Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: du lịch và tôn giáo qua khảo sát thực tế ở một số tỉnh đồng bằng bắc bộ dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Nhu cầu tôn giáo ở đồng bằng Bắc Bộ
Đồng bằng Bắc bộ là một vùng đất chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển cả về kinh tế, văn hoá, lẫn quân sự của Việt Nam. Sau hàng triệu năm hình thành và hàng nghìn năm khám phá của người Việt, vùng đồng bằng Bắc Bộ dần được định hình cho đến ngày nay. Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng long – Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả. Đây cũng chính là nơi hai tôn giáo chủ yếu là Phật giáo và Thiên chúa giáo du nhập đầu tiên vào Việt Nam và phát triển rất mạnh mẽ.
Nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu, nhà thờ Thiên Chúa giáo v.v…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như chùa Hương, Chùa Bái Đính, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng, nhà thờ đá Phát Diệm v.v… Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú.
Những biểu hiện trên cho thấy người dân đồng bằng Bắc Bộ rất coi trọng đời sống tâm linh. Hầu như người dân nào cũng đã từng tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng như đi lễ chùa, lễ nhà thờ, tham gia các lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng.
Khảo sát nhu cầu tín ngưỡng của người dân trên phạm vi 5 tỉnh đồng bằng Bắc bộ là Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Nình Bình với số lượng phiếu phát ra 1000 phiếu/tỉnh, Câu hỏi chủ yếu là: “Ông, bà,… có bao giờ tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng không?”, chúng tôi thu được kết quả như sau: Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Những người tham gia thường xuyên là những người tham gia tất cả các lễ hội, hoạt động tôn giáo tín ngưỡng trong làng, trong vùng (ví dụ như người dân Bắc Ninh nhưng đầu năm vẫn đi lễ chùa Bái Đính hoặc người dân Hà Nội đi lễ hội chùa Hương), đi lễ chùa vào rằm, mùng một, và có thể lập cả điện thờ ở nhà; Những người thỉnh thoảng tham gia là những người chỉ đi các lễ hội lớn, đi lễ đầu năm; Những người tham gia ít nhất một lần là những người chỉ tham gia vài lần vào những dịp đặc biệt.
Còn đây là kết quả khảo sát tại một số điểm du lịch có gắn với các thánh tích nổi tiếng hoặc lễ hội tôn giáo lớn trong năm 2010:
Từ các bảng khảo sát trên , ta nhận thấy nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng của người dân đồng bằng Bắc bộ khá cao. Hầu như người dân nào cũng ít nhất một lần tham gia vào các hoạt động tôn giáo hay sinh hoạt tín ngưỡng như đi lễ chùa, lễ nhà thờ, đi lễ hội, đối với những nơi được cho là linh thiêng thì lượng người đến rất đông. Đặc biệt khoảng 10 năm trở lại đây, khi đời sống người dân được nâng cao thì nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo càng phát triển mạnh mẽ vì người ta muốn đi cầu, xin, trả ơn,… để sức khỏe được dồi dào, làm ăn được thuận lợi, gia đình được hạnh phúc, con cái đỗ đạt,….
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.2. Đánh giá chung về tiềm năng du lịch ở các đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ, các lễ hội tôn giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
2.2.1. Tiềm năng
Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng có một hệ thống các đình, chùa, đền, miếu khá dày đặc, và cùng với nó là các lễ hội tôn giáo. Bên cạnh đó là một số công trình nhà thờ độc đáo. Đây không chỉ là các địa chỉ tôn giáo, là nơi sinh hoạt của các tín đồ tôn giáo mà còn là các địa chỉ du lịch hấp dẫn. Việc phát triển du lịch tôn giáo là một nhu cầu đang nóng hiện nay bởi con người sống trong đời có 2 điều quan trọng là hạnh phúc và khổ đau. Mỗi con người đều có thế giới riêng: tâm và linh – đây là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hiện nay. Hiện nay, các nước Âu, Mỹ thường có xu hướng du lịch về phương Đông, trong đó có Việt Nam (bởi Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch tâm linh rất lớn).
Với một khối lượng là hàng vạn các di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng (trong đó chủ yếu là các cơ sở sinh hoạt tôn giáo như đình, chùa, nhà thờ,…) và hàng chục vạn các cơ sở tôn giáo ở các làng (chưa được xếp hạng di tích), đồng bằng Bắc Bộ được coi là nơi có tiềm năng du lịch tâm linh cực kỳ dồi dào. Xin liệt kê cụ thể một số tỉnh:
Hà Nội: Là một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam.. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử Thăng Long – Hà Nội đã tích hợp trong mình bao sự kiện lịch sử, văn hóa đã trở thành di sản, di tích vô giá cho chúng ta hôm nay. Thống kê sơ bộ cho thấy Hà Nội đã có trên 5000 di tích, chiếm tới 40% di tích của cả nước; gần 1000 di tích được cấp bằng di tích quốc gia, đậm đặc di tích, đa dạng không gian văn hóa… Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Với một vùng đất có nhiều các di tích, danh thắng lịch sử, đình chùa miếu mạo như Hoàng Thành Thăng Long; Cổ Loa, Đền Gióng, chùa Hương, chùa Tây Phương, làng cổ Ðường Lâm, Nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ Hàm Long… du lịch Hà Nội đang hướng tới loại hình du lịch văn hóa tâm linh là trọng yếu. Tiềm năng này được những người làm du lịch đánh giá cao và đặt hy vọng khách du lịch quốc tế đặc biệt là khách châu Âu lựa chọn Hà Nội là điểm đến nhiều hơn.
