Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ

Rate this post

Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ dưới đây nhằm giúp các bạn hiểu thêm về bảo hiểm, nếu bạn đang học chuyên ngành Tài chính ngân hàng vậy thì không nên bỏ qua bài mẫu này. Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông qua đó một cá nhân hay tổ chức (người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho một tổ chức khác (người bảo hiểm) để đổi lấy những cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra. Và mục đích bài mẫu đề tài Một số giải pháp nhằm phát triển và quản lý đại lý bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng đưa đến cho các bạn như thế nào, hãy cùng tìm hiểu kĩ hơn dưới đây nhé

Nội dung chính

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tổng công ty Cổ phần bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), tiền thân là Liên doanh Bảo hiểm Việt Úc – Liên doanh giữa BIDV và Tập đoàn Bảo hiểm QBE(Úc) được cấp phép và hoạt động tại thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 1999, với định hướng chuyển đổi sang mô hình Tập đoàn tài chính BIDV với hai lĩnh vực kinh doanh trụ cột là Ngân hàng và Bảo hiểm, BIDV đã mua lại toàn bộ phần vốn góp của QBE trong liên doanh và thành lập Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC). Kể từ khi thành lập đến nay, BIC đã có những bước tiến vượt bậc về quy mô kinh doanh, mạng lưới kênh phân phối. BIC còn là doanh nghiệp Bảo hiểm phi nhân thọ đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam có mạng lưới hoạt động phủ kín ba nước Đông Dương . Với mục tiêu phát triển bền vững và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, trong những năm qua BIC đã đầu tư mạnh mẽ nguồn lực vào phát triển các kênh phân phối.

Trong tổng doanh thu mà BIC đạt được trong những năm qua, chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là nhóm các sản phẩm bảo hiểm Tài sản kỹ thuât; xe cơ giới rồi đến nhóm sản phẩm bảo hiểm Hàng hải, tuy nhiên nhận thấy được sự khó khăn trong việc phát triển doanh thu từ các nhóm này do ảnh hưởng chung của nền kinh tế BIC đang từng bước chuyển dịch cơ cấu tỷ trọng các nhóm sản phẩm và hướng đến phát triển Nhóm sản phẩm bán lẻ như: Bảo hiểm xe máy; Bảo hiểm con người cá nhân…Nhưng để phát triển tốt được nhóm sản phẩm bán lẻ này cần phải phát triển được một mạng lưới đại lý rộng khắp và có chất lượng cao. BIC đang đẩy mạnh công tác phát triển mạng lưới đại lý bán lẻ tại các Công ty thành viên thông qua nhiều chương trình động lực dành cho đại lý và đầu mối quản lý đại lý tại Công ty thành viên. Công tác phát triển và quản lý đại lý đã được hầu hết các Công ty thành viên của BIC chú trọng nhưng tuỳ theo đặc điểm riêng từng địa bàn khác nhau nên mỗi đơn vị có những cách làm khác nhau. Vì vậy, trong quá trình thực hiện gặp rất nhiều khó khăn  và chưa thành công. Qua thực tế thực tập tại Công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng (BIC Hải Phòng) em rất trăn trở về vấn đề này do đó em quyết định chọn đề tài ” Một số giải pháp nhằm phát triển và quản lý đại lý bảo hiểm phi nhân thọ tại Công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng” làm khóa luận để có cơ hội nghiên cứu và đưa ra được giải pháp phù hợp để góp phần phát triển tốt mạng lưới đại lý cho Công ty và làm tăng doanh thu từ kênh phân phối này.

2. Mục tiêu nghiên cứu ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

  • Khóa luận tốt nghiệp đưa ra một số vấn đề lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm của công ty
  • Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả tình hình kinh doanh bảo hiểm qua các đại lý.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

  • Đối tượng nghiên cứu là các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ của công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng.
  • Về phạm vi nghiên cứu tác giả nghiên cứu trực tiếp tại đơn vị làm việc là công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng (BIC Hải Phòng) . Báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu về đối tượng nêu trong phạm vi một doanh nghiệp cụ thể, đó là báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán của Công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng trong 3 năm 2017, 2018,

4. Phương pháp nghiên cứu: 

Luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích đánh giá. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các sơ đồ, bảng biểu số liệu để làm tăng tính trực quan của bài.

5. Nội dung của đề tài gồm 3 chương chính

  • Chương 1: Cơ sở lý thuyết về phát triển và quản lý Đại lý bảo hiểm phi nhân thọ trong công ty bảo hiểm.
  • Chương 2: Thực trạng hoạt động đại lý bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng
  • Chương 3: Một sô giải pháp nhằm phát triển và quản lý đại lý bảo hiểm phi nhân thọ tại Công ty bảo hiểm BIDV Hải Phòng.

CHƯƠNG I:  CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ ĐẠI LÍ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TRONG CÔNG TY BẢO HIỂM

1.1. Một số nội dung cơ bản về sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ  ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm và bảo hiểm phi nhân thọ

 Trong đời sống cũng như trong sản xuất kinh doanh, con người thường gặp phải các rủi ro mang tính bất ngờ do nhiều nguyên nhân khác nhau không thể lường trước hết được, dẫn đến những tổn thất về mặt tài chính, gây khó khăn cho từng cá nhân cũng như các tổ chức. Con người đã có nhiều biện pháp để đối phó với rủi ro, nhưng trong các biện pháp đó thì bảo hiểm được coi là biện pháp có hiệu quả nhất. Bảo hiểm có rất nhiều tác dụng tích cực đối với nền kinh tế, là biện pháp hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả của rủi ro. Bảo hiểm có một số tác dụng cơ bản như sau:

Chuyển giao rủi ro: Bảo hiểm hoạt động giống như một cơ chế chuyển giao rủi ro. Cùng với việc đóng phí bảo hiểm, người được bảo hiểm đã chuyển giao những hậu quả rủi ro về tài chính sang công ty bảo hiểm.

Dàn trải tổn thất: Bảo hiểm có tác dụng dàn trải tổn thất tài chính của một số ít người sang cho một số đông người. Đây là tác dụng hết sức quan trọng của bảo hiểm. Khi đông người tham gia bảo hiểm, không phải tất cả mọi người tham gia đều chịu rủi ro tổn thất mà chỉ một số ít người trong số những người mua bảo hiểm phải chịu rủi ro tổn thất. Do đó, thông qua việc đóng góp một khoản tiền nhỏ, người tham gia bảo hiểm người tham gia bảo hiểm không những được bảo vệ về mặt thiệt hại tài chính mà còn góp phần giúp đỡ cho những người không may khác. Tác dụng này thể hiện rõ nguyên tắc lấy số đông bù số ít và nguyên tắc tương hỗ.

Giảm thiểu tổn thất thiệt hại: Trong quá trình triển khai các nghiệp vụ,các công ty bảo hiểm luôn chú ý đến việc tăng cường áp dụng các biện pháp phòng tránh cần thiết để bảo vệ đối tượng bảo hiểm, góp phần bảo đảm an toàn cho tính mạng, sức khỏe con người và của cải vật chất của xã hội.

Ổn định chi phí: Chi phí nhằm đảm bảo an toàn của các doanh nghiệp và cá nhân được xác định ngay từ đầu mỗi năm cho dù thiệt hại có xảy ra hay không. Nếu không có doanh nghiệp và cá nhân sẽ giứ lại được khoản phí bảo hiểm nhưng khi có tổn thất lớn xảy ra, doanh nghiệp hay cá nhân đó sẽ mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản. Bảo hiểm giúp cho các cá nhân và tổ chức bảo toàn được vốn, góp phần khắc phục những khó khăn về tài chính, không rơi vào tình trạng kiệt quệ về vật chất cũng như tinh thần.

An tâm về mặt tinh thần: Khi tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm đã chuyển một phần rủi ro của mình sang công ty bảo hiểm nên đã giải tỏa được nỗi sợ hãi, lo lắng về những tổn thất xảy ra đối với mình.

Ngoài các tác dụng trên thì bảo hiểm còn có tác dụng kích thích tiết kiệm; tích lũy vốn đầu tư phát triển kinh tế trong nước và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Các sản phẩm bảo hiểm vô cùng đa dạng và phong phú, nhưng nếu căn cứ theo tính chất của rủi ro bảo hiểm thì có thể phân chia bảo hiểm thành hai loại: bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Đây là cách phân chia giúp cho việc quản lý và phát triển thị trường bảo hiểm theo đúng hướng, đáp ứng được các yêu cầu của một thị trường bảo hiểm hiện đại.

Bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ đều nằm trong hệ thống bảo hiểm thương mại có tính chất là chuyển giao rủi ro từ bên tham gia bảo hiểm cho nhà bảo hiểm thông qua các hợp đồng bảo hiểm. Mục đích chủ yếu của bảo hiểm thương mại là bồi thường thiệt hại và chi trả tiền bảo hiểm để giúp bên tham gia bảo hiểm ổn định lại cuộc sống, góp phần khắc phục khó khăn khi rủi ro xảy ra. Tuy vậy, giữa bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ có những điểm khác nhau cần chú ý sau:

Bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm liên qua đến các rủi ro liên quan đến cuộc sống, sinh mạng và tuổi thọ của con người, các rủi ro này có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian, đối tượng bảo hiểm và được thực hiện theo kỹ thuật tồn tích có đặc trưng là thời gian dài, quỹ được tích lũy qua nhiêu năm sau đó mới được sử dụng để tri trả. Còn bảo hiểm phi nhân thọ gồm các bảo hiểm về tài sản, trách nhiệm và các bảo hiểm con người phi nhân thọ. Việc quản lý quỹ của bảo hiểm phi nhân thọ được thực hiện kỹ thuật phân chia, kỹ thuật này có đặc trưng là tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con người, kết quả thu chi của các bảo hiểm này được phân bổ hết trong từng năm.

Các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro, còn các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ mang tính thuần túy là rủi ro. Đây là sự khác nhau cơ bản nhất giữa bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ. Vì sự khác nhau này mà phương thức tình phí và mức phí cho các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ cũng rất khác nhau.

Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm, trong khi các sản phẩm của bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng mục đích là khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp phải rủi ro tổn thất. Bảo hiểm phi nhân thọ giúp khách hàng khắc phục hậu quả khi gặp rủi ro, tiết kiệm, mua sắm, giáo dục, …

Một công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ thì được gọi là công ty bảo hiểm phi nhân thọ, công ty hoạt động trong lĩnh vực nhân thọ thì được gọi là công ty bảo hiểm nhân thọ.

1.1.2. Sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm đặc biệt, có các đặc trưng cơ bản sau ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

* Tính vô hình (không định hình)

Khi mua bảo hiểm , mặc dù khách hàng nhận được các yếu tố hữu hình, đó là những giấy tờ trên đó có in biểu tượng của doanh nghiệp, in tên gọi của sản phẩm, những nội dung thoả thuận…Nhưng khách hàng không thể chỉ ra được màu sắc, kích thước, hình dáng hay mùi vị của sản phẩm. Nói một cách khác, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ‘vô hình’- người mua không thể cảm nhận được sản phẩm bảo hiểm thông qua các giác quan của mình.

Tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên khó khăn hơn. Nếu như đa số các sản phẩm hữu hình có thể được trưng bày trong các cửa hàng, được vẽ trên các biển hiệu hay tờ rơi quảng cáo, được trình bày công dụng trước khách hàng tiềm năng… do đó các sản phẩm này tác động đến các giác quan của khách hàng, mang đến cho khách hàng ‘cảm giác vật chất’; khách hàng dễ dàng nhận thấy được ‘sự tồn tại’ của sản phẩm. Nhưng các sản phẩm dịch vụ, trong đó có sản phẩm bảo hiểm thì không như vậy. Khi mua sản phẩm bảo hiểm, người mua chỉ nhận được những lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trước các rủi ro. Tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm còn làm cho khách hàng khó nhận thấy sự khác nhau giữa các sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm. Việc ‘kiểm nghiệm’ chất lượng thực sự của một sản phẩm bảo hiểm chỉ xảy ra khi có các sự kiện bảo hiểm làm phát sinh trách nhiệm bồi thường hay chi trả của công ty bảo hiểm. Chỉ đến lúc đó, khách hàng mới có thể so sánh, đánh giá chất lượng các sản phẩm bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau cung cấp.

Để khắc phục các vấn đề nảy sinh, các doanh nghiệp bảo hiểm cần sử dụng nhiều biện pháp nhằm tăng tính hữu hình cho sản phẩm, nhấn mạnh tới yếu tố chất lượng của sản phẩm như: in ấn hợp đồng bảo hiểm trên giấy chất lượng cao, sử dụng phông chữ đặc biệt để tăng tính hấp dẫn đối với bề ngoài của sản phẩm, xây dựng các chiến dịch truyền thông, gắn kết sản phẩm của doanh nghiệp với các hình ảnh hữu hình quen thuộc, thông qua những người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để tuyên truyền lợi ích của sản phẩm …

* Tính không thể tách rời và không thể cất trữ

Sản phẩm bảo hiểm không thể tách rời tức là việc tạo ra sản phẩm dịch vụ bảo hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó (quá trình cung ứng và quá trình tiêu thụ thống nhất với nhau). Thêm vào đó, sản phẩm bảo hiểm cũng không thể cất trữ được- có nghĩa là khả năng thực hiện dịch vụ bảo hiểm vào một thời điểm nào đó sẽ không thể cất vào kho dự trữ để sử dụng vào một thời điểm khác trong tương lai. Điều này hoàn toàn khác biệt với sản phẩm hữu hình. Đa số các sản phẩm hữu hình có thể được sản xuất với số lượng lớn, sau đó được lưu trữ trong kho để bán dần. Còn các sản phẩm dịch vụ thì không thể cất trữ được. Các nhân viên của doanh nghiệp cũng như các đại lý bảo hiểm chỉ có một số giờ nhất định trong một ngày để gặp gỡ khách hàng và số giờ sẵn có trong ngày không thể mang sang ngày khác. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng không thể ‘sản xuất’ trước một lượng lớn các cuộc kiểm tra, các khiếu nại hay các dịch vụ khách hàng khác và gửi chúng cho các khách hàng có yêu cầu.

Tính không thể tách rời và không thể cất trữ được đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải chú trọng đến thời gian dành cho bán hàng cá nhân và cần nâng cao năng lực của các bộ phận cung cấp các dịch vụ. Nói cách khác, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải đào tạo những nhân viên có thể nhận biết và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, từ đó bán được nhiều sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm cần cố gắng cân bằng nhu cầu của khách hàng với khả năng xét nhận bảo hiểm, khả năng quản lý khiếu nại, khả năng cung cấp các dịch vụ khách hàng … Nếu doanh nghiệp có dư thừa năng lực phục vụ sẽ chịu sự lãng phí do nguồn lực không được sử dụng hết. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không có đủ năng lực phục vụ, sẽ phải trì hoãn việc cung cấp các dịch vụ, và có thể sẽ bị mất khách hàng.

  • Tính không đồng nhất

Dịch vụ bảo hiểm cũng như các dịch vụ khác, chủ yếu được thực hiện bởi con người. Nhưng cho dù là người có kỹ năng đến đâu đi chăng nữa, thì dịch vụ họ thực hiện không phải lúc nào cũng nhất quán. Ví dụ, các đại lý khi bán sản phẩm có thể quên các chi tiết, có thể chậm trễ hoặc mất kiên nhẫn… Nhìn chung, chất lượng phục vụ của một cá nhân nào đó tại các thời điểm khác nhau, với các khách hàng khác nhau là khác nhau. Chất lượng phục vụ này phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ, các yếu tố xung quanh. Ngoài ra, giữa các cá nhân khác nhau, chất lượng phục vụ cũng khác nhau.

Do vậy, để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm sự không ổn định về chất lượng, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chú trọng đến công tác tuyển chọn, đào tạo và khuyến khích những người trực tiếp bán hàng. Lý do là khi mua một sản phẩm hữu hình, để đánh giá về sản phẩm, người tiêu dùng thường xem xét sản phẩm có đáp ứng được sự trông đợi của họ hay không. Còn khi mua và sử dụng một sản phẩm dịch vụ, người tiêu dùng thường căn cứ vào thái độ của nhân viên hoặc đại lý cung cấp dịch vụ đó để đánh giá về sản phẩm. ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

  • Tính không được bảo hộ bản quyền

Mặc dù trước khi tung một sản phẩm nào đó ra thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải đăng ký sản phẩm để nhận được sự phê chuẩn của cơ quan quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, việc phê chuẩn này chỉ mang tính nghiệp vụ kỹ thuật chứ không mang tính bảo hộ bản quyền. Do đó, các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh có thể bán một cách hợp pháp các sản phẩm bảo hiểm là bản sao của các hợp đồng bảo hiểm của các doanh nghiệp khác.

