Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng qua thực tiễn tại Tỉnh Ninh Bình dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, đất đai là tư liệu sản xuất không gì có thể thay thế được trong sản xuất nông lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Nếu sử dụng đất đai hợp lý giúp đất nước ngày càng phát triển và giàu mạnh hơn. Hơn thế nữa trong bối cảnh dân số nước ta tăng nhanh chóng, tính đến 1/4/2011, dân số Việt Nam là 87.610.947 người, trong đó dân số thành thị chiếm 30,6%, dân số nông thôn chiếm 69,4%[1]. Từ đó có thể thấy dân số nông thôn chiếm phần lớn dân số nước ta. Do đó đất nông nghiệp lại càng trở nên quan trọng với người dân, đó là nguồn sống, nguồn việc làm, là cái duy trì phát triển sự sống của mỗi người, mỗi gia đình.
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam đã được thực hiện hơn hai thập kỷ qua, nó đặc biệt diễn ra mạnh mẽ ở những năm gần đây. Tốc độ đô thị hóa của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ trong suốt 15 năm, từ mức 21,7% năm 1999 và đến nay đã đạt 33,1% (bình quân mỗi năm tăng gần 1 điểm phần trăm)[2].Trong quá trình đó chúng ta đã và đang triển khai nhiều dự án với các mục tiêu phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, các công trình hạ tầng kinh tế – xã hội, hạ tầng cho các khu đô thị… Trong đó, công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng để thực hiện các công trình là điều kiện ban đầu và tiên quyết để triển khai thực hiện các dự án. Nhưng trên thực tế việc chuyển quỹ đất vào triển khai các dự án không đơn giản, vì nó tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư, đặc biệt với hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi trên phạm vi cả nước, đến từng địa phương, cơ sở. Đây là một thách thức rất lớn đối với việc triển khai các dự án hiện nay, nó đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến người dân mất đất như: đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi đất và giá trị phần đất đai bị thu hồi của người dân phải được xác định như thế nào để đền bù thỏa đáng những thiệt hại mà họ phải gánh chịu, giải quyết ổn thỏa tâm trạng của người dân sau khi bị mất đất cũng là những vấn đề vô cùng quan trọng. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Đất đai luôn là một vấn đề nóng và nhận được nhiều sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Kể từ khi Luật Đất đai đầu tiên được ban hành vào năm 1987 đến nay, pháp luật đất đai liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Pháp luật đất đai đã từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường, đưa đất đai trở thành nội lực, nguồn vốn để phát triển đất nước[3][4]. Tuy nhiên, tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai ngày càng gay gắt và kéo dài. Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cho biết, năm 2014 cả nước đã phát sinh hơn 81.000 đơn khiếu nại tố cáo. Mặc dù số lượng đơn giảm 71%, vụ việc giảm 9,8%, nhưng số vụ khiếu nại phức tạp đông người lại tăng 5,2%. Trong 81.000 đơn khiếu nại tố cáo đó, khiếu nại về đất đai chiếm 96,27%. Cụ thể, khiếu nại xuất phát từ việc bồi thường đất hỗ trợ tái định cư, giải phóng mặt bằng phục vụ các dự án phát triển xã hội chiếm 50% [5].
Với những lí do trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng qua thực tiễn tại Tỉnh Ninh Bình” cho đề tài luận văn cử nhân luật học của mình. Tác giả hi vọng với những nghiên cứu và phân tích của mình góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn nữa những qui định của pháp luật về công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề quan trọng, nó có tác động không nhỏ đến quyền lợi của người sử dụng đất khi có đất bị thu hồi, chính vì vậy trên thực tế đã nảy sinh rất nhiều vụ khiếu kiện liên quan đến vấn đề này. Trong giới nghiên cứu luật pháp, đây cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Điều này thể hiện ở việc có không ít các bài viết, công trình nghiên cứu về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Có thể kể đến một số Luận văn thạc sĩ tiêu biểu như: pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, của tác giả Lê Thị Yến năm 2010, pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An, của tác giả Hoàng Thị Thu Trang năm 2012; pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp- thực trạng và hướng hoàn thiện của tác giả Trần Thị Phương Liên năm 2013. Ngoài ra còn có nhiều bài viết trong các tạp chí như: vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, TS. Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí luật học số 1/2009; vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung) của tác giả TS. Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí Luật học số 12/2008; pháp luật về bồi thường tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của Singapore và Trung quốc- những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của đồng tác giả TS. Nguyễn Quang Tuyến và ThS. Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Luật học số 10/2010; pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng của tác giả Nguyễn Thị Nga, Tạp chí Luật học số 11/2010; bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo luật đất đai năm 2013 của tác giả Phạm Thu Thủy, tạp chí luật học đặc san 11/2014; dự thảo Luật Đất đai năm 2013 với các quy định về thu hồi đất của tái giả ThS. Lê Ngọc Thạnh, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử… Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Các bài viết, công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở mức độ khác nhau. Có công trình, bài viết đã nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; có những công trình , bài viết lại đi sâu nghiên cứu về từng vấn đề cụ thể như: phương thức bồi thường, trình tự thủ tục thu hồi đất và bồi thường, cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại liên quan đến vấn đề này; có những công trình còn nghiên cứu pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ngoài để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam …Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng pháp luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng sau khi Luật Đất đai năm 2013 chính thức có hiệu lực tại địa bàn tỉnh Ninh Bình. Vì vậy, tác giả muốn đi sâu nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và thực tiễn áp dụng ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình sau khi Luật Đất đai năm 2013 chính thức có hiệu lực; để từ đó thấy rõ hơn sự phù hợp, không phù hợp trong quy định của pháp luật với thực tiễn cũng như đánh giá được quá trình thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đây, tác giả đưa ra một số đề xuất góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và góp phần hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật trong thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Một là: Nghiên cứu để làm rõ các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và thực tiến áp dụng ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
Hai là: Nghiên cứu để hệ thống hóa các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để tìm ra những qui định cần sửa đổi để phù hợp với thực tiễn triển khai công việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Ba là: Nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân, hạn chế khi áp dụng pháp luật hiện hành để đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Các quy định của pháp Luật Đất đai hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
- Các nghị định, thông tư của Nhà nước ban hành về hướng dẫn thực hiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và thực tiễn áp dụng ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Nghiên cứu đánh giá nội dung những quy định của Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và quá trình áp dụng pháp luật để giải phóng mặt bằng ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình, đặt trong mối tương quan so sánh với Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn Luật Đất đai năm 2003 trước đây.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là các phương pháp như:
- Phương pháp phân tích: Tác giả áp dụng trong việc phân tích các khái niệm, các điều khoản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như làm rõ khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; thẩm quyền thu hồi đất; các nguyên tắc thu hồi đất; các nhân tố ảnh hưởng đến Bồi thường giải phóng mặt bằng; phân tích các thuận lợi khó khăn trong Bồi thường giải phóng mặt bằng…
- Phương pháp tổng hợp: Tác giả áp dụng trong việc tổng hợp các số liệu trong các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan đến vấn đề bồi thường, giải phóng mặt bằng như diện tích đất cần thu hồi phục vụ dự án; số tiền bồi thường về đất, về tài sản; số tiền được tái định cư; diện tích đất giao tái định cư. Thông qua việc tổng hợp các số liệu, con số chúng ta dễ dàng hiểu và tiếp cận luận văn hơn.
- Phương pháp bình luận: Trong quá trình nghiên cứu tác giả đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về các quy định của pháp luật liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng. Đó là quan điểm về giá đất; thời hạn thông báo thu hồi đất; hoàn thiện tổ chức phát triển quĩ đất; trưng dụng đất; các chính sách hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất…
- Phương pháp so sánh: Tác giả áp dụng việc so sánh giữa các quy định của Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013.
6. Kết cấu của luận văn Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1 : Cơ sở lí luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.
- Chương 2 : Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn giải phóng mặt bằng trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất và các trường hợp thu hồi đất
1.1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Xây dựng khái niệm là yếu tố tiên quyết để tạo lập cơ sở lý luận trong khoa học pháp lý. Do đó, khi nghiên cứu về pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng ở VN, trước hết, ta phải làm rõ khái niệm thế nào là thu hồi đất.
LĐĐ năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý”[6]
LĐĐ năm 2013 quy định về khái niệm thu hồi đất như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”[7] Từ những khái niệm trên, cho thấy thu hồi đất có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thu hồi đất là một trong những phương thức của Nhà nước để thực hiện quyền đại diện chủ hữu về đất đai được pháp luật đất đai quy định. Nhà nước không phải là chủ sở hữu đất đai mà chỉ là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Pháp luật qui định quyền đại diện chủ sở hữu đất đai của Nhà nước. Vì vậy Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất phải tuân theo các qui định của pháp luật.
Thứ hai, Thu hồi đất được thực hiện thông qua một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tên gọi là quyết định thu hồi đất, trong đó xác định rõ chủ thể bị thu hồi, lý do bị thu hồi, mục đích thu hồi và diện tích đất bị thu hồi. Quyết định này là căn cứ pháp lý chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai giữa Nhà nước và người sử dụng đất.
Thứ ba, thu hồi đất không chỉ chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân với một mảnh đất nhất định mà còn gây ra những hậu quả xã hội như cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của họ bị đảo lộn, rơi vào hoàn cảnh không có nghề nghiệp hoặc không có chỗ ở.
Thứ tư, thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và xã hội như để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế-xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng; hoặc để để xử lí các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng hay do hết thời hạn sử dụng đất, người sử dụng đất trả lại đất. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
1.1.1.2. Các trường hợp thu hồi đất
Để thực hiện sự minh bạch trong thu hồi đất, các trường hợp thu hồi đất được thể hiện cụ thể tại các điều từ Điều 61 tới Điều 65 Luật Đất đai năm 2013. So với Luật Đất đai năm 2003, qui định các trường hợp thu hồi đất rõ ràng và cụ thể hơn rất nhiều. Khác với cách thức liệt kê các trường hợp thu hồi đất của Điều 38 Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 qui định rõ thành 5 loại chính đó là: thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; thu hồi đất để sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội; thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật hoặc tự nguyện.
Thứ nhất, thu hồi đất do nhu cầu của nhà nước bao gồm các trường hợp:
Sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh được qui định tại điều 61 Luật Đất đai năm 2013. Ta có thể thấy tại Luật Đất đai năm 2013 đã chuyển Khoản 1 Điều 89 Luật Đất đai năm 2003 thành 10 khoản của Điều 61 Luật Đất đai năm 2013 để làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh.
Sử dụng đất vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Đây là một điều mới của Luật Đất đai năm 2013, tuy nhiên nội dung của nó thì chỉ là cụ thể hóa Khoản 1 Điều 38 của Luật Đất đai năm 2003 và luật hóa quy định của các Nghị định như: Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2006, nghị định số 84/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 để làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Sử dụng đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội được qui định tại Điều 62 Luật Đất đai năm 2013. Điều luật này đã cụ thể hóa khoản 1 Điều 38 và khoản 1 Điều 40 của Luật Đất đai năm 2003 trên cơ sở luật hóa quy định của các Nghị định như: Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004, nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2006, nghị định số 84/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 để làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, các nhà làm luật cũng sửa đổi cụm từ “thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế” thành cụm từ “thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội” để cụ thể và thu hẹp các trường hợp thu hồi đất để sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế thực hiện các quyền của người sử dụng đất thông qua việc chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn quy định tại Điều 73 của Luật Đất đai năm 2013. Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 còn bổ sung qui định về căn cứ thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội đó là: “Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này; kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án”[8]. Quy định này đã giải quyết vướng mắc cơ bản trong thực tiễn thi hành Luật Đất đai năm 2003 như: khó thực hiện thu hồi đất do làm mất quyền lợi của người sử dụng đất trong khi chưa có quy định về căn cứ cụ thể đối với từng trường hợp thu hồi đất, khắc phục tình trạng xử lý vụ việc cụ thể đã xảy ra tại địa phương có tính chất rất phức tạp. Thực tế địa phương thu hồi đất khó xác định cho đúng với từng trường hợp thu hồi đất cụ thể do có luật quy định có nhiều trường hợp thu hồi đất nhưng không rõ để áp dụng cơ chế giải quyết cho phù hợp. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, Thu hồi đất do vi phạm Luật Đất đai được qui định tại Điều 64 Luật Đất đai năm 2013. Đây là một điều luật mới được tách ra từ các khoản 3, 4, 5, 6, 9, 11 và 12 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003 và bổ sung 1 số nội dung sau:
Bổ sung trường hợp thu hồi đất không được chuyển nhượng, tặng cho mà cố ý nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhằm bổ sung chế tài mạnh nhất là thu hồi để xử lý vi phạm đang diễn ra phổ biến hiện nay như chuyển nhượng trái phép đất trồng lúa để chờ quy hoạch, găm, thu gom đất nông nghiệp lập dự án đầu tư phi nông nghiệp.
Bổ sung điều kiện thu hồi đất đối với trường hợp người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước thì chỉ thu hồi khi đã bị xử phạt mà cố ý không chấp hành, nhằm đảm bảo tính khả thi, phù hợp với cách xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai hiện hành.
Bổ sung quy định người bị thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 không được trả lại tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã nộp; không được thanh toán giá trị đầu tư vào đất còn lại và tài sản gắn liền với đất nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, buộc người sử dụng đất có trách nhiệm sử dụng đất hiệu quả, ngăn chặn cơ chế xin cho trong việc giao đất.
Bổ sung quy định về việc thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 phải căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
Thứ ba, do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật hoặc tự nguyện qui định tại Điều 65 Luật Đất đai năm 2013. Trường hợp này nhà nước thu hồi đất không xuất phát từ nhu cầu của nhà nước, cũng không do lỗi của người sử dụng đất mà chỉ đơn thuần là các lí do: tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất mà bị giải thể, phá sản; cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết hạn.
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Theo từ điển thông dụng thì bồi thường được hiểu là: “Đền bù những tổn hại đã gây ra”[9]. Riêng lĩnh vực đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi Nhà nước thu hồi đất (trước đây là bồi thường thiệt hại hay đền bù thiệt hại) được ghi nhận từ rất sớm. Tại nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội Đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề cập đến việc “bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”. Tiếp theo, Luật Đất đai năm 1987 ra đời, cùng với đó là sự ra đời của các văn bản hướng dẫn thi hành, lúc này thuật ngữ “bồi thường” đã bị thay thế bởi thuật ngữ “đền bù”. Sau đó thuật ngữ “đền bù thiệt hại” lại được tiếp tục sử dụng trong Luật Đất đai năm 1993, luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, thuật ngữ “bồi thường” lại được sử dụng trở lại trong Luật Đất đai năm 2003. Theo Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 đưa ra cách giải thích khái niệm này như sau “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người thu hồi đất”.
