Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ – Những đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với văn hóa du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài người. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo luôn ảnh hưởng đến đời sống chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội và tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc.

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Trong đó có 6 tôn giáo lớn là Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành, Hồi giáo với hàng chục triệu tín đồ. Phật giáo và Thiên Chúa giáo là hai tôn giáo lớn nhất ở nước ta đều du nhập từ ngoài vào, đã ít nhiều chịu ảnh hưởng phong tục, tập quán và bản sắc văn hoá Việt Nam. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đời sống nhân dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo.

Tôn giáo không chỉ là nơi lưu giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể mà còn làm cho văn hoá các dân tộc được bảo tồn. Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người mà tín ngưỡng, tôn giáo đã tô đượm cho văn hoá dân tộc nhiều sắc màu. Các cơ sở thờ tự của tôn giáo thường là nơi diễn ra nghi lễ, thờ phụng của tín đồ tôn giáo, đồng thời cũng là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá tâm linh. Hiện cả nước có khoảng 40.000 di sản vật thể và phi vật thể, là một kho tàng văn hóa tâm linh vô cùng quý giá. Nếu tổ chức khai thác tốt, các di sản này sẽ thúc đẩy ngành du lịch nước ta phát triển xứng với tiềm năng của đất nước, đặc biệt là nguồn tài nguyên quý báu để phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Trong đó, vùng đồng bằng Bắc Bộ được đánh giá là vùng có tiềm năng dồi dào cho việc phát triển loại hình du lịch còn rất mới mẻ này.

Chính vì những lí do trên, em đã quyết định chọn để tài: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc Bộ – Những đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với văn hóa du lịch làm đề tài tốt nghiệp.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề

Vấn đề tôn giáo là một vấn đề đã được nghiên cứu ở một số đề tài như luận văn: “Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của sinh viên Trần Thị Quỳnh Nga – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội; Niên luận: “Nguồn gốc ra đời của tôn giáo và sự tồn tại của tôn giáo trong thời đại ngày nay”; luận văn “ Tìm hiểu một số giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ phát triển du lịch” của sinh viên Phạm Thị Duyên – Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng. Vấn đề lễ hội cũng có một số để tài nghiên cứu như: “Vai trò của lễ hội tôn giáo với văn hoá Việt Nam theo quan điểm về tôn giáo của e. durkheim” của sinh viên Trần Thị Phương – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Trên các báo, tạp chí cũng có những bài nghiên cứu về các vấn đề trên, nhưng cho đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ về vấn đề tôn giáo và những giá trị văn hóa của tôn giáo gắn với việc phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Vì vậy, việc chọn đề tài: “Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ – Những đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với văn hóa du lịch” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đối với em là một khó khăn về mặt tài liệu tham khảo nhưng cũng là một thuận lợi vì đây là đề tài mới, không bị trùng lặp với những người đi trước.

3. Mục đích nghiên cứu Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Mục đích của khóa luận là nghiên cứu một số vấn đề về tôn giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm khai thác giá trị của văn hóa tôn giáo đối với việc phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh ở khu vực này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là một số vấn đề về tôn giáo, đặc biệt là những giá trị của văn hóa tôn giáo đối với việc phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh.

Phạm vi nghiên cứu: Vùng đồng bằng Bắc Bộ

5. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nêu bật những vấn đề lí luận, đồng thời sử dụng những kết quả từ việc khảo sát thực tế để chứng minh.

6. Dự kiến đóng góp của đề tài

Đề tài đã bước đầu nghiên cứu một cách tương đối toàn diện về vấn đề tôn giáo và những giá trị văn hóa của tôn giáo gắn với việc phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Nếu được áp dụng thành công trong thực tiễn thì nội dung của khóa luận sẽ đóng góp một phần vào việc phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh đang rất dồi dào tiềm năng của vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và trong phạm vi cả nước nói chung. Đồng thời khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu những vấn đề về tôn giáo, về du lịch, đặc biệt là nghiên cứu về loại hình du lịch văn hóa tâm linh.

7. Bố cục khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương chính:

  • Chương I. Một số vấn đề lí luận.
  • Chương II. Du lịch và tôn giáo qua khảo sát thực tế ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
  • Chương III. Một số đề xuất nhằm khai thác giá trị của văn hóa tôn giáo với việc phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh ở đồng bằng Bắc Bộ.

CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN

1.1. Vài nét về tôn giáo

1.1.1. Khái niệm tôn giáo Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội do con người sáng tạo ra và xuất hiện khá sớm trong xã hội loài người, nó tồn tại phố biến ở tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới.

Sự lý giải về các hiện tượng tôn giáo đã được con người đề cập đến từ rất sớm trong lịch sử. Điều này thể hiện rõ trong các trào lưu tư tưởng của các nhà thần học, trong hệ thống triết học duy vật và duy tâm.

Với những góc độ và cách tiếp cận khác nhau, người ta đưa ra nhiều quan niệm về tôn giáo như :

Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được giới nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất nhiêu. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:

  • Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”.
  • Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”.
  • Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”.
  • Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”.

Vậy Tôn giáo là gì? Trong tác phẩm Chống Đuyrinh khi phê phán Đuyrinh trên nhiều lĩnh vực triết học, CNXH khoa học, Kinh tế chính trị học và cả tôn giáo, bằng lý luận khoa học duy vật lịch sử Ăngghen đã đưa ra quan điểm của mình về tôn giáo một cách khái quát và khoa học. Các nhà nghiên cứu tôn giáo Mác xít sau này đã coi đây là định nghĩa kinh điển về tôn giáo:

“Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.

Định nghĩa của Ăngghen đã chỉ ra rằng tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội về mặt bản chất là sự phản ánh hư ảo, là thế giới quan lộn ngược do chính con người sáng tạo ra. Đồng thời ông chỉ ra nội dung và đối tượng ảo tưởng của tôn giáo là những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ thông qua hình thức biểu hiện “đó là những lực lượng trần thế đã mang hình thức của những lực lượng siêu trần thế”. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Với định nghĩa trên Ăng ghen đã giải đáp ba vấn đề cơ bản: Tôn giáo là gì ? Nó phản ánh cái gì ? Nó phản ánh như thế nào?. Định nghĩa của Ăngghen về tôn giáo được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao và coi đó là định nghĩa kinh điển thể hiện rõ nhất quan điểm Mác xít về bản chất của tôn giáo. Nó vừa có tính chất bao quát được hiện tượng tôn giáo, đồng thời chỉ ra được cái đặc trưng cũng như bản chất nhất của tôn giáo. Đó là niềm tin hay thế giới quan hoang đường hư ảo của con người.

Tuy nhiên nếu chúng ta chỉ xem xét tôn giáo là một sự phản ánh hư ảo thì chưa đủ, vì rằng cái bản chất nhất, cốt lõi trong quan niệm tôn giáo là quan niệm thượng đế, thần linh cái siêu việt. Nhưng thần linh trong ảo tưởng của con người đã có hình thức của sự tồn tại vật chất, điều này thể hiện qua bài trí thần điện để thờ, chỗ tụng niệm cho tín đồ, lễ bái và hoạt động tôn giáo được tiến hành một cách có tổ chức. Đặc biệt là với tôn giáo hiện đại, bản thân nó có kết cấu hết sức phức tạp, đòi hỏi chúng ta khi tìm hiểu các hiện tượng tôn giáo phải có một cái nhìn đa chiều và toàn diện.

1.1.2. Khái quát chung về tình hình tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới. Các tôn giáo lớn trên thế giới được du nhập vào Việt Nam rất sớm như Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo …. Nó tồn tại suốt một thời gian dài với lịch sử dân tộc.

Tuy nhiên, trong lịch sử cũng như hiện nay, dân tộc Việt Nam không có quốc đạo, mà có rất nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau cũng tồn tại, trong đó có cả tôn giáo truyền thống, tôn giáo nội sinh lẫn tôn giáo ngoại nhập. Trên bầu trời thần thánh, không chỉ có Đức Phật, Đức Chúa mà còn có cả một phức hệ thần thánh với nhiên thần, nhân thần và nhiều nhân vật nửa lịch sử nửa huyền thoại.

Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên Chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:

  • Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ…
  • Thiên Chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, thành phố Cần Thơ…
  • Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang.. .
  • Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
  • Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước… và một số tỉnh phía Bắc.
  • Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận…

Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu sơn kỳ hương, Tứ ân hiếu nghĩa, Tổ tiên chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái tin lành.

Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có 33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu sĩ, Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340 chức sắc, chức việc; Phật giáo Hoà hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức sắc; 3 học viện Phật giáo với trên 1.000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên Chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh hai khoá với 150 học sinh. Hiện có hàng trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới.

Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giaó là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam.

Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2-8-1955 thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay) để “nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo”. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hoá, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú và đặc sắc.

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đời sống nhân dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được quy định trong đạo luật gốc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước còn được thể hiện trong nhiều luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật, các nghị quyết, chỉ thị khác như Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày. Điều đó củng cố niềm tin trong nhân dân, tạo sự phấn khởi trong đồng bào tôn giáo.

1.1.3. Các loại hình tôn giáo chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ

Về vị trí địa lí, vùng châu thổ Bắc Bộ (hay còn gọi là vùng đồng bằng Bắc Bộ) là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính : Tây-Đông và Bắc-Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Chính vì vậy, tôn giáo xuất hiện rất sớm ở vùng Đồng bằng Bắc bộ. Tuy hiện nay cả nước ta có tới 6 loại hình tôn giáo chính đang hoạt động, ngoài ra còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, nhưng ở vùng đồng bằng Bắc bộ thì gần như chỉ có hai tôn giáo chính, đó là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm. Một số sách sử ghi rằng nơi đầu tiên là Luy Lâu (Bắc Ninh) – một địa điểm thuộc đồng bằng sông Hồng – vào cuối thế kỷ thứ hai. Phật giáo vào Việt Nam bằng hai con đường: đường thủy thông qua việc buôn bán với thương gia Ấn Độ và đường bộ qua sự giao lưu văn hóa với Trung Quốc. Đạo Phật đến với Việt Nam thông qua con đường hòa bình, mặt khác giáo lý của Phật giáo chuyển tải tư tưởng bình đẳng, bác ái, cứu khổ, cứu nạn…. gần gũi tín ngưỡng, văn hóa Việt Nam nên được các cư dân Việt Nam dễ dàng chấp nhận.

Từ thời Lý và đặc biệt là thời Trần, Phật giáo phát triển một cách rực rỡ và gần như trở thành quốc đạo. Trải qua gần 2000 năm tồn tại, Phật giáo lúc thịnh lúc suy và trải qua nhiều bước thăng trầm. Tuy nhiên, dấu ấn và sự hiện hữu của Phật giáo ở vùng đồng bằng Bắc bộ vẫn rất đậm nét. Gần như các làng ở vùng đồng bằng Bắc bộ đều có chùa và hằng năm đều có các lễ hội.

Bên cạnh Phật giáo, thì Thiên Chúa giáo cũng là một đạo giáo chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Tuy được du nhập muộn màng hơn Phật giáo rất nhiều, nhưng điểm đến đầu tiên của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam cũng là vùng đồng bằng Bắc bộ, đó là vùng Bùi Chu (Kim Sơn – Nình Bình). Từ năm 1640-1954, Bùi Chu đã trở thành vùng truyền giáo đầu tiên của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đối với Việt Nam. Sau đó, vào năm 1960, giáo phận Bùi chu được Tòa Thánh nâng lên bậc giáo phận chính tòa. Tuy có diện tích nhỏ nhất, nhưng giáo phận Bùi Chu có số giáo hữu đông nhất trong Giáo Hội Việt Nam.

Tuy không có số tín đồ đông như Phật giáo, nhưng Thiên Chúa giáo cũng là một tôn giáo chủ yếu ở đồng bằng Bắc bộ.

1.2. Góc độ văn hóa của tôn giáo Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Dưới góc nhìn của văn hóa, GS Trần Quốc Vượng khẳng định: “ Nhìn nhận vấn đề tôn giáo trên quan điểm “ văn hoá học” tôi thấy thế này: xét theo lịch sử phát sinh và trưởng thành, tôn giáo vừa là một sản phẩm của văn hoá, vừa là một thành phần hữu cơ, một nhân tố cấu thành của văn hoá”.

Cũng đồng quan điểm trên đây, GS Ngô Đức Thịnh- Viện trưởng Viện Văn hoá dân gian cho rằng: “Xét cho cùng, mọi hệ thống biểu tượng của tôn giáo, tín ngưỡng đều là hệ thống biểu tượng của văn hoá, nó vừa chứa đựng hệ giá trị của dân tộc đồng thời là sự thể hiện bản sắc và các sắc thái của dân tộc trong một thời đại nhất định. Trong hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng đã sản sinh, tích hợp và bảo tồn nhiều hiện tượng văn hoá nghệ thuật mang sắc thái dân tộc độc đáo. Nếu nhìn vấn đề theo phương pháp hệ thống, thì chính tôn giáo, tín ngưỡng là các yếu tố nhân lõi tạo nên hệ thống ấy. Còn các hiện tượng văn hoá nghệ thuật chỉ là các yếu tố phát sinh. Điều này cắt nghĩa rằng, không thể cắt rời các yếu tố tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá kèm theo. Bất cứ một thứ tôn giáo, tín ngưỡng nào xét về bản chất của nó không bao giờ hướng tới cái xấu, cái độc ác mà luôn khuyến khích làm điều thiện, vươn tới cái đẹp, cái cao cả vì lợi ích bản thân và cộng đồng”.

Vì sao tôn giáo lại có tính hướng thiện? GS Trần Quốc Vượng lý giải: “ở trong mỗi tôn giáo lớn đều có hạt nhân triết học, đều có chủ nghĩa nhân đạo là thành tựu văn hoá lớn nhất của loài người. Cái từ bi của Phật, cái bác ái của Chúa Kitô, cái nhân nghĩa của Khổng Nho là những hạt ngọc văn hoá đó”.

Văn hóa của một tộc người bao gồm những giá trị vật thể và phi vật thể mà tôn giáo chỉ là một trong nhiều thành tố góp phần làm phong phú văn hóa của tộc người. Tôn giáo không phải là tổng thể văn hóa của một tộc người, nhưng “tôn giáo là hình thái ý thức xã hội ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay, tồn tại cùng loài người trong một thời gian khó mà đoán định trước được. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, tư tưởng văn hóa – xã hội và tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc của các tầng lớp người.

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt ở đây (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo…). Trong quá trình phát triển đạo ở Việt Nam, các tôn giáo đã trở thành cầu nối tiếp xúc văn hoá, vì tôn giáo bản thân nó cũng chính là một thành tố của văn hoá. Do đó, không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của tôn giáo đối với sự phát triển của văn hoá Việt Nam.

Trong phần này, người viết chỉ tìm hiểu sự ảnh hưởng của hai tôn giáo chính tại Việt Nam là Phật giáo và Thiên chúa giáo đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam

1.2.1. Phật giáo Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Phật giáo được du nhật vào Việt Nam từ thế kỷ thứ I, thứ II sau công nguyên từ Ấn Độ. “Luy Lâu”, trụ sở chính của quận Giao chỉ, đã sớm trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng. Tại đây với hoạt động truyền giáo của Khâu – đà – la (Ksudra, đến Luy Lâu trong khoảng các năm 168-189) đã xuất hiển truyền thuyết Phật giáo Việt nam đầu tiên với Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mội”. Do thích nghi được với các tôn giáo khác như Nho giáo, Đạo giáo hay những tín ngưỡng như Thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ mẹ… Phật giáo đã nhanh chóng bám rễ vào đất nước ta và phát triển cùng với lịch sử dân tộc Việt.

Có thể nói rằng, đạo Phật là một tôn giáo rất gần gũi với hầu hết người dân Việt Nam, phù hợp với tâm thức của người Việt. Vì thế ngay từ khi mới du nhập, Phật giáo đã nhanh chóng phát triển. Nó được từ các vua chúa, quan lại cho đến các tầng lớp bình dân tin tưỏng và đi theo. Và nó đã trở thành một nhân tố tâm linh không thể thiếu được của người dân Việt. Ảnh hưởng của đạo Phật thường trực tới mức cùng với mái đình, ngôi chùa đã trở thành công trình quan trọng của mỗi làng. Người dân đi bất kỳ đâu, nếu lỡ độ đường đều có thể ghé vào chùa xin ăn hoặc xin nghỉ tạm qua đêm.

Cho đến nay, Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất, có số lượng tín đồ đông đảo nhất ở Việt nam. Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính Phủ thì số lượng tín đồ phật tử xuất gia khoảng 3 triệu người, số thường xuyên đến chùa tham gia các phật sự khoảng 10 triệu người, còn số chịu ảnh hưởng của phật gần gũi và thân thiết với người Việt nam đến nỗi dường như một người Việt Nam bất kỳ, nếu không theo tôn giáo nào thì ắt hẳn theo Phật.

Những nét khái quát trên về đạo Phật đã cho thấy rằng đạo Phật không còn là đạo Phật của Ấn Độ nữa mà là đạo Phật của người Việt Nam, phù hợp với lối sống, văn hoá và hoàn cảnh của người Việt Nam. Cùng với những tín ngưỡng như; tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Đạo mẫu …hay các tôn giáo như; Nho giáo, Đạo giáo, Ki tô giáo… Phật giáo đã và đang góp phần không nhỏ trong việc giáo dục và rèn luyện nên nhân cách cho người Việt. Tạo nên những nét đặc sắc riêng cho phật giáo Việt nam nói chung và con người Việt Nam nói riêng.

Phật giáo cũng như các tôn giáo khác, không chỉ là những quan niệm triết học, mà chính thông qua kinh điển, nghi lễ, chùa chiền, các hình tượng thờ cúng, chế độ tổ chức tạo thành một lối sống đa dạng, phong phú để lại những ảnh hưởng sâu sắc trong đạo đức, tư tưởng, văn học, nghệ thuật Phật giáo tự bản thân là một hệ thống ổn định có nhiều thứ lớp, nhiều hình thức vật thể và phi vật thể. Tự bản thân nó tạo ra sắc thái văn hóa riêng biệt.

Trước hết Phật giáo có một hệ thống tư tưởng – đạo đức sâu sắc, coi trọng sư tu dưỡng nhân cách. Muốn làm tín đồ hay theo Phật giáo phải biết giới, định, tuệ. Giới tính là những quy phạm ngăn cấm các tín đồ làm việc, nói và suy nghĩ không theo quy định (nhằm điều chỉnh hành vi của tín đồ và giữa tín đồ với xã hội). Định là giữ trạng thái tinh thần không xao động để đạt đến tuệ là sự thông suốt mọi lý sự. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Những quan niệm về thiện – ác, về từ bi cũng thuộc phạm trù đạo đức Phật giáo. Thế nào là thiện, thế nào là các, đó quả là vấn đề vô cùng phức tạp. Nhưng xét về khía cạnh nào đó, thì ở mỗi thời đại, dân tộc, nền văn hóa đều có quan niệm thiện, ác khác nhau. Nhà nho cho rằng: cái gì phù hợp với lương tri con người là thiện, ngược lại là ác. Còn quan niệm thiện của Phật giáo đại thừa lại có hai ý nghĩa: Một là thuận theo và phù hợp với tư tưởng “vô thường, vô ngã” (nghĩa là luôn luôn biên đổi và không có bán ngã): hai là vì lợi ích chung của chúng sinh. Đây chính là điều làm cho đạo đức Phật giáo có tính thế tục.

Một đặc điểm nổi bật nữa của đạo đức Phật giáo là quan niệm về từ bi. Nếu như giới, đinh, tuệ về cơ bản là tự rèn luyện bản thân thì những quan niệm từ bi là để giải quyết quan hệ giữa người với người, giữa người với xã hội và thiên nhiên trên nguyên tắc có lợi cho người khác. Kinh Quán vô lương thọ chỉ rõ người có tâm Phật là người đại từ bi. “Từ là làm cho người ta lạc quan và bi là làm cho người ta thoát khỏi đau khổ”. Từ bi kết hợp với nhau tạo thành nguyên tắc vì lợi ích chúng sinh mà hành động. Các nhà triết học gọi đó là chủ nghĩa vị tha.

Học thuyết nhân quả báo ứng của Phật giáo cũng tác động vào xã hội sâu sắc. Nó chỉ rõ xu hướng chuyển động tốt hay xấu của đời người chính là do nghiệp quyết định. Nghiệp mà con người lựa chọn được phân biệt là thiện và ác.

Thiện nghiệp sẽ đưa đến thiện quả, ác nghiệp nhất định đưa tới ác quả. Nhận thức về nhân quả báo ứng, nhân dân ta thường nói: gieo gió thì gặt bão, trồng dưa thì hái dưa, đời cha ăn mặn đời con khát nước…

Phật giáo vào Việt Nam cũng tạo ra nền văn học, nghệ thuật Phật giáo. Vào thời Ngô Đình Lê và Lý trần, gần 500 năm, lực lượng sáng tác văn học dân tộc chủ yếu là các nhà sư. Nổi bật như Pháp Thuận(990), Ngô Chân Lưu (933 – 1044)… Ngô Chân Lưu được phong là Khuông Việt đại sư có bài từ nổi tiếng “Vương lang quy”. Nhà sư Mãn Giác (1032 – 1096) có bài “Cáo tật thị chúng” nói lên niềm lạc qua, nhập thế của bộ phận Phật tử. Thiền phái trúc lâm thời Trần với các vị tổ sư Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đã để lại nhiều văn thơ Hán Nôm, thành tựu của lịch sử văn học và lịch sử tư tưởng thời bấy giờ.

Trong thời Lê Nguyễn, văn học Phật giáo vẫn tiếp tục duy trì, đồng thời lại hòa nhập vào làng xã tạo thành thành tố quan trọng trong văn hoc dân gian Viêt Nam. Chuyện Tấm Cám là Phật thoại lưu truyền rộng khắp, chuyện bà Ỷ Lan – một hiện thân của cô Tấm lan rộng khắp Kinh Bắc. Hải Dương chuyên Quan âm thị kính là đỉnh cao của Văn học phật giáo dân gian. Chính dân gian Việt Nam có ảnh hưởng của phật giáo Trung Quốc đã chuyển hóa giới tính của Đức phật Bồ Tát Quan thế âm từ nam tính Ấn Độ sang nữ tính tạo ra truyện Quan âm thị kính, tượng trưng cho tấm lòng vị tha, cứu nhân độ thế. Phật giáo đã được dân gian tiếp nhận tạo thành Phật giáo dân gian và nhờ dân gian mà Phật giáo có sức sống trường tồn mạnh mẽ. Đồng thời văn học nghệ thuật dân gian có thêm Phật giáo lại phong phú hơn, tương bổ tương thành.

Nói đến Phật giáo Việt Nam không thể không nói đến ngôi chùa làng. Chùa thời Lý Trần phần lớn là chùa, triều đình chùa, quý tộc. Chùa thời Lê Nguyễn chủ yếu là chùa làng, tức là chùa dân gian. Khi nam giới tập trung ở ngôi đình thì phụ nữ trong các hội vãi bà, hội Vu Lan lại quây quần trong chùa làng. Chính ngôi chùa đã đáp ứng cho nhu cầu tâm linh của “nửa nhân loại” này, nó sẽ trường tồn trong lịch sử. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Đóng góp của Phật giáo còn cả ở các công trình kiến trúc và điêu khắc. Nó tạo thành một khuynh hướng thẩm mỹ độc đáo. Trong lịch sử kiến trúc và điêu khắc Việt Nam không thể không nhắc đến các ngôi chùa như Phật Tích, Giạm, Bút Tháp, Thiên Mụ, Từ Đàm, Vĩnh Nghiêm… những công trình kiến trúc quy mô lớn này có kỹ thuật tinh xảo, độc đáo của cách sử dụng và phối hợp giữa kết cấu kiến trúc và trang trí kiến trúc, cân đối hài hòa. Những tác phẩm như tượng nghìn tay, nghìn mắt (Bút tháp), các pho tượng La Hán – Bồ Tát (Tây phương)… là những công trình nghệ thuật tiêu biểu cho sức sáng tạo của người xưa, là đỉnh cao của giá trị thẩm mỹ. Trong chùa còn có câu đối, hoành phi và bia đá tăng thêm dáng vẻ trang trọng, cổ kính khuynh hướng thẩm mỹ của kiến trúc Phật giáo là tĩnh lặng, huyền hư. Cái đẹp của ngôi chùa là hòa hợp con người vào thiên nhiên (có núi, có sông, cây cỏ) là sự khoan thai êm dịu. Có một nền văn học Phật giáo và rõ ràng cũng có một nền nghệ thuật Phật giáo.

Không thể bỏ qua ẩm thực Phật giáo. Ăn chay đang mở rộng khắp nơi, nhiều người Châu Âu áp dụng. Thậm chí ngày nay ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và những thành thị khác đã có cửa hàng ăn chay. Thức ăn chay là loại thuốc chữa bệnh, thuốc kéo dài tuổi thọ cho những người trung niên và cao niên.

Trong lịch sử Việt Nam, ảnh hưởng của Phật giáo đã thành một yếu tố quan trọng được ngưng kết lại trong đạo đức, văn học – nghệ thuật, trong kiến trúc điêu khắc và trong ẩm thực. Đó chính là các giá trị văn hóa mà Phật giáo đã đóng góp cho nền văn hóa Việt Nam.

1.2.2. Thiên Chúa giáo

Vào thế kỷ XVI, Công giáo (Thiên Chúa giáo) truyền vào Việt Nam do các giáo sĩ Bồ đào nha, Tây Ban Nha và sau là Pháp. Sự truyền đạo giai đoạn đầu ít gặp trở ngại do tính khoan dung của người Việt Nam và tính không đối dầu của tôn giáo bản địa nhưng sự truyền đạo đạt kết quả không cao. Sau đó Pháp vận động Giáo Hoàng cho phép độc quyền truyền đạo tại Việt Nam. Hội truyền giáo Pa-ri được thành lập năm 1660 cùng nhà nước Pháp tuyển chọn, đào tạo giáo sĩ, cử sang hoạt động ở Việt Nam và một số nước khác. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Cuối thế kỷ XVIII, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có ba địa phận (Đàng trong, Đàng ngoài và Tây đàng ngoài) với khoảng 3 vạn giáo dân và 70 linh mục Việt Nam. Dưới triều Nguyễn, lúc đầu sự truyền giáo được nhà Nguyễn tạo nhiều điều kiện thuận lợi, nhưng sau đó thấy những hoạt động của giáo sĩ vừa truyền đạo vừa phục vụ cho âm mưu xâm lược của thực dân Pháp nên nhà Nguyễn đã cấm đạo nhất là từ khi thực dân Pháp bộc lộ rõ ý đồ thôn tính Việt Nam. Việc cấm đạo gay gắt tạo sự chia rẽ nhất định trong nhân dân.

Trong hơn 100 năm dưới chế độ thực dân, chúng luôn lợi dụng Công giáo để xâm lược và duy trì sự thống trị. Chúng luôn lợi dụng Công giáo để chèn ép các tôn giáo khác gây chia rẽ giữa các tín đồ Công giáo với tín đồ các tôn giáo khác hoặc với người không có đạo. Dưới ách thống trị của đế quốc, thực dân, Giáo hội Công giáo được nhiều đặc quyền đặc lợi. Những tổ chức, giáo sĩ theo chúng được ưu đãi. Tuy thế , giáo hội Công giáo ở Việt Nam vẫn bị coi là giáo hội thuộc địa. Có thể thấy điều đó rất rõ sau gần 400 năm truyền đạo vào nước ta, mãi đến năm 1933 mới có một giáo sĩ Việt Nam được phong làm giám mục.

Do sự thao túng bởi các thế lực bên ngoài, trong cuộc kháng chiến đánh đuổi đế quốc, thực dân giáo hội đã đứng về phía xâm lược. Năm 1951 Hội nghị các giám mục Đông dương đã họp và đã đưa ra thư chung cấm người Công giáo tham gia kháng chiến. Năm 1960, Hội nghị các giám mục miền Nam ra thư mùa chay, nhắc lại thư chung năm 1951 ngăn cản đồng bào Công giáo tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mặc dù vậy, một bộ phận chức sắc đã dung hoà được quyền lợi của dân tộc với tôn giáo và đông đảo tín đồ với ý thức dân tộc và lòng yêu nước đã đứng về phía kháng chiến và đã đóng góp không chỉ vật chất, tinh thần mà còn cả xương máu cho cách mạng

Sau 1975, với thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và những tác động của sự chuyển đổi của Công đồng Vaticăng II, Giáo hội Công giáo Việt Nam có nhiều sự biến đổi. Năm 1976, Giáo hoàng phong chức Hồng y đầu tiên cho một Giám mục Việt Nam. Năm 1980, các Giám mục trong cả nước đã họp hội nghị để thống nhất đường lối của giáo hội. Hội nghị đã thành lập Hội đồng giám mục Việt Nam và ra thư chung 1980 với phương châm “sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào”.

Trong những năm gần đây, Công giáo nước ta có chiều hướng phát triển. Số lượng tín đồ tăng do sự gia tăng dân số tự nhiên và một số tín đồ khô đạo, nhạt đạo trở lại sinh hoạt. Số tín đồ Công giáo nước ta hiện nay khoảng 5 triệu, hiện nay đang có cuộc sống ổn định và phấn khởi trước cuộc đổi mới và chính sách tôn giáo của Đảng đang chăm lo cải thiện đời sống và tham gia vào các hoạt động xã hội nhân đạo, an ninh trật tự, phòng chống các tệ nạn xã hội và thể hiện cuộc sống theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước”. Tuy nhiên, trong Công giáo còn một số chức sắc chưa thể hiện rõ được ý thức công dân, không đặt lợi ích của Công giáo trong lợi ích của dân tộc, muốn hoạt động của Giáo hội nằm ngoài sự quản lý của nhà nước.

Giáo hội Công giáo Việt Nam: gồm 25 giáo phận, mỗi giáo phận do một Giám mục đứng đầu. Hội đồng Giám mục Việt Nam tập hợp tất cả các giám mục Việt Nam được thành lập năm 1980 chọn đường hướng “sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Cho đến nay, Thiên Chúa giáo đã có lịch sử trên 400 năm ở Việt Nam. So với Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo thì Thiên Chúa giáo là một tôn giáo đến muộn, tuy nhiên trải qua thời gian, văn hoá Thiên Chúa giáo vẫn có một chỗ đứng nhất định trong văn hoá Việt Nam, có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của văn hoá Việt Nam. Những đóng góp của Thiên Chúa giáo đối với văn hoá dân tộc Việt Nam thể hiện trên rất nhiều lĩnh vực: lối sống đạo, ngôn ngữ – chữ viết, báo chí, văn chương, kiến trúc…

Trước hết, khi truyền sang Việt Nam, Thiên Chúa giáo đã đóng vai trò là cầu nối chuyển tải những thành tố của văn minh phương Tây đến văn hoá Việt Nam. Các giáo sĩ đến truyền giáo ở nước ta lúc đó đều là những người được đào tạo chính quy trong các chủng viện, đại chủng viện, do đó rất nhiều người có trình độ uyên thâm và có những cống hiến nhất định trong việc chuyển tải văn hoá, văn minh tới vùng đất ngoại.

Thứ hai, sự du nhập của Thiên Chúa giáo đã tạo ra một loại hình chữ viết mới ở Việt Nam, đó là chữ quốc ngữ. Kể từ lúc ra đời cho tới cuối thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ đã dần dần được hoàn thiện từng bước nhằm phục vụ cho công cuộc truyền giáo như in kinh bổn và các sách giáo lý. Nó cũng là phương tiện ghi chép những hoạt động của các giáo sĩ và giáo dân. Như vậy, trải qua hơn hai thế kỷ sau khi ra đời, phạm vi sử dụng của chữ Quốc ngữ không chỉ hạn chế trong khuôn khổ nhà thờ và giáo dân.

Đây là một trong những đóng góp quan trọng nhất của các giáo sĩ đạo Thiên Chúa đối với văn hoá Việt Nam. Tuy đóng góp này nằm ngoài ý thức chủ quan của các nhà truyền đạo nhưng nhìn từ góc độ giao lưu văn hóa, với việc tạo lập một dạng chữ viết có ưu điểm hơn hẳn những dạng chữ viết trước đó, các nhà truyền đạo đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của nền ngôn ngữ Việt Nam.

Cùng với việc truyền bá Thiên Chúa giáo, các giáo sĩ đã du nhập vào Việt Nam rất nhiều thành tựu của kỹ thuật hiện đại phương Tây, trong đó một ngành công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của văn hoá Việt Nam được các giáo sĩ Thừa sai đưa vào Việt Nam khá sớm: đó là ngành in. Cùng với việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, sự du nhập công nghệ in hiện đại vào Việt Nam đã góp phần làm thay đổi diện mạo văn hoá bản địa những năm đầu thế kỷ XIX, đặc biệt trên lĩnh vực báo chí.

Không những chỉ làm thay đổi diện mạo văn hoá Việt Nam trên bình diện chữ viết và báo chí, Thiên Chúa giáo khi du nhập vào nước ta còn góp phần làm đa dạng hoá kiến trúc ở Việt Nam với sự du nhập của nghệ thuật kiến trúc nhà thờ phương Tây. Và đặc biệt, sự du nhập này đã tạo ra một sự giao lưu, hoà quyện văn hoá hết sức độc đáo.

Lối kiến trúc gôtích với hình tháp nhọn, vòm mái đòi hỏi kỹ thuật xây dựng khác hẳn với lối kiến trúc truyền thống của người Việt. Qua việc xây dựng những công trình kiến trúc này, những người thợ Việt Nam có cơ hội được tiếp cận với kỹ thuật xây dựng của phương Tây: lối trang trí, họa tiết trong nhà thờ châu Âu như trang trí mặt tiền nhà thờ, trang trí cửa sổ, cửa ra vào, trang trí tháp chuông, vòm nhỏ hai bên hông và vòm lớn trên cung thánh, nơi đặt tượng Chúa, tượng Đức Mẹ Maria và các Thánh.

Bên cạnh đó là các nhà thờ theo lối kiến trúc kết hợp Đông -Tây Sự xuất hiện của nhà thờ Thiên Chúa giáo ở Việt Nam đã du nhập những phong cách kiến trúc mới, vật liệu xây dựng mới. Trên cơ sở lối kiến trúc phương Tây, người thợ Việt Nam tài hoa đã tạo ra những kiểu dáng mới, tiêu biểu là loại hình kiến trúc nhà thờ Nam – một sáng tạo trong kiến trúc Thiên Chúa giáo Việt Nam. Đây được coi là một tư liệu sống động về sự hội nhập văn hoá.

Như vậy, mặc dù mục đích chính là truyền đạo, nhưng với sự du nhập của Thiên chúa giáo, nền văn hóa Việt Nam đã được giao lưu, hòa quyện văn hóa hết sức độc đáo. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

1.3. Giá trị văn hóa tôn giáo đối với việc khai thác và phát triển du lịch

Giá trị văn hóa tôn giáo là giá trị của toàn bộ những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn được thể hiện cả ở dạng vật thể và phi vật thể. Đó là những cảnh quan tự nhiên ấp ủ một truyền thuyết, một nỗi niềm, một bản lĩnh, một tư duy; là những di tích lịch sử, những lễ hội, những làng nghề thủ công cổ truyền, những trò vui dân gian… những cách thức ăn mặc, nói năng; những phong tục tập quán,…. Thông qua các giá trị vật thể như di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh,

các công trình kiến trúc… và các giá trị phi vật thể như: nghệ thuật truyền thống, phong tục tập quán, tâm hồn cốt cách của con người, văn hóa tôn giáo có sức thu hút con người tìm đến để khám phá, chiêm nghiệm. Sức thu hút đó chính là cơ sở của ngành Du lịch, vì du lịch xét đến cùng là một hoạt động của con người nhằm thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo ở một nơi khác bên ngoài nơi cư trú. Do đó, phát triển du lịch phần lớn là khai thác tiềm năng văn hóa để đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là phát huy khả năng, phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác tiềm năng văn hóa, trong đó có những giá trị văn hóa của tôn giáo. Rõ ràng văn hóa tôn giáo đã trở thành nguồn tài nguyên phong phú và đặc sắc để phát triển du lịch.

Tài nguyên du lịch của nước ta rất đa dạng, trong đó các giá trị của văn hóa tôn giáo là một nguồn tài nguyên dồi dào và phong phú. Như chúng ta đã nghiên cứu ở những phần trên, Việt Nam là một quốc gai đa tôn giáo và những tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam đều ít nhiều đã được Việt hóa, mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Qua quá trình du nhập và phát triển hàng nghìn năm, những giá trị văn hóa của tôn giáo đã trở thành nguồn tài nguyên du lịch văn hóa rất đa dạng, phong phú. Đến đâu trên đất nước, người ta đều có thể nhận thấy ở mỗi vùng dân cư có các loại hình văn hoá vật thể (đình chùa, miếu phủ, nhà thờ, đồ cúng tế, hành đạo…) rất khác nhau, đó là do chúng mang dấu ấn văn hoá tôn giáo. Những công trình văn hóa tôn giáo này không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo đơn thuần, nơi sinh hoạt văn hoá của các cộng đồng dân cư mà với cảnh quan hài hòa, kiến trúc độc đáo, đặc biệt là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh lớn lao, đã có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với du khách trong và ngoài nước. Đó chính là những giá trị của văn hóa tôn giáo đối với việc khai thác và phát triển du lịch.

Thực ra việc khai thác di sản văn hóa phục vụ cho phát triển du lịch không phải là ý tưởng mới, song gần đây, chúng ta mới bắt đầu chú trọng. Du lịch văn hóa tâm linh được xem là một hiện tượng tổng thể của du lịch. Những cố gắng thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính chất văn hóa, tâm linh. Những động cơ thúc đẩy khách đến các điểm du lịch chính là sự mong muốn được tiếp cận giá trị văn hóa và tâm linh.

Do văn hóa tôn giáo có vai trò hết sức quan trọng để phát triển du lịch như vậy, cho nên việc khai thác tiềm năng này phải gắn liền với việc giữ gìn, tôn tạo các tài nguyên này. Việc khai thác tiềm năng văn hóa tôn giáo không phải là công việc riêng của những người làm du lịch mà cần kết hợp với các nhà văn hóa cùng với sự trợ giúp của chính quyền và cộng đồng.

1.4. Văn hóa tâm linh và đặc điểm của loại hình du lịch văn hóa tâm linh Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Văn hoá tâm linh là một thuật ngữ được dùng để chỉ một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của người Việt Nam lấy đối tượng là sự bày tỏ tình cảm linh thiêng, niềm tin linh thiêng, sự tri ân của những người đang sống đối với những người thân đã mất, đối với những vị anh hùng dân tộc, những liệt sĩ được tôn làm Thánh, làm Thần, làm Thành hoàng… diễn ra trong một không gian thiêng và thời gian thiêng nhất định.

Từ xa xưa, trong các hoạt động văn hoá truyền thống dân tộc, người Việt Nam đều có tổ chức các hoạt động văn hoá tâm linh, hoặc do nhà nước Trung ương tổ chức, hoặc do làng, xã tổ chức theo những lễ nghi trang trọng, uy linh, với sự tham gia một cách thành kính, tự nguyện của nhân dân. Đó là Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương, Lễ tế Trời, Đất, tế Thần, Thánh, tế Tổ tiên nhằm mục đích cầu cho quốc thái, dân an, cho con cháu hạnh phúc.

Trong phạm vi một dòng tộc, một gia đình cũng có các sinh hoạt văn hoá tâm linh. Đó là việc thờ cúng tổ tiên, sửa sang đền miếu, xây đắp mồ mả vào các dịp tết Nguyên Đán, các ngày giỗ tổ, giỗ ông, bà, cha, mẹ. Thông qua những hoạt động văn hoá tâm linh đó, con người ta tự tu tâm, tích đức để trở nên tốt đẹp hơn, đoàn kết hơn, hướng thiện hơn, bớt đi cái ác, cái xấu trong lòng. Ý nghĩa tích cực của các hoạt động văn hoá tâm linh được người Việt khai thác rất có hiệu quả vào việc giáo dục các thế hệ con cháu, cố kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc, truyền thống. Hoạt động văn hoá tâm linh đã trở thành một nhu cầu văn hoá lành mạnh, đầy tính nhân văn của người Việt Nam.

Hãy lấy tục thờ cúng tổ tiên của người Việt làm ví dụ. Thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp trong văn hoá tâm linh của người Việt Nam. Hầu như gia đình Việt Nam nào cũng có bàn thờ tổ tiên. Trong tâm thức của người Việt Nam, ông bà, cha mẹ, những người ruột thịt thân yêu của họ dù có “khuất bóng” nhưng không “mất”. Họ vẫn “sống” trong tình cảm tôn kính, yêu thương, nhớ nhung, gần gũi của người hiện tại. Trong cái không gian thiêng và thời gian thiêng đó, từ sâu thẳm trong tâm hồn của con người, quá khứ và hiện tại bỗng giao hoà, giao cảm vào nhau, rất gần gũi, rất hiện hữu, không có cái cảm giác cách biệt. Chính sự rung cảm thiêng liêng đó đã góp phần tu chỉnh ý thức và hành vi của người đang sống sao cho tốt hơn, hoàn thiện hơn, tâm, đức trong sáng hơn, có tính nhân bản, nhân đạo, nhân văn hơn. Đó cũng là một động lực tinh thần đặc biệt để họ sống, phấn đấu, vươn lên những giá trị cao đẹp của cái Chân – Thiện – Mỹ mà tổ tiên họ, cha ông họ mong muốn.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm chăm lo đến việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, trong đó có các giá trị văn hoá tâm linh. Nhà nước và các địa phương đã đầu tư nhiều công sức, tiền của để xây dựng các công trình văn hoá tâm linh như tu tạo lại các đền đình, chùa, các di tích lịch sử, các di tích văn hoá; tổ chức các nghi lễ hội. Nhân dân các địa phương cũng chung sức đóng góp tiền của để tu sửa, xây cất các nghĩa trang, các di tích lịch sử văn hoá của địa phương. Có những địa phương biết kết hợp giữa xây dựng các quần thể văn hoá tâm linh với xây dựng các cảnh quan du lịch, thu hút khách thập phương; kết hợp tổ chức nhiều lễ hội văn hoá – du lịch khá ấn tượng. Đó là những việc làm có ý nghĩa tích cực, cao đẹp, có tính giáo dục truyền thống rất cao, được lòng dân, đáp ứng một phần nhu cầu sinh hoạt tâm linh của nhân dân. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Văn hóa tâm linh được coi là một nguồn tài nguyên vô giá để phát triển du lịch. Đối với Việt Nam, khái niệm du lịch văn hóa tâm linh còn khá mới mẻ, nhưng thực tế loại hình du lịch này đã manh nha từ rất lâu.

Vào mỗi dịp đầu xuân, trên khắp các miền quê, lễ hội lại được mở tưng bừng, từ hội làng, hội vùng đến lễ hội quốc gia. Người dân đi chơi hội, đi xem hội và đi lễ hội, có người đi hội gần (hội làng), có người đi lễ hội xa (lễ hội cấp quốc gia).

Chúng tôi đã làm một cuộc khảo sát nhỏ với khoảng 100 du khách đến chùa Bái Đính (Ninh Bình) trong ngày khai hội vừa qua (6 tháng Giêng), câu hỏi đưa ra là: Ông, bà… đến đây để tham quan, hành lễ hay vì lí do gì? Kết quả là có tới 99% cho biết vì đây là một ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng nên đến đây vừa để lễ bái, cầu xin, vừa để được tận mắt nhìn thấy những bức tượng phật, chuông,… nổi tiếng kỷ lục. Chỉ 1 – 2 người là đi với lí do để biết một nơi mà mình chưa đến (khám phá).

Từ khảo sát trên và qua thực tiễn thì có thể thấy đặc điểm nổi bật của loại hình du lịch văn hóa tâm linh đó chính là sự kết hợp giữa du lịch (đi chơi) với tâm linh (đi cầu xin, lễ lạt).

1.5. Tiểu kết chương I Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.

Các tôn giáo lớn trên thế giới được du nhập vào Việt Nam rất sớm như Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo …. Nó tồn tại suốt một thời gian dài với lịch sử dân tộc. Theo thống kê hiện nay, Việt Nam có 19,4% dân số theo đạo với hơn 18 triệu người là tín đồ các tôn giáo. Số liệu này chưa phản ánh chính xác số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam vì việc xác định thế nào là một tín đồ tôn giáo vốn dĩ đã phức tạp lại chưa có sự thống nhất. Hơn nữa, người Việt Nam không giống người Phương Tây chỉ tham dự một hành vi tôn giáo. Một người Việt Nam có thể đi lễ nhà thờ, lễ chùa hoặc tham dự vào các hành vi tôn giáo khác nhưng nhiều khi lại không tự nhận là có đạo. Đến Việt Nam, người Phương Tây thường rất ngạc nhiên bởi ở đâu họ cũng bắt gặp nơi thờ tự với nhiều thần linh khác nhau mà tâm thức tôn giáo độc thần của họ không sao hiểu nổi. Từ gốc cây cổ thụ, hòn đá, hốc núi với hình thù kì dị đến khúc sông, ngọn suối… tất cả đều linh thiêng và có hồn. Trong nhà người Việt Nam, nơi trang trọng nhất đặt bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Chúa, Phật hay các Mẫu, góc nhà, góc bếp có bàn thờ Thần Tài, Thần Bếp (Táo Quân), ngoài sân có cây hương thờ Thổ Địa góc vườn có miếu thờ bà Cô, ông Mãnh, v.v… Điều đó phần nào nói lên nhu cầu tâm linh của người Việt và bầu không khí thấm đẫm hương vị tôn giáo nơi cõi hư và cõi thực hầu như không có ranh giới.

Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, các tôn giáo khác nhau đã có những ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam, trong đó ảnh hưởng lớn nhất là của Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Với đặc điểm nổi bật là tính đa nguyên dung hợp không mâu thuẫn kì thị tôn giáo, cũng không tồn tại thứ đức tin cực đoan, cuồng tín, tôn giáo Việt Nam gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, và ngày nay vẫn “đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc”.

Tôn giáo cũng đã để lại một kho tàng giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú, đặc sắc, là nguồn tài nguyên vô giá đối với việc khai thác và phát triển du lịch, đặc biệt là loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993