Vì vậy muốn nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, các doanh nghiệp phải làm chủ việc định phí bảo hiểm để có thể đưa ra sản phẩm ‘tương tự’ nhưng với mức giá cạnh tranh hơn. và quan trọng hơn là các doanh nghiệp bảo hiểm cần gia tăng các lợi ích bổ sung của sản phẩm như nâng cao chất lượng các dịch vụ đi kèm, thường xuyên nghiên cứu thị trường để đa dạng hoá sản phẩm …

  • Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ‘không mong đợi’

Một trong những đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi. Điều này thể hiện ở chỗ đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần tuý, mặc dù đã mua sản phẩm – nhưng khách hàng đều không mong muốn rủi ro xảy ra để được doanh nghiệp bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Bởi vì rủi ro một khi đã xảy ra thì đồng nghĩa với thương tích, thiệt hại thậm chí là mất mát, do đó số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, chi trả khó có thể bù đắp được. Đặc tính này cũng làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên vô cùng khó khăn.

Nói như vậy không có nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm không thể triển khai kinh doanh bảo hiểm. Đơn giản là vì mặc dù các cá nhân, các tổ chức ‘không mong đợi’ nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào. Do đó, nếu biết chọn đúng thời điểm để tuyên truyền về bảo hiểm thì việc khai thác sản phẩm sẽ vẫn thành công.

Xuất phát từ đặc điểm này nên sản phẩm bảo hiểm thường được xếp vào nhóm sản phẩm ‘được bán’ chứ không phải ‘được mua’. Nói cách khác, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của ‘nhu cầu thụ động’- người tiêu dùng không chủ động tìm mua, mà chỉ mua sau khi có các nỗ lực Marketing của người bán. Nhưng trong thực tế hiện nay, có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm thiết lập các trang web và bán bảo hiểm qua mạng. Điều này chứng minh rằng người tiêu dùng coi sản phẩm bảo hiểm là các sản phẩm thông thường-do đó họ chủ động tìm kiếm để mua chứ không phải là các sản phẩm của nhu cầu thụ động nữa

  • Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của ‘chu trình kinh doanh đảo ngược’

Nếu như trong các lĩnh vực kinh doanh khác, giá cả sản phẩm được xác định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh thì trong lĩnh vực bảo hiểm, phí bảo hiểm –giá cả của sản phẩm bảo hiểm được xác định dưạ trên những số liệu ước tính về các chi phí có thể phát sinh trong tương lai như chi bồi thường, chi hoa hồng, chi tái bảo hiểm…Trong đó khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất là chi bồi thường. Khoản chi này được xác định chủ yếu dựa trên số liệu thống kê quá khứ, và các ước tính tương lai về tần suất và quy mô tổn thất. Việc sử dụng số liệu thống kê trong quá khứ để xác định giá cả cho sản phẩm bảo hiểm trong tương lai đòi hỏi phải hết sức chặt chẽ nhằm giúp doanh nghiệp có thể bù đắp các chi phí có thể giúp phát sinh và thu được lợi nhuận hợp lý.

  • Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có ‘hiệu quả xê dịch’

Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí của người tham gia bảo hiểm, hình thành nên quỹ bảo hiểm, sau đó nếu có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm mới phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường hay chi trả. Do vậy với việc thu phí trước, nếu không có hoặc ít có rủi ro xảy ra, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn dự kiến. Ngược lại, nếu rủi ro xảy ra với tần suất hoặc với quy mô lớn hơn dự kiến, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thua lỗ. Điều này có nghĩa là, nếu như trong các lĩnh vực kinh doanh khác, hiệu quả kinh doanh có thể xác định được khá chính xác ngay tại thời điểm sản phẩm bảo hiểm được tiêu thụ thì trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, hiệu quả kinh doanh khó có thể xác định được ngay tại thời điểm sản phẩm được bán.

Về phía khách hàng, hiệu quả từ việc mua sản phẩm cũng mang tính ‘xê dịch’- không xác định. Điều này xuất phát từ việc không phải khách hàng nào tham gia bảo hiểm cũng ‘được nhận’ số tiền chi trả của doanh nghiệp bảo hiểm. Nói một cách khác, khách hàng chỉ thấy được ‘tác dụng’ của sản phẩm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với họ.

Với các đặc điểm trên của sản phẩm bảo hiểm, chúng ta có thể hiểu rõ hơn tại sao các doanh nghiệp bảo hiểm lại sử dụng các hệ thống phân phối sản phẩm bảo hiểm dưới đây:

Các đặc trưng cơ bản của bảo hiểm phi nhân thọ:

Bảo hiểm phi nhân thọ có những đặc trưng cơ bản sau:

  • Thứ nhất: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng ngắn hạn, thời hạn bảo hiểm thường là một năm hoặc ngắn hơn.
  • Thứ hai: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện được bảo hiểm phù hợp với nội dung hợp đồng đã ký kết xảy ra.
  • Thứ ba: Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm, thông thường phí tính cho từng năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo hiểm thường phụ thuộc vào mức độ rủi ro được bảo hiểm bao gồm các yếu tố sau:
  • + Số tiền bảo hiểm
  • + Thời hạn bảo hiểm
  • + Tuổi của người được bảo hiểm.
  • + Số năm đã sử dụng tài sản.
  • + Phạm vi bảo hiểm.

Thứ tư: Trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, còn các nghiệp vụ khác như tài sản, trách nhiệm dân sự giữa Người bảo hiểm, Người được bảo hiểm và Người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo hiểm đều có mối quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

1.1.3. Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

  • Căn cứ vào phương thức triển khai: Theo tiêu thức này, các nghiệp vụ bảo hiểm thành 2 nhóm:

+ Hình thức bảo hiểm tự nguyện: Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm mà hợp đồng bảo hiểm được ký kết theo ý nguyện của bên được bảo hiểm và hoàn toàn dựa trên nguyên tắc thoả thuận. Phần lớn các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ là bảo hiểm tự nguyện. Ví dụ: Bảo hiểm vật chất ô tô, mô tô; Bảo hiểm toàn diện học sinh; Bảo hiểm cháy;….

+   Hình thức bảo hiểm bắt buộc: Bao gồm những nghiệp vụ triển khai theo quy định của pháp luật và các bên buộc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ như: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới; Bảo hiểm trách nhiệm người vận chuyển hàng không; Luật kinh doanh bảo hiểm có quy định về các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc này.

  • Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm: Bảo hiểm phi nhân thọ được chia làm

3 loại:

  • + Bảo hiểm tài sản
  • + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
  • + Bảo hiểm con người.
  • * Bảo hiểm tài sản.

Các sản phẩm này có đối tượng bảo hiểm là các loại tài sản. Nhóm này được chi tiết theo từng loại tài sản cụ thể: Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường biển, đường bộ, đường sắt, đường không; Bảo hiểm vật chất các phương tiện vận chuyển; Bảo hiểm vật nuôi, cây trồng…

Các bảo hiểm về tài sản đều có một số đặc điểm chung sau:

Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi thường mà bên được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không được vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia bảo hiểm cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.

Áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, sau khi trả tiền bồi thường, người bảo hiểm sẽ được hưởng các quyền và hành động của người bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc bồi thường.

Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp, đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha mẹ… của người được bảo hiểm.

Bảo hiểm trùng: Trong bảo hiểm tài sản, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một rủi ro với những người bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng số tiền bảo hiểm từ tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tượng bảo hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trung.

Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của bên tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc chung, công ty bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy gian lận. Ngược lại, nếu các công ty bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể:

Số tiền bồi thường của từng hợp đồng = (Giá trị thiệt hại thực tế x số tiền bảo hiểm của từng hợp đồng) / Tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng

Trên thực tế, một trong số các công ty bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt hại thực tế, sau đó sẽ đòi lại các công ty khác phần trách nhiệm của họ.

* Bảo hiểm trách nhiệm dân sự.

Nhóm sản phẩm này có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự – trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại gây ra cho người khác. Các sản phẩm này được chi tiết theo từng loại hình: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện vận tải đối với người thứ ba; bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp… ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

Nghĩa vụ trách nhiệm dân sự thường có 2 loại:

Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng: Đây là trách nhiệm được xác định dựa trên cơ sở những thoả thuận dân sự giữa chủ thể này với chủ thể khác trong một hợp đồng. Những trách nhiệm này có thể được đưa ra trên cơ sở quy định của pháp luật nhưng cũng có khi chỉ đơn giản là những thoả thuận riêng.

Ví dụ: Hợp đồng vận chuyển hàng hoá từ cảng A đến cảng B. Hợp đồng vận chuyển hành khách (vé là hợp đồng). Hợp đồng thuê thuyền viên làm việc trên tàu.

Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng: Việc phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và việc xác định dựa trên cơ sở quy định chung của pháp luật. Pháp luật thừa nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về tài sản, sức khỏe, tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm và uy tín của mọi công dân. Vì vậy, pháp luật quy định mọi người phải có trách nhiệm chung là không làm phương hại về tinh thần và vật chất của người khác. Trong trường hợp có những hành vi trái với những quy định này thì người bị thiệt hại được pháp luật bảo vệ, có thể khiếu nại đòi bồi thường từ phía người gây thiệt hại.

Ví dụ: Lái xe ô-tô đâm đổ nhà dân, đâm phải người đang đi trên hè phố.

Do đóng cọc móng nhà làm rung nứt đổ nhà bên cạnh.

Tuỳ theo từng loại trách nhiệm mà người tham gia bảo hiểm muốn được bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ ký với khách hàng những hợp đồng bảo hiểm phù hợp.

Ví dụ: Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới bảo hiểm cho trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.

Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của kiến trúc sư bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong hợp đồng.

* Bảo hiểm con người

Đây là các sản phẩm bảo hiểm cho các rủi ro liên quan đến sức khoẻ, bệnh tật, tai nạn. Nhóm sản phẩm này lại được chi tiết thành bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật; bảo hiểm học sinh; bảo hiểm khách du lịch…

Mặc dù cũng là loại hình bảo hiểm con người, nhưng bảo hiểm con người phi nhân thọ trong BHTM có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khoẻ của con người. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “sống” và “chết” trong bảo hiểm nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ khá rõ còn tính chất tiết kiệm không được thể hiện.

Người được bảo hiểm thường được quy địn trong một khoảng tuổi nào đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những có độ tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó thực hiện. Chẳng hạn ở nước ta, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những em bé dưới 12 tháng tuổi và những người trên 65 tuổi.

So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ ngắn hơn và thường là 1 năm như: Bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật… Thậm chí có nghiệp vụ, thời hạn bảo hiểm chỉ trong vòng vài ngày, phí bảo hiểm thường được nộp 1 lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.

Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Chẳng hạn: bảo hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe được triển khai kết hợp với bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất thân xe trong trường hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới v.v…. Việc triển khai kết hợp náy sẽ làm cho các Công ty bảo hiểm tăng doanh thu và tiết kiệm được chi phí khai thác.

Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển ngành bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai, vừa rút kinh nghiệm, đến khi điều kiện kinh tế – xã hội đã chín muồi mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con người phi nhân thọ được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình BHXH, BHYT. Ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90,mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ.

1.1.4. Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh hoạt tùy theo tình hình cụ thể ở từng nước và ngay trong phạm vi một nước, cũng có sự khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số nội dung cơ bản như: phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo hiểm v.v…. Điều này cũng thật dễ hiểu vì BHTM là hoạt động mang tính kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình ký kết hợp đồng hoặc triển khai một sản phẩm mới đều phải tuân thủ khung pháp lý của mỗi nước. Vì thế nội dung của phần này chỉ xin được đề cập đến một số nghiệp vụ chủ yếu mang tính phổ biến.

a, Bảo hiểm tai nạn con người 24/24.

Bảo hiểm tai nạn cong người 24/24 là một nghiệp vụ của BHTM mà ở đây, nhà bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm (hay người được hưởng quyền lợi bảo hiểm) khi người được bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm vị bảo hiểm đổi lại người được bảo hiểm (hay người tham gia bảo hiểm) phải nộp phí bảo hiểm khi họ ký kết hợp đồng.

b, Bảo hiểm tai nạn hành khách

Đã trở thành quy luật , khi nền kinh tế – xã hội ngay càng phát triển, nhu cầu đi lại của nhân dân ngày càng tăng và lưu lượng hành khách tham gai giao thông ngày càng lớn. Kéo theo đó là số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông cũng ngày càng gia tăng và hết sức đa dạng, phong phú. Mặc dù các loại phương tiện tham gia giao thông ngày càng được cải tiến và hiện đại, cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn ngày một gia tăng đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tình trạng sức khoẻ của mọi hành khách. Theo số liệu thống kê trên thế giới, hàng năm có hơn 70% lượng hành khách tham gia giao thông đều là những người chủ chốt trong trong gia đình, cơ quan và doanh nghiệp, mỗi khi tai nạn giao thông không may đối với họ đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi gia đình, người dân, cơ quan, doanh nghiệp và toàn xã hội. Vì thế, bảo hiểm tai nạn hành khách ra đời là hết sức cần thiết mà ở nhiều nước trên thế giới đã được triển khai dưới hình thức bắt buộc.

c, Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.

Các rủi ro ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc phẫu thuật thường ít người tránh khỏi. Khi tình trạng này diễn ra đã làm phát sinh các chi phí điều trị và phẫu thuật, đồng thời còn làm người bệnh phải ngừng lao động hoặc mất khả năng lao động. Trong khi đó, chi phí cho các dịch vụ khám chữa bệnh, điều trị và phẫu thuật có xu hướng ngày càng tăng do kỹ thuật và phương tiện chẩn đoán của ngành y tế ngày càng tinh xảo và hiện đại, do các loại thuốc đặc trị ngày càng được sử dụng phổ biến. Để đối phó với tình hình này, nhiều người đã tìm đến bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật. Thực chất đây là loại hình bảo hiểm sức khoẻ, nhưng có phạm vi hẹp hơn, song nó đã mang lại lợi ích to lớn cho con người.

d, Bảo hiểm học sinh

Bảo hiểm trẻ em và bảo hiểm sinh viên đại học là những nghiệp vụ được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Đây là những nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp cả “tai nạn” và “ốm đau, bệnh tật”. Còn bảo hiểm học sinh thực chất là sự kết hợp giữa 2 nghiệp vụ, song thực tế triển khai ở nước ta lại tỏ ra rất phù hợp và có hiệu quả. Và đại lý bảo hiểm sẽ là nơi phát hành rộng rãi bảo hiểm đến người tiêu dùng

1.2. Một số nội dung cơ bản về đại lý bảo hiểm

1.2.1. Tổng quát về đại lý bảo hiểm ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

Đại lý đã trở thành một nghề không thể thiếu được trong hoạt động thương mại và khi đã trở thành một nghề kinh doanh có hiệu quả thì không chỉ các cá nhân hoạt động đại lý mà các tổ chức cũng tìm đến, xin trở thành một tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm.

Đối với DNBH, đại lý bảo hiểm chính là lực lượng tiếp thị có hiệu quả nhất, giúp doanh nghiệp bán sản phẩm. Thông qua bán hàng, đại lý giải thích cho khách hàng tiềm năng những điều họ chưa biết hoặc chưa rõ về sản phẩm cũng như thương hiệu của DNBH. Đại lý cũng là người trực tiếp nhận các Đại lý sẽ trực tiếp quan hệ với khách hàng để giải thích cho họ một cách rõ ràng nhất và từ đó lôi cuốn khách hàng tham gia bằng thái độ nhiệt tình của mình. Như vậy, sẽ giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, tiền của và còn tạo uy tín cho DNBH.

Mặt khác, do các SPBH phi nhân thọ là sản phẩm có thời hạn ngắn, thường là 1 năm nên sau khi hết hạn hợp đồng khách hàng có thể sẽ lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của DNBH khác, do đó doanh nghiệp cần phải có một bộ phận đại lý thường xuyên liên hệ với khách hàng và duy trì mối quan hệ mật thiết với khách hàng. Bộ phận đại lý này phải cung cấp cho khách hàng sự hỗ trợ chuyên môn đối với những rủi ro bất thường, nhờ đó sẽ thể hiện được chất lượng phục vụ tốt nhất với khách hàng và làm chọ có mong muốn tiếp tục tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp.

Ngoài ra, đại lý bảo hiểm cũng chính là người cung cấp dịch vụ cho xã hội, mang đến sự bảo đảm cho mỗi cá nhân, tổ chức và gia đình và sự yên tâm cho những người có trách nhiệm trong gia đình. Do vậy, xét trên một khía cạnh nào đó, ĐLBH còn góp phần đảm bảo an toàn xã hội.

Thực tế cho thấy, đại lý bảo hiểm đã và sẽ là một kênh phân phối quan trọng trong việc đưa SPBH đến với người dân. Đại lý bảo hiểm chính là cầu nối giữa khách hàng và công ty. Tư vấn cho khách hàng những SPBH phù hợp cũng như hướng dẫn khách hàng hoàn tất những thủ tục, giấy tờ trong quá trình giải quyết bồi thường và chi trả bảo hiểm . Sự xuất hiện của đại lý đã làm cho thông tin hai chiều giữa công ty bảo hiểm và khách hàng được thông suốt. Từ đó các công ty bảo hiểm hiểu biết thêm về khách hàng, có điều kiện nâng cao chất lượng phục vụ.

Dù một tổ chức hay một cá nhân là đại lý bảo hiểm cũng không được phép nhân danh công ty bảo hiểm để thực hiện các hoạt động khác mà luật pháp đã cấm hoặc hợp đồng đại lý không uỷ quyền.

1.2.2. Điều kiện để trở thành đại lý bảo hiểm

a) Được quy định tại điều 86, Luật kinh doanh bảo hiểm được quốc hội thông qua và có hiệu lực ngày 1/4/2001.

  • Tiêu chuẩn:

+ Cá nhân hoạt động đại lý phải có đủ các điều kiên sau:

  • Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt
  • Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
  • Có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cấp.

+ Tổ chức hoạt động đại lý phải có đủ các tiêu chuẩn sau:

  • Là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp.
  • Nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện như đối với cá nhân hoạt động đại lý Tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải đăng ký kinh doanh theo quy định của luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.

b. Không được phép hoạt động đại lý.

  • Không được làm đại lý bảo hiểm cho đồng thời hai doanh nghiệp bảo hiểm (trừ khi được hai doanh nghiệp cho phép) để đảm bảo sự ổn định của thị trường và tăng tính cạnh tranh lành mạnh. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị toà án tước quyền hành nghề vì phạm các tội theo quy định của pháp luật không được ký kết hợp đồng đại lý bảo hiểm.
  • Những đối tượng đã là đại lý bảo hiểm bị doanh nghiệp bảo hiểm buộc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm do vi phạm nghiêm trọng pháp luật và hợp đồng đại lý bảo hiểm, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày chấm dứt hợp đồng.

1.2.3. Đặc điểm công việc của đại lý bảo hiểm ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

  • Đại lý bảo hiểm bán sản phẩm vô hình: công việc của người đại lý bảo hiểm cũng giống như công việc của một người bán hàng ta thường thấy, nhưng do tính chất đặc biệt của loại hàng hoá bảo hiểm nên công việc bán hàng này đòi hỏi tính chuyên nghiệp và yêu cầu cao hơn các công việc bán hàng khác rất nhiều. Người mua không dễ gì cảm nhận được sản phẩm (chất lượng, độ bền, v.v…), do đó đòi hỏi người đại lý bảo hiểm phải có phẩm chất đạo đức tốt, gây được lòng tin với khách hàng, trí thông minh, sự sáng tạo, tính cần cù và tâm lý nghề nghiệp xác định rõ ràng.
  • Công việc của đại lý bảo hiểm mang ý nghĩa cao cả: Người đại lý bảo hiểm tự hào rằng không chỉ thực hiện các công việc được giao mà còn mang lại sự an tâm về mặt tinh thần, đem lại sự ấm no, hạnh phúc và tương lai tươi sáng cho mỗi khách hàng.
  • Công việc của đại lý bảo hiểm là dài hạn: hợp đồng đại lý bảo hiểm ký kết với Doanh nghiệp bảo hiểm là không xác định thời hạn. Việc khai thác hợp đồng bảo hiểm mới và tái tục hợp đồng là chu kỳ liên tục qua các năm.

1.2.4. Hợp đồng đại lý bảo hiểm

Mối quan hệ ràng buộc pháp lý giữa đại lý bảo hiểm và công ty bảo hiểm được thể hiện qua hợp đồng đại lý bảo hiểm. Để trở thành đại lý bảo hiểm, đại lý phải ký hợp đồng đại lý với công ty bảo hiểm và tuân thủ đúng những điều khoản trong hợp đồng đại lý. Nội dung hợp đồng đại lý bảo hiểm được quy định tại điều 87- Luật kinh doanh bảo hiểm. Hợp đồng đại lý bảo hiểm phải có các nội dung chủ yếu sau:

  • Tên, địa chỉ của đại lý bảo hiểm .
  • Tên , địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm;
  • Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm;
  • Nội dung và phạm vi hoạt động của đại lý bảo hiểm.
  • Hoa hồng đại lý bảo hiểm;
  • Thời hạn hợp đồng
  • Nguyên tắc giải quyết tranh chấp

Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng đại lý bảo hiểm, gây thiệt hại đến quyền, lơi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm thu xếp giao kết; đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm ( Điều 88_ Luật kinh doanh bảo hiểm)

1.2.5. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và đại lý bảo hiểm trong hoạt động bảo hiểm

Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm trong hoạt động đại lý bảo hiểm.

Căn cứ theo luật kinh doanh bảo hiểm, Nghị định 42/2001/NĐ-CP ngày 8/1/2001 của Chính Phủ, doanh nghiệp bảo hiểm có các quyền và nghĩa vụ sau liên quan đến hoạt động đại lý bảo hiểm:

Quyền của doanh nghiệp bảo hiểm

Điều 29, Nghị định 42CP Chính Phủ quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm có các quyền sau:

  • Lựa chọn đại lý bảo hiểm và ký kết hợp đồng đại lý bảo hiểm.
  • Quy định mức chi trả hoa hồng bảo hiểm cho hợp đồng đại lý bảo hiểm theo các quy định của pháp luật.
  • Nhận và quản lý tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp của đại lý bảo hiểm nếu có thoả thuận trong hợp đồng đại lý bảo hiểm.
  • Yêu cầu đại lý bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm thu được theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
  • Kiểm tra giám sát việc thực hiện hợp đồng đại lý bảo hiểm.
  • Được hưởng các quyền lợi hợp pháp khác từ hợp đồng đại lý bảo hiểm.

Doanh nghiệp bảo hiểm có toàn quyền lựa chọn, ký kết hợp đồng đại lý; chi trả hoa hồng; nhận và quản lý tiền ký quỹ của đại lý và các quyền lợi khác liên quan đến kết quả hoạt động của đại lý ( Điều 29, Nghị định 42)

Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm:

  • Tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo đại lý phù hợp với quy định của pháp luật.
  • Hướng dẫn và cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động đại lý bảo hiểm.
  • Thực hiện các trách nhiệm phát sinh theo hợp đồng đại lý bảo hiểm đã ký kết
  • Thanh toán hoa hồng theo thoả thuận trong hợp đồng đại lý bảo hiểm.
  • Hoàn trả cho đại lý bảo hiểm khoản tiền ký quỹ hoặc thế chấp bảo hiểm của mình gây ra theo thoả thuận trong hợp đồng đại lý bảo hiểm.
  • Chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với các hoạt động do đại lý bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện.
  • Quyền và nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm.
  • Quyền và nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm quy định tại điều 30, Nghị định 42/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính Phủ.

Quyền của người đại lý:

  • Lựa chọn và ký kết hợp đồng đại lý bảo hiểm đối với doanh nghiệp bảo hiểm theo đúng quy định của pháp luật.
  • Tham dự các lớp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đại lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức.
  • Hưởng hoa hồng và các quyền, lợi ích khác từ hoạt động đại lý bảo hiểm.
  • Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm hoàn trả tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp theo thoả thuận trong hợp đồng đại lý.

Nghĩa vụ của người đại lý:

  • Phải thực hiện đầy đủ và đúng đắn các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng đại lý với doanh nghiệp bảo hiểm, phải trung thực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm giao
  • Không được đồng thời làm đại lý bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác nếu không được sự chấp thuận bằng văn bản của doanh nghiệp bảo hiểm mà mình đang làm đại lý (Nếu trong hợp đồng đại lý có quy định điều này)
  • Cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, không hứa hẹn ngoài phạm vi cho phép, nếu sai phạm phải chịu trách nhiệm.
  • Nộp phí bảo hiểm về cho doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian cho phép; đồng thời chịu sự kiểm tra và giám sát của doanh nghiệp bảo hiểm, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và bảo mật thông tin theo quy định.
  • Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng đại lý trước thời hạn, đại lý phải khai báo chi tiết về tình trạng của các hợp đồng bảo hiểm mà mình quản lý ( nếu có).

1.3. Nội dung công tác phát triển và quản lý đại lý bảo hiểm phi nhân thọ trong công ty bảo hiểm

1.3.1. Khái niệm cơ bản về phát triển và quản lý bảo hiểm phi nhân thọ ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

Đại lý bảo hiểm là kênh phân phối rất hiệu quả và thường được tổ chức thành mạng lưới đại lý. Đại lý giúp doanh nghiệp bảo hiểm bán sản phẩm thông qua bán hàng đại lý giải thích cho khách hàng tiềm năng những điều họ chưa biết hoặc chưa rõ về sản phẩm cũng như thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm. Đại lý cũng là người tiếp nhận trực tiếp các thông tin phản hồi sản phẩm bảo hiểm về phía khách hàng. Vì vậy những ý kiến đóng góp của họ cho doanh nghiệp bảo hiểm về chính sách sản phẩm, phát hành và quản lý hợp đồng rất có giá trị thực tế, giúp doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời để nâng cao tính cạnh tranh. Phát triển đại lý bảo hiểm phi nhân thọ là việc mở rộng mạng lưới khai thác bảo hiểm có sự gia tăng về số lượng và chất lượng hay là sự gia tăng về chiều rộng và chiều sâu.

Đại lý bảo hiểm lại bao gồm rất nhiều loại, nhiều trình độ và hoạt động trên phạm vi rộng, vì vậy phải tổ chức và quản lý mạng lưới chặt chẽ và khoa học. Có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hoạt động, mới gắn kết được các thành viên trong từng tổ, nhóm đại lý, mới tạo nên sức mạnh tập thể trong khâu khai thác. Nếu quản lý tốt còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện cạnh tranh, tăng nhanh doanh thu và thị phần.

1.3.2. Lập kế hoạch phát triển và quản lý đại lý bảo hiểm phi nhân thọ

Lập kế hoạch là quá trình xác định các mục tiêu và phương hướng tốt nhất để đạt được các mục tiêu đó. Kế hoạch phát triển đại lý bảo hiểm có vai trò hết sức quan trọng đối với công ty bảo hiểm, nó có ảnh chịu ảnh hưởng và có ảnh hưởng tới chiến lược phát triển, quảng cáo, mở rộng thị thường của công ty. Để lập kế hoạch tuyển dụng đại lý trước hết phải tiến hành khảo sát thị trường. Nếu kết quả điều tra là có khả năng thiết lập mạng lưới đại lý bảo hiểm thì lập kế hoạch quản lý.

Cần tập trung vào việc lập kế hoạch tuyển dụng đại lý bao gồm: Tuyển dụng như thế nào? Số lượng đại lý cần tuyển dụng là bao nhiêu trên cơ sở xác định nguồn nhân lực cần có để đạt được doanh thu bảo hiểm kế hoạch trong thời gian tới. Đồng thời cần xem xét mô hình tổ chức mạng lưới đại lý, kế hoạch đánh giá, hình thức thưởng, phạt đối với hoạt động của đại lý. Lập kế hoạch sát với thực tế sẽ giảm bớt tính bất ổn của doanh nghiệp, sự chồng chéo và tránh lãng phí. Đồng thời còn giúp cho công tác kiểm tra, theo dõi được dễ dàng.

1.3.3. Công tác tuyển dụng và đào tạo đại lý bảo hiểm phi nhân thọ

Việc tuyển dụng đại lý được tiến hành dựa theo kế hoạch phát triển đại lý, vì đại lý là một công việc hết sức đặc biệt nên việc tuyển dụng cũng có vai trò hết sức quan trọng, nếu tuyển dụng đúng người thì sẽ đại lý sẽ làm việc lâu dài, hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả công ty và người lao động và ngược lại, nếu tuyển người không phù hợp với công việc này thì sẽ gây tốn kém, lãng phí cho công ty, lãng phí thời gian công sức cho người lao động, lãng phí sức lao động của xã hội.

  • Tuyển dụng đại lý là quá trình tìm kiếm những ứng cử viên phù hợp vào công việc phân phối và bán sản phẩm bảo hiểm.

Thông thường công tác tuyển dụng đại lý bảo hiểm được tiến hành qua các bước tương tự như trong qúa trình tuyển dụng các lao động khác của doanh nghiệp bảo hiểm có tính đến các đặc trưng của nghề đại lý. Gồm:

Bước 1: các DNBH sẽ tiến hành sơ tuyển đại lý bằng một hệ thống các tiêu chuẩn tuyển dụng mà doanh nghiệp đặt ra như tuổi đời, trình độ học vấn, sức khoẻ, phẩm chất đạo đức, khả năng giao tiếp…Nhưng cũng có khi các phòng bảo hiểm khu vực chủ động tìm đại lý thông qua hồ sơ xin việc, tiến hành sơ tuyển. Trong trường hợp này, phòng bảo hiểm khu vực sẽ giới thiệu sơ lược công việc cho đại lý và có thể cho họ thử việc. Căn cứ vào kết quả họ đạt được, phòng sẽ đánh giá người dự tuyển có phù hợp với yêu cầu đặt ra hay không, có chấp nhận được khó khăn, thách thức và quyết tâm làm việc hay không. Và nếu thoả mãn được yêu cầu thì họ sẽ được sơ tuyển.

Bước 2: DNBH sẽ tổ chức đào tạo đại lý theo các ngạch bậc cơ bản đối với những người đã được sơ tuyển, sau đó họ sẽ được cấp chứng chỉ đủ tiêu chuẩn hoạt động ĐLBH. Có thể nói rằng, quá trình đào tạo đại lý đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý đại lý vì nó quyết định chất lượng hoạt động của đại lý. Và để có thể tổ chức đào tạo đại lý thì các DNBH cần có đầy đủ các điều kiện về chương trình đào tạo, cán bộ đào tạo và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo. Trong đó, DNBH cần chú trọng vào nội dung đào tạo với các nội dung cơ bản sau: ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

  • Giới thiệu về DNBH, SPBH và hướng dẫn cách hoà nhập với các đồng nghiệp khác.
  • Giới thiệu về nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền lợi của DNBH cũng như của ĐLBH, đặc biệt là tư cách đạo đức nghề nghiệp của đại lý và pháp luật kinh doanh bảo hiểm…
  • Giới thiệu đặc điểm của khách hàng và các đối thủ cạnh tranh. ĐLBH phải được tìm hiểu kỹ về các loại khách hàng khác nhau cũng như nhu cầu, động cơ và thói quen tiêu dùng của họ. Đồng thời, đại lý cũng được giới thiệu về chiến lược và phương châm của DNBH và các đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp.
  • Không những huấn luyện cho đại lý kỹ năng bán hàng mà DNBH phải đi sâu cả vào công tác marketing, tìm hiểu khai thác thị trường và kỹ năng khai thác. Bên cạnh đó, đại lý cũng được đào tạo các nguyên lý cơ bản về nghệ thuật “bán hàng” và hướng dẫn qui cách ký hợp đồng, cách phân phối thời gian hợp lý, cách sử dụng công tác phí…
  • Trong thời gian đào tạo, DNBH cũng cho học viên thực hành kỹ năng khai thác, tiếp cận khách hàng… ngay tại khoá học.

Bước 3: Các DNBH tiến hành ký hợp đồng học việc với những học viên đã có chứng chỉ đại lý theo qui định của Nhà nước. Đồng thời các đại lý phải ký quỹ với DNBH theo qui định của Nhà nước và số tiền này sẽ được hoàn trả cả gốc và lãi cho đại lý khi họ chấm dứt hợp đồng đại lý.

Bước 4: Ký hợp đồng đại lý chính thức. Đây là bước cuối cùng của công tác tuyển dụng đại lý. Nếu đại lý hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong hợp đồng học việc thì sẽ được DNBH ký hợp đồng đại lý chính thức và được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi của nhân viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra, các đại lý bảo hiểm cũng thường xuyên được đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ và cập nhật những kiến thức về nghiệp vụ và kỹ năng giao tiếp, nghệ thuật bán hàng trong suốt quá trình hoạt động. Và những đại lý có khả năng sẽ tiếp tục được đào tạo nâng cao trình độ hơn nữa.