Từ các cách định nghĩa trên ta có thể thấy bồi thường khi nhà nước thu hồi đất có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về phạm vi bồi thường, bồi thường chỉ được thực hiện đối với trường hợp nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Bởi lẽ, các trường hợp thu hồi đất này, người sử dụng đất không có lỗi mà do Nhà nước thu hồi để sử dụng cho mục đích chung của xã hội. Do đó, Nhà nước phải bồi thường, bù đắp cho người sử dụng đất về những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
Hơn thế nữa, ngoài việc bồi thường về đất và thiệt hại về tài sản trên đất, Nhà nước còn thực hiện hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ di chuyển chỗ ở; giải quyết vấn đề tái định cư; đào tạo chuyển đổi nghề, bố trí việc làm mới cho người sử dụng đất
Thứ hai, về đối tượng được bồi thường, bồi thường chỉ được thực hiện đối với trường hợp nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, do đó những đối tượng được bồi thường là: hộ gia đình, cá nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư ở Việt Nam … Theo đó, người bị thu hồi đất được Nhà nước bồi thường khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất hoặc các diều kiện khác mà pháp luật đất đai hiện hành qui định.
Thứ ba, về giá đất bồi thường, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện bồi thường, giá đất để tính bồi thường được xác định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất khác với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự dựa trên nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận, căn cứ vào thiệt hại thực tế và bồi thường trên cơ sở ngang giá. Có sự khác biệt như vậy bởi vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, bản thân người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu đối với từng diện tích đất riêng lẻ mà họ đang sử dụng, họ chỉ được nhà nước trao quyền thông qua giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất hoặc cho phép nhận chuyển quyền.
1.2. Hệ quả của hoạt động thu hồi đất. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2.1. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
“Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đều là hậu quả pháp lí trực tiếp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Có thể cho rằng bồi thường là chế định pháp luật độc lập và hệ quả tất yếu của việc thu hồi đất; còn hỗ trợ được xem như biện pháp bổ sung và là sự “kéo dài” của quá trình bồi thường, đóng vai trò khoả lấp khoảng trống mà các qui định về bồi thường chưa giải quyết được, nhằm bù đắp một cách thỏa đáng những thiệt hại do bị Nhà nước thu hồi đất gây ra. Bởi vì, khi Nhà nước thu hồi đất, mặc dù đối tượng bị thu hồi chỉ là một diện tích đất song thiệt hại đối với người dân không chỉ nằm ở đó. Ngoài các thiệt hại hữu hình về giá trị quyền sử dụng đất, công trình xây dựng, cây trồng vật nuôi còn các thiệt hại vô hình khác như mất ổn định cuộc sống, mất chỗ ở, mất tư liệu sản xuất, phải học nghề mới, bị thiệt hại về tinh thần…[10]”.
Việc thu hồi đất gây ra vô số những hệ quả, nhất là đối với đời sống, sinh hoạt, làm việc của nhân dân. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, “miếng cơm, manh áo” của người nông dân đều trông chờ vào hạt lúa trên đồng, trông mong vào từng tấc đất. Chính vì vậy, có rất nhiều người dân sau khi bị thu hồi đất, mặc dù đã được bồi thường theo đúng chính sách của nhà nước. Tuy nhiên họ lại không biết tương lai họ làm gì để sinh sống vì cả đời họ chỉ biết làm ruộng, làm đồng. Nhằm bù đắp những tổn thất và giúp đỡ những người bị thu hồi đất vượt qua khó khăn từ việc thu hồi đất, nhanh chóng ổn định về đời sống sản xuất; Nhà nước đã qui định và tổ chức thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất. Theo Khoản 14 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 qui định: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất bị thu hồi”.
1.2.2. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Tái định cư là một thuật ngữ sử dụng phổ biến trong sách, báo pháp lý ở nước ta hiện nay, đặc biệt là trong các qui định của pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành lại không đưa khái niệm về tái định cư.
Theo Khoản 2 Điều 86 Luật Đất đai năm 2013: “Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư…” và Khoản 4 Điều 86 Luật Đất đai năm 2013: “Trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu” Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Theo Điểm a Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì tái định cư được giải thích là: “trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư”.
Căn cứ vào các qui định trên, khái niệm về tái định cư có thể hiểu là: “Tái định cư là việc người sử dụng đất được bố trí nơi ở mới bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở mới hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và phải chuyển chỗ ở”[11]
Thực tế diễn ra cho thấy, việc thu hồi đất dẫn tới hệ quả rất nhiều người dân không còn nơi ăn chốn ở, phải di chuyển đến nơi khác để sinh sống, cuộc sống của họ gặp vô số khó khăn cho nên Nhà nước phải có trách nhiệm xã hội của mình trong việc bố trí một trong các hình thức tái định cư để người bị thu hồi đất tạo lập cuộc sống mới. Vì vậy, tái định cư chính là sự sắp xếp nơi ở mới cho người bị thu hồi đất không còn đất ở hoặc tạo điều kiện để người bị thu hồi đất tự lo nơi ở mới của mình thông qua các hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước.
1.3. Phân biệt trưng dụng đất và thu hồi đất.
Thứ nhất, về mục đích trưng dụng đất và thu hồi đất. Theo Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008 trưng dụng tài sản là việc Nhà nước sử dụng có thời hạn tài sản của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thông qua quyết định hành chính trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia[12]. Và theo Khoản 1 Điều 23 Luật trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008 đất đai là tài sản thuộc đối tượng trưng dụng. Như vậy, trưng dụng đất chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết, là biện pháp cuối cùng được cân nhắc khi Nhà nước cần sử dụng một diện tích nhất định của tổ chức cá nhân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. Thu hồi đất được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định do nhu cầu Nhà nước, do vi phạm pháp luật đất đai hoặc vì các lý do đương nhiên.
Thứ hai, về thẩm quyền trưng dụng đất và thu hồi đất, thẩm quyền trưng dụng đất được giao cho bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định trưng dụng đất, quyết định gia hạn trưng dụng đất. Tuy nhiên, thẩm quyền thu hồi đất lại chỉ được giao cho hai cấp chính quyền địa phương bao gồm cấp huyện và cấp tỉnh.
“Như vậy, số lượng cơ quan có thẩm quyền trưng dụng đất đa dạng hơn nhiều so với số lượng cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi đất, xuất phát từ tính cấp thiết và cấp bách của các trường hợp trưng dụng đất, trái ngược với tính ổn định lâu dài của các trường hợp thu hồi đất bởi thu hồi đất được thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt từ trước”[13].
Một điểm khác nhau cơ bản nữa về thẩm quyền giữa trưng dụng đất và thu hồi đất đó là: người có thẩm quyền trưng dụng đất không được phân cấp thẩm quyền cho người khác còn đối với thẩm quyền thu hồi đất ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền cho ủy ban nhân dân cấp huyện trong một số trường hợp cụ thể do luật qui định.
Thứ ba, về cách thức thực hiện trưng dụng đất và thu hồi đất. Trưng dụng đất cũng như thu hồi đất đều được thực hiện bằng một quyết định hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên đối với trường hợp trưng dụng đất, quyết định trưng dụng đất có thể thể hiện bằng lời nói trong trường hợp khẩn cấp nhưng phải viết giấy xác nhận việc quyết định. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ tư, về việc bồi thường trong trưng dụng đất và thu hồi đất. Người có đất trưng dụng được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất trưng dụng bị hủy hoại. Theo Điều 19 và Điều 38 Luật trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008, hình thức bồi thường của trưng mua, trưng dụng chủ yếu bằng tiền. Tuy nhiên, đối với việc bồi thường trong trưng dụng đất, không phải ai có đất bị thu hồi cũng được bồi thường, các trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường tài sản gắn liền với đất được liệt kê tại Điều 92 Luật Đất đai năm 2013. Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất. Các hình thức bồi thường trong trường hợp này có sự đa dạng hơn. Có thể bồi thường bằng đất, bằng nhà hoặc có thể bồi thường bằng tiền.
1.4. Thẩm quyền thu hồi đất
Thẩm quyền thu hồi đất được qui định rõ ràng, hợp lý, phù hợp với thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Theo đó, cơ quan nào giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sẽ có thẩm quyền thu hồi đất.
“UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư và người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.”[14]
Điểm mới trong quy định về thẩm quyền thu hồi đất của Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003 đó là trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng thuộc thẩm quyền thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cả đối tượng thuộc thẩm quyền thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất. Như vậy, nếu có quyết định thu hồi đất đối với cả tổ chức và cá nhân thì quyết định thu hồi thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
1.5. Khái quát chung về giải phóng mặt bằng Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
1.5.1. Khái niệm bồi thường giải phóng mặt bằng
Như chúng ta đã biết, bồi thường giải phóng mặt bằng là vấn đề thời sự nóng hổi, nó ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của mỗi quốc gia và cũng là vấn đề mà nhiều nước đang phải đối mặt. Việt Nam cũng không ngoại lệ, nhất là những năm gần đây, vấn đề này trở thành trung tâm của dư luận, là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách. Thực tiễn đã chứng minh rằng, làm tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, thu hút đầu tư mà còn góp phần tạo được lòng tin nhân dân, khắc phục tình trạng cán bộ nhà nước gây khó dễ cho nhân dân, chống tham nhũng…Bản chất của công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là phải đảm bảo lợi ích của những người dân bị thu hồi đất, lợi ích đó là những người dân này phải có được chỗ ở ổn định, có điều kiện sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ để tạo điều kiện cho người dân sống ổn định và phát triển. Trong Luật Đất đai năm 2013 không đề cập tới khái niệm bồi thường giải phóng mặt bằng nhưng ta có thể hiểu bồi thường giải phóng mặt bằng là việc chi trả, bù đắp những tổn thất về đất đai và tài sản gắn liền với đất, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật, kiến trúc công trình hạ tầng kỹ thuật, cây cối hoa màu và chi phí để ổn định đời sống, chuyển đổi nghề nghiệp cho người sử dụng đất, sở hữu tài sản khi Nhà nước tổ chức thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Nhà nước có thể bồi thường bằng đất hoặc bằng bằng tiền. Bồi thường thiệt hại bằng tiền được xác định trên cơ sở định giá đất, tài sản trên đất theo những qui định hướng dẫn của Nhà nước. Bồi thường thiệt hại bằng đất là việc dùng một diện tích đất khác bồi thường thiệt hại cho người bị thu hồi, trả các chi phí trực tiếp cho việc thực hiện tổ chức bồi thường, di chuyển giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, khu tái định cư cho người bị thu hồi trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà phải xây dựng khu tái định cư.
1.5.2. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Việc điều chỉnh vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất bằng pháp luật dựa trên những lí do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất. Khi Nhà nước thu hồi một diện tích đất để sử dụng vào các mục đích kinh tế, xã hội sẽ khiến cho những người có đất bị thu hồi chịu những thiệt hại không nhỏ, những thiệt hại này bao gồm cả vật chất và tinh thần. Thiệt hại về vật chất mà người sử dụng đất có thể phải gánh chịu bao gồm: thiệt hại về công sức đầu tư, mất quyền khai thác và hưởng các lợi ích từ đất đai; thiệt hại về tài sản là thành quả lao động và kết quả đầu tư vào đất; thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất tính đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất vẫn chưa thu lại được; thiệt hại do bị ngừng việc, ngừng sản xuất – kinh doanh; các thiệt hại vật chất vô hình khác mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu như: đất ở khu vực Nhà nước chuyển mục đích sử dụng sẽ tăng giá trị mà họ không được hưởng, trong khi những người sử dụng đất ở khu vực đó lại được hưởng. Bên cạnh những thiệt hại về vật chất, người bị thu hồi đất còn phải gánh chịu thiệt hại về mặt tinh thần. Việc Nhà nước thu hồi đất dẫn đến đảo lộn đời sống, sản xuất cũng như sinh hoạt của người dân bị thu hồi đất. Bên cạnh đó việc chuyển đến nơi ở mới cũng làm người dân phải mất một khoảng thời gian dài để thích nghi với môi trường sống mới. Thậm chí họ phải mất rất nhiều thời gian mới có thể tìm kiếm được công ăn, việc làm ổn định…Với những thiệt hại nói trên, việc ban hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết, giúp người dân nắm được quyền và lợi ích hợp pháp mà mình được hưởng khi bị thu hồi đất, qua đó có sự tham gia, giám sát chủ động, tích cực vào quá trình thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, việc ban hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất góp phần đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong quá trình thu hồi đất.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong quản lí đất đai. Việc Nhà nước khi tiến hành thu hồi đất là để tạo ra một quỹ đất hợp lý sử dụng cho các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tuy nhiên khi thu hồi đất, Nhà nước phải tạo được sự đồng thuận trong nhân dân bằng việc thực hiện các chính sách bồi thường cho người dân bị thu hồi đất, cần thiết phải ban hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước trong quá trình triển khai thực hiện bồi thường.
1.6. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
1.6.1. Giai đoạn trước năm 1993
Lịch sử hình thành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị định số 151-TTg ngày 14/04/1959 của Hội đồng Chính phủ qui định thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất. Tiếp đó là sự ra đời của Thông tư liên hộ số 1424/TTLB ngày 6/7/1959 về việc thi hành Nghị định số 151TTg ngày 14/04 /1959 của Thủ tướng Chính phủ qui định về thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất.
Hiến pháp năm 1959 ra đời ghi nhận sự bảo hộ của Nhà nước đối với quyền sở hữu của công dân về của cải, thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác (Điều 18 Hiến pháp năm 1959), và chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn trong phạm vi điều kiện do pháp luật qui định (Điều 20 Hiến pháp năm 1959)
Sau đó, tới năm 1970, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại được qui định tại Thông tư số 1972/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu niên, các hoa mầu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố.
Hiến pháp 1980 ra đời qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Bên cạnh đó, bản Hiến pháp này cũng khẳng định: “Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng thu, trưng mua trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể”[15]. Để cụ thể hoá qui định của Hiến pháp năm 1980, luật đất đai đầu tiên của nước ta được ra đời đó là Luật Đất đai năm 1987. Nó đã khẳng định nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nuớc thống nhất quản lí đất đai. Bên cạnh đó, Luật này cũng quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, trong đó cũng chia ra làm hai trường hợp: trường hợp thứ nhất thu hồi do lỗi của người sử dụng đất và trường hợp thứ hai thu hồi không do lỗi của người sử dụng đất (Điều 14 Hiến pháp 1980). Tuy nhiên luật này vẫn còn thiếu sót khi chưa quy định rõ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
1.6.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003 Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 là sự thay thế Luật Đất đai năm 1987 bằng Luật Đất đai năm 1993. Với những qui định của Luật Đất đai năm 1993, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất bước sang giai đoạn mới. Điều 27 Luật Đất đai năm 2003 qui định: “Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Đồng thời Luật Đất đai năm 1993 cũng qui định về thẩm quyền, trình tự thu hồi đất.
