Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam

2.1.1.1. Pháp luật Việt Nam trước khi có quy định về mang thai hộ

Tại Việt Nam, mang thai hộ từ lâu đã tồn tại trong thực tiễn cuộc sống. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn là vì các lí do khác nhau mà có nhiều cặp vợ chồng vô sinh do người vợ không thể thụ thai hoặc sinh con ngay cả khi đã thử qua các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không quy định về cho phép mang thai hộ, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP nghiêm cấm mang thai hộ xong hoạt động này vẫn diễn ra lén lút dưới dạng “chửa thuê”, “đẻ thuê” bởi nhu cầu có con của các cặp vợ chồng hiếm muộn. Bằng nhiều hình thức, từ việc cấy phôi mang gen của cả 2 vợ chồng vào tử cung của người đẻ thuê hoặc thực hiện “trực tiếp” giữa người chồng và người nhận mang thai hộ, những đứa trẻ có được bằng phương pháp này lần lượt ra đời. Nhà nước mặc dù cấm nhưng vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và pháp lí để bảo vệ quyền, lợi ích cho những trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ trái pháp luật này.

Sở dĩ pháp luật thời kỳ này không cho phép mang thai hộ bởi nhiều lý do:

Thứ nhất: nhìn dưới góc độ pháp lý, cấm mang thai hộ là bởi mang thai hộ vốn là một vấn đề vô cùng nhạy cảm trong xã hội cũng như trong nền khoa học pháp lý. Nếu thừa nhận mang thai hộ sẽ dẫn đến sự gia tăng tình trạng mua bán trẻ sơ sinh bất hợp pháp, lách luật để sinh con thứ ba…cũng như ảnh hưởng tới nhiều chế định trong Luật HN&GĐ 2000, trong đó có chế định xác định quan hệ cha, mẹ, con, gây khó khăn, phức tạp trong quá trình giải quyết quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Theo Luật HN&GĐ 2000 nguyên tắc xác định cha, mẹ, con là dựa vào sự kiện sinh đẻ, theo đó, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ (dù nó cùng hay không cùng huyết thống với người đã sinh ra nó). Vì vậy, nếu quy định về mang thai hộ sẽ làm đảo lộn phương pháp xác định cha, mẹ, con theo truyền thống bởi lúc này, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ không phải là mẹ của đứa trẻ nữa, thay vào đó, người được xác định là mẹ của đứa trẻ lại là một người phụ nữ khác không trực tiếp sinh ra nó. Như vậy, nguyên tắc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ là một ngoại lệ.

Thứ hai, nhìn dưới góc độ đạo đức, có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức, đi ngược lại truyền thống dân tộc, vì vậy khi nói đến mang thai hộ đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhiều người. Đến năm 2000-2001, với những thành tựu của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y học, người dân đã biết đến và dần chấp nhận một hình thức sinh sản mới đó là sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Vì pháp luật nghiêm cấm mang thai hộ nên trong trường hợp mang thai hộ bị phát hiện thì sẽ bị xử phạt hành chính. Cụ thể, khoản 3 Điều 10 Nghị định số 96/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh như sau:“phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: mang thai hộ; sinh sản vô tính; cấy tinh trùng, noãn, phôi giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời”. Dù pháp luật nghiêm cấm mang thai hộ nhằm hạn chế những tiêu cực xảy ra nhưng khi quy định này được áp dụng vào thực tiễn đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Cụ thể:

Một là: NĐ 12/2003/NĐ-CP chỉ quy định nghiêm cấm mang thai hộ và sinh sản vô tính trong khi chưa có bất cứ sự giải thích nào của pháp luật về phương pháp mang thai hộ, gây khó khăn cho công tác thực thi pháp luật.

Hai là: Phạm vi đối tượng mà NĐ 12/2003/NĐ-CP đưa ra quá rộng, nghiêm cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức. Đối với những cặp vợ chồng trong đó người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tự nhiên thì quy định này vô hình chung đã hạn chế quyền quyền được làm cha, làm mẹ của họ.

Ba là: Các vấn đề pháp lý có liên quan như xác định cha, mẹ cho đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan như: người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ… cũng không được pháp luật đề cập tới [6, tr30-33]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Với nhu cầu của các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn muốn có con hoặc vì các mục đích khác thì mặc dù pháp luật không quy định nhưng vẫn có rất nhiều các trường hợp vẫn “lén lút” mang thai hộ “chui” bằng nhiều hình thức khác nhau, thậm chí là ra nước ngoài, nơi cung cấp dịch vụ mang thai hộ dẫn đến nhiều rủi ro như: người nhận mang thai hộ không giao đứa bé cho bên nhờ mang thai hộ như đã thỏa thuận, trong quá trình mang thai hộ không thực hiện đúng thỏa thuận như thăm khám, phát sinh những rắc rối về mặt giấy tờ pháp lý… đặc biệt khi có tranh chấp phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và người nhận mang thai hộ về việc xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt thòi, ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ cũng như của các bên liên quan.

Theo xu hướng này, Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ hợp thứ 7 (Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014), quy định chính thức về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thể hiện tính nhân văn sâu sắc của pháp luật nước ta.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

  • Quy định về mang thai hộ trong luật Hôn nhân và Gia đình 2014

Hơn 10 năm sau, luật Hôn nhân và Gia đình 2014 căn cứ theo điều kiện thực tiễn phát triển xã hội đã có sửa đổi và quy định về việc mang thai hộ. Bổ sung hai khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang thai hộ vì mục đích thương mại cùng các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Trong đó, tại điểm g khoản 2 điều 5 về “Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình” cũng có quy định “nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại” cùng với các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính.

Theo đó, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Còn mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Như vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại được phân định bởi việc giữa hai bên có thỏa thuận về việc bên mang thai hộ được hưởng lợi về kinh tế hay các lợi ích khác hay không.

Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể và chặt chẽ các điều kiện cho việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; buộc các bên tham gia vào quá trình mang thai hộ phải tuân thủ. Đây là cơ chế kiểm soát cho việc mang thai hộ không bị chệch hướng và là cơ sở pháp lý để việc mang thai hộ có hiệu lực; chi phối quyền và nghĩa vụ của các bên và được bảo đảm thực hiện trong quá trình mang thai hộ. Việc mang thai hộ phải bảo đảm các nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

  • a) Đối với người nhờ mang thai hộ

Thứ nhất, cặp vợ chồng vô sinh muốn nhờ mang thai hộ là phải tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, nghĩa là quan hệ hôn nhân phải được pháp luật thừa nhận và bảo hộ.  Đây là quy định nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau cũng như đối với đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ [2, tr13]. Quy định này khác với trường hợp các đối tượng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, được áp dụng cho cả người phụ nữ độc thân và cặp vợ chồng vô sinh ( Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014  ; Khoản 1 điều 3 NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP /2015/NĐ-CP).

Điều 3. Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

1, Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Theo quy định trên thì việc mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với trường hợp là cặp vợ chồng vô sinh, còn đối với trường hợp là phụ nữ độc thân chỉ có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Đối với nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới (gọi tắt là LGBT), do pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nên với tư cách là cá nhân đơn lẻ, họ cũng không được phép nhờ mang thai hộ. Đặc biệt là các cặp đồng tính nam muốn có đứa con ruột thịt của mình bằng việc nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ cũng không được chấp thuận. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Thứ hai, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng vô sinh. Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình từ 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai. [1]

Đối với cặp vợ chồng vô sinh, nguyên nhân có thể do vợ hoặc chồng và người vợ cũng không thể mang thai được ngay cả khi có sự can thiệp của các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Song vẫn phải đảm bảo điều kiện là người chồng có tinh trùng, người vợ có noãn được xác định là đảm bảo chất lượng để kết hợp thụ tinh. Đây là điều kiện nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai hộ cũng như việc giao nhận con sinh ra từ việc mang thai hộ được thực hiện một cách tốt nhất.