Quá trình đào tạo đại lý có thể được chia thành các cấp như đào tạo đại lý cấp 1, đào tạo đại lý cấp 2, đào tạo đại lý cấp 3 và nội dung của mỗi cấp đào tạo là khác nhau.

  • Đào tạo đại lý cấp 1: Đây là chương trình đào tạo được tiến hành trước khi ký hợp đồng đại lý và chương trình này tập trung chủ yếu vào giới thiệu nghề, cung cấp các kiến thức cơ bản về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng, các SPBH đang triển khai và các kỹ năng khai thác, đánh giá rủi ro ban đầu cơ bản. Sau khi kết thúc khoá học, học viên sẽ phải làm bài kiểm tra và nếu đạt sẽ được cấp chứng chỉ đào tạo đại lý cấp 1-điều kiện tiên quyết bắt buộc phải có đối với các cá nhân muốn hoạt động đại lý.
  • Đào tạo đại lý cấp 2: Chương trình đào tạo này nhằm nâng cao kỹ năng khai thác, kiến thức về bảo hiểm và khả năng quản lý. Đối tượng tham gia là những đại lý có thâm niên công tác tối thiểu là 1 năm và có kết quả hoạt động, khả năng quản lý và ý thức tổ chức kỷ luật đáp ứng được các yêu cầu của
  • Đào tạo đại lý cấp 3: Đây là chương trình nhằm nâng cao kiến thức

về bảo hiểm, đặc biệt là kỹ năng quản lý và điều hành công việc. Để có thể tham gia chương trình đào tạo này phải là những đại lý có thâm niên công tác tối thiểu 2 năm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, nhưng đồng thời phải có chứng chỉ đào tạo đại lý cấp 2. Theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm thì chỉ những người đã được cấp chứng chỉ hành nghề của công ty bảo hiểm hoặc của Hiệp hội Bảo Hiểm Việt Nam mới được phép làm đại lý bảo hiểm. Vì vậy, đối với những người mới tham gia làm đại lý cho công ty bảo hiểm thì việc đào tạo và cấp chứng chỉ là bắt buộc. Ngoài việc để tuân thủ theo quy định thì việc đào tạo nghiệp vụ cho đại lý còn nâng cao kỹ năng khai thác sản phẩm bảo hiểm cho đại lý, tạo cơ hội học tập và chứng tỏ sự quan tâm của công ty tới đội ngũ khai thác này.

1.3.4. Một số mô hình quản lý đại lý bảo hiểm phi nhân thọ ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

Do công tác bán bảo hiểm ngày càng đòi hỏi phải có sức mạnh tập thể nên không thể thiếu sự ủng hộ từ các cán bộ, nhân viên khác trong DNBH. Vần đề quan trọng đặt ra là phải tổ chức đội ngũ bán bảo hiểm theo mô hình nào để đạt hiệu quả cao nhất. Thông thường, có ba cách tổ chức mạng lưới đại lý chủ yếu: tổ chức theo khu vực địa lý, tổ chức theo nhóm đại lý và tổ chức theo nhóm khách hàng.

  • Mô hình tổ chức theo khu vực địa lý:

Mô hình tổ chức theo khu vực địa lý thường được áp dụng với công tác quản lý ĐLBH trên qui mô rộng. Mô hình tổ chức theo khu vực địa lý có một vài ưu điểm:

  • DNBH có mạng lưới bán hàng rộng khắp, tạo khả năng thâm nhập thị trường và đẩy mạnh việc tiêu thụ
  • Chuyên môn hoá sâu về nhân sự qua đó giảm bớt được sự quá tải công việc tại văn phòng và việc áp dụng các biện pháp, chính sách đồng bộ rất thuận lợi.
  • Phát hiện kịp thời những SPBH tốt, xấu tại các vùng lãnh thổ nhất định. Nhờ đó dễ dàng kiểm soát nhu cầu bảo hiểm ở từng vùng địa lý khác nhau để có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp.

Bên cạnh những ưu điểm nổi trội thì mô hình này còn bộc lộ 1số nhược điểm:

  • Chi phí quản lý cao và trùng lặp giữa các bộ phân khi giải quyết công việc.
  • Thông tin giữa khách hàng và các nhà quản trị cấp cao thường bị chậm trễ và đôi khi thiếu chính xác.
  • Khả năng cải tiến sản phẩm, khả năng thích ứng với các mối đe doạ của toàn DNBH kém.
  • Mô hình tổ chức theo nhóm đại lý:

Mô hình này có thể áp dụng với công tác quản lý ĐLBH trên cả qui mô rộng và hẹp. Mô hình tổ chức theo nhóm đại lý đã biểu hiện được một số ưu điểm:

  • Tiết kiệm chi phí quản lý.
  • Mạng lưới đại lý rộng khắp nên có điều kiện bao quát thị trường và tăng doanh thu bảo hiểm.
  • Các tổng ĐLBH thường được bố trí theo khu vực nên có thể nắm được đặc tính của từng khu vực, tạo điều kiện khai thác theo chiều sâu và có chiến lược khai thác theo từng khu vực.
  • Dễ nhận ra sự phù hợp của các SPBH trên các khu vực khác

Ngoài ra, còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các chính sách và biện pháp đồng bộ trong DNBH.

Nhưng mô hình tổ chức này cũng bộc lộ một vài nhược điểm:

  • Thông tin giữa khách hàng và các nhà quản trị cấp cao thường bị chậm trễ và đôi khi thiếu chính xác.
  • Khả năng cải tiến sản phẩm và thích ứng với các mối đe doạ của toàn DNBH kém.
  • Dễ gây trùng lặp giữa các bộ phận khi giải quyết công việc. Lực lượng bán hàng bị phân tán.
  • Mô hình tổ chức theo nhóm khách hàng:

Mô hình tổ chức theo nhóm khách hàng có những ưu điểm sau:

  • Tạo điều kiện chuyên môn hoá trong khâu bán hàng khi mà nhân viên bán hàng được đào tạo chuyên sâu nên kỹ năng bán hàng rất cao.
  • Người bán hiểu sâu sắc các đặc điểm và nhu cầu của khách hàng nên sẽ đưa ra các đề nghị xác thực với DNBH làm cho SPBH có tính hấp dẫn cao hơn đối với từng nhóm khách hàng và gây ấn tượng sâu sắc với họ.
  • Hiệu quả bán bảo hiểm cao và nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhược điểm của mô hình này:
  • Khó đạt được sự đồng bộ của cùng một loại SPBH vì với cùng một loại sản phẩm nhưng yêu cầu của khách hàng trong từng nhóm thị trường lại khác nhau.
  • Khó cải tiến
  • Gây căng thẳng trong bộ phận quản lý lực lượng bán hàng khu vực vì cùng một lúc phải chịu sự chỉ đạo của nhiều phòng ban với các thông tin khác nhau. Đồng thời, thiếu sự linh động trong việc phục vụ khách hàng và phân công công việc khó khăn, có thể gây ra hiện tượng thừa-thiếu nhân lực.

Tóm lại, DNBH rất chú trọng vào việc lựa chọn cách tổ chức mạng lưới ĐLBH ra sao vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh, quy mô hoạt động, số lượng và chất lượng ĐLBH…Do đó, khi tiến hành lựa chọn cách tổ chức mạng lưới ĐLBH thì DNBH phải xem xét kỹ đến từng yếu tố, ảnh hưởng của nó như thế nào đối với hoạt động của mạng lưới đại lý để có thể chọn một mô hình tổ chức mạng lưới phù hợp với doanh nghiệp mình.

1.3.5. Công tác đánh giá thực hiện công việc của đại lý bảo hiểm ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

Đánh giá thực hiện công việc của đại lý bảo hiểm nhằm đánh giá hiệu quả làm việc của đại lý, để ra các quyết định quản lý đối với đại lý trong thời gian tới xem có nên tiếp tục sử dụng đại lý đó nữa hay không, nâng bậc hay hạ bậc.

“Đánh giá thực hiện công việc là sự đánh giá có hệ thống và chính thức tình hình thực hiện công việc của người lao động trong quan hệ so sánh với các tiêu chuẩn đã được xây dựng và thảo luận về sự đánh giá đó với người lao động”

Việc đánh giá thực hiện công việc của đại lý nhằm thực hiện các chương trình thi đua khen thưởng, đánh giá xếp hạng đại lý. Trong các tiêu chí đánh giá thì doanh thu khai thác là một chỉ tiêu quan trọng nhất, ngoài ra cũng còn căn cứ vào hiệu quả của các hợp đồng khai thác, tỷ lệ khách hàng tái tục, tỷ lệ doanh thu khai thác mới trong tổng doanh thu, ý thức tổ chức kỷ luật, sự đánh giá của đồng nghiệp và cán bộ phụ trách.