Sau sự ra đời của Luật Đất đai năm 1993 là hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, có thể kể đến một số văn bản qui định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất sau đây:
Nghị định số 90-CP ngày 17/08/1994 ban hành qui định về việc đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Nghị định số 87/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ qui định khung giá các loại đất; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng (thay nghị định số 90-CP ngày 17/08/1994).
Thông tư Liên Bộ Ban vật giá Chính phủ Tài chính- Xây dựng- Tổng cục địa chính số 94/TTLB ngày 14/11/1994 hướng dẫn thi hành Nghị định số 87/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất; Thông tư số 145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Quyết định số 302/TTg ngày 13/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh hệ số (K) trong khung giá đất ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP ngày 17/08/1994.
Nhìn vào những chính sách về bồi thường trong giai đoạn này có thể thấy rõ nhà nước đã có sự quan tâm tới vấn đề bồi thường cho những người dân bị thu hồi đất. Những chính sách về bồi thường giai đoạn này thể hiện sự thống nhất chính sách bồi thường thiệt hại cho mọi trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất; bên cạnh bồi thường, Nhà nước còn tiến hành các chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho người dân tại nơi ở cũ hoặc nơi ở mới; quy định đầy đủ phạm vi, đối tượng áp dụng, nguyên tắc điều kiện được bồi thường, chi tiết và cụ thể hóa các trường hợp bồi thường thiệt hại về đất, nhà và các tài sản khác gắn liền với đất cho phù hợp với thực tế quản lí sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện; đảm bảo quyền tự do lựa chọn phương thức bồi thường bao gồm bồi thường bằng đất, bằng tiền, nhằm tạo điều kiện chủ động cho người dân, nhằm chặn sự áp đặt hành chính từ phía cơ quan nhà nước. Mặt khác, trách nhiệm tổ chức, bồi thường, lập phương án bồi thường được giao cho các địa phương đã tạo sự chủ động, áp dụng chính sách linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 và các văn bản liên quan đã bộc lộ các hạn chế như: việc bồi thường đất ở với các trường hợp sử dụng đất trước Luật Đất đai năm 1993 chưa được quy định cụ thể nên trong tổ chức thực hiện còn nhiều cách làm khác nhau dẫn đến khiếu kiện. Hơn thế nữa, các loại tài sản nào không được bồi thường, hay loại tài sản có thể di chuyển thì được bồi thường, hỗ trợ như thế nào thì lại chưa có quy định. Điều này đã dẫn đến việc một số đối tượng lợi dụng để đầu tư các tài sản trái phép mong được hưởng lợi khi bồi thường; chưa có văn bản hướng dẫn, quy định về quy trình lập và thẩm định kế hoạch tái định cư cũng như cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường đối với các trường hợp cố tình không thực hiện, dẫn đến lợi dụng kẽ hở trong chính sách của Nhà nước cản trở công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
1.6.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013
Giai đoạn này nước ta đang trên đà phát triển, công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa buộc Nhà nước phải thu hồi nhiều đất hơn để phục vụ cho mục đính quốc phòng, phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng …Vì vậy, việc khắc phục những hạn chế của các văn bản pháp luật trước đây là rất cần thiết, ngày 23/11/2003, Luật Đất đai năm 2003 được thông qua với nhiều quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được sửa đổi bổ sung. Luật Đất đai năm 2003 để quy định về thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại mục 4 chương 2 với nhiều sửa đổi bổ sung quan trọng. Cụ thể hóa quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2003, nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành như:
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ tài tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 188/2004/ NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất… Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất giai đoạn này đã được quy định đầy đủ, cụ thể hơn, bảo vệ tốt hơn quyền của người bị thu hồi đất. Các trường hợp bị thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và vì mục tiêu phát triển kinh tế được quy định cụ thể để hạn chế việc một số cơ quan nhà nước lạm dụng quyền hành thu hồi đất bừa bãi. Về điều kiện để được bồi thường đất và bồi thường tài sản khi bị Nhà nước thu hồi đất cũng được liệt kê cụ thể. Hơn thế nữa, để đảm bảo quyền lợi cho người có đất bị thu hồi, tại các nghị định, thông tư hướng dẫn của Luật Đất đai năm 2003 quy định chi tiết những trường hợp người sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất nhưng vẫn được xem xét để bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Các chính sách hỗ trợ, nhất là hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp cũng được quy định chi tiết tại các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003.
Tuy nhiên, các qui định này vẫn bộc lộ nhiều mặt hạn chế trong thực tiễn áp dụng tại các địa phương do các nguyên nhân cơ bản sau: giá đất bồi thường còn thấp so với giá thị trường do chủ yếu thực hiện theo khung giá Nhà nước quy định. Việc để cho nhà đầu tư tự thỏa thuận với người dân về giá đất bồi thường mặc dù giúp chủ động quỹ đất để thực hiện dự án, việc giải phóng mặt bằng có thể tiến hành nhanh chóng hơn, nhưng nó lại khiến giá đất bồi thường trong cùng 1 khu vực nhưng lại có sự chênh lệch khác nhau. Điều này đã vô hình làm các vụ khiếu kiện về đất đai tăng lên. Hơn thế nữa, có một số người bị thu hồi đất đã lợi dụng quy định này đòi hỏi nhà đầu tư phải bồi thường giá đất cao hơn rất nhiều so với giá thị trường khiến việc giải phóng mặt bằng gặp vô số khó khăn, dự án bị chậm tiến độ.
“Việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng còn khá nhiều bất cập, chưa có cơ chế giải quyết một cách rõ ràng, minh bạch, hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người có đất bị thu hồi và nhà đầu tư; chưa có quy định về việc sử dụng tư vấn giá đất, giải quyết khiếu nại về giá đất. Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ chưa được các cấp chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, chưa có một chế tài đủ mạnh khiến các chủ đầu tư phải có ý thức trách nhiệm trong việc sắp xếp việc làm cho người bị thu hồi đất[16]”
1.6.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Ngày 29/11/2013 Luật Đất đai năm 2013 đã được thông qua. Luật có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014. Việc ra đời của Luật Đất đai năm 2013 nhận được vô số sự quan tâm của dư luận trong nước, đây là đạo luật được kì vọng sẽ khắc phục được những hạn chế, vướng mắc mà Luật Đất đai năm 2003 chưa làm được. Luật Đất đai năm 2013 đã có nhiều quy định bổ sung, sửa đổi, đồng thời cũng đã luật hóa và quy định cụ thể trong luật nhiều nội dung liên quan đến vẫn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai năm 2013 có 14 chương với 212 điều, tăng 07 chương và 66 điều so với Luật Đất đai năm 2003, đã thể chế hóa đúng và đầy đủ những quan điểm, định hướng nêu trong Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng thời khắc phục, giải quyết được những tồn tại, hạn chế phát sinh trong quá trình thi hành Luật Đất đai năm 2003. Sau khi Luật Đất đai năm 2013 được ban hành và chính thức có hiệu lực, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành về lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng, đó là:
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ.
Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất; Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014.
Về thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013 có các nội dung đổi mới sau đây:
LĐĐ năm 2013 đã khẳng định một cách rõ ràng nguyên tắc công khai, minh bạch và dân chủ trong công tác thu hồi đất thông qua các quy định cụ thể về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất; trình tự, thủ tục thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Quy định chế tài mạnh để xử lý đối với trường hợp không đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng đó là cho phép chậm tiến độ hơn so với quy định hiện hành 24 tháng và chủ đầu tư phải nộp một khoản tiền tương ứng với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong thời hạn đó; nếu hết 24 tháng cho phép chậm tiến độ này mà vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất.
Bổ sung các quy định về các trường hợp Nhà nước trưng dụng đất, thẩm quyền, thời hạn, hiệu lực, hình thức của việc trưng dụng đất. Sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án theo hướng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất.
Quy định cụ thể trong Luật Đất đai năm 2013 về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và thực hiện cưỡng chế quyết định thu hồi đất nhằm tạo điều kiện cho các địa phương triển khai thực hiện thống nhất. Đối với trình tự, thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định theo hướng tăng cường hơn sự tham gia trực tiếp của nhân dân trong việc đo đạc, kiểm đếm đất đai, tài sản gắn liền với đất và xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; trách nhiệm đối thoại và giải trình của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến đồng thuận.
Về vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định khá đầy đủ, chi tiết, đã bổ sung những quy định rất quan trọng như: Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Quy định giá đất bồi thường không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Quy định cụ thể điều kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, bồi thường tài sản gắn liền với đất; bồi thường khi thu hồi đối với từng loại đất và từng đối tượng cụ thể. Yêu cầu đảm bảo sinh kế cho người có đất thu hồi đã được quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn trong Luật Đất đai năm 2013 thông qua quy định về các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc làm; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở và một số khoản hỗ trợ khác. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái cư. Quy định khi thu hồi đất mà phải bố trí tái định cư thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và tổ chức thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng; phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư. Bổ sung quy định xử lý đối với trường hợp chậm chi trả bồi thường do lỗi của cơ quan Nhà nước và do lỗi của người có đất thu hồi gây để đảm bảo trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực thi công vụ cũng như tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Luật Đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể hơn về quyền tham gia của người dân trong quá trình lập và thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư; thẩm quyền[17].
Tóm lại, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các qui phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà nước thu hồi đất của người dân để giải phóng mặt bằng. Thu hồi đất là một yêu cầu tất yếu của quá trình công nghiệp, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những tác động tích cực nó mang lại trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế quốc dân thì thu hồi đất cũng để lại những ảnh hưởng tiêu cực nhất định đối với đời sống của người dân. Chính vì vậy, nhà nước cần phải có chính sách bồi thường thích đáng đối với những người dân bị thu hồi đất. Trong phạm vi chương 1 của luận văn đã làm rõ một số vấn đề lí luận về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng. Những lí luận này sẽ làm cơ sở cho những phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở những chương sau. Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật bồi thường nhà nước thu hồi đất
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất […]