Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã có những sự vận động mạnh mẽ, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này, nước ta đang dần dần hội nhập với nền kinh tế thị trường. Đây là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế một quốc gia và tồn tại trong đó nhiều vấn đề liên quan chi phối nhiều khía cạnh của nền kinh tế ảnh hưởng đến sự phát triển cân bằng của nền kinh tế và cho cuộc sống của mỗi người dân, một trong những vấn đề đó là cạnh tranh mà điều đáng chú ý là cạnh tranh không lành mạnh. Khi bước vào môi trường kinh doanh tự do để tạo bước chuyển cho nền kinh tế phát triển năng động thì cạnh tranh trong mua bán hàng hoá là cần thiết và không thể tránh khỏi. Mỗi một nhà sản xuất luôn muốn kiếm lợi nhuận thật nhiều và mua bán hàng hoá đòi hỏi phải có chiến lược và có thể bao gồm cả thủ đoạn không đẹp để hạ gục đối thủ cạnh tranh với mình. Có nhiều biện pháp sử dụng trong cạnh tranh như: quảng cáo, khuyến mại, cạnh tranh bằng giá cả… Bất kỳ một sản phẩm nào làm ra đều cần được đưa tới người tiêu dùng bằng nhiều cách khác nhau để làm sao thu hút thật nhiều khách hàng mà khuyến mại một trong những hoạt động rất thường được sử dụng để giới thiệu hàng hoá của mình như: hàng loạt các chương trình khuyến mại diễn ra rầm rộ… nhằm kích thích sức mua của khách hàng cho một loại sản phẩm nào đó. Có những nhà sản xuất, kinh doanh vì không cạnh tranh được với những hãng khác thì lại dùng những biện pháp không đẹp để cạnh tranh không lành mạnh bằng nhiều thủ đoạn khác nhau: bán phá giá hàng hoá, gièm pha quảng cáo so sánh nói xấu sản phẩm của doanh nghiệp khác… Những vụ việc, vấn đề này phải được pháp luật can thiệp và xử lý kịp thời để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Luật cạnh tranh ra đời năm 2004 trong đó có quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm. Đây là hành lang pháp lý quan trọng tạo ra sự cạnh tranh công bằng trong hoạt động kinh doanh, sự yên tâm cho các nhà sản xuất và cả những nhà đầu tư vào kinh doanh. Nhưng pháp luật cũng không thể quy định bao quát hết và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh với thủ đoạn ngày càng diễn ra tinh vi hơn xuất hiện ngày càng nhiều. Ngày nay, cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại xảy ra càng đa dạng và ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác và đặc biệt là của người tiêu dùng, tuy Luật cạnh tranh 2004 đã được ban hành để nhằm hạn chế, khắc phục và xử lý các hành vi vi phạm nhưng trên thực tế thì việc áp dụng, thực thi Luật cạnh tranh còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được giải quyết để góp phần bảo vệ lợi ích chung của xã hội và cũng để bình ổn môi trường cạnh tranh, tạo khung pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ pháp luật và luôn cạnh tranh công bằng. Chính vì những lẽ trên nên người viết đã chọn đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của người viết khi nghiên cứu đề tài này là để tìm hiểu những quy định về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, về thẩm quyền cũng như chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm. Từ đó, người viết xem xét những quy định của pháp luật về lĩnh vực này có phù hợp với tình hình trên thực tế đang diễn ra hay không, đồng thời những quy định này có mang lại hiệu quả hay không nhằm đưa ra một số kiến nghị đề xuất và giải pháp để phần nào khắc phục những hạn chế còn tồn tại cũng như củng cố vũng chắc thêm hành lang pháp lý.
3. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Trong phạm vi đề tài người viết tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại theo Luật thương mại 2005 và Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, Nghị định 68/2009/NĐ- CP ngày 06 tháng 08 năm 2009 sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP và Nghị Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2005 quy định về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Bên cạnh, người viết cũng nghiên cứu những quy định cụ thể về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thẩm quyền xử lý và chế tài đối với hành vi này như thế nào theo Luật cạnh tranh 2004, được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài của mình người viết đã sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, sau đó tổng hợp lại để đưa ra những khái niệm và quan điểm cơ bản nhất về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh đó, người viết còn sử dụng phương pháp phân tích luật viết để tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật, từ đó có thể nêu lên thực trạng và phương hướng giải quyết những mặt còn tồn tại của luật.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại” bao gồm:
- Phần nội dung: gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
- Chương 2: Quy định của pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
- Chương 3: Hướng giải quyết và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Khái quát chung về khuyến mại
1.1.1. Khái niệm về khuyến mại
Ngày nay, trong thời đại kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, thì cuộc chiến cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Nó đã trở thành vấn đề tất yếu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp khi muốn sản phẩm của mình có thể tồn tại trên thị trường và cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp khác, thì ngoài chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp mắt, giá thành hợp lý thì doanh nghiệp còn cần phải làm cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình. Vì nếu sản phẩm có tốt đến đâu đi nữa mà khách hàng không biết đến thì sản phẩm cũng không thể tiêu thụ được. Để hàng hóa của mình có thể được người tiêu dùng biết đến thì doanh nghiệp phải sử dụng mọi giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ. Một trong những hình thức xúc tiến thương mại mà ta không thể không kể đến đó là hình thức khuyến mại. Vậy khuyến mại là gì? Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Nhằm liên hệ giữa thị trường và công chúng, thương nhân ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các hình thức như khuyến mại, quảng cáo,…Trong đó, khuyến mại là một trong những công cụ kinh doanh quan trọng thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Thuật ngữ “khuyến mại” trong tiếng Anh là Sales promotion, hoặc đôi khi cũng được gọi là Promotion. Trong Tiếng Việt, “khuyến mại” được hiểu là khuyến khích việc mua hàng, cách hiểu này xuất phát từ Hán Việt: “khuyến” là khuyến khích, “mại” là mua. Ở các nước vận hành nền kinh tế thị trường, thuật ngữ “khuyến mại” được dùng khá phổ biến. Tại Việt Nam, thuật ngữ này hiện đã được sử dụng rộng rãi gắn liền với giới thương nhân và người tiêu dùng. Hiện nay, khái niệm khuyến mại đã được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Từ góc độ ngôn ngữ Tiếng Việt
Đại từ điển Tiếng Việt của trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, đưa ra định nghĩa về khuyến mại: “Khuyến mại là những hành động, tài liệu, công cụ và kỹ thuật được dùng để bổ sung cho quảng cáo và chương trình tiếp thị ( như giảm giá, quà tặng, sổ xố,..) nói chung”[11,928].
Từ điển từ mới Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đã định nghĩa về khuyến mại như sau: “Khuyến mại là khuyến khích việc mua hàng, thường bằng biện pháp giảm giá hoặc kèm thêm quà tặng”[12,126].
Và một định nghĩa rất đơn giản về khuyến mại trong từ điển Việt Nam:
“Khuyến mại là khuyến khích mua hàng”[13,516].
- Từ góc độ kinh tế
Khuyến mại hành vi khuyến mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại là một hình thức của xúc tiến thương mại được doanh nghiệp sử dụng nhằm kích thích khách hàng sử dụng hành hóa, dịch vụ của mình [14,257].
- Từ góc độ pháp luật
Theo Điều 88 Luật Thương mại 2005 quy định rằng: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Cách thức thực hiện xúc tiến thương mại, tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại mang nghĩa là “khuyến khích mua hàng hoá, dịch vụ”, do đó mục đích chính của khuyến mại là kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và mua nhiều hơn các hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. Ngoài ra, hoạt động khuyến mại còn nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp.