Thứ ba, vợ chồng đang không có con chung. Với điều kiện này, do chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan có thẩm quyền nên có thể suy đoán theo các trường hợp sau:

  • Vợ chồng vô sinh, chưa có con chung với nhau nên được quyền nhờ mang thai hộ
  • Vợ chồng tuy đã có con chung nhưng con sau khi sinh đã chết vẫn được quyền nhờ mang thai họ (vì hiện tại vợ chồng chưa có con chung và pháp luật không hạn định về số lần nhờ mang thai hộ của cặp vợ chồng vô sinh)
  • Vợ chồng dù đã có con chung nhưng con bị mắc các chứng bệnh tâm thần, bênh down….thì về nguyên tắc không được nhờ mang thai hộ. Tuy vậy, nếu không được nhờ mang thai hộ thì không phù hợp với thực tế khi nguyện vọng chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuê. Trong trường hợp này, pháp luật cần xem xét nguyện vọng chính đáng để cho phép các vợ chồng vô sinh được nhờ mang thai hộ [1, tr17].

Thứ tư, vợ chồng nhờ mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Thông qua việc tư vấn, người nhờ mang thai hộ được cung cấp thông tin cần thiết về mặt y tế, mặt pháp lý cũng như mặt tâm lý. Điều kiện này là rất cần thiết để cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ hình dung được toàn bộ quá trình mang thai hộ, những vấn đề phát sinh xung quanh việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của mình trong việc nhờ mang thai hộ. Từ đó, họ quyết định có thực hiện nhờ mang thai hộ hay không. Điều này cũng là tiền đề đảm bảo cho trẻ em sinh ra từ việc mang thai hộ được hưởng các quyền lợi của mình và được pháp luật bảo vệ.

b) Đối với người mang thai hộ:

Khoản 3 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình 214 quy định điều kiện đối với người được nhờ mang thai hộ như sau:

  1. Phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
  2. Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
  3. Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
  4. Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
  5. Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý; Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Trước hết, người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo xác định: “Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị,em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác nha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ, hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ” [2]. Điểm a Khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã quy định người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.

Việc pháp luật quy định như vậy nhằm tránh các hành vi trục lợi, lợi dụng điều này để thương mai hóa hành vi mang thai hộ. Việt Nam hiện nay về trình độ y học hoàn toàn đủ khả năng để thực hiện được kỹ thuật y tế liên quan đến thụ tinh ống nghiệm để phục vụ cho mang thai hộ. Nhưng vấn đề ở đây liên quan đến mặt đạo đức xã hội. Sự lo ngại về mang thai hộ sẽ bị thương mại hóa trong khi bản chất của nó là phải vì nhân đạo bởi lẽ pháp luật cấm việc buôn bán người và trẻ em không phải một dạng hàng hóa để mua bán đổi chác. Việc quy định người nhờ mang thai hộ phải là người thân thích trong gia đình sẽ làm giảm bớt lợi ích mà bên được nhờ mang thai hộ đòi hỏi các điều kiện, đảm bảo hạn chế những biến tướng của việc mang thai hộ đồng thời cũng ngăn chặn những nguy cơ có thể phá vỡ kết cấu và hạnh phúc gia đình. Hơn nữa nếu là người trong gia đình thì sẽ đảm bảo được dòng máu, gen di truyền và phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam.

Thứ hai, người mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần. Điều kiện này nhằm đảm bảo có sự trải nghiệm, kinh nghiệm của người mang thai hộ với thiên chức làm mẹ; bảo đảm sự hòa hợp về tình cảm, tâm lí của cả hai bên nhờ và bên nhận mang thai hộ trong quá trình mang thai hộ. Mang thai và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua nhiều gia đoạn khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc đặc biệt để đảm bảo sự phát triển của thai nhi trong bụng. Người đã mang thai và sinh con một lần sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc chăm sóc và giữ gìn sự an toàn, sức khỏe của thai nhi hơn cũng như biết cách phòng ngữa những biến chứng, những tác động không tốt đến sức khỏe của thai nhi. Mặt khác, điều kiện này bảo đảm sức khỏe cho bên mang thai hộ cũng như các quy định khác liên quan, ví dụ như chính sách kế hoạch hóa gia đình của Nhà Nước.