Hải Dương: Là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử và văn hiến. Nhiều thế kỷ trôi qua, các giá trị tiêu biểu đó được gìn giữ, bảo lưu qua hệ thống văn hoá vật thể, phi vật thể đặc sắc như di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán v.v. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 1098 di tích được phân bố ở hầu khắp các làng xã. Trong số đó, có 02 di tích là Côn Sơn và Kiếp Bạc được xếp hạng đặc biệt quan trọng của quốc gia, 140 di tích xếp hạng quốc gia và 62 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Trước đây, có nhiều di tích bị xuống cấp, đổ nát, hoang tàn. Hiện nay, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh của người dân, hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh đã được tu bổ, khôi phục và tôn tạo xứng đáng với tầm vóc của các danh nhân đất nước và các giá trị lịch sử, văn hóa, du lịch vốn có. Điển hình là khu di tích danh thắng Côn Sơn Kiếp Bạc, chùa Thanh Mai, đền Cao An Lạc, đền thờ thầy giáo Chu Văn An … ở Chí Linh; khu di tích danh thắng An Phụ ở Kinh Môn; cụm di tích thờ danh y Tuệ Tĩnh và Văn miếu Mao Điền ở Cẩm Giàng, đền thờ Khúc Thừa Dụ ở Ninh Giang… Hàng năm, các di tích trên địa bàn tỉnh đã đón hàng chục vạn du khách thập phương về tham quan, chiêm bái. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền, sự nhiệt tình công đức của nhân dân, hệ thống di tích lịch sử văn hoá của tỉnh Hải Dương (tiêu biểu nhất là khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc) đang được bảo tồn và phát huy tác dụng nhiều mặt, đặc biệt là giá trị đối với du lịch văn hóa tâm linh.
Hưng Yên: Lịch sử phát triển và sự giao thoa của các nền văn hoá nơi đây đã để lại cho Hưng Yên một kho tàng di sản hết sức có giá trị cho việc phát triển du lịch với trên 2000 di tích, trong đó có nhiều di tích được xây dựng từ thời Lý, Trần, đến nay nhiều di tích còn mang giá trị nguyên gốc độc đáo và hơn 500 lễ hội được tổ chức hằng năm, Hưng Yên cũng là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ có tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh rất dồi dào. Nổi bật là cụm di tích Phố Hiến (thành phố Hưng Yên) với Văn miếu, chùa Hiến, chùa Chuông, đền Trần, đền Mẫu… Quần thể kiến trúc nghệ thuật độc đáo với 128 di tích, trong đó có 17 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia với gần 100 bia ký, trên 11.200 hiện vật trong đó có 6.022 hiện vật có giá trị về lịch sử. Điều đặc biệt là các di tích phân bố ở khắp các phường, xã… tạo thành một quần thể di tích với nền kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Nhiều di tích lịch sử văn hoá trong quần thể di tích Phố Hiến còn bảo tồn, lưu giữ được tính nguyên gốc từ nghệ thuật kiến trúc, hoạ tiết, hoa văn đến đồ thờ tự. Các di tích đã được xếp hạng Quốc gia thể hiện đầy đủ các triều đại từ Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn. Trong mỗi triều đại đều để lại những công trình văn hoá, kiến trúc mang dấu ấn độc đáo của thời đó như: đền Mây (thời Đinh), chùa Hiến (Thời Lý), đền Tân La, đền Kim Đằng (thời Lê), đền Thiên Hậu (thời Hậu Lê), đền Trần, đền Mẫu (thời Nguyễn)… Cụm di tích văn hoá, lịch sử, tâm linh Phố Hiến nổi bật là phong cách kiến trúc Việt Nam và phong cách kiến trúc Trung Hoa. Tại Phố Hiến hiện có tới 60 di tích lịch sử văn hoá… Những kiến trúc tôn giáo của người Việt gồm nhiều loại hình như: đền, chùa, đình, miếu… Trong đó có thể kể đến những công trình nổi tiếng như đền Trần thờ tướng quân Trần Hưng Đạo, đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át, chùa Chuông, chùa Hiến… Người Hoa sinh sống ở Phố Hiến cũng đã để lại nhiều công trình kiến trúc tôn giáo như Võ Miếu, Đền Mẫu… Quần thể di tích lịch sử đa dạng đã tạo nên hệ thống các lễ hội dân gian truyền thống phong phú. Mỗi lễ hội đều có bản sắc riêng gắn với tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân bản địa. Cũng như nhiều mền quê Bắc bộ khác, ở nhiều địa phương hiện còn lưu giữ được một số loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống độc đáo như: múa lân, múa rồng, múa tứ linh và những làn điệu dân ca có giá trị như: ca trù, hát trống quân, hát xẩm, hát chèo… Không chỉ nơi lư giữ một kho tang văn hóa quý hiếm mà Hưng Yên còn là điểm đến của loại hình du lịch tâm linh. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Nam Ðịnh: Là vùng đất phát tích của vương triều Trần, một trong những triều đại hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 1.655 di tích lịch sử văn hóa, trong đó hơn 200 di tích đã được Nhà nước xếp hạng. Quần thể di tích này mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc và là nguồn tài nguyên du lịch tâm linh hấp dẫn, thu hút đông du khách. Trong đó nổi bật nhất là quần thể di tích văn hóa thời nhà Trần khá đa dạng và có sức lôi cuốn với du khách như: Phủ Dày, Chùa Cổ Lễ, Chùa Keo Hành Thiện, Cầu Ngói Chùa Lương,… Từng là nơi gia tộc nhà Trần chọn làm nơi cư trú, dấy nghiệp với làng Tức Mặc nổi tiếng là ngôi làng chỉ có một họ Trần, quê hương của các vua Trần, trên mảnh đất Nam Ðịnh đâu đâu cũng mang đậm dấu ấn văn hóa của triều đại này. Ngoài quần thể di tích văn hóa nhà Trần tập trung tại khu vực thành phố Nam Ðịnh và huyện Mỹ Lộc còn có hàng trăm di tích gồm đền, phủ, chùa miếu, lăng với các kiểu dáng kiến trúc đa dạng có liên quan đến tục thờ Ðức thánh Trần và các vua quan, hoàng thân quốc thích nhà Trần. Một số di tích tiêu biểu của văn hóa thời nhà Trần tại Nam Ðịnh có khả năng khai thác, phát huy giá trị phục vụ phát triển du lịch, trước hết phải kể đến Khu di tích lịch sử văn hóa triều Trần trải rộng trên phạm vi các phường Lộc Vượng, Lộc Hạ (thành phố Nam Ðịnh) và một số xã Mỹ Thành, Mỹ Phúc, Mỹ Trung của huyện Mỹ Lộc bao gồm 45 di tích gắn với lịch sử vương Triều Trần. Các di tích: Ðền Trần, Chùa Tháp, Ðền Bảo Lộc, Ðền Cao Ðài… có giá trị về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật kiến trúc, đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Tại đây còn lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật lịch sử về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Ðại Việt thế kỷ 13. Xưa kia, nơi đây vốn là hành cung Thiên Trường từng được ví như kinh đô thứ hai thời Trần với các cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa (nơi dành cho các Thái Thượng Hoàng và các Vua đương triều ngự), cung Ðệ Nhất, Ðệ Nhị, Ðệ Tam, Ðệ Tứ (dành cho các Thái Hoàng thái hậu, các phi tần tôn nữ ở). Ngoài những di sản văn hóa vật thể, Nam Ðịnh còn có vốn văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, lễ hội khá phong phú mang đậm bản sắc nền văn minh lúa nước sông Hồng, là nền tảng cho việc hình thành những sản phẩm du lịch văn hóa phi vật thể, với khoảng 100 lễ hội truyền thống được tổ chức hằng năm tại các địa phương, trong đó có 58 lễ hội xuân và 42 lễ hội tổ chức vào dịp thu, đông. Việc tổ chức tốt các lễ hội có quy mô về không gian về thời gian như: Lễ hội Phủ Dày, Lễ hội Ðền Trần, Lễ Khai ấn đầu năm, Hội chợ Viềng mùa xuân… tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành khai thác phục vụ khách du lịch.
Bắc Ninh: Được coi là nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam, Bắc Ninh là một trong những vùng có nhiều di tích lịch sử văn hóa, đặc biệt là các cơ sở tín ngưỡng, thờ tự của Phật giáo. Đáng kể đến, đó là thành cổ Luy Lâu, chùa Dâu, đình Đình Bảng, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Tam Sơn đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân – Âu Cơ, đền Đô, lăng các vua Lý, chùa Cổ Pháp chùa Dương Lôi, đến Lý Triều Thánh mẫu, đình Dương Lôi thờ tám vua Lý, chùa Tiêu Sơn với toà nhà tổ thờ Quốc sư Vạn Hạnh… Không những là quê hương của chùa tháp, Bắc Ninh còn là vương quốc của lễ hội với nhiều loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian đặc sắc, tiêu biểu là Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Hầu như làng quê nào cũng có lễ hội. Hội được mở ra quanh năm, nhưng đậm đặc nhất là vào ba tháng xuân. Nhiều lễ hội lớn, thu hút nhiều quý khách trong vùng, trong nước và nước ngoài tới dự bởi sự đông vui náo nhiệt với nhiều hoạt động tâm linh và nghệ thuật dân gian đặc sắc, như lễ hội xem hoa mẫu đơn chùa Phật Tích, hội rước pháo Đồng Kỵ, hội kỷ niệm các vua Lý ở đền Đô, hội Dâu với trò “rước tứ Pháp”, hội chen làng Nga Hoàng, hội chạ “Tứ Yên” với tục kéo dây lấy lửa, hội rước nước ở đền Phả Lại v.v …Sầm uất và hấp dẫn nhất là lễ hội vùng Quan họ như hội Lim, hội làng Diềm, hội Hoà Đình, hội Ó, hội Bồ Sơn.v..v..với nhiều nghi thức rước sách, tế lễ uy nghiêm, cùng nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ dân gian phong phú, độc đáo, đặc biệt là sinh hoạt văn hoá giao lưu và ca hát Quan họ. Dó chính là tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa tâm linh ở nơi đây. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Ninh Bình: Là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch văn hóa vì đây từng là kinh đô của Việt Nam ở thế kỷ X, nơi phát tích ba triều đại Đinh – Lê – Lý mà bằng chứng để lại là hàng loạt các đền chùa, đình đài, di tích lịch sử. Ninh Bình có rất nhiều điểm du lịch văn háo tâm linh rất nổi tiếng như: Khu di tích lịch sử văn hoá Cố đô Hoa Lư được công nhận là di tích đặc biệt quan trọng quốc gia với 47 di tích trong đó nổi bật là: Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, lăng mộ Vua Đinh, đền thờ và lăng mộ Vua Lê Đại Hành, nhà bia tưởng niệm Vua Lý Thái Tổ, đền thờ Công chúa Phất Kim, miếu thờ Công chúa Phù Dung, đền thờ trần Quý Minh, phủ Khống, phủ Đột, động Hoa Sơn, động Hoa Lư, bia Câu Dền, sông Sào Khê, đền Vực Vông, phủ Đông Vương, phủ Vườn Thiên,v.v. Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính với chùa Bái Đính cổ (có đền thánh Nguyễn Minh Không, các hang động thờ Mẫu, thờ Phật, thờ Thần Cao Sơn…) và khu chùa Bái Đính mới với 5 toà lớn hội tụ nhiều kỷ lục Việt Nam dọc theo sườn núi. Ngoài ra còn có cụm Di tích tâm linh nho giáo: chùa Bích Động, chùa Nhất Trụ, chùa Đồng Đắc, chùa Địch Lộng, chùa Bàn Long, chùa Ngần Xuyên, chùa Non Nước v.v.
Đặc biệt, Ninh Bình nổi tiếng với quần thể nhà thờ Phát Diệm với 9 nhà thờ có kiến trúc độc đáo kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, được đánh giá là nhà thờ độc đáo vá đẹp nhất Việt Nam, là kỳ quan Thiên Chúa giáo hấp dẫn nhiều du khách trong và ngoài nước.
Vĩnh Phúc: Vĩnh Phúc còn có nhiều tiềm năng du lịch tâm linh chứa đựng tính nhân văn, cả văn hoá vật thể và phi vật thể với hàng nghìn di tích lịch sử văn hoá, căn cứ địa cách mạng. Theo thống kê của Sở Văn hoá – Thông tin hiện nay, toàn tỉnh có 967 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 92 di tích được xếp hạng quốc gia, 208 di tích được tỉnh xếp hạng. Đến Vĩnh Phúc, không thể không biết đến Đền thờ Hai Bà Trưng, khu danh thắng Tây Thiên thờ quốc mẫu Năng Thị Tiêu, khu du lịch tâm linh Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Tháp cổ Bình Sơn… Đặc biệt là Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, một trong 3 thiền viện tầm cỡ lớn nhất của Việt Nam, thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, được xây dựng ngay bên cạnh khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự. Thiền viện có diện tích rộng 4,5ha, rừng ngoại vi rộng 50ha là một công trình mang tầm cỡ quốc gia đã chính thức hoàn thiện và được khánh thành cuối năm 2005, mỗi năm có hàng ngàn phật tử, du khách trong và ngoài nước hành hương về “cội nguồn Phật giáo Việt Nam” này để thắp hương khấn phật và thưởng ngoạn cảnh đẹp rừng núi Tây Thiên hơn là tìm lại chính mình.
Hà Nam: Hà Nam hiện có 1269 di tích các loại: di tích khảo cổ, lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật và các danh lam thắng cảnh. Là một tỉnh nhỏ, tài nguyên du lịch tâm linh ở Hà Nam không phong phú như các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ khác nhưng Hà Nam lại giáp với nhiều tỉnh có tiềm năng du lịch lớn như Hà nội, Ninh Bình, Nam Định,… Hiện Hà Nam có các di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu như Đền Trần Thương, đình Văn Xá, đình Thọ Chương, Chùa Long Đọi Sơn, đền Lảnh Giang, đình Lũng Xuyên, Chùa bà Đanh, đền Trúc, đền Bà Lê Chân, Chùa Châu, Chùa Tiên, khu di tích Đinh Lê, khu văn hoá Liễu Đôi, Nhà từ đường Nguyễn Khuyến, đình Cổ Viễn, đình Bồ Đề (Bình Lục)… Đặc biệt ở đât có một số lễ hội nổi tiếng như lễ tịch Điền ở làng Đọi Sơn, lễ đền Trần Thương. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Thái Bình: Theo thống kê, toàn tỉnh có 2.164 di tích, trong đó có 386 di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh và 91 di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Các di tích được phân bố tương đối tập trung và hình thành một số cụm thuận lợi cho phát triển du lịch, như cụm di tích trên địa bàn Thành phố Thái Bình và khu vực phụ cận; cụm di tích Đền Đồng Bằng trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ; cụm di tích Đền thờ các vua Trần huyện Hưng Hà; cụm di tích Chùa Keo (Vũ Thư)… Chỉ tính trên địa bàn huyện Hưng Hà – mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi phát tích hưng nghiệp nhà Trần hiện còn lưu giữ bảo tồn được 552 di tích, trong đó có 22 di tích được xếp hạng quốc gia, 60 di tích xếp hạng cấp tỉnh gắn liền với hàng trăm lễ hội văn hoá có quy mô khác nhau, trong đó có hai lễ hội có phạm vi lớn được cả nước biết đến là lễ hội Đền Tiên La và lễ hội Đền Trần. Là mảnh đất địa linh nhân kiệt anh hùng, trải qua chiều dài lịch sử dựng và giữ nước, Thái Bình còn gắn liền với những cái tên danh nhân lịch sử văn hóa, anh hùng kháng chiến như Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục Nương; Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung; Tướng quân Trần Thủ Độ; Kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm; Nhà bác học Lê Quý Đôn; Tướng quân Trần Lãm; Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ; ông tổ nghề dệt Phạm Đôn Lễ; nhà cách mạng Nguyễn Đức Cảnh v.v.. mà hiện nhiều di tích thờ cúng nổi tiếng linh thiêng, đang thu hút du khách trong và ngoài nước về thăm viếng, là nguồn tài nguyên để phát triển du lịch văn hóa tâm linh.
Hải Phòng: Là thành phố hiện còn lưu giữ được gần 1000 di tích, nổi bật trong đó là Đền Nghè thờ nữ tướng Lê Chân, người có công lập lên trang ấp đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển của thành phố sau này, bà cũng là người đã tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứu nhất chống quân xâm lược nhà Đông Hán. Đình Hàng Kênh thờ anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Ngoài ra Hải Phòng còn có một số lễ hội nổi tiếng như hội Chọi trâu (Đồ Sơn). Đây không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị văn háo, là nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân địa phương mà còn là những địa chỉ du lịch tâm linh phục vụ nhu cầu của đông đảo du khách. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Qua khảo sát cụ thể hệ thống đình chùa, đền, miếu, nhà thờ và các lễ hội ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, ta nhận thấy, đồng bằng Bắc bộ là một vùng rất giàu tiềm năng để phát triển loại hình du lịch tâm linh.
Bà Nguyễn Thanh Hương, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường, Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) nhận định, bên cạnh tài nguyên thiên nhiên, du lịch tâm linh gắn với nhiều di tích lịch sử, sự phát triển của Phật giáo cùng các tôn giáo, tín ngưỡng khác như: đền Đinh, đền Lê, Côn Sơn – Kiếp Bạc, chùa Dâu, chùa Keo, Phủ Giầy… và những di sản văn hóa phi vật thể như múa rối, chèo, quan họ… sẽ là sản phẩm du lịch chính của vùng Đồng bằng Sông Hồng.
Nhận định về tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh của vùng Đồng bằng sông Hồng, Ông Lê Văn Minh, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch cũng cho rằng, tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh của vùng Đồng bằng sông Hồng rất to lớn bởi đây là nơi chứa đựng rất nhiều các di tích văn hóa lịch sử, các bản sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc cho phép phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Thêm vào đó, vùng Đồng bằng sông Hồng có các trung tâm đô thị lớn (gồm Hà Nội, Hải Phòng) có các cửa khẩu quốc tế quan trọng về đường hàng không và đường thủy (như: sân bay Nội Bài, sân bay Cát Bi, cảng Hải Phòng…). Đây là những cửa ngõ quan trọng để thông thương với quốc tế và đón nhận khách du lịch.
2.2.2. Thực trạng
2.2.2.1. Mặt được
Du lịch tín ngưỡng là một hình thức du lịch phát triển rất mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Du khách theo loại hình du lịch này thường tìm đến các đình, chùa, các thắng tích tôn giáo để vãn cảnh, cúng bái, cầu nguyện,… Tại đây, du khách sẽ hòa vào dòng tín đồ để cảm nhận vẻ yên bình, thanh thản ở những thắng tích tôn giáo nổi tiếng.
Còn du lịch tâm linh gần đây đã hình thành và đang phát triển ở những quốc gia châu Á, đặc biệt những quốc gia theo Phật giáo như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan. Hàng năm, các cơ quan tôn giáo Nhật Bản kết hợp với các công ty lữ hành tổ chức tour cho trên vài ngàn khách hành hương từ Nhật Bản đến các thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ. Thái Lan, Myanmar. Châu Âu hàng năm cũng đã tổ chức nhiều đoàn du khách tham gia các lễ hội tôn giáo, các khóa tìm hiểu và nghiên cứu tôn giáo, các khóa tu thiền tại các quốc gia châu Á từng in dấu chân của Phật Thích Ca Mâu Ni lúc sinh thời.
Du lịch tâm linh đến các Phật tích sẽ giúp con người tháo gỡ được các cảm xúc khổ đau, vun bồi tâm trí và tinh thần minh triết. Du lịch tâm linh rất cần thiết cho tinh thần con người trong xã hội hiện đại. Nó bao hàm cả hành trình tìm kiếm các giá trị văn hóa truyền thống lẫn tìm lại chính mình. Làm trổi dậy đời sống giác ngộ của khách du lịch tại những địa danh tâm linh chính là mục tiêu của các tour du lịch tâm linh. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Điều lý thú của du lịch tâm linh còn ở chỗ tất cả du khách đi trong tour đều như nhau trong vai trò của một tín đồ, không phân biệt thành phần xã hội, giai cấp, không phân biệt sang hèn, giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội,… Du lịch tâm linh vì vậy có thể giúp mỗi người gỡ bỏ vai diễn kẻ lạ mặt trong đời để sống hòa hợp tự nhiên như tất cả chúng sinh trên mặt đất.
Đối với Việt Nam, là một nước có tiềm năng du lịch rất lớn nên hiện nay Nhà nước cũng như ngành du lịch đang bắt đầu có những bước khởi động cho sự phát triển loại hình du lịch này. Trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 và định hướng tới năm 2020, toàn bộ các khu di sản đều nằm trong khu du lịch quốc gia. Điều đó cho thấy Nhà nước và ngành du lịch đã nhận thấy tầm quan trọng của các di sản trong khai thác giá trị du lịch ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là loại hình du lịch văn hóa tâm linh.
Hiện nay, tuy chưa có một dự án cấp nhà nước nhưng ở một số nơi đã tổ chức những cuộc hội thảo, những chương trình bàn về vấn đề phát triển du lịch văn hóa tâm linh. Ví dụ:
Trung tuần tháng 10 năm 2009, một hội thảo với chủ đề ”Quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch tại các di sản thế giới ở Việt Nam” đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đại sứ quán Tây Ban Nha tại Việt Nam và UBND tỉnh Quảng Bình phối hợp tổ chức. Hội thảo đã được nghe các bài tham luận của các chuyên gia Việt Nam và Tây Ban Nha về quản lý, bảo tồn di sản thế giới trong xu hướng phát triển mạnh mẽ các loại hình du lịch ở Việt Nam, các vấn đề như quy hoạch và định hướng phát triển du lịch tại các khu vực có di sản thế giới ở Việt Nam; Vấn đề du lịch và di sản; Bảo tồn di sản văn hóa thế giới và phát triển du lịch tại các di sản văn hóa thế giới hiện nay ở Việt Nam; một số vấn đề cụ thể của các di sản thế giới ở Việt Nam.
Mới đây, ngày 7.5.2010, Phân viện Văn Hóa Nghệ Thuật Việt Nam tại Huế cũng đã tổ chức hội thảo khoa học “Di sản văn hóa phật giáo và vấn đề phát triển du lịch ở Huế” đã được tổ chức, trong đó có đề cập đến vấn đề khai thác giá trị của các chùa, chiền, lăng, tẩm vào việc khai thác du lịch văn hóa tâm linh (chủ yếu bàn trong phạm vi các di sản ở Huế).
Cùng với việc định hướng về mặt chiến lược, hiện nay ở cấp Quốc gia và cấp địa phương, vấn đề bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di sản cũng được triển khai rất tốt. Theo con số thống kê năm 2008 của Cục Di sản – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì trong 3 năm từ 2006-1009, Nhà nuớc đã đầu tư 863 tỷ đồng cho việc chống xuống cấp 506 di tích trong tổng số 7.300 di tích của cả nước. Bên cạnh đó, các địa phương cũng huy động được hàng trăm tỷ đồng để trùng tu, tôn tạo di tích. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Chính vì vậy, các thánh tích ngày càng được chú ý đầu tư nâng cấp, cải tạo, tu sửa khang trang, bề thế hơn. Hiện đã hình thành nhiều khu di tích có thể khai thác loại hình du lịch tâm linh như: Khu di tích chùa Bái Đính nằm cách trung tâm thành phố Ninh Bình 12km, cách cố đô Hoa Lư 5 km được xem là khu du lịch tâm linh mới của Việt Nam. Điện Tam Thế có tượng Tam Thế đúc bằng đồng, nặng tới 50 tấn; Điện Pháp Chủ với tượng Thích Ca Mầu Ni nặng 100 tấn; hai quả chuông đồng nặng 36 tấn và 27 tấn đồng, cổng Tam quan, hồ Phóng sinh… Xung quanh hai bên lối đi là 500 tượng La Hán bằng đá Ninh Vân – Ninh Bình. Ngoài ra, núi Bái Đính cũng là nơi đặt khu tháp mộ sư, bảo tháp 14 tầng, khu bảo tàng Phật giáo Việt Nam, khu thờ Mẫu… Khách có thể nghỉ ngơi trong công viên yên tĩnh nơi trồng nhiều cây dược liệu, cây quý hiếm hoặc dạo thuyền vào thăm khu hang động Tràng An cách chùa không xa, nơi có tới 50 hang động dưới lòng núi đá vôi đã phát lộ. Khu du lịch này rộng 510ha, được xây dựng với nhiều hạng mục lớn và hàng năm đã thu hút hàng triệu lượt du khách đến chiêm bái.
Rồi đến Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, là một trong 3 thiền viện tầm cỡ lớn nhất của Việt Nam, được xây dựng ngay bên cạnh khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự. Thiền viện có diện tích rộng 4,5ha, rừng ngoại vi rộng 50ha là một công trình mang tầm cỡ quốc gia đã chính thức hoàn thiện và được khánh thành cuối năm 2005, đã thu hút hàng ngàn phật tử, du khách trong và ngoài nước hành hương về “cội nguồn Phật giáo Việt Nam” để thắp hương khấn phật và thưởng ngoạn cảnh đẹp rừng núi Tây Thiên hơn là tìm lại chính mình.
Thấy được tiềm năng to lớn của du lịch văn hóa tâm linh nên hiện nay một số công ty du lịch đã tổ chức các tour đi lễ chùa vào dịp đầu năm như công ty duc lịch Songdatour đầu năm 2010 có đưa ra các tour như chùa Hương, chùa Bái Đính – Tràng An, Yên Tử – Hạ Long – đền Cửa Ông – chùa Long Tiên – đền Kiếp Bạc; Công ty Du lịch Newstar tour tung ra chùm tour lễ hội khá đa dạng như chùa Hương, Côn Sơn – Kiếp Bạc, Phủ Giầy – Đền Trần; Công ty Dịch vụ lữ hành Saigontourist đưa ra chùm tour liên tuyến 3 nhà thờ hoặc 3 ngôi chùa trong một hành trình như Hành hương về xứ đạo – viếng nhà thờ La Vang – nhà thờ Phát Diệm – nhà thờ lớn Hà Nội; thăm 3 thiền viện Trúc Lâm… Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Có thể nói, hiện nay Việt Nam đã nhanh chóng mở cửa và phát huy ngành du lịch và kịp thời đưa ra đường lối phát triển bền vững đem lại hiệu quả đem lại ngày một lớn hơn. Cũng cần nhận thấy rằng chưa bao giờ du lịch văn hóa tâm linh lại được đề cập và bước đầu phát huy như hôm nay. Việt Nam đang mở rộng dịch vụ du lịch, thu hút du khách không những phát triển du lịch thuần túy mà cả du lịch văn hóa tâm linh. Trong đó, vùng đồng bằng Bắc bộ được đánh giá là một vùng trọng điểm trong việc khai thác loại hình du lịch này.
2.2.2.2. Những tồn tại
Hiện nay, ở Việt Nam nói chung và đồng bằng Bắc bộ nói riêng chưa có loại hình du lịch tâm linh theo đúng nghĩa mà mới chỉ manh nha. Mặc dù ở Việt Nam cũng như đồng bằng Bắc Bộ, đời sống tâm linh của con người rất phong phú và nhu cầu đi lễ hội, chùa chiền là rất lớn. Nhưng thực tế cho thấy, hầu hết người dân đi lễ, đi chùa, đi nhà thờ đều là tự tổ chức chứ chưa đi theo tour.
Một số công ty du lịch tuy đã tổ chức được những tour đến các điểm du lịch văn hóa tâm linh nhưng nhìn chung các tour du lịch này chỉ mới làm được một việc là tổ chức đưa đón, bố trí ăn uống, nghỉ ngơi cho du lịch tại các địa chỉ trên. Du khách tự lễ bái, cầu cúng, tham quan,… Các công ty du lịch gần như rất ít quan tâm đến phương diện chuẩn bị các điều kiện cho du khách theo loại hình du lịch tâm linh như: nơi ở, thiền thất, thánh thất, các trang bị sinh hoạt khóa tu, nhu yếu phẩm, đặc biệt là con người. Trong khi, du lịch tâm linh đúng nghĩa là du khách đến các thánh tích tôn giáo không chỉ đơn giản là vãn cảnh, hay tìm hiểu một nền văn hóa khác. Với họ, các thánh tích, Phật tích là những nơi giác ngộ, nơi có thể trao tặng cho họ các thông điệp tuyệt vời, chứa đựng minh triết giác ngộ, sự hòa hợp giữa con người với thế giới, nơi mà qua khoá tu thiền tại chỗ, họ có thể giải mã ít nhiều bản thế cá nhân bí ẩn của kiếp nghiệp chính mình,…
Bên cạnh đó, có thể dễ dàng nhận thấy không ít bất cập tại các điểm du lịch này. Đó là hiện tượng thương mại hóa các lễ hội tôn giáo, cảnh lộn xộn trong các chùa chiền, đền phủ,… Ngày thường cảnh chùa chiền thường vắng vẻ, nhưng dịp lễ hội thì người và xe khắp nơi đổ về, trong khi công tác tổ chức không tốt đã gây nên những cảnh hỗn loạn. Đơn cử như lễ khai hội Phủ Giầy, Đền Trần (Nam Định) năm 2010, hàng vạn du khách đã bị tắc đường hàng giờ đồng hồ nên thấy chán nản, mệt mỏi. Đặc biệt, lễ khai ấn Đền Trần vài năm lại đây luôn lâm vào tình trạng phi văn hóa, phản tâm linh bởi đến giờ khai ấn, hàng ngàn người lao vào tranh cướp bên trong, còn bên ngoài là cảnh rao bán ấn giả ấn thật. Điều đó cho thấy mục đích của lễ hội đã bị biến tướng. Ở một số lễ hội tôn giáo, tâm linh cũng thường xảy ra cảnh buôn thần bán thánh, trộm cắp đồ của du khách, nạn ăn xin, chèo kéo khách mua hàng,… Đó là những biểu hiện xấu chốn tâm linh. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Một thực trạng đáng buồn khác cũng đang diễn ra mà nếu không được khắc phụ ngay sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên của loại hình du lịch văn hóa tâm linh, đó chính là tình trạng xâm phạm di tích, trùng tu tôn tạo bừa bãi.
Theo thống kê của Cục di sản văn hóa, hiện nay trên cả nước có khoảng 5.300 di tích cấp tỉnh, hơn 3.000 di tích cấp quốc gia và 5 danh thắng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Cũng theo thống kê trên, tình trạng lấn chiếm di tích diễn ra ở hầu khắp các địa phương trên cả nước. Nhiều di tích bị vi phạm nghiêm trọng hàng chục năm mà vẫn chưa có biện pháp nào khắc phục. Khảo sát một số di tích trên địa bàn nội thành Hà Nội, chúng tôi thấy tình trạng di tích bị xâm phạm một cách không thương tiếc. Có một lí do từ lịch sử để lại là có thời kỳ người dân được cho ở nhờ trong chùa, trong đình, lâu dần xây nhà xây cửa, hiện không thể giải phóng để trả lại khuôn viên chùa chiền. Ngoài ra, bên cạnh các khu di tích cũng mọc lên đủ thứ. Những hàng quán, cái lớn cái nhỏ, tạm bợ với những tấm bạt vá chằng vá đụp, những mảnh nilon rách nát, những tấm kim loại hoen rỉ; những hồ bán nguyệt quanh di tích thì cỏ dại thả sức mọc, rác rưởi vương vãi khắp nơi. Xung quanh khu di tích thì nhà cao nhà thấp, nhà lớn nhà bé đủ hình dạng, đủ trường phái, màu sắc chen lấn nhau, “đè bẹp” di tích. Các di tích xưa đã nhỏ bé nay lại càng bị nhỏ bé hơn bởi sự xâm lấn của các công trình xung quanh, đặc biệt là các công trình trong nội đô Hà Nội. Nhiều di tích bị các công trình xây mới che lấp, du khách tìm mãi mà chẳng thấy đường vào. Chẳng những thế mà dân còn phơi phóng quần áo trên cao, dưới thấp sát ngay di tích; cùng với dự ồn ào hỗn độn của đủ loại âm thanh loa đài, tiếng người cãi nhau… tất cả không ăn nhập và không phù hợp với không gian cảnh quan di tích lịch sử văn hóa, đặc biệt là những công trình tôn giáo, lịch sử thiêng liêng.
Ngoài việc di tích bị xâm lấn thì một số khác đang bị mất đi tính nguyên gốc – giá trị đích thực của di tích – bởi tình trạng trùng tu, tôn tạo bừa bãi. Những năm gần đây, chuyện gọi là “trùng tu di tích” theo kiểu “đập phá để xây lại” hoặc “biến cổ thành tân” xảy ra khắp nơi. Ngoài một số di tích đặc biệt cấp quốc gia được trùng tu, tôn tạo một cách bài bản, bảo đảm giữ nguyên yếu tố gốc, còn lại ở cấp địa phương, việc trung tu tôn tạo rất bừa bãi. Có lẽ, chưa bao giờ công cuộc trùng tu tôn tạo di tích ở Việt Nam lại đi vào “cao trào” như hiện nay. Người ta đua nhau làm mới di tích để “xứng tầm” nhằm chạy theo nhu cầu “thời thượng”. Với sự kém hiểu biết cộng với sự nhiệt tình một cách thái quá thành ra “hành hạ” di tích một cách vô tội vạ. Tệ hại hơn, họ coi đó như một cách bày tỏ tín tâm, sự sùng kính Tam bảo! Nếu có dịp đến viếng chùa Bình, chùa Tướng, chùa Phật Tích ở Bắc Ninh hay chùa Chuông ở Hưng Yên, chùa Trăm Gian (Hà Nội – ngôi chùa có hơn 700 năm tuổi nhưng gần đây đã làm mới hoàn toàn nhà ngự, kè hồ, tả vu, hữu vu; vụ đập phá để xây mới đền thờ Lý Chiêu Hoàng ở Đình Bảng – Bắc Ninh. Việc dỡ đình, chùa ra xây lại, sơn phết xanh đỏ linh tinh, rồi việc tự ý đưa các đồ thờ tự không phù hợp với tính chất của di tích vào di tích đã và đang khiến các di tích đang có giá trị bỗng trở nên vô giá trị đã làm ảnh hưởng đến việc gìn giữ yếu tố gốc và tính tâm linh của di tích.
Tất cả những tồn tại trên đã trở thành trỏ ngại đối với việc khai thác du lịch văn hóa tâm linh vì khi đình chùa mất giá trị nguyên gốc, lễ hội bị biến tướng thì du khách sẽ không còn muốn đến để khám phá, chiêm bái, thưởng ngoạn.
2.2.3. Nguyên nhân: Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
2.2.3.1. Chưa nhìn nhận đúng tiềm năng của du lịch văn hóa tâm linh
Sở dĩ có tình trạng trên là do từ trước đến nay, chưa có một công ty du lịch nào xem chùa, nhà thờ là điểm tham quan du lịch nổi tiếng. Họ chỉ xem chùa, nhà thờ là nơi thờ cúng hơn là điểm đến để thưởng ngoạn, tham quan du lịch. Ngay cả nhà chùa, nhà thờ từ trước đến giờ cũng xem đây là nơi tu tập và hành lễ của các tín đồ, tăng ni, linh mục…. Do đó, các chùa, nhà thờ đều không có chuyên viên hướng dẫn, điều hành, tổ chức các hoạt động đa dạng vốn có. Về du lịch tâm linh, thiếu hẳn một đội ngũ chuyên trách về tiếp khách và hướng dẫn du khách hành hương, tham quan lễ bái và dĩ nhiên, những nhu cầu của khách tham quan liên quan đến sinh hoạt tâm linh sẽ không được đáp ứng (ví dụ như: nhu cầu được hướng dẫn hành lễ tập thể, thiền hành tập thể, dùng cơm chay tập thể, được hát thánh ca,…). Du khách đến thì cũng chỉ đến để lễ bái và vãn cảnh qua loa, không có ai đón tiếp, hướng dẫn và thuyết minh cho họ hiểu về lịch sử hình thành ngôi chùa, nhà thờ, ý nghĩa các tượng thờ và giáo lý tôn giáo nói chung cả. Các công ty du lịch phần thì không chú trọng đến vai trò vị trí của điểm du lịch đặc biệt này, một phần không nắm vững lịch sử, văn hóa, kiến trúc của ngôi chùa, nhà thờ, phần khác thiếu hiểu biết về tôn giáo nên cũng không sao hướng dẫn du khách được, nhất là du khách nước ngoài.
Tình trạng trên đã dẫn tới nhiều điều đáng tiếc. Du khách đến chùa mạnh ai nấy đi, không theo một trật tự thứ lớp gì cả. Khi đến chùa, nhà thờ, ai muốn đi đâu đi, muốn xem gì xem, muốn hiểu sao hiểu, không hiểu thì chịu không biết hỏi ai. Có những khách du lịch nước ngoài mang cả dép vào chính điện và khi vào chính điện họ nhìn lơ ngơ, không biết vị ngôi trên bàn thờ là ai.
2.2.3.2. Chưa đầu tư thích đáng về mọi mặt
Có thể dễ dàng nhận thấy là hiện nay các điểm du lịch văn hóa tâm linh đang được khai thác theo kiểu khai thác tài nguyên sẵn có mà chưa hề có một sự đầu tư nào. Du lịch văn hóa tâm linh là một hoạt động hoàn toàn mới, rất đặc thù nhưng các chùa, các nhà thờ lại chưa có một tổ chức chuyên trách, ngay cả những nơi thường xuyên có các phái đoàn du khách đến tham quan, hiện tại vẫn chưa có một ban chuyên trách về tiếp khách và hướng dẫn khách tham quan, chiêm bái. Các phương tiện phục vụ khách du lịch như: Phòng chiếu phim, bản giới thiệu, tờ gấp, bưu ảnh, tập sách, phim VCD, DVD… bằng các ngôn ngữ hầu như không có hoặc thiếu. Các dịch vụ như: Quầy điện thoại, bưu điện, quầy bán phẩm vật lưu niệm, quầy chụp ảnh, quay phim, bãi đậu xe… đa số các địa điểm này cũng chưa có. Về tổ chức các sự kiện, thuyết giảng, hành lễ, ẩm thực theo yêu cầu của du khách thì chưa thỏa mãn được. Lí do là chưa quen với việc tổ chức các sự kiện lớn. Vấn đề an toàn cho du khách như nhà nghỉ, căng tin, hệ thống vệ sinh… cũng là vấn đề mà các điểm du lịch này chưa lưu tâm đến.
Vì không xem các cơ sở tôn giáo có thể là nơi tham quan du lịch lí tưởng và có sức thu hút du khách, nên đa số các cơ sở tôn giáo này không chú ý đầu tư các dịch vụ phục vụ du khách và an toàn cho du khách. Thực tế, nhiều chùa, nhà thờ có diện tích khá rộng, có nét kiến trúc và mỹ thuật rất đặc thù, có tương đối đầy đủ các tiện nghi vật chất và các hoạt động văn hóa giáo dục có khả năng phục vụ du lịch khá tốt. Nhưng do chưa quan tâm đầu tư đúng mức nên những tiềm năng du lịch nơi đây bị bỏ ngỏ.
2.2.3.3. Khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên một cách bừa bãi Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Ngoài việc du lịch tâm linh chưa được quan tâm đúng mức, thì có một thực trạng khác là hiện nay các cơ sở tôn giáo và các lễ hội tôn giáo đang có một số biến tướng làm ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển của loại hình du lịch tâm linh. Có không ít di tích đã không còn hấp dẫn các du khách bởi nhiều lý do như hiện tượng di tích gốc không được giữ gìn, tôn tạo hoặc trong quá trình tôn tạo đã làm sai lệch, làm giảm đi giá trị vốn có của nó. Rồi tình trạng ô nhiễm môi trường ở những nơi tổ chức lễ hội; động giả, chùa giả; mua bán sắc phong, bia đá, mất cắp cổ vật; hành nghề mê tín dị đoan;… Đó là những gì đang diễn ra một số nơi làm ảnh hưởng đến tiềm năng khai thác du lịch tâm linh.
2.3.3.4. Chưa chú trọng công tác quảng bá, xúc tiến
Cũng như nhiều địa phương trên cả nước, công tác quảng bá, xúc tiến du lịch của vùng Đồng bằng sông Hồng hiện vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong cuộc hội thảo “Phát triển du lịch khu vực đồng bằng sông Hồng” được tổ chức tại Thái Bình ngày 15.10.2009, bà Nguyễn Thị Thanh Hương – Phó Vụ trưởng Vụ thị trường – Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Duc lịch) nhận định: Hiện nay trong phạm vi cả nước nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng, công tác quảng bá, xúc tiến để phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh còn quá yếu kém, nguồn nhân lực cho công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch còn quá ít. Nhiều tỉnh, chỉ có 1-2 cán bộ chuyên trách về công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch. Thêm vào đó, mỗi tỉnh phải có từ 1,8 đến 2,5 tỷ đồng cho công tác tuyên truyền, quảng bá. Trên thực tế, mỗi tỉnh chỉ dành từ 100-200 triệu đồng cho công tác này.
2.2.2.5. Chưa tạo được những sản phẩm du lịch độc đáo
Theo ông Lưu Nhân Vinh, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Du lịch Việt Nam Hà Nội, chất lượng các sản phẩm du lịch tại một số địa phương ở vùng Đồng bằng sông Hồng chưa cao, thiếu sự đặc trưng và độc đáo. Đặc biệt, các sản phẩm của các địa phương hay có sự chồng chéo, lặp đi lặp lại. Thậm chí, sản phẩm của địa phương nào đang hút khách thì nơi khác “nhái” ngay ý tưởng kinh doanh đó, gây ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Nhìn chung là các địa phương chưa biết cách khai thác tiềm năng để có những sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh đặc sắc, mang tính đặc thù của địa phương mình.
2.3. Tiểu kết chương II Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
Trong thời gian gần đây, các chuyên gia về du lịch đều cho rằng mô hình du lịch tâm linh hiện đang phát triển rất nhanh ở các nước có thắng tích Phật giáo như Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Quốc. Còn ở Việt Nam, do vị trí địa lý và lịch sử văn hoá đã đem lại cho chúng ta nhiều di sản rất có giá trị trải dọc theo chiều dài đất nước. Những giá trị đó là nguồn tài nguyên quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt là loại hình du lịch văn háo tâm linh. Riêng ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ là nơi tập trung rất nhiều chùa chiền, đền miếu, nhà thờ và là nơi có rất nhiều các lễ hội tôn giáo đặc sắc như chùa Hương, Đền Trần, Phủ giầy, chùa Bái Đính thì tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa tâm linh cực kỳ dồi dào.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chúng ta đang bỏ ngỏ nguồn tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh vô cùng giàu có này. Nhà chùa, nhà thờ, hội, các nhà kinh tế, cũng như các nhà đầu tư du lịch còn bỏ quên và chưa xác định một cách toàn diện về giá trị của vấn đề du lịch tâm linh nên chưa có chính sách cụ thể để đẩy mạnh sự phát triển trong lĩnh vực này, chưa xác định du lịch tâm linh sẽ là một trong những mũi nhọn hỗ trợ phát kinh tế nước nhà một cách tích cực. Điều đó khẳng định: Có tiềm năng thôi chưa đủ, chúng ta cần phải có những giải pháp mang tinh chiến lược cũng như những giải pháp cụ thể nhằm khai thác một cách hiệu quả tiềm năng để phát triển loại hình du lịch mới mẻ và đầy triển vọng này. Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Phát triển văn hóa tâm linh ở đồng bằng bắc bộ

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng du lịch tôn giáo ở đồng bằng bắc bộ […]