So với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 khi định nghĩa về khuyến mại đã chuẩn xác hơn có bổ sung thêm mục đích của khuyến mại. Cụ thể, mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán hàng mà còn xúc tiến việc mua hàng. Mặc dù khuyến mại để bán hàng là hoạt động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu của thương nhân để tăng cường khả năng cạnh tranh mở rộng thị trường, thị phần, nhưng đối với thương nhân thương mại, việc khuyến mại để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu tất yếu cần thiết để hoàn thành kế hoạch kinh doanh.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khuyến mại Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Khuyến mại là công cụ kích thích bán hàng tốt nhất vì nó đánh vào thị hiếu người tiêu dùng và tác động trực tiếp tới lợi ích của họ, do đó kích thích mua sắm làm tăng số lượng hàng bán, tăng các dịch vụ được cung ứng. Như vậy, khuyến mại là việc sử dụng hàng loạt các biện pháp tác động đến lợi ích vật chất của khách hàng nhằm kích thích sự tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Từ định nghĩa của khuyến mại theo Luật Thương mại 2005, cho thấy khuyến mại bao gồm các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân: Để tăng cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại của thương nhân khác để làm kinh doanh. Quan hệ dịch vụ này được hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ.
Theo Luật thương mại năm 2005 thì chủ thể được phép tổ chức khuyến mại là các thương nhân thuộc một trong các trường hợp sau:
- Thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh.
- Thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác theo thỏa thuận với thương nhân đó.
Và tại Điều 91, Luật thương mại năm 2005 cũng cụ thể hơn về việc chi nhánh và văn phòng đại diện của doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động khuyến mại, cụ thể như sau:
- Thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền tự tổ chức khuyến mại hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình.
- Văn phòng đại diện của thương nhân không được khuyến mại hoặc thuê thương nhân khác thực hiện khuyến mại tại Việt Nam cho thương nhân mà mình đại diện.
Thương nhân được phép tổ chức khuyến mại ở đây là thương nhân được quy định tại khoản 1, Điều 6, Luật thương mại năm 2005 bao gồm “tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Thứ hai, cách thức khuyến mại: Là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định, tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy thuộc vào kinh phí dành cho đợt khuyến mại…mà lợi ích thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá, hoặc là lợi ích phi vật chất khác.
Thứ ba, mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ. Thương nhân có thể thực hiện việc khuyến mại nhằm tác động trực tiếp đối với người tiêu dùng hoặc với các trung gian phân phối. Khuyến mại cho người tiêu dùng để lôi kéo sức mua, tiếp thị một sản phẩm mới, kích thích tiêu thụ sản phẩm đã có trên thị trường, làm cho khách hàng đến các cửa hàng bán lẻ nhiều hơn nhằm tăng thị phần của thương nhân trên thị trường. Khuyến mại cho các trung gian phân phối nhằm kích thích sự chú ý của trung gian phân phối đối với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình để đặt hàng và tích cực chào hàng cho mình và cũng để tăng cường quan hệ đối tác với trung gian phân phối.
1.1.3. Các hình thức khuyến mại
Bằng nhiều hình thức khác nhau, khuyến mại giúp cho người tiêu dùng biết đến, sử dụng sản phẩm và vì thế, đồng thời doanh thu của doanh nghiệp cũng tăng lên. Theo Điều 92 Luật thương mại 2005 thì thương nhân sẽ được phép tổ chức các hình thức khuyến mại sau:
Đưa hàng mẫu cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền:
Với hình thức này thì hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng dùng thử phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường. Việc áp dụng hình thức khuyến mại này nhằm mục đích thăm dò thị trường cũng như bước đầu làm quen với sản phẩm và người tiêu dùng có điều kiện dùng thử để kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ có như nhà sản xuất đã cung cấp hay không. Hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu là một hình thức thuyết phục khách hàng khá hữu hiệu bằng cách họ là người trực tiếp kiểm định chất lượng hàng hóa, dịch vụ để đưa ra quyết định có sử dụng sản phẩm đó hay không, nếu khách hàng chấp nhận dùng sản phẩm thử và đánh giá tốt thì việc họ chấp nhận tiêu thụ hàng hóa trong tương lai sẽ rất dễ dàng, khi đó hàng hóa sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ mẫu, khách hàng không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào. Thương nhân thực hiện khuyến mãi bằng hình thức đưa hàng mẫu có thể cung cấp hàng mẫu theo yêu cầu của khách hàng, được phát tại nơi bán hàng hoặc phát tận tay người tiêu dùng. Để đạt được kết quả tốt nhất thì hàng hóa mẫu phải đến được đúng đối tượng mà nhà sản xuất nhắm tới và thương nhân phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của mình.
Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền:
Thương nhân được dùng hàng hóa, dịch vụ đang kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ khác để tặng, cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Đối với các sản phẩm, hàng hóa có kèm quà tặng hay dịch vụ hậu mãi sẽ thu hút được khách hàng nhiều hơn những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên thị trường không áp dụng hình thức khuyến mại tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ không thu tiền. Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo:
Đây là hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ giảm giá theo tỉ lệ phần trăm hoặc theo một giá trị nhất định. Hình thức khuyến mại giảm giá có tác dụng thúc đẩy sự tiêu thụ đối với một mặt hàng có sức tiêu thụ chậm, doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ sẽ dùng một phần lợi nhuận mà bán giảm giá để tạo sự mới mẻ đối với mặt hàng này nhằm thu hút khách hàng trở lại.
Đây là hình thức hấp dẫn khách hàng vì nó đánh vào tâm lý tiêu thụ của họ. Khách hàng sẽ nhận thấy sự chênh lệch về giá cả trước và trong thời gian khuyến mại để có sự so sánh và do đó sức mua đối với mặt hàng đó sẽ dễ dàng tăng lên.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định:
Đây là hình thức thường được sử dụng trong kinh doanh thương mại khi khách hàng mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ với một số lượng nhất định sẽ được phát phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ phát hành nhằm khuyến khích khách hàng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ một cách thường xuyên với số lượng lớn.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo tỉ lệ và giải thưởng đã công bố:
Thông qua chương trình này doanh nghiệp sẽ biết được mức độ quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm của mình ra sao để từ đó có chiến lược xúc tiến thương mại hợp lý. Đồng thời, cũng giúp người tiêu dùng hiểu biết rõ hơn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm mà mình đang sử dụng.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc tham dự chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố: Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Đây là hình thức khuyến mại dựa trên sự may mắn của khách hàng, các doanh nghiệp đánh vào tâm lý muốn thử vận may của người tiêu dùng thông qua các hình thức như: bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm phiếu tham gia bốc thăm trúng thưởng, xổ số để trao giải thưởng…Giải thưởng càng lớn thì sự hấp dẫn càng cao, việc tiêu thụ sản phẩm, sử dụng dịch vụ cũng đạt được hiệu quả cao hơn.
Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thực hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các hình thức khác:
Hình thức này được các doanh nghiệp sử dụng nhằm lôi kéo một lượng khách hàng thường xuyên, thân quen. Thông qua việc mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ với một số lượng, giá trị nào đó sẽ được cấp thẻ khách hàng hay phiếu ghi nhận tích lũy điểm là khách hàng thường xuyên, khách hàng thân quen và sẽ được hưởng những lợi ích nhất định như: đổi quà tặng hấp dẫn, ưu tiên mua hàng, giảm giá hàng hóa, sử dụng dịch vụ chăm sóc khách hàng miễn phí…
Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại:
Thông qua việc tổ chức các sự kiện đặc biệt, doanh nghiệp sẽ quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình giống như lời cám ơn đối với khách hàng đã sử dụng sản phẩm và khuyến khích họ tiếp tục sử dụng sản phẩm trong tương lai.
Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại chấp nhận:
Bằng những hình thức khuyến mại nêu trên doanh nghiệp mong muốn sẽ thu hút và làm hài lòng khách hàng, từ đó sẽ khuyến khích họ sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp nhiều hơn. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức khuyến mại khác nhau nếu như được các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại chấp nhận. Tuy nhiên, khi thực hiện các hình thức khuyến mại, doanh nghiệp cần phải hạn chế tình trạng gian lận, lừa dối hay lợi dụng để cạnh tranh không lành mạnh nhằm loại bỏ đối thủ của mình. Cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực phát triển tốt nhất, là môi trường trong sạch và đầy năng động để doanh nghiệp khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế hiện đại.
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động khuyến mại Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Với vị trí là một trong những lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế, khuyến mại giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của thương nhân. Đặc biệt là trong một thị trường rộng mở và cạnh tranh.
Đối với thương nhân, khuyến mại được dùng nhằm thúc đẩy việc mua bán trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Cùng với quảng cáo, khuyến mại luôn giữ vai trò là một trong những công cụ đắc lực và hiểu quả nhất để phát triển thương mại. Nếu một thương nhân không thể chuyển tải các thông tin về hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng một cách có hiệu quả và không thể thu được sực quan tâm, chú ý của mình trong một thị trường đa dạng hàng, hóa dịch vụ cùng loại thì thương nhân đó sẽ không có khả năng khai thác chiếm lĩnh được thị trường trong thời đại thông tin bùn nổ hiện nay. Trong thực tế, khuyến mại là hoạt động luôn được ưu tiên trong chiến lược kinh doanh của các thương nhân. Đó cũng chính là xu thế phổ biến hiện nay trong cộng đồng các nhà kinh doanh bất kể tính đặc thù của ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
Xu hướng hoạt động của các thương nhân vừa và nhỏ chưa có thị phần hay thị phần nhỏ chưa ổn định thì định hướng khuyến mại theo thị trường đặc thù và theo nhóm khách hàng tiềm năng để tập trung chiếm lĩnh nền móng cho hoạt động kinh doanh lâu dài. Kèm với việc tung ra các sản phẩm, dịch vụ mới vào thị trường bao giời cũng là các chương trình khuyến mại được thương nhân thiết kế theo khả tài chính và mục đích kinh doanh của mình. Thật khó tìm ra một sản phẩm, dịch vụ mới nào được đưa ra thị trường mà không kèm theo một chiến dịch khuyến mại tương ứng. Còn các thương nhân đã có thi phần ổn định thì bên cạnh việc duy trì hoạt động khuyến mại để giữ vững thị phần, để khuyến khích khách hàng trung thành lại phải tiếp tục tính tới việc sử dụng các công cụ khuyến mại để phát triển thi trường mới bằng cách thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của số đông. Các thương nhân cỡ lớn luôn duy trì hoạt động khuyến mại ở mức độ trung bình và cao tùy theo thời điểm của năm kinh doanh. Có những thương nhân còn tổ chức thực hiện khuyến mại quanh năm suốt tháng không ngừng nghỉ cho các sản phẩm của mình, các chương trình khuyến mại liên tục tới khách hàng.
Đối với khách hàng, tương ứng với hoạt động khuyến mại của thương nhân, họ tiếp cận khuyến mại để tìm kiếm các giá trị tăng thêm thông qua việc mua bán hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Thông qua những hoạt động tích cực của khuyến mại đối với các chủ thể có liên quan bao gồm thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại, thương nhân khác và khách hàng trong nền kinh tế, ta có thể khái quát vai trò của khuyến mại như sau:
Qua hoạt động khuyến mại thương nhân có thông tin tốt về khách hàng và hoạt động khuyến mại là cầu nối giữa khách hàng và thương nhân.” Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại sẽ thu được nguồn thông tin đầu tiên từ khách hàng là những người trực tiếp liên quan tới hoạt động khuyến mại bao gồm những ý kiến, thái độ, phản ứng của họ đối với sản phẩm, dịch vụ kinh doanh và đối với tên tuổi, uy tín của thương nhân. Thông qua khuyến mại, thương nhân cũng có thông tin từ những khách hàng tiềm năng, đó là những người có khả năng sẽ tiêu thụ hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Tuy không có liên quan trực tiếp tới hoạt động khuyến mại nhưng họ gián tiếp được tiếp nhận thông tin về hoạt động khuyến mại bao gồm ý kiến, thái độ của họ đối với hoạt động khuyến mại và bản thân thương đó. Việc tìm hiểu, nghiên cứu khách hàng thông qua hoạt động khuyến mại không chỉ dừng lại ở chổ sẽ tiêu thụ được sản phẩm của thương nhân mà quan trọng hơn nữa là phải đảm bảo song song việc giữ được khách hàng hiện tại và lôi kéo khách hàng tiềm năng.
Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường.
Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được thông tin từ đối thủ cạnh tranh.”
Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương nhân khác.
Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có của mình.
Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực lượng bán hàng.”
Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch vụ. Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường. Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được thông tin từ đối thủ cạnh tranh.”
Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương nhân khác.
Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có của mình.
Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực lượng bán hàng.”
Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh và quá trình xây dựng niềm tin, sự hài lòng của khách hàng thông qua thử nghiệm thực tế.
Tính năng động của quá trình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ một phần được tạo bởi yếu tố chủ động nắm bắt thời cơ quyết định vào thời điểm nào sẽ tiến hành hoạt động khuyến mại và với hình thức, nội dung cụ thể ra sao, một phần được tạo bởi yếu tố chủ động tiếp cận với khách hàng trước một bước chứ không đơn thuần để khách hàng phải tự tìm hiểu và quyết định chọn lựa hàng hóa, dịch vụ cần thiết. Sự chủ động trong suy nghĩ và hành vi coi khách hàng là trung tâm, là hạt nhân để mọi hoạt động của thương nhân đều xoay quanh đã thể hiện tính năng động trong tiếp cận và tìm hiểu thị trường của thương nhân. Qua đó, hàng hóa và dịch vụ được đưa vào các kênh phân phối một cách hợp lý song song với việc phát huy sức mạnh, vai trò của lực lượng bán hàng tham gia một cách tích cực vào quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ góp phần nâng cao cơ hội bán hàng và doanh thu của thương nhân.
Khuyến mại là công cụ hữu hiệu trong công việc chiếm lĩnh thương mại và tăng tính cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân trên thị trường. Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Thông qua hoạt động khuyến mại, các thương nhân tiếp cận được với thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của thương nhân, cung cấp cho khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết, những thuận lợi và ưu đãi nhất định để tiếp tục giữ khách hàng hiện có hoặc chinh phục thêm nhiều khách hàng mới hoặc thậm chí lôi kéo ngay cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Hình ảnh đẹp của doanh nghiệp cùng thông tin đầy đủ, hiệu quả về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh khiến lợi thế cạnh tranh của thương nhân không ngừng tăng lên, điều đó tăng cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ tăng khả năng chiếm lĩnh thương mại của thương nhân.
Bằng hoạt động khuyến mại, thương nhân góp phần thay đổi cơ cấu tiêu dùng, hướng dẫn thị hiếu khách hàng.”
Thương nhân đưa tới khách hàng thêm sự lựa chọn, cơ hội tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ. Điều này góp phần tạo nên đường dẫn cho khách hàng hướng tới hàng hóa, dịch vụ có sự tham gia chủ động tích cực của thương nhân thể hiện từ trong chiến lượt đến tổ chức thực hiện trên thực tế. Thị hiếu khách hàng cùng với cơ cấu tiêu dùng phần nào tác động tới hoạt động khuyến mại của thương nhân như kết quả tất yếu. Như vậy, hoạt động khuyến mại có thể dẫn tới việc thay đổi cơ cấu tiêu dùng, điều chỉnh thị hiếu khách hàng theo hướng có lợi cho thương nhân (tiếp thị được hình ảnh của mình, bán và cung ứng được nhiều hơn hàng hóa, dịch vụ) và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng (tiêu dùng được hàng hóa, dịch vụ đạt yêu cầu về chất lượng và giá cả phù hợp với túi tiền).
Hoạt động thương mại là hoạt động xúc tiến mang lại hiệu quả cao đặc biệt cho hoạt động kinh doanh của thương nhân trong một số trường hợp nhất định.”
Thông thường hoạt động khuyến mại được sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ mới tung ra thị trường có áp lực cạnh tranh cao, đặt biệt là sản phẩm có đơn giá thấp nhưng lại có khả năng đem lại doanh thu cao. Một lợi thế nữa của hoạt động khuyến mại là có thể áp dụng cho cả khách hàng là người tiêu dùng hay khách hàng là trung gian phân phối. Sử dụng hoạt động khuyến mại sẽ đạt được mục đích tiêu thụ cao trong một thời gian ngắn vì thông qua kỹ thuật khuyến mại, có thêm nhiều người tiêu dùng thử mới bị thu hút và kích thích những người mua trung thành hay những người thỉnh thoảng mới. Tuy nhiên, mức tiêu thụ tăng nhanh đó chi tạm thời và sẽ giảm dần sau thời gian khuyến mại đó. Chính vì vậy, thương nhân phải biết cân đối, quản lý và điều chình mức đầu tư vào hoạt động khuyến mại sao cho vừa phù hợp với điều kiện thực tế của thương nhân, tuân thủ pháp luật và thu được hiểu quả lớn nhất.
1.2. Khái quát chung về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
1.2.1. Khái niệm về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh không được định nghĩa cụ thể như khái niệm khuyến mại. Điều 46 Luật cạnh tranh đã liệt kê các hoạt động khuyến mại bị cấm. Đây là những hoạt động khuyến mại tiêu biểu, phổ biến mà Luật cấm các doanh nghiệp thực hiện, bao gồm:
- Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
- Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng;
- Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
- Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình;
- Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.”
Tuy nhiên từ định nghĩa về khuyến mại trong Luật thương mại năm 2005 và khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh tranh năm 2004 thì ta có thể hiểu hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh như sau:
Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định, nhưng những hành vi này trái với các chuẩn mực đạo đức thông thường gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Hay chính là doanh nghiệp vì muốn xúc tiến việc mua bán hàng hóa, dịch vụ để cạnh tranh với doanh nghiệp khác nên đã dùng những hành vi khuyến mại nhưng không lành mạnh để cạnh tranh và gây ra thiệt hại. Không thể phủ nhận được rằng khuyến mại là biện pháp thu hút khách hàng có hiệu quả nhất trong số những hoạt động xúc tiến thương mại, và đó cũng là quyền tự do trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng khi doanh nghiệp vượt quá sự tự do đó thì sẽ dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi môi trường kinh doanh lại rất cần sự cạnh tranh lành mạnh và đúng mực. Vì vậy, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể tại Điều 46, Luật cạnh tranh năm 2004 nhằm có cơ chế pháp lý để điều chỉnh hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh để tạo môi trường kinh doanh trong sạch và lành mạnh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia, khu vực và toàn thế giới.
1.2.2. Đặc trưng pháp lý của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Về cơ bản, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng có những đặc điểm chung của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Thứ nhất, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục đích lợi nhuận.
Chủ thể kinh doanh trên thị trường chủ yếu là các doanh nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp. Trên phạm vi rộng, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự do ( bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư,…).
Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh nghiệp khác. Để thu được lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với các đối thủ hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm giành giật, thu hút khách hàng về phía mình bằng các hành vi như tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng, khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng, tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình,… Do đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế.
Thứ hai, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh.
Các thông lệ tốt ( tập quán kinh doanh) là các biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ thể nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Bên vi phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho họ, bao gồm lợi ích vật chất như tiền, hàng hóa hay lợi ích phi vật chất nhưng lại gây tổn hại đến hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh khác và lợi ích của người tiêu dùng để thu được nhiều lợi nhuận. Điều này đã đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Đây là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt khuyến mại với các hình thức xúc tiến thương mại khác. Theo đó, dấu hiệu này đi kèm với các đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh tạo nên điểm khác biệt với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.
Thứ ba, hành vi khuyến mại với mục đích cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các đối tượng khác.
Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lí cạnh tranh của nhà nước mà không làm cản trở, sai lệch hay giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường như hành vi hạn chế cạnh tranh.
Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia cũng như quan điểm của các cơ quan xử lí sẽ có các cách thức nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
1.2.3. Tác động của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Khi một sản phẩm của doanh nghiệp được sáng tạo, được làm ra mà không được người tiêu dùng đón nhận thì đó là quả là điều mà không một doanh nghiệp nào mong muốn. Cho nên để duy trì được sự tồn tại của mình trên thị trường, để hàng hóa của mình bán được nhiều và lợi nhuận cao thì doanh nghiệp sẽ không ngần ngại sử dụng mọi cách, mọi biện pháp để đạt được mục đích cuối cùng của mình. Nhưng trên thương trường thành công của doanh nghiệp này sẽ là thất bại của doanh nghiệp khác. Họ luôn tìm cách để hạ gục đối thủ cạnh tranh của mình nhưng người chịu sự thiệt hại đầu tiên lại là người tiêu dùng. Khi có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì người tiêu dùng sẽ bị tác động trực tiếp. Khuyến mại mà mang tính chất gian dối giải thưởng, không trung thực nhằm lừa dối khách hàng, hay có sự phân biệt đối xử giữa các khách hàng với nhau thì rõ ràng lợi ích của người tiêu dùng sẽ bị xâm hại trực tiếp. Do tâm lý và thói quen nên họ dễ dàng mua những sản phẩm với giá rẻ hay có tặng phẩm nhưng thật sự họ lại bị doanh nghiệp đó lừa dối vì lợi nhuận riêng. Người tiêu dùng là mục đích lợi nhuận mà doanh nghiệp hướng đến nhưng cũng là đối tượng bị doanh nghiệp gây tác động bất lợi nhiều nhất. Cho nên, việc ngăn cấm các hành vi sai trái của doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng là điều rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Bên cạnh đó, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn ảnh hưởng tới sự công bằng trong kinh doanh, gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp làm ăn chân chính, sản phẩm làm ra có chất lượng tốt nhưng do tiềm lực về kinh tế không đủ mạnh nên không thể mở những đợt khuyến mại rầm rộ để thu hút khách hàng mà chỉ nhờ vào số lượng khách hàng thân quen, trong khi những doanh nghiệp tuy có sản phẩm không tốt, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhưng với tiềm lực kinh tế mạnh mẽ đã tiến hành những hoạt động khuyến mại với thông tin sản phẩm thật tốt và giá ưu đãi để lừa dối khách hàng, với tâm lý thích khuyến mại và giá rẻ người tiêu dùng sẵn sàng chuyển sang dùng sản phẩm đó mà không cần quan tâm đến chất lượng của nó. Như vậy, những doanh nghiệp yếu thế sẽ rất dễ lâm vào tình trạng phá sản, làm ảnh hưởng tới sự phát triển ổn định của nền kinh tế, vì những doanh nghiệp đầy nhiệt huyết nhưng không mạnh về tài chính không còn cơ hội để tạo ra sản phẩm trên thị trường nữa. Bởi vậy, pháp luật đã cố gắng để điều chỉnh những hành vi sai trái, không lành mạnh của các doanh nghiệp để tạo sự bình đẳng và ổn định trong kinh doanh. Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam […]