Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: một số đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với việc phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng đối với vấn đề tôn giáo

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã luôn xác định: Tôn giáo là một thực thể xã hội. Bởi vì tôn giáo do con người sản sinh ra, con người qua lăng kính của quá trình hoạt động sống trong xã hội đã dần dần xây dựng lên biểu tượng tôn giáo. Sự phát triển của tôn giáo đóng vai trò nhất định tới quá trình vận động phát triển của một dân tộc – một quốc gia và thế giới.

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đời sống nhân dân. Đánh giá được tầm quan trọng của công tác tôn giáo, trên cơ sở thừa nhận tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân lao động và đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới, Đảng yêu cầu phải “quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng”. Đảng và Nhà nước ta chủ trương, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo. Dựa trên nguyện vọng chính đáng của nhân dân, điều đó củng cố niềm tin trong nhân dân, tạo sự phấn khởi trong đồng bào tôn giáo. Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm của Đảng là tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nó xuất phát từ chính yêu cầu của bộ phận quần chúng đó. Đã là nhu cầu của nhân dân – dù là một bộ phận, thì Đảng cầm quyền, Nhà nước của dân, do dân, vì dân có nghĩa vụ, có trách nhiệm phải thoả mãn. Đó là một nhận thức mang tính khoa học và cách mạng rất sâu sắc, nó phản ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại của tôn giáo. “Nhu cầu tinh thần” đó là một lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng có đạo mà Đảng và Nhà nước đã chủ động quan tâm chăm lo, bảo đảm. Tôn trọng và bảo đảm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng lành mạnh của quần chúng cũng giống như tôn trọng và bảo vệ sức khoẻ, tự do và mọi quyền khác của con người. Đó là vấn đề cốt lõi mà trong các chính sách về tôn giáo, Đảng ta đã đề ra và luôn quán triệt thực hiện trong thực tế. Cụ thể, chúng ta phải quán triệt những nội dung sau:

Quán triệt nhiệm vụ công tác tôn giáo.

Muốn thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta phải:

  • Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chinh trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
  • Tăng cường công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng chính trị cơ sở. Tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.
  • Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
  • Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước..
  • Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo“ trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
  • Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo. Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.
  • Đảng và Chính phủ chỉ đạo việc cụ thể hoá nội dung các đường lối, chính sách pháp luật, xây dựng chương trình hành động của Quốc hội và Chính phủ, chỉ đạo các bộ, ngành, các địa phương thực hiện. Đối với các luật, pháp lệnh mà phạm vi điều chỉnh có liên quan đến tôn giáo cần có điều khoản riêng quy định những nội dung cụ thể liên quan đến vấn đề tôn giáo.
  • Tổ chức quán triệt nghị quyết về công tác tôn giáo, đồng thời với Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và Nghị quyết về công tác tôn giáo.
  • Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt kế hoạch phổ biến tinh thần Nghị quyết trong chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
  • Ban Dân vận Trung ương thường xuyên theo dõi kiểm tra, đôn đốc và định kỳ báo cáo Bộ Chính tị, Ban Bí thư kết quả thực hiện các chủ trường, chính sách về tôn giáo; trong qúa trình thực hiện, kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị để điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hoá các chủ trương, chính sách, giải pháp nhằm thực hiện tốt chủ trương, chính sách về tôn giáo.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

3.2. Những giải pháp chung

3.2.1. Đưa du lịch đến các di tích, các lễ hội văn hóa tâm linh

Cứ mỗi độ xuân về, trên đất nước ta lại diễn ra hàng nghìn lễ hội khác nhau. Lễ hội có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của người dân mỗi thôn, xóm, làng, bản, là nếp sinh hoạt văn hóa dân gian, một món ăn tinh thần không thể thiếu của nhân dân ở mọi vùng quê. Đây là ngày hội biểu trưng những giá trị của đời sống tâm linh, đời sống xã hội và văn hoá của cộng đồng, là nơi người dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hoá, thỏa mãn khát vọng trở về nguồn cội.

