiền bằng 02 lần giá đất nông nghiệp (cùng loại trong Bảng giá đất của Ủy ban nhân dân tỉnh quy định tại địa bàn) đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi của hộ gia đình, cá nhân nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Ngoài ra, về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở. Nếu địa phương có điều kiện về quỹ đất thì thực hiện bồi thường bằng quỹ đất có vị trí tương đương, có thể kết hợp với kinh doanh dịch vụ. Trường hợp này không phải thực hiện hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người bị thu hồi đất. Trường hợp địa phương không còn quỹ đất đáp ứng được điều kiện theo quy định pháp luật thì hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người bị thu hồi đất với mức tương đương 30kg gạo/khẩu/tháng trong thời gian 12 tháng theo giá trị tại thời điểm thu hồi đất

Qui định suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở, bằng nhà ở và bằng tiền để làm cơ sở thực hiện hỗ trợ tái định cư. Suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở như sau: tại các phường, thị trấn là 60 m2, tại các xã là 80 m2. Suất tái định cư tối thiểu bằng nhà ở. Tại các phường, thị trấn là 60 m2 sàn sử dụng, tại các xã là: 80 m2 sàn sử dụng. Suất tái định cư tối thiểu bằng tiền tại các phường, thị trấn: giá trị một suất tái định cư tối thiểu = Giá giao đất tại vị trí tái định cư x 60 m2, tại các xã: giá trị một suất tái định cư tối thiểu = Giá giao đất tại vị trí tái định cư x 80 m2.

Đối với trường hợp đất nhận khoán để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 76 Luật Đất đai năm 2013 mà không có hồ sơ, chứng từ chứng minh chi phí đã đầu tư vào đất, mức bồi thường chi phí đầu tư còn lại vào đất bằng 30% giá đất bồi thường cho loại đất cùng mục đích sử dụng tại thời điểm thu hồi đất.

2.2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

Để đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình, tác giả đi vào nghiên cứu công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của các dự án trong địa bàn tỉnh:

Dự án thứ nhất: Dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn II) .

Dự án này đi qua địa bàn thành phố Ninh Bình và 3 huyện với tổng diện tích đất phải thu hồi trên 42 ha, tổng số hộ bị ảnh hưởng là trên 1.000 hộ và gần 200 hộ phải tái định cư. Cụ thể như sau: Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Tại huyện Yên Khánh, dự án cắt qua địa bàn khu dân cư xã Khánh Hòa với chiều dài 3,2km tuyến chính, 1km tuyến nhánh kết nối với đường vành đai Cầu Vòm – Ninh Phúc, có phạm vi ảnh hưởng lớn, cụ thể như sau: tổng số hộ bị ảnh hưởng là 625 hộ, tổng diện tích đất phải thu hồi là 21 ha. Trong đó, tổng số hộ có nhà cửa, vật kiến trúc bị ảnh hưởng là 139 hộ, số hộ có đất nông nghiệp phải thu hồi là 486 hộ; tổng số mồ mả mà phải di chuyển là 38 mộ; khu tái định cư và các công trình công cộng bị ảnh hưởng bao gồm 2 khu tái định cư, 2 nghĩa trang, 1 nhà văn hóa, 1 sân vận động, đường xóm Rậm, hệ thống kênh trục nội đồng. Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng chủ trì phối hợp với các phòng, ban chuyên môn và Ủy ban nhân dân xã Khánh Hòa thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định. Đến 10/3/ 2015 và 30/9/2015 đã hoàn thành và ra quyết định thu hồi đất; lập, thẩm định và phê duyệt xong phương án bồi thường giải phóng mặt bằng cho 625 hộ bị ảnh hưởng trong phạm vi: cầu vượt QL.10; 3,2km tuyến chính, 1 km tuyến nhánh; 2 khu tái định cư; sân vận động; nghĩa trang Đồng Bụt, nghĩa trang Đồng Tráng. Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng đã tiến hành chi trả xong tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho 635 hộ bị ảnh hưởng. 100% các hộ bị ảnh hưởng đã nhận tiền bồi thường, di rời nhà cửa, vật kiến trúc, mồ mả…để bàn giao mặt bằng cho hội Đồng bồi thường giải phóng mặt bằng. Ngày 19/5/ 2015 Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng đã bàn giao mặt bằng sạch cho chủ đầu tư và nhà thầu tổ chức lễ khởi công thi công cầu vượt QL 10. Ngày 30/10/2015 đã bàn giao mặt bằng sạch 3,2/3,2 km (đạt 100%) cho chủ đầu tư và nhà thầu triển khai thi công.

Tại huyện Hoa Lư, dự án thành phần đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình với quốc lộ 1 (giai đoạn 2) đi qua địa bàn xã Ninh An, huyện Hoa Lư có chiều dài khoảng 1,7km có điểm đầu tại cầu Thịnh Hội (Sông Vạc) điểm cuối cầu Quán Vinh (Sông Vó). Ngày 31/8/ 2015 Ủy ban nhân dân huyện đã giao các phòng ban chức năng của huyện phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Ninh An nhận mốc giải phóng mặt bằng bổ sung từ chủ đầu tư. Đối với đất nông nghiệp thì đã thực hiện xong công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng trên phần đất nông nghiệp (thuộc phạm vi theo mốc giải phóng mặt bằng chủ đầu tư đã thực hiện bàn giao giai đoạn 1) với tổng số tiền chi trả 7.441.450.000 (bao gồm tiền bồi thường về đất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống) của 157 hộ gia đình và phần đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã với tổng diện tích 48.220m2; ngày 09/6/2015 trung tâm phát triển quỹ đất huyện phối hợp với các phòng ban chuyên môn thực hiện bàn giao mặt bằng trên phần đất nông nghiệp cho chủ đầu tư với chiều dài tuyến đã bàn giao khoảng 1,4km. Về công tác giải phóng mặt bằng đã bàn giao giai đoạn 1, tổng số tổ chức, cá nhân có đất, tài sản, vật kiến trúc bị ảnh hưởng bởi dự án là 35 hộ, tổ chức cá nhân trong đó số hộ gia đình có đất thổ cư và tài sản vật kiến trúc bị thu hồi là 17 hộ gia đình với diện tích đất ở là 3.569,9m2, đất vườn ao là 370 m2; Số hộ gia đình có đất thổ cư bị thu hồi (không có tài sản) là 5 hộ gia đình với diện tích đất ở 642 m2; số tổ chức, cá nhân có tài sản, vật kiến trúc (không có đất) là 13 tổ chức, cá nhân.

Tại huyện Yên Mô, tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ- Ninh Bình với Quốc lộ 1 qua địa phận huyện Yên Mô có tổng chiều dài 2,85km trong đó xã Khánh Thượng 1,15km, xã Mai Sơn 1,7km. Tiến độ giải phóng mặt bằng như sau: đoạn qua xã Khánh Thượng đã được phê duyệt phương án, chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao cho chủ đầu tư ngày 26/8/2015; đoạn qua xã Mai Sơn do có sự điều chỉnh hướng tuyến nút giao với ĐT477, ngày 13/07/2015 Ủy ban nhân dân huyện nhận bàn giao bổ sung cùng với biên bản giao cọc mốc điều chỉnh. Đến nay đã hoàn thiện công tác kiểm đếm, xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ đối với các công trình bị ảnh hưởng trực tiếp bở dự án này. Ban giải phóng mặt bằng hiện đang rà soát hồ sơ địa chính, kiểm tra thực địa các công trình, nhà cửa, đất sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng gián tiếp (như không có đường đi, không đủ điều kiện sản xuất nông nghiệp, kinh doanh… khi dự án hoàn thành). Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, cấp uỷ, chính quyền đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, huy động cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở tham gia tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất được huyện coi là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các cấp, các ngành… Từ quan điểm đó, nhân dân bị thu hồi đất được cung cấp mọi thông tin về các dự án và về công tác giải phóng mặt bằng của dự án. Người dân được tham gia cùng hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng của huyện để phân loại nguồn gốc đất đai, kê khai tài sản, vật kiến trúc, cây cối, hoa màu… có sự giám sát của MTTQ, các đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội các cấp. Quá trình lập hồ sơ thu hồi đất, lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng cũng được thực hiện công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của nhân dân. Việc kiểm đếm được giám sát chặt chẽ, chi tiết; bản dự thảo áp giá đền bù được thực hiện công khai, gửi xuống từng hộ để các hộ xem và ký xác nhận. Khi có kiến nghị, thắc mắc, các thành viên của tổ công tác giải phóng mặt bằng đến từng gia đình để tiếp thu, đối thoại, giải đáp kịp thời. Bên cạnh đó, các lực lượng tham gia giải phóng mặt bằng phải bám sát địa bàn, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thực hiện tốt công tác dân vận. Coi trọng công tác tuyên truyền, vận động trước, trong và sau giải phóng mặt bằng, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân dân, giải quyết triệt để những phát sinh ngay từ cơ sở. Đối với những nội dung vượt quá thẩm quyền giải quyết của hội đồng giải phóng mặt bằng, các đồng chí lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện đã chủ trì, tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân, lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân để có giải pháp chỉ đạo, từng bước tháo gỡ khó khăn. Nhờ vậy, việc bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công được bảo đảm đúng tiến độ, đồng thời đảm bảo lợi ích của nhân dân.

Dự án thứ hai: Dự án nạo vét xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Kê trên địa bàn Huyện Hoa Lư

Dự án nạo vét, xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Khê thuộc Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư với tổng mức đầu tư trên 2.590 tỷ đồng, thời gian thực hiện từ năm 2005 – 2016. Về tình hình thực hiện công tác giải phóng mặt bằng: Tổng diện tích cần thu hồi phục vụ thi công dự án là trên 176 ha, đã thu hồi được trên 101 ha, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu tiến độ thực hiện dự án. Thực hiện Thông báo số 74/TB-UBND ngày 24/12/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban quản lý dự án đã phối hợp với các địa phương và đơn vị liên quan thực hiện xong việc nghiệm thu khối lượng đã thi công; phối hợp với huyện Hoa Lư thống kê lại toàn bộ diện tích phải giải phóng mặt bằng và các hộ phải di chuyển ra khu tái định cư; thực hiện hoàn ứng kinh phí giải phóng mặt bằng trong tháng 3 năm 2016. Về việc giải phóng mặt bằng của dự án tại huyện Hoa Lư vẫn còn một số tồn tại như đoạn từ cầu Hội đến cửa hang Luồn còn tồn tại 26 hộ gia đình thuộc phạm vi giải phóng mặt bằng nhưng đến nay chưa thực hiện xong tháo dỡ, bàn giao mặt bằng với các lí do cụ thể như: Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Có 15 hộ gia đình (bao gồm cả các hộ sống chung cùng một thửa đất) đã được thu hồi đất tại Quyết định số 629/QĐ-UBND ngày 17/12/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hoa Lư, tuy nhiên đến năm 2009 và năm 2010 mới được phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng tại các Quyết định số 508/QĐ-UBND ngày 11/08/2009; 714/QĐ-UBND ngày 30/09/2009; 208/QĐ-UBND ngày 22/03/2010 của Ủy ban nhân dân huyện Hoa Lư với tổng số tiền 7.933 triệu đồng trong đó bồi thường về đất 4.774 triệu đồng (giá đất bồi thường từ 450.000 đến 600.000 đ/m2), bồi thường, hỗ trợ về tài sản, vật kiến trúc 3.159 triệu đồng. Năm 2013 khi bố trí được nguồn kinh phí, Hội đồng giải phóng mặt bằng huyện Hoa Lư tiến hành chi trả cho các hộ dân nhưng các hộ dân không đồng ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng với các lí do: đơn giá bồi thường hỗ trợ, giải phóng mặt bằng theo các Quyết định phê duyệt năm 2009 và năm 2010 là thấp và không còn phù hợp với thời điểm chi trả; các hộ dân vẫn còn kiến nghị về nguồn gốc đất, diện tích đất hợp pháp và đất không hợp pháp, nhất là đối với đất ở ven sông, ven núi.

Có 11 hộ gia đình (bao gồm cả các hộ sống chung cùng một thửa đất) nằm xen kẽ trong khu vực nghĩa trang Hạng Châu đã được thu hồi đất tại Quyết định số 738/QĐ-UBND ngày 13/10/2009 của Ủy ban nhân dân huyện Hoa Lư nhưng chưa tổ chức kiểm đếm vì chờ phương án di chuyển 2.500 ngôi mộ tại nghĩa trang Hạng Châu đến nghĩa trang Áng Cao.

Mức giá bồi thường về đất của các dự án trên được tính theo bảng giá đất ban hành kèm theo Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND Ninh Bình, ngày 26 tháng 12 năm 2014 ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng của các công trình trên đã được hội đồng bồi thường thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của Nhà nước cũng như quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình. Song bên cạnh đó, việc thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình còn gặp một số vướng mắc. Sau đây, tác giả xin trình bày cụ thể những kết quả đạt được và những tồn tại vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật.

2.2.3.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên  địa bàn Tỉnh Ninh Bình. 

Trên thực tế về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng được triển khai ở các dự án đã cho ta thấy một cách nhìn tổng quan về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Ninh Bình. Có thể nói thành phố Ninh Bình đã thực hiện khá tốt về công tác bồi thường, đảm bảo nguyên tắc công bằng lợi ích cho người dân, thực hiện trên tinh thần dân chủ, công khai. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Việc thực hiện các nội dung xung quanh vấn đề bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Ninh Bình qua 2 dự án đã nêu trên đã được các cấp chính quyền của thành phố triển khai thực hiện tốt về cơ bản theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và  Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, đã thực hiện thống nhất về chính sách bồi thường cho từng dự án, các văn bản hướng dẫn thi hành của thành phố mang tính đồng bộ, có điều chỉnh để phù hợp theo từng thời điểm và từng dự án cụ thể.

Thực hiện nghiêm túc việc phân loại nguồn gốc đất, áp mức bồi thường đảm bảo đúng đối tượng, đúng chính sách, vận dụng linh hoạt trong áp giá, áp mức bồi thường, hỗ trợ và xét duyệt đối tượng thuộc diện bồi thường. Quá trình chi trả tiền được thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định.

Về chính sách hỗ trợ: trên cơ sở dựa vào quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh và điều kiện thực tế của địa phương, Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình đã có những chính sách cụ thể và thiết thực nhất để hỗ trợ cho người nông dân bị mất đất sản xuất nông nghiệp nhằm phần nào bước đầu giảm bớt khó khăn cho họ về kinh tế.

Về giá đất bồi thường: đối với việc bồi thường đất ở cho các hộ gia đình thì Hội đồng giải phóng mặt bằng tiến hành chi trả bồi thường dựa trên giá đất cụ thể của Ủy ban nhân dân tỉnh công bố hàng năm áp dụng cho từng khu vực, vị trí. Còn đối với đất nông nghiệp, khi bị thu hồi ngoài việc bồi thường theo giá đất cùng mục đích sử dụng thì các hộ gia đình, cá nhân còn nhận thêm những khoản tiền hỗ trợ theo quy định. Nhìn chung, công tác xác định đối tượng, điều kiện bồi thường và chi trả của Hội đồng giải phóng mặt bằng được diễn ra công khai, dân chủ, thuận lợi.

Bồi thường về tài sản, cây cối, hoa màu, vật kiến trúc gắn liền với đất: Quá trình bồi thường các loại công trình, các loại cây trồng, vật nuôi được thực hiện nhất quán theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh về quy định đơn giá nhà cửa, vật kiến trúc, cây cối, hoa màu và mức giá bồi thường, hỗ trợ được quy định thống nhất trên cả 02 dự án nêu trên. Cho dù cũng có không ít các hộ dân có ý kiến về mức hỗ trợ đối với công trình xây dựng trên đất không hợp pháp là còn thấp, song với biện pháp tuyên truyền, vận động, phổ biến chính sách bồi thường, hỗ trợ cho người dân thì đa phần đã đồng tình, ủng hộ và chấp thuận.

Về vấn đề tái định cư: nhìn chung việc xác định và bố trí tái định cư cho các hộ gia đình bị thu hồi đất ở phải di chuyển đến nơi ở mới đã thật sự đồng bộ và cụ thể, đáp ứng kịp thời cho các hộ dân bị thu hồi đất ở có nơi ở mới đảm bảo ổn định cuộc sống. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân: do đặc thù của 02 dự án nêu trên là có sự đa dạng về các loại đất trưng dụng, tài sản gắn liền với đất có giá trị cao và diện tích đất của dự án là tương đối lớn nên quá trình bồi thường, hỗ trợ gặp không ít những khó khăn, đặc biệt trong khâu khiếu kiện của người dân đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải phóng mặt bằng cũng như tiến độ giải ngân của các dự án. Các đơn thư chủ yếu xoay quanh vấn đề chính sách bồi thường, hỗ trợ về đất, giá cả bồi thường. Sau khi nhận các đơn thư thắc mắc của các hộ dân, lãnh đạo và hội đồng giải phóng mặt bằng trên cơ sở Luật định, Nghị định và các văn bản pháp luật liên quan và trên chủ trương làm việc dân chủ, công khai với người dân, cộng thêm biện pháp tuyên truyền, vận động thì đã giải quyết các trường hợp theo đúng trình tự, đúng thủ tục, đúng thời gian quy định nên được đại bộ phận người dân đồng tình chấp thuận. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Trình độ hiểu biết pháp luật đất đai và bồi thường giải phóng mặt bằng: đại bộ phận người dân hiểu và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, đã phối hợp tốt với các cơ quan chức năng trong việc kê khai nguồn gốc sử dụng đất, đo đạc, kiểm kê tài sản… Nhìn chung công tác phổ biến pháp luật đất đai và chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư của Hội đồng bồi thường cho người dân bị thu hồi đất của thành phố nói chung là chưa thật sự sâu sát, không đạt hiệu quả cao. Phần lớn người dân khi bị thu hồi đất đều hết sức quan tâm đến chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng bởi vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ nhưng công tác tuyên truyền vấn đề này ở địa phương còn nhiều hạn chế và chưa quan tâm đúng mức nên đã xảy ra tình trạng có nhiều hộ gia đình có đơn thư thắc mắc xung quanh vấn đề chính sách bồi thường, chưa bàn giao mặt bằng đúng thời hạn nên gây ảnh hưởng đến sự triển khai dự án.

Về vấn đề bồi thường giải phóng mặt bằng cho các hộ dân ở cả 2 dự án nêu trên nhìn chung được diễn ra dân chủ, công khai, theo đúng trình tự luật định đã quy định, cố gắng đảm bảo đúng thời gian giải phóng mặt bằng để các dự án diễn ra theo đúng kế hoạch nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, một số ít các hộ dân chưa đồng tình nhất trí trong chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng nên việc triển khai ở cả 2 dự án nêu trên đã phải đình trệ trong một thời gian ngắn làm cho việc thi công ở các dự án đã phải chậm tiến độ so với thời gian đã định.