1.3.6. Công tác trả thù lao và tạo động lực cho đại lý bảo hiểm.

“Công tác trả công lao động trong doanh nghiệp trong doanh nghiệp là hoạt động chi trả cho người các quyền lợi mà họ xứng đáng được hưởng so với những gì mà họ đã cống hiến cho doanh nghiệp, nhằm mục đích mang lại sự thỏa mãn cho người lao động trong doanh nghiệp” .

Thù lao cho đại lý bảo hiểm là hoa hồng. Hoa hồng là khoản chi cho đại lý khi đại lý khai thác được một hợp đồng bảo hiểm, được tính theo phần tỷ lệ phần trăm so với giá trị hợp đồng. Tỷ lệ chi hoa hồng của mỗi công ty bảo hiểm do công ty đó quyết định nhưng không được vượt quá mức trần do luật kinh doanh bảo hiểm quy định.

Ngoài khoản chi hoa hồng ra thì để thu hút và giữ chân đại lý làm việc lâu dài cho mình, các công ty bảo hiểm còn thực hiện thêm nhiều hình thức tri trả thù lao khác như: các khoản tiền thưởng, các khoản tiền hỗ trợ thu nhập, các khoản chi quản lý, …

“Động lực lao động là sự khao khát và tự nguyện của mỗi người lao động để tăng cường nỗ lực nhằm hướng tới việc đạt được các mục tiêu của tổ chức”. Tạo động lực có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức, giúp tăng cường sức cạnh tranh của tổ chức và giảm bớt sự giám sát.

Một công ty bảo hiểm chỉ có thể đạt được hiệu quả công việc cao khi có những đại lý làm việc tích cực và sáng tạo. Để có được điều đó thì công tác tạo động lực trong lao động cho đại lý là hết sức cần thiết. Động lực lao động cá nhân là kết quả của của rất nhiều nguồn lực trong con người và trong môi trường, điều kiện làm việc. Động lực lao động là kết quả của sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố như văn hóa tổ chức, cách thức lãnh đạo quản lý, cấu trúc của tổ chức và nhiều yếu tổ khác liên quan. Để tạo được động lực cho đại lý thì cán bộ quản lý cần phải biết kết hợp hài hòa các yếu tố đó.

1.3.7. Kiểm tra và đánh giá hoạt động đại lý bảo hiểm phi nhân thọ

Kiểm tra đại lý là quá trình xem xét, đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện các nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của đại lý nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu và kế hoạch do doanh nghiệp bảo hiểm đặt ra.

Thường các đại lý làm việc tại nơi có thể đón tiếp được khách hàng hoặc đến nhà khách hàng. Do đó, DNBH cần kiểm tra hoạt động của đại lý về nhiệm vụ và quyền hạn, sau đó tiến hành đánh giá hoạt động của đại lý. Việc đánh giá này thường được thực hiện qua một vài chỉ tiêu khác nhau đối với mỗi đại lý. Đó có thể là các chỉ tiêu: số hợp đồng khai thác mới trong kỳ, số hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực đến cuối kỳ, số phí bảo hiểm đã thu trong kỳ, tổng số tiền bảo hiểm khai thác được, số đại lý còn hoạt động hoặc đã nghỉ việc, năng suất khai thác, cơ cấu đại lý, tỷ lệ đại lý vi phạm kỷ luật trong kỳ…

Khi đại lý hoạt động tốt, hoàn thành nhiệm vụ được giao sẽ được khen thưởng bằng các hình thức khen thưởng hàng tháng, hàng quí, nửa năm hoặc hàng năm căn cứ vào tình hình thực tế tại các đơn vị. Ngoài ra, còn có các đợt phát động thi đua đột xuất và cũng có các phần thưởng xứng đáng đối với các đại lý có sáng kiến mới, mang lại hiệu quả cao, có thành tích xuất sắc trong hoạt động khai thác bảo hiểm…

Ngược lại, khi đại lý không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có những vi phạm hay biểu hiện tiêu cực, làm ảnh hưởng đến uy tín của DNBH thì sẽ bị áp dụng các hình thức chế tài như xử phạt có thể là: trừ tiền hoa hồng đại lý được hưởng hàng tháng; các trường hợp vi phạm nghiêm trọng như chiếm dụng phí bảo hiểm, làm mất hoá đơn thu phí bảo hiểm, mất biên lai ấn chỉ… ngoài việc bị xử lý theo qui định của Nhà nước, sẽ bị phạt trừ tiền nặng hơn theo qui định của cơ quan thuế; đại lý phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những vấn đề liên quan đến đối tượng bảo hiểm mà mình đã khai thác sai qui trình do DNBH ban hành; buộc chấm dứt hợp đồng đại lý đối với các đại lý không đạt chỉ tiêu tối thiểu trong 3 tháng liên tục.

1.3.8. Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển và quản lý đại lý trong công ty bảo hiểm ( Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ )

Trong thực tế thì có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến công tác phát triển lực lượng đại lý trong một công ty bảo hiểm, cũng giống như các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nói chung, ta có thể phân chia thành hai nhóm như sau:

Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp như là:

  • Bối cảnh kinh tế xã hội, chu kỳ sản xuất và chu kỳ kinh doanh: kinh tế phát triển nhu cầu phát triển sản xuất tăng cao, kéo theo nhu cầu ngày càng cao về các dịch vụ bảo hiểm, đời sống người dân được nâng cao thì nhu cầu về bảo hiểm cũng tăng tạo thêm cơ hội cho các doanh nghiệp trong ngành và cơ hội nghề nghiệp cho người lao động.
  • Pháp luật của nhà nước: luật lao động, luật kinh doanh đặc biệt là các luật và văn bản liên quan tới lĩnh vực tài chính bảo hiểm: Các quy định của Pháp luật ảnh hưởng rất lớn đến Các doanh nghiệp bảo hiểm đặc biệt trong việc ban hành Nghị định; Thông tư quy định và hướng dẫn thực hiện tham gia bảo hiểm bắt buộc theo đúng đối tượng và phí bảo hiểm bắt buộc. Như thế thì sẽ tạo thêm cơ hội cho các doanh nghiệp trong ngành trong việc gia tăng doanh thu bảo hiểm và mở rộng quy mô.
  • Đối thủ cạnh tranh: Nếu uy tín và chính sách đại ngộ đối với đại lý của các Công ty bảo hiểm khác tốt hơn sẽ lôi kéo được những đại lý của Công ty mình; ngoài ra còn ảnh hưởng đến công tác phát triển đại lý của Công ty.
  • Khoa học kỹ thuật : Lĩnh vực này phát triển tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong công tác quản lý doanh thu; số lượng đại lý khi mô hình quản lý đại lý ngày một lớn.
  • Và khách hàng: Số lượng khách tiềm năng càng lớn tạo cơ hội cho các Doanh nghiệp bảo hiểm phát triển lực lượng đại lý để gia tăng doanh thu. Các yếu tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp như là: Mục tiêu của công ty, các công ty bảo hiểm đều đặt ra mục tiêu cho mình, để thực hiện mục tiêu đó thì cần có một lực lượng khai thác viên nhất định, trong đó thì đại lý đóng vai trò như thế nào. Ngoài ra, chính sách, chiến lược phát triển đại lý của công ty như tuyển dụng, thù lao, phúc lợi, văn hóa doanh nghiệp; các tổ chức công đoàn, đoàn thể và điều kiện làm việc cũng có ảnh hưởng đến công tác phát triển đại lý bảo hiểm của công ty.

Các yếu tố bên ngoài là những yếu tố mà doanh nghiệp có thể tác động tới nhưng sẽ khó khăn hơn, còn các yếu tố bên trong là các yếu tố mà doanh nghiệp có thể chủ động thay đổi sao cho phù hợp với từng gia đoạn phát triển và điều kiện hoàn cảnh cụ thể . Vì vậy các công ty bảo hiểm cần đặc biệt chú ý tới các yếu tố bên trong này, ngày càng hoàn thiện chúng nhằm duy trì và phát triển được một lực lượng đại lý bảo hiểm ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Mời bạn tham khảo thêm:

→ Khóa luận: Thực trạng quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Khóa luận: Hoạt động quản lý phát triển bảo hiểm phi nhân thọ […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993