Mỗi làng quê Việt Nam đều có hội làng. Mỗi lần mở hội là một lần người dân được hiểu thêm về nghi lễ, là dịp để con người bày tỏ sự thành kính với thần linh. Nói cách khác, đây là phương thức làm thoả mãn tâm linh, điều hoà cuộc sống của con người. Hội làng cũng là dịp để lớp người lớn tuổi nhắc lại những phong tục đẹp với thế hệ con cháu. Trong các lễ hội diễn ra các cuộc thi nấu cơm, thi dệt vải… để khuyến khích nữ công gia chánh; thi trâu khoẻ để khuyến khích phát triển nông nghiệp; thi thơ, kéo chữ… mang ý nghĩa khuyến học; thi vật, võ, đánh phết, đua thuyền, thi bơi, thi chạy… nhằm đề cao tinh thần thượng võ, rèn luyện thể lực và ý chí tự cường trong thanh niên… Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

“Trẩy hội” là một nhu cầu mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của người dân. Ngoài ý nghĩa vui chơi giải trí, từ trong sâu thẳm của tâm thức Việt, là sự khơi dậy tinh thần dân tộc, thể hiện lòng tôn kính, biết ơn những vị anh hùng cứu nước, các tổ phụ ngành nghề, các danh nhân văn hóa. Chính vì vậy mà lễ hội chùa Hương bắt đầu từ ngày mùng 6 tết kéo dài cho đến tháng ba mà riêng ngày mở hội đã có đến hơn 5 vạn khách. Lễ hội chùa Bái Đính hiện nay cũng được mở thời gian khá dài và thu hút hàng vạn khách thập phương.

Đối với vùng Đồng bằng Bắc bộ là nơi có nhiều tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh vì gắn với nhiều di tích lịch sử, các lễ hội văn hóa tâm linh như: đền thờ vua Đinh, vua Lê, Côn Sơn – Kiếp Bạc, chùa Dâu, chùa Keo, Phủ Giầy, Đền Trần, Chùa Hương… Hằng năm ở các điểm di tích nổi tiếng đều có mở các lễ hội có sức thu hút người dân cả một vùng rộng lớn hoặc hẹp hơn đó là các lễ hội làng. Sức hút của vấn đề tâm linh ở các đình, chùa, nhà thờ và các lễ hội này rất lớn. Ví dụ, lễ hội chùa Hương ở Hà Nội mở mỗi năm 3 tháng, thu hút hàng triệu lượt khách và nhiều người quan niệm nếu trong cuộc đời mà không đến đây dâng hương cầu cúng được vài lần thì không an tâm. Đa số các lễ hội thì ngoài phần lễ nghi còn có các hình thức diễn xướng như hát, hò, trò, tích có sức hấp dẫn du khách rất mãnh liệt, đặc biệt là các khách hành hương, khách nước ngoài. Đây sẽ là sản phẩm du lịch chính của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Đi hành hương, tham quan lễ hội cũng là trở về với thiên nhiên và nguồn cội tâm linh. Chẳng hạn, khách du lịch tham quan lễ hội chùa Hương có cảm tưởng như mình đang đi “phong cảnh Bụt”. Từ bến Đục vào chùa, khách hành hương thỏa lòng chiêm ngưỡng, liên tưởng đến sơn thủy hữu tình, giang sơn tú lệ gắn liền với những cái tên dân dã mà người dân mong ước: núi Mâm xôi, Con gà, Thiên trù, Cây vàng, Cây bạc, Nong tiền… Bên trong càng thêm hấp dẫn với những ngôi chùa thoát tục, động đá thiêng liêng, huyền bí với những hình tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng như Tiên sơn, Hồng sơn… đặc biệt động Hương tích (Nam thiên đệ nhất động) huyền nhiệm gắn liền với sự tích bà Chúa Ba (Bồ-tát Quan Âm) tu hành đắc đạo…

Hay như đối với lễ hội Gióng, là lễ hội độc nhất vô nhị của người Việt Nam, chúng ta cũng cần có biện pháp tổ chức, quản lí để phát huy giá trị của lễ hội này, đặc biệt là giá trị trong việc phát triển du lịch văn hóa tâm linh. Lễ hội Gióng đặc biệt có ý nghĩa lớn đối với người dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, bởi trong tiềm thức của người Việt, Thánh Gióng là một trong 4 vị thánh bất tử (tứ bất tử). Ngài đã trở thành biểu tượng anh hùng trong lòng nhân dân với những phẩm chất và hành động cao quý chống giặc ngoại xâm mang mưa thuận, gió hòa bảo trợ mùa màng cho các làng quê. Thánh Gióng là hiện thân mẫu mực cho sự trung hiếu, là vị anh hùng có có công với đất nước. Lễ hội Gióng mang nhiều điểm đặc biệt với tính ước lệ cao. Ngươì dân đã sáng tạo một hệ thống biểu tượng vừa thực vừa ảo, vừa thiêng liêng vừa đời thường để tái hiện chiến công đánh giặc giữ nước, giữ làng của một anh hùng trong truyền thuyết khiến cho hội Gióng luôn hấp dẫn và cuốn hút các thế hệ con người.

Ngoài việc đưa du lịch vào các lễ hội cụ thể thì chúng ta cũng cần phải có sự liên kết giữa các tour trong vùng. Ví dụ như du khách có thể tham quan Chùa Hương ở Hà Nội rồi sang Đền Trần Thương ở Hà nam, đền Trần Nam Định và sang chùa Bái Đính, nhà thờ đá Phát Diệm ở Ninh Bình… Có như vậy thì các điểm lễ hội mới phát huy được các giá trị tâm linh thu hút khách du lịch. Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Lễ hội tôn giáo đã gắn bó, hòa quyện với quần chúng đến độ nó trở thành lễ hội của dân gian, mang tính đại đồng. Đi hành hương chiêm bái thánh tích, tham gia vào các lễ hội đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân Việt. Mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, không phân biệt tôn giáo, quốc tịch đều tham gia lễ hội. do đó, nếu biết phát huy giá trị của các lễ hội này thì loại hình du lịch văn hóa tâm linh sẽ trở thành “đặc sản du lịch” của vùng Đồng bằng Bắc bộ.

3.2.2 . Xây dựng dự án Quốc gia về phát triển du lịch văn hóa tâm linh

Việt Nam là một quốc gia rất giàu có các thánh tích: chùa Trấn Quốc, chùa Hương (Hà Nội); Yên Tử (Quảng Ninh); Luy Lâu (Bắc Ninh); Thánh thất Cao Đài (Tây Ninh); Trà Kiệu (Quảng Nam); La Vang (Quảng Trị); Phát Diệm (Ninh Bình),… Thế nhưng, du lịch Việt Nam cũng chỉ mới để ý đến du lịch tín ngưỡng, một loại hình du lịch nhìn ngắm, thăm viếng. Du lịch đồng bằng Bắc bộ cũng trong tình trạng như vậy.

Du lịch tâm linh gần đây đã hình thành và đang phát triển ở những quốc gia châu Á, đặc biệt những quốc gia theo Phật giáo như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan. Hàng năm, các cơ quan tôn giáo Nhật Bản kết hợp với các công ty lữ hành tổ chức tour cho trên vài ngàn khách hành hương từ Nhật Bản đến các thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ. Thái Lan, Myanmar. Châu Âu hàng năm cũng đã tổ chức nhiều đoàn du khách tham gia các lễ hội tôn giáo, các khóa tìm hiểu và nghiên cứu tôn giáo, các khóa tu thiền tại các quốc gia châu Á từng in dấu chân của Phật Thích Ca Mâu Ni lúc sinh thời. Trong khi đó ở nước ta, trên bản đồ du lịch, trên các kênh quảng bá, xúc tiến, người ta vẫn chưa thấy nói đến những nơi này như là điểm đến của loại hình du lịch tâm linh. Vì vậy, về phía Nhà nước, nên có chính sách ở tầm vĩ mô cho việc khai thác và phát triển loại hình du lịch này. Cần có ngay một dự án cấp Nhà nước về phát triển du lịch văn hóa tâm linh, trong đó định hướng rõ mục tiêu, kế hoạch,… Nếu triển khai được dự án này, ngành du lịch Việt nam sẽ thu hút thêm một lượng khách rất lớn.

3.2.3. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch, quảng bá, xúc tiến cho loại hình du lịch văn hóa tâm linh Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch, xây dựng chiến lược, quản lý thực hiện quy hoạch phát triển du lịch của từng tỉnh và từng vùng để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, chuyên biệt, đồng thời tạo tinh liên kết cao trong phát triển.