2.2.3.2. Những mặt hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

Ngoài ra, công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện trong thời điểm một số luật như Luật Đất đai năm 2013, Luật xây dựng năm 2014, Luật đầu tư năm 2014 mới có hiệu lực thi hành nên các qui định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng có nhiều thay đổi so với trước, các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu và chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ giải phóng mặt bằng và công tác đầu tư xây dựng những công trình bị ảnh hưởng. Cơ quan có thẩm quyền quy định về giá đất lại thường xuyên thay đổi nâng giá theo quy luật, theo thời gian và giá biến động ngoài thị trường làm cho tình trạng giá đất không ổn định; khi bồi thường cho người dân, hộ dân giao đất sớm lại nhận tiền đền bù thấp hơn hộ dân giao đất muộn vì khi hộ dân giao đất muộn thì giá đất được đền bù đã thay đổi theo thời gian và giá mới thường cao hơn giá cũ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

Giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh đưa ra so với giá thị trường còn chênh lệch khá lớn, giá thực tế ở nhiều khu vực cao hơn nhiều so với giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định. Việc điều chỉnh không kịp thời dẫn đến cơ quan Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. Sự chênh lệch giữa giá đất Nhà nước quy định với giá đất thực tế trên thị trường xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống tài chính đất đai và hệ thống quản lý đất đai, ít sử dụng đến các công cụ kinh tế để điều tiết.

Theo khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Trong thực tế khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, quỹ đất nông nghiệp của tỉnh hạn chế nên không thể bồi thường hết bằng đất nông nghiệp cho người có đất bị thu hồi mà phải bồi thường bằng tiền. Chính vì áp dụng không thống nhất hình thức bồi thường nên tình trạng khiếu nại, khiếu kiện về bồi thường đất bị kéo dài. Hơn thế nữa, ,theo phản ánh của rất nhiều hộ dân, nhất là các hộ dân ở dự án thứ nhất nêu trên khi bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp thì số lao động trong độ tuổi lao động ngày càng dư thừa, không có công ăn việc làm dẫn đến nảy sinh tệ nạn xã hội, mất trật tự an ninh trên địa bàn.

Trong dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn II) tại địa bàn huyện Yên Khánh có trường hợp gia đình ông Hưng chủ doanh nghiệp may xuất khẩu Đông Thịnh Hưng đề nghị thu hồi hết diện tích đất ở 1.440m2, kiểm đếm toàn bộ tài sản nhà xưởng, vật kiến trúc và bố trí được ra khu tái định cư. Theo phương án bồi thường của dự án này thì diện tích đất tối đa mà ông Thịnh được bồi thường do ảnh hưởng bởi dự án chỉ khoảng 600m2 đất. Nhưng ông đề nghị thu hồi hết  vì diện tích đất còn lại sau khi bị Nhà nước thu hồi không đủ để bố trí lại cơ cấu sản xuất ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp và đời sống của hơn 100 công nhân, người lao động ở xã Ninh An. Tại điểm  Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất chỉ quy định về phương thức bồi thường với trường hợp khi thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại của hộ gia đình, cá nhân  sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng chưa quy định về trường hợp sau khi thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân mặc dù phần diện tích ở còn lại của họ vẫn đủ điều kiện để ở nhưng lại làm ảnh hưởng tới sinh kế của một lượng lớn người dân sinh sống tại địa phương thì phải xử lí thế nào.

Tóm lại, chương 2 của luận văn đã đi sâu phân tích các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, cơ sở tôn giáo. Qua đó, đã đánh giá những ưu điểm  đã đạt được cũng như những hạn chế, bất cập còn tồn tại và đưa ra một số nguyên nhân dẫn tới những hạn chế, bất cập đó để làm cơ sở đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, cơ sở tôn giáo trong thời gian tới. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993