Cần phải xác định đúng đắn du lịch văn hóa tâm linh là một thứ du lịch mà khách đến hành hương, cúng bái, chiêm ngưỡng trong sự tôn kính nghiêm trang, gìn giữ bản sắc hồn nhiên trong sự thực hành tín ngưỡng của dân bản xứ. Điều ấy đòi hỏi chính tổ chức du lịch phải vạch ra một mẫu mực được sự hưởng ứng của nhà chùa và dân bản xứ, không thể làm cẩu thả được. Làm được như thế thì du lịch văn hóa tâm linh sẽ là một thành công lớn, bởi du khách đến đó sẽ thấy nét đặc thù của bản địa, chứ không phải đứng xem những cảnh bát nháo, buôn bán hàng du lịch vây quanh chùa chiền. Nên nhớ du khách không bao giờ đánh giá những ngụy trang tôn giáo, họ muốn đến để xem thật và… cảm nghiệm, chiêm ngưỡng cảnh thật. Và đối với họ đó là sự tiếp cận thực sự “tâm linh”, “linh hồn” Việt Nam.

Tuyên truyền, quảng bá là một biện pháp cực kỳ cần thiết. Tăng cường công tác tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng dân cư để nâng cao hiểu biết và trân trọng các di sản văn hóa, hiểu biết về lợi ích của phát triển du lịch và cả những mặt trái mà sự phát triển này có thể mang lại. Làm tốt công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch sẽ thu hút một lượng du khách không chỉ trong nước mà cả ngoài nước. Cần có nhiều ấn phẩm với nhiều hình thức quảng cáo được bán ở nhiều nơi công cộng và điểm du lịch.

Có một vấn đề xin được nói thêm là việc quảng bá thương hiệu mà tất ai cũng biết là rất cần thiết. Du lịch đồng bằng Bắc bộ nhiều năm qua đã có những đợt xúc tiến đáng kể với Trung Quốc, Pháp, Nga, Nhật, Đông Nam Á… nhưng xem ra sau các hội thảo, hội chợ, liên hoan thì đâu vẫn hoàn đấy (tất nhiên phải kể cả tác nhân suy thoái quốc tế). Do đó, tuyên truyền, xúc tiến phải được tiến hành thường xuyên.

Ngành du lịch cần xây dựng kế hoạch marketing du lịch cho vùng Đồng bằng sông Hồng, từ kế hoạch đó, mỗi địa phương sẽ tự xây dựng kế hoạch marketing cho riêng mình. Ngoài ra, mỗi địa phương phải chọn ra một loại hình du lịch độc đáo để xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm đó một cách bài bản để thu hút du khách.

Ngoài ra, đó là ngành du lịch nên tổ chức tổng hợp, kiểm tra và rà soát lại các sản phẩm du lịch tại các địa phương để tìm ra điểm mạnh và điểm yếu của từng sản phẩm. Từ đó, xây dựng những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm bản sắc của từng địa phương. Bên cạnh đó, các địa phương cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chú trọng đầu tư xây dựng sản phẩm mới, xây dựng những khu du lịch, tuyến du lịch trọng điểm. Du lịch văn hóa và du lịch tâm linh là sản phẩm du lịch chính đặc thù của vùng đồng bằng sông Hồng. Bởi lẽ nét nổi bật nhất của đồng bằng sông Hồng chính là nền văn minh lúa nước, di tích lịch sử gắn với các anh hùng dân tộc trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, gắn với tín ngưỡng, tôn giáo đồng thời vùng còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 2 di sản đã được UNESCO công nhận…

3.2.4. Học tập kinh nghiệm của một số nước Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Ấn Độ được mệnh danh là đất nước của tôn giáo. Quốc gia này là nơi khởi nguyên của các tôn giáo lớn trên thế giới trong đó nổi bật là Phật giáo, bởi vậy rải rác khắp đất nước này là hàng ngàn Phật tích, danh thắng liên quan đên Phật giáo. Với hơn một tỷ tín đồ Phật giáo trên khắp thế giới, Ấn Độ đương nhiên trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn nhất cho du lịch tâm linh. Hiểu rõ điều này nên từ rất sớm chính phủ Ấn Độ đã chú ý xây dựng chính sách liên kết du lịch Ấn Độ với tâm linh Phật giáo.

Để các Phật tích thu hút du khách, chính phủ Ấn Độ thiết lập các đường bay mới từ các thủ đô của các bang quan trọng đến thẳng các thánh địa Phật giáo, thêm các chuyến xe lửa độc lập dành cho du khách hành hương đến đất Phật. Trong vùng phụ cận các thánh tích, họ cho xây dựng nhiều khách sạn đủ loại và các căn hộ cho thuê để du khách có thể lưu trú nhiều ngày tại đây. Các nhà hàng cũng đã có nhiều loại thực phẩm châu Á để giúp cho du khách chưa quen với hương vị thực phẩm Ấn Độ có thể ăn uống được dễ dàng. Hoàn thiện hơn, họ còn thiết lập các điểm dịch vụ y tế, đáp ứng kịp thời và đảm bảo sức khoẻ cho du khách.

Mặc dù chính phủ Ấn Độ rất quan tâm đầu tư phát triển công nghệ du lịch, nhưng không cho các yếu tố thương mại hóa chi phối du lịch tâm linh. Nói khác đi, một mặt chính phủ tạo phương tiện đầy đủ và tiện nghi cho các du khách như nâng cấp đường xá, thiết lập thêm các phương tiện giao thông, đảm bảo vệ sinh môi trường ở những nơi công cộng và các sân ga, đặc biệt là những khu phụ cận các Phật tích, nhưng mặt khác khuyến khích và tạo điều kiện cho các giáo hội Phật giáo trên khắp thế giới mở các khoá tu thiền trong khuôn viên của các Phật tích, giúp cho du khách thanh lọc thân tâm trong những ngày ở trên đất Phật.

Chẳng hạn, Tháp Bồ Đề Đạo Tràng là một trong số 84.000 công trình chùa tháp và các cấu trúc Phật giáo được đại đế A-dục kiến lập vào khoảng 218 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn tại đất nước Ấn Độ. Toàn bộ quần thể Bồ Đề Đạo Tràng được chính quyền bao bọc bởi một hàng rào với kiến trúc Phật giáo thời kỳ Gupta, vừa đảm bảo được an ninh trong khuôn viên, đồng thời đảm bảo được tính tương thích của hai giai đoạn kiến trúc xưa và nay. Để biến Bồ Đề Đạo Tràng thành thánh địa linh thiêng nhất của Phật giáo, chính phủ Ấn Độ chọn ngày Rằm tháng 4, ngày Phật đản sinh làm ngày hành hương Phật giáo. Lễ hội hành hương về Bồ Đề Đạo Tràng được truyền hình và đưa tin trực tiếp trên khắp thế giới. Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Hoặc ở Trung Quốc thì để phát triển loại hình này, họ đã cho phục dựng rất nhiều chùa chiền, và xây thêm những công trình phụ trợ …. Ví dụ khu vực Khổng Miếu – Khổng Lâm – Khổng Phủ ở Sơn Đông, đã có lịch sử trên 2.000 năm, mà nay người ta vẫn tiếp tục xây thêm những công trình phụ trợ để làm đẹp thêm di tích. Hay cung A Phòng ở Tây An đời Tần đã bị Hạng Võ đốt trụi từ 200 năm trước công nguyên đã không còn, nay được phục dựng gần như nguyên bản cung A Phòng có từ đời Tần. Hoặc ở Tây hồ Hàng Châu, họ mới làm thêm nhiều lầu gác. Họ còn xây lại miếu Nhạc Phi, đúc lại tượng vợ chồng Tần Cối (tượng vốn có từ đời Tống thế kỷ thứ XI nhưng bị hỏng từ lâu) theo phong cách mỹ thuật hiện đại.

Bên cạnh đó, Trung Quốc là nước rất biết khai thác triệt để lịch sử. Ví như miếu Nhạc Phi, họ đắp hẳn một hoạt cảnh bà Nhạc Mẫu viết chữ trên lưng Nhạc Phi. Tượng đắp bằng kích cỡ người thật, thuyết minh khá hay, vừa xác đáng như lịch sử, lại vừa bay bổng chất men truyền thuyết dân gian. Hay ở Tô Châu, tại Hổ Khâu – mộ của Hạp Lư – chỉ nhân một cái giếng bé tí họ cũng khiến du khách phải dừng chân nghe họ thuyết minh về một sự tích li kỳ hay một viên đá hình quả trứng cũng được tạo thành một điểm dừng. Cứ thế, một gốc cây, một ngôi mộ cũng được đắp thêm cho một lý lịch tất nhiên là li kỳ để níu chân du khách.

3.3. Những giải pháp cụ thể

Loại hình du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam nói chung cũng như ở Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng tuy chưa được định hình rõ nét, nhưng nếu có những giải pháp thúc đẩy cụ thể thì nó sẽ sớm trở thành loại hình du lịch thu hút một lượng du khách lớn.

3.3.1. Thành lập Ban chuyên trách về du lịch văn hóa tâm linh

Trước hết, nếu muốn phát triển loại hình du lịch này và biến hoạt động này trở nên một bộ phận chuyên môn, làm công cụ hỗ trợ cho việc truyền bá đạo giáo thì cần gấp rút lập một ban chuyên trách về du lịch văn hóa tâm linh. Ban này có thể trực thuộc Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), có sự phối hợp chặt chẽ với Ban Tôn giáo Chính phủ. Ban này sẽ chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành các tour tham quan du lịch dến các điểm du lịch văn hóa tâm linh như đình chùa, nhà Thờ Thiên Chúa, chịu trách nhiệm biên soạn giáo trình và sách hướng dẫn du lịch, huấn luyện hướng dẫn viên du lịch có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, có khả năng tổ chức và hướng dẫn các chuyến du lịch hành hương đến các thánh tích, các lễ hội.

Điều quan trọng là các quản lí du lịch cũng như các nhà đứng đầu của các tôn giáo cần nhìn thấy được tiềm năng vô cùng to lớn của chùa chiền, nhà thờ tôn giáo cũng như vai trò vị trí của nó trong đới sống tinh thần của mọi người dân Việt Nam. Đó không những là nơi sinh hoạt tâm linh mà còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa của cộng đồng làng xã. Một khi nhìn thấy được tầm quan trọng đó, chắc chắn những nhà lãnh đạo tôn giáo không thể nào không quan tâm đầu tư thích đáng cho các thánh tích, trong đó đầu tư phát triển du lịch là điều không thể bỏ qua.

Ban này phải xây dựng được chiến lược phát triển loại hình du lịch này và cần hỗ trợ kinh phí, mời gọi các cơ quan đoàn thể, các tổ chức và tư nhân ủng hộ cho dự án phát triển du lịch này.

3.3.2. Thành lập các công ty du lịch chuyên về du lịch văn hóa tâm linh với đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Thứ hai là nên đầu tư vốn thành lập các công ty du lịch chuyên phục vụ trong lĩnh vực văn hóa tâm linh. Các công ty này sẽ chịu trách nhiệm tổ chức các tour du lịch đến các đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ,… nổi tiếng trên địa bàn các tỉnh vùng đồng bằng Bắc bộ trên toàn quốc và có thể cả nước ngoài. Chuyên viên làm du lịch tạm thời có thể là các tăng ni, tu sĩ hoặc các sinh viên đã tốt nghiệp ngành du lịch hoặc đang làm việc cho các công ty du lịch. Sau khi tuyển chọn sẽ được đào tạo thêm chuyên môn qua một khóa học ngắn hạn.

Về lâu dài, ngoài ban chuyên trách về du lịch văn hóa tâm linh, cũng cần cần thành lập trường nghiệp vụ du lịch riêng chuyên về loại hình du lịch này để đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn, chuyên nghiên cứu du lịch văn hóa tâm linh, tổ chức các tour và hướng dẫn viên phục vụ loại hình du lịch này. Nếu có thể thì tại các học viện phật giáo hoặc các tu viện nên có chuyên ngành du lịch văn hóa tâm linh. Bộ môn này sẽ góp phần đào tạo những chuyên viên và hướng dẫn viên du lịch phục vụ cho yêu cầu phát triển du lịch lâu dài.

3.3.3. Thành lập ban chuyên trách tiếp khách, hướng dẫn du khách tại các điểm tham quan

Các di tích nằm trong danh sách các điểm tham quan du lịch nổi tiếng cần có ban chuyên trách tiếp khách, hướng dẫn khách du lịch tham quan, chiêm bái và tổ chức các sự kiện về thuyết giảng, ẩm thực, hành lễ theo yêu cầu của du khách. Những người được cử vào ban này phải có kiến thức chuyên môn về du lịch, du lịch văn hóa tâm linh, có khả năng tổ chức và phải thông thạo ngoại ngữ. Các chùa nằm trong danh sách du lịch danh lam cần phải đầu tư xây dựng các cơ sở dịch vụ phục vụ du khách như: Phòng tiếp khách, phòng chiếu phim, nhà nghỉ, căn tin, quầy bưu điện, quầy chụp ảnh, quay phim, quầy bán vật phẩm lưu niệm, bãi đậu xe… Ở mỗi dịch vụ trên, cần bố trí nhân viên có khả năng chuyên môn phục vụ du khách. Các thông tin ngắn gọn về ngôi chùa như: Bản giới thiệu, tờ gấp, bưu ảnh, tập sách bằng nhiều thứ tiếng cần được in ấn với số lượng nhiều để phục vụ cho sự tìm hiểu về ngôi chùa của du khách.

Khi có một chuyến tham quan du lịch đến một địa điểm nào đó, các công ty du lịch danh lam cần liên hệ với nhà chùa, nhà thờ sắp xếp hướng dẫn du khách tới, để có sự phối hợp nhịp nhàng, từ đó phục vụ du khách tốt hơn.

3.3.4. Giải quyết triệt để những vấn nạn tại các điểm du lịch Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Một điểm nữa cần lưu tâm giải quyết triệt để là: Nạn ăn xin trước công chùa, trong khuôn viên chùa; nạn mua bán các loại sách vở nhảm nhí bói toán; nạn tranh giành mời gọi khách mua hàng; nạn xây cất các am miếu và câu khách vào lễ bái … cần phải được giải quyết triệt để (hiện tượng này gần như không xảy ra ở các địa điểm là các nhà thờ công giáo)

Nếu biết tận dụng những thế mạnh và khắc phục những điểm yếu đã nêu trên, thì du lịch văn hóa tâm linh sẽ phát triển lớn mạnh trong tương lai không xa.

3.3.5. Một số giải pháp khác

Cần nắm đầy đủ các di tích danh thắng và đánh giá từng di tích để phân loại chúng theo các nhóm như những di tích vừa có giá trị văn hóa vừa có khả năng hấp dẫn du lịch; những di tích chỉ có giá trị đối với du lịch mà ít văn hóa hoặc ngược lại…

Cần xác định thị trường mục tiêu cho từng nguồn di sản (di tích, lễ hội) trên địa bàn. Điều đó có nghĩa là cần nghiên cứu xem từng nguồn di sản phù hợp với những đối tượng tham gia du lịch khác nhau như thế nào.

Phối hợp quy hoạch du lịch với quy hoạch đô thị nhằm thống nhất các dự án xây dựng để không làm ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan. Quy hoạch các di tích danh thắng trên cơ sở quy hoạch du lịch sẽ đưa các di tích có giá trị trở thành các điểm tham quan du lịch đồng thời lồng ghép với kế hoạch tôn tạo và giữ gìn các di tích.

Cần có định hướng văn hóa trong kinh doanh du lịch tại các điểm di tích, danh thắng nhằm tránh thương mại hóa các di tích văn hóa và phong tục tập quán. Ngăn chặn các hiện tượng phi văn hóa trong kinh doanh du lịch tại các điểm di tích.

Cần có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển du lịch trên địa bàn. Quán triệt phương châm lấy văn hóa để phát triển du lịch và ngược lại phát triển du lịch để bảo tồn, duy trì bản sắc văn hóa.

3.4. Tiểu kết chương III Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Du lịch văn hóa tâm linh là một loại hình du lịch rất quyến rũ đối với nền kinh tế du lịch. Việt Nam có đủ cơ sở tôn giáo để thực hiện du lịch tôn giáo, khách đến hành hương có thể cúng bái, chiêm ngưỡng trong sự tôn kính nghiêm trang, gìn giữ bản sắc hồn nhiên trong sự thực hành tín ngưỡng.

Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam loại hình du lịch này mới chỉ manh nha và phát triển một cách tự phát. Điều ấy đòi hỏi chúng ta phải vừa có chiến lược ở tầm vĩ mô, vừa có các biện pháp cụ thể. Nếu có chiến lược khả thi và áp dụng triệt để, loại hình du lịch sẽ nhanh chóng phát huy thế mạnh trong phạm vi cả nước nói chung và vùng đống bằng Bắc bộ nói riêng. Cần phải triển khai đồng bộ các biện pháp để du khách khi đến các địa chỉ tôn giáo, tâm linh sẽ thấy nét đặc thù tôn giáo của bản địa, được xem, cảm nhận, chiêm nghiệm. Du lịch văn hóa tâm linh sẽ thực sự giúp du khách tiếp cận thực sự “tâm linh”, “linh hồn” Việt Nam.

KẾT LUẬN

Tôn giáo tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại và đã du nhập vào Việt Nam từ khá sớm. Tôn giáo đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn hoá, xã hội. Chính tâm linh tôn giáo góp phần giữ gìn đạo đức con người, ổn định trật tự xã hội. Nó đã góp thêm một thiết chế để “giữ xã hội trong vòng trật tự” cùng với pháp luật, dư luận. Tôn giáo nào cũng khuyên con người- tín đồ, làm lành, lánh dữ, tích đức hành thiện, yêu người, cho người đói ăn, cho kẻ khát uống. Tôn giáo dạy con người tu thân, tề gia, đưa ra những chuẩn mực trong quan hệ vua- tôi, cha – con, vợ- chồng, thày –trò. Hầu hết các nội dung trên là những lời răn dạy của các đấng sáng lập tôn giáo ( Chúa Trời, Phật, Thánh Ala…), trở thành quy chuẩn, mô phạm điều chỉnh những hành vi của con người, tín đồ. Bất cứ một thứ tôn giáo, tín ngưỡng nào xét về bản chất của nó không bao giờ hướng tới cái xấu, cái độc ác mà luôn khuyến khích làm điều thiện, vươn tới cái đẹp, cái cao cả vì lợi ích bản thân và cộng đồng. Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người mà tín ngưỡng, tôn giáo đã tô đượm cho văn hoá dân tộc nhiều sắc màu. Các cơ sở thờ tự của tôn giáo thường là nơi diễn ra nghi lễ, thờ phụng của tín đồ tôn giáo, đồng thời cũng là nơi lưu giữ văn hoá truyền thống làm cho văn hoá dân tộc có sức sống trường tồn.

Chính vì những giá trị văn hóa như trên, từ lâu tôn giáo đã trở thành nhu cầu của số đông người dân. Ngay ở Việt Nam, số lượng tín đồ các tôn giáo chiếm hơn 1/4 dân số. Nếu kể cả những người theo đạo tổ tiên, ông bà thì hầu hết đều có tôn giáo, tín ngưỡng. Cho nên tôn giáo không chỉ là nhu cầu của cá nhân mà còn của cả xã hội nữa.

Ngày nay, ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống văn hóa, xã hội Việt Nam rất rộng lớn. Sự du nhập và phát triển của văn hóa hàng nghìn nặm để để lại cho đất nước ta một khối di sản khổng lồ, đó là hệ thống đình, chùa, đền miếu, nhà thờ có mặt khắp các làng xã, là các lễ hội tôn giáo đặc sắc. Đây cũng là một kho tài nguyên vô giá để chúng ta phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Bởi ai cũng biết, khi đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, xã hội càng hiện đại thì con người ta lại càng có nhu cầu nâng cao hơn nữa đời sống tinh thần. Cho nên sự phát triển của du lịch tâm linh trong tương lai không xa là nhu cầu tất yếu, nhất là đối với quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo như Việt Nam.

Du lịch tâm linh đến các thánh tích sẽ giúp con người tháo gỡ được các cảm xúc khổ đau, vun bồi tâm trí và tinh thần minh triết. Du lịch tâm linh rất cần thiết cho tinh thần con người trong xã hội hiện đại. Nó bao hàm cả hành trình tìm kiếm các giá trị văn hóa truyền thống lẫn tìm lại chính mình. Làm trổi dậy đời sống giác ngộ của khách du lịch tại những địa danh tâm linh chính là mục tiêu của các tour du lịch tâm linh. Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ.

Đối với vùng đồng bằng Bắc Bộ là nơi có một kho tàng di tích lịch sử văn hóa khổng lồ cùng những lễ hội tôn giáo phong phú, là một mảnh đất tiềm năng cho việc phát triển du lịch văn hóa tâm linh. Nếu có chiến lược nâng tầm quốc gia cũng như những giải pháp cụ thể, đồng bằng Bắc bộ sẽ trở thành du lịch văn hóa tâm linh thu hút đông đảo các tín đồ, du khách trong và ngoài nước.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993