Thứ ba, người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Mặc dù hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về độ tuổi phù hợp để mang thai hộ nhưng cũng có thể khẳng định người mang thai hộ phải đang ở trong độ tuổi sinh sản tốt nhất. Nếu dưới 18 tuổi là độ tuổi pháp luật chưa cho phép mang thai và cơ thể của người phụ nữ lúc đó được cho là chưa hoàn thiện về mặt sinh học, chưa phù hợp để sinh con. Còn sau tuổi 30, khả năng sinh nở của người phụ nữ bắt đầu giảm dần và đó là lý do vì sao các cặp vợ chồng khó có con hơn và cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề sinh sản hơn. Qua tuổi 40, khả năng sinh sản của nữ giới bắt đầu giảm, trứng rụng thưa dần, mỗi năm có thể có vài chu kỳ kinh nguyệt không có trứng rụng. Đến một lúc nào đó, người phụ nữ sẽ bước vào thời kỳ mãn kinh, kết thúc tuổi sinh sản. Vì thế theo tác giả, có thể suy ra độ tuổi sinh sản phù hợp nhất với quy định này là từ trên 18 đến dưới 35 tuổi. Sự xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ đảm vảo cho sự an toàn về điều kiện sức khỏe của người mang thai hộ và của thai nhi, đảm bảo cho việc mang thai hộ đạt được kết quả như mong muốn.

Thứ tư, người phụ nữ mang thai hộ phải được sự đồng ý bằng văn bản của người chồng nếu đang có chồng.Đây là điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ. Điều kiện về ý chí của các bên trong việc mang thai hộ là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện. Việc yêu cầu sự đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ là sự cần thiết. Bởi việc mang thai hộ lúc này không phải là chuyện riêng của người vơ mang thai hộ mà là việc chung của cả hai vợ chồng và của gia đình riêng của họ. Ý chí thỏa thuận đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ còn là cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh và thực thi các quyền, nghĩa vụ của hai bên trong quá trình mang thai hộ cũng như giải quyết các hệ quả pháp lý liên quan đến việc mang thai hộ. Trường hợp chồng của người phụ nữ mang thai hộ không đồng ý thì không thể thực hiện quá trình mang thai hộ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Thứ năm, người mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là điều kiện bắt buộc để việc mang thai hộ được thực hiện. Điều kiện này cũng tương tự như đối với người nhờ mang thai hộ, giúp cho người mang thai hộ cân nhắc về việc có nên thực hiện mang thai hộ người khác hay không. Người mang thai hộ phải được biết các vấn đề liên quan đến việc mang thai hộ như: vấn đề về sức khỏe, sự an toàn, sự rủi ro có thể xảy ra của quá trình mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của 2 bên,… để từ đó có quyết đúng đắn và thỏa mãn nguyện vọng của mình đồng thời chuẩn bị tâm lý ổn định cho việc mang thai hộ chuẩn bị được thực hiện.

c) Về điều kiện của cơ sở khám, chữa bệnh phải đáp ứng các điều kiện về máy móc, thiết bị y tế, nhân sự. 

Hiện có 3 cơ sở khám bệnh được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đó là:

  • Bệnh viện Phụ sản trung ương;
  • Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế;
  • Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh

d) Về thủ tục thực hiện việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Thực hiện việc thỏa thuận bằng văn bản với người mang thai hộ, bao gồm những nội dung sau đây:

  • Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan
  • Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
  • Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
  • Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.

Văn bản mang thai hộ cần thực hiện công chứng theo quy định của pháp luật.

Cặp vợ chồng chuẩn bị hồ sơ, gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này, gồm: Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

  • Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định này;
  • Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Nghị định này;
  • Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;
  • Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;
  • Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
  • Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này và đã từng sinh con;
  • Bản xác nhận của Ủy Ban Nhân Dân cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này;
  • Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.
  • Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;
  • Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên;
  • Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý;
  • Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ sở được cho phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang thai hộ. Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này thì phải trả lời bằng văn bản, đồng thời nêu rõ lý do. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Nội dung của thỏa thuận mang thai hộ:

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên, được thành lập thành văn bản và phải được công chứng theo quy định của pháp luật[3].

Nội dung cơ bản của văn bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đao, bảo gồm:

  • Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan quy định tại Điều 95 Luật HNGĐ ( các điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo);
  • Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 (Đối với người mang thai hộ) và Điều 98 (Đối với người nhờ mang thai hộ) của Luật HNGĐ;
  • Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa, hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
  • Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận[4]. [4, tr58]

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ

Luật HNGĐ quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ bao gồm các quyền và nghĩa vụ giữa họ đối với nhau, quyền và nghĩa vụ của họ đối với đứa con sinh ra từ việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của đứa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên trong gia đình người nhờ mang thai hộ, quyền được hưởng chính sách phúc lợi xã hội của các bên, quyền được khởi kiện giải quyết tranh chấp về mang thai hộ,..

a) Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ:

Trước hết, người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ và phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.

Thứ hai, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sang lọc để phát hiện, điều trị các bấ thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ y tế.

Thứ ba, người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Thứ tư, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ, thực hiện hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lí do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai và việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hơp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Thứ năm, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con5.

b) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ:

Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ phải chi trả các chi phí thưc tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ y tế.

Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng cho con theo quy định về cấp dưỡng của Luật HNGĐ và bị xử lí theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì cần phải bồi dưỡng kịp thời và đầy đủ. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật Dân sự về thừa kế đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.

Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vu theo quy định của Luật HNGĐ, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.

Người mang thai hộ có nghĩa vụ phải giao con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ theo đúng như cam kết giữa hai bên ghi nhận trong thỏa thuận. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên mang thai hộ giao con[5].

c) Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:

Trong cuộc sống, việc người phụ nữ sinh con làm cơ sở phát sinh mối quan hệ giữa cha mẹ và con. Quan hệ cha mẹ con không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không mà phụ thuộc vào sự kết hợp giữa trứng của người phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông tạo ra phôi là đứa con mang gen di truyền của cả hai người. Nhà nước và pháp luật quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con vì đó là cơ sở nhằm xác thực mối quan hệ cha mẹ con, từ đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong mối quan hệ này theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Xét về mặt y học, mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ thuật lấy trứng của vợ và tinh trùng của chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của một người phụ nữ khác để nhờ người này mang thai hộ do tử cung của người vợ không thể mang thai. Với các tiến bộ trong lĩnh vực sinh sản, chức năng làm mẹ sinh học hoàn toàn có thể được phối hợp giữa người mẹ chính thức – là người cung cấp trứng và người mẹ mang thai hộ – là người phụ nữ mang phôi thai từ trứng của người vợ đã được thụ tinh với tinh trùng của người chồng. Vì thế, xét về mặt sinh học thì người mang thai hộ hoàn toàn không phải là mẹ của đứa bé, mà chỉ là người giúp cho phôi thai phát triển rồi khi đủ ngày đủ tháng, đứa trẻ đó ra đời mà thôi.

Hiện nay, để xác định được mối quan hệ cha, mẹ và con, người ta thường sử dụng kỹ thuật khoa học mới nhất là xét nghiệm ADN xem có sự trung khớp hay không, đây là biện pháp xét nghiệm trên bộ gen di truyền cho kết quả chính xác đến 99,9% và biện pháp này cũng đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Trong trường hợp mang thai hộ, nếu như áp dụng kỹ thuật xét nghiệm ADN để xác định mẹ đứa trẻ được sinh ra thì kết quả ADN của đứa trẻ sẽ trùng khớp với kết quả ADN của người mẹ nhờ mang thai hộ, do đứa trẻ được hình thành từ trứng đã chứa bộ gen của người [4, tr55,56]

Xét về góc độ pháp lý, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã khẳng định: con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra [6]. Vì vậy, vợ chồng nhờ mang thai hộ sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ ngay khi trẻ vừa được sinh ra.

Như vậy, xét cả trên phương diện sinh học, đạo đức và pháp luật, con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ. Nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha mẹ cho con theo quy định tại khoản 1 điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014   được áp dụng: Con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân là con chung của vợ chồng[7]. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ, giữa con với các thành viên của gia đình bên nhờ mang thai hộ được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trường hợp có tranh chấp từ xác định cha, mẹ, con sẽ do tòa án giải quyết khi có yêu cầu [1, tr21].

Quy định về mang thai hộ trong các văn bản pháp luật khác

Quy định về mang thai hộ theo luật dân sự năm 2015 Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Như đã nêu bên trên, trong luật Dân sự hiện nay không có quy định cụ thể về mang thai hộ. Tuy nhiên, thỏa thuận giữa 2 bên về mang thai hộ cũng được coi có tính chất như một hợp đồng thỏa thuận dân sự. Vì thế, có thể áp dụng tính chất của luật hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự năm 2015 vào vấn đề này.

Cụ thể trách nhiệm dân sự căn cứ theo quy định tại luật Hôn nhân và Gia đình trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận như sau:

Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý.

Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này.

Trong thỏa thuận về mang thai hộ pháp luật đã quy định rõ những điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Thỏa thuận theo ý chí tự nguyện nhưng vẫn phải căn cứ theo luật định. Hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thể hiện được ý chí của mình bao gồm việc giải quyết hậu quả trong trường hợp tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe của người mang thai hộ, trong thời gian mang thai, việc giao nhận con của các bên trong quan hệ mang thai hộ…Cuối cùng, hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thỏa thuận với nhau trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết hợp đồng. Do quan hệ mang thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát sinh tranh chấp và khó phân xử, nên hợp đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên khỏi sự xâm phạm của bên kia và là cơ sở cho tòa án phân xử đúng sai nếu có tranh chấp xảy ra. [5, tr77]

Quy định về mang thai hộ theo Bộ luật Hình sự năm 2015

Việc mang thai hộ phải quy định tại các điều Luật hôn nhân và gia đình 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, không ít trường hợp lợi dụng việc mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế, trái mục đích mà Nhà nước hướng tới khi cho phép mang thai hộ.

Theo xu hướng đó, nhằm điều chỉnh hiện tượng lạm dụng việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đi ngược với bản chất nhân văn của việc mang thai hộ, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) đã bổ sung tội “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại” (Điều 187), nằm trong Chương XVII. Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (BLHS). Đây là một điều luật mới nhằm đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi lợi dụng quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để trục lợi. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Theo quy định tại điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi thành lập, chủ trì, dụ dỗ, lôi kéo, lên kế hoạch để các bên mang thai hộ gặp nhau của một người hoặc một nhóm người có năng lực trách nhiệm hình sự, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì mục đích hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. [13]

Điều 187 về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định:

1.Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

  • Đối với 02 người trở lên;
  • Phạm tội 02 lần trở lên;
  • Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;
  • Tái phạm nguy hiểm.

. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ

01 năm đến 05 năm [9].

Dấu hiệu pháp lý: 

Khách thể: Hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại xâm hại đến chế độ quản lý nhà nước về sinh sản bằng phương pháp kỹ thuật và tính nhân đạo của hành vi mang thai hộ trong trường hợp vợ chồng gặp khó khăn về vấn đề sinh sản.

Mặt khách quan: Tổ chức mang thai hộ là hành vi bao gồm tổng hợp của nhiều hành vi khác nhau từ việc tạo điều kiện cho các bên có nhu cầu mang thai hộ gặp gỡ, trao đổi, bàn bạc, sắp xếp, tạo điều kiện và hỗ trợ về các phương tiện để các bên tiến hành việc mang thai hộ bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Mục đích cuối cùng của người thực hiện hành vi là vì mục đích thương mại, nếu có hành vi “tổ chức” nhưng không “vì mục đích thương mại” thì không cấu thành tội này

Chủ thể: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là bất kỳ người nào có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của BLHS là từ đủ 16 tuổi trở lên Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Mặt chủ quan: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, tức là “người tổ chức hiểu rõ được hành vi phạm tội của mình là gây nguy hiểm cho xã hội, hoj thực hiện một cách chủ động và mong muốn việc mang thai hộ diễn ra”; không có trường hợp người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện tội phạm do vô ý, vì người phạm tội này bao giờ cũng mong muốn thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi của mình với động cơ vụ lợi (nhằm hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác). Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi của mình với mục đích thương mại [13].

Đường lối xử lý

Đường lối xử lý Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo cấu thành cơ bản (Điều 187 khoản 1 BLHS) Khoản 1 Điều 187 BLHS là cấu thành cơ bản của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, (không có những tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 của Điều luật này) thì bị phạt một trong ba hình phạt sau: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo Khoản 1 Điều 187 BLHS, Tòa án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS (từ Điều 50 đến Điều 59)

Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn là hình phạt cảnh cáo. Lý do của việc giảm nhẹ phải ghi vào bản án.

Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình Sự thì người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình Sự, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 02 năm tù.

Nếu các tình tiết của vụ án như nhau, thì người phạm tội này có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn; người phạm tội này có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS sẽ được áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặn hơn. Đường lối xử lý Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo cấu thành tội phạm tăng nặng [8].

Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

  1. Đối với 02 người trở lên: Là trường hợp tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đối với 02 người trở lên. Nghĩa là cùng một khoảng thời gian một hoặc một nhóm người đã tổ chức cùng một lúc cho 02 người mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.
  2. Phạm tội 02 lần trở lên: Là trường hợp tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại từ 02 lần trở lên. Đây cũng có thể được xem là phạm tội 02 lần nhưng chỉ đối với 01 người (để phân biệt với trường hợp “Đối với 02 người trở lên”).

Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp có từ 02 lần tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại trở lên, mỗi lần tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đều đã cấu thành tội phạm và nay bị đưa ra xét xử cùng một lúc, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước đến lần phạm tội sau.

Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội 02 lần trở lên nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó, chỉ có 01 lần phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, còn các lần phạm tội khác chỉ là vi phạm kỹ luật hoặc đã bị xét xử hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại 02 lần trở lên.

Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức: Là trường hợp người phạm tội lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên, ví dụ như lợi dụng danh nghĩa bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức nhân đạo…để đứng ra tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.

 Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng là lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức khi mà chính người tổ chức đang làm việc trong cơ quan, tổ chức. Nếu người phạm tội giả mạo là thành viên của bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức nhân đạo…để đứng ra tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thì không áp dụng tình tiết này.

Tái phạm nguy hiểm: Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

Là trường hợp người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

Là trường hợp người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

Người phạm tội Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thuộc một trong các trường hợp nêu trên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo Khoản 2 Điều 187 BLHS, Tòa án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS (từ Điều 50 đến Điều 59). Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (từ 03 tháng đến 01 năm).  Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 05 năm. Đường lối xử lý Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo hình phạt bổ sung (Khoản 3 điều 187 Bộ luật Hình sự). Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể bị phạt một trong các hình phạt bổ sung sau đây: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm/.

Như vậy,có thể thấy, pháp luật đã có những  dự liệu về các tình huống và trường hợp xảy ra quanh vấn đề mang thai hộ nên đã có những quy định rất cụ thể về các điều kiện áp dụng cũng như chế tài xử lý nếu xảy ra vi phạm. Điều này cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đến đời sống xã hội. Những quy định của pháp luật trên cả phương diện Hôn nhân gia đình, dân sự, hình sự nhằm bảo đảm sự phát triển lành mạnh của xã hội và phát huy giá trị nhân văn của hình thức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

2.2.2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam

Hạn chế về mặt nội dung của các điều kiện áp dụng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Tiếp cận các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay cho thấy, mặc dù hệ thống pháp luật đã xây dựng hành lang pháp lý tạo cơ sở cho việc thực hiện quyền làm cha mẹ cho bất kỳ các nhân nào, song những quy định của pháp luật hiện nay vẫn còn bộc lộ những “rào cản” nhất định khiến cho nhiều cặp vợ chồng không thể tiếp cận được với mang thai hộ. Cụ thể:

Thứ nhất, điều kiện để được phép mang thai hộ ở nước ta còn khá khắt khe. Theo quy định của pháp luật hiện hành, để có thể tiến hành việc mang thai hộ một cách hợp pháp, các bên phải đáp ứng khá nhiều các quy định của pháp luật về yếu tố chủ thể, độ tuổi, tình trạng hôn nhân,… Những ràng buộc quá kín kẽ này đã khiến không ít bệnh nhân phải “đỏ mắt” để tìm người nhờ mang thai hộ, dập tắt nhiều hi vọng của họ.

Gian nan tìm người mang thai hộ

Đã 4 năm nay, một gia đình hiếm muộn đã rời Hà Nội vào TP.HCM sinh sống. Căn phòng nhỏ là nơi vợ chồng chị tá túc trong thời gian điều trị bệnh. Theo chỉ định của bác sĩ, vợ chồng này phải tìm người mang thai hộ. Sau đó, anh chị đã tìm được người bà con bên chồng và người này cũng đồng ý giúp. Tuy nhiên, khi làm thủ tục bệnh viện thông báo người mang thai hộ không “cùng hàng” mà là “cháu” của chị, theo quy định pháp luật sẽ không được.

Còn một trường hợp bệnh nhân khác từ Quảng Ngãi vào TP.HCM. Ngay khi vừa có nghị định 10/2015 cho phép mang thai hộ chị rất mừng. Thế nhưng chị rất ngỡ ngàng khi bị từ chối vì người này là “cô”, cũng không “cùng hàng” với chị. Chị bị từ chối điều trị mang thai hộ [15]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Có thể thấy, những niềm hy vọng có con lần lượt bị dập tắt bởi vướng quy định điều kiện về “người thân thích cùng hàng” dẫn đến quyền được làm cha mẹ của các cặp vợ chồng vô sinh bị bó hẹp. Khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP giải thích người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Có thể nói mục đích của quy định này là nhằm hạn chế tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, song sự ràng buộc về mặt văn hóa truyền thống khiến quy định “thân thích cùng hàng” của Việt Nam (hiểu đơn giản là người ngang vai trong mối quan hệ gia đình, dòng họ) đã triệt tiêu một số lượng không nhỏ những người sẵn sàng mang thai cho cặp vợ chồng vô sinh vì không phải ai cũng tìm được người đủ điều kiện để thực hiện thủ tục mang thai hộ.

Từ quy định này đặt ra câu hỏi rằng điều này có mang lại hiệu quả hay không khi nhu cầu của việc mang thai hộ ngày càng lớn và tính thương mại chưa hẳn chỉ tồn tại ở những mối quan hệ không thân thích. Mặt khác, dưới góc độ đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô sinh, quy định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất trong gia đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định 10/2015/NĐ – CP đã nêu trên đều không có chị em gái, hoặc có chị em gái nhưng những người này là người chưa thành niên, hay đã thành niên nhưng chưa kết hôn và mang thai lần nào. Như vậy, việc mang thai hộ sẽ không thể được tiến hành dù không phải là vì mục đích thương mại. Chính vì vậy, quy định này tiềm ẩn khả năng các cặp vợ chồng vô sinh sẽ nhờ người mang thai hộ một cách lén lút, gây ra nhiều hậu quả pháp lý khó kiểm soát.

Thứ hai, pháp luật quy định trong trường hợp nhờ mang thai hộ, vợ chồng phải không có con chung.

Trên thực tế chúng ta đều có thể nhận thấy tỷ lệ rủi ro của các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là không hề nhỏ.Có những cặp vợ chồng thực hiện thụ tinh nhân tạo đến lần thứ 3, thứ 4 vẫn không thành, nhưng người vợ vẫn không mất đi khả năng sinh con. Nhưng nếu tình trạng này kéo dài lâu sẽ rất dễ xảy ra tình trạng người vợ lớn tuổi mới bắt đầu mang thai, khi đó sự đảm bảo về sức khỏe của người mẹ và thai nhi đều thấp hơn rất nhiều so với thông thường. Chưa kể những rủi ro về mặt dị tật đối với đứa trẻ cũng là rất lớn. Vậy phải chăng khi này, họ nên được áp dụng biện pháp mang thai hộ?

Trong trường hợp nếu vợ chồng đã có con chung nhưng con chung mắc những bệnh như down hay một số bệnh lí khác làm cho đứa con không thể phát triển được bình thường, hoặc không còn sống mà muốn có thêm con nhưng khả năng sinh đẻ không còn do không thể thụ thai được nữa thì trong trường hợp này cũng không được pháp luật cho phép. Tác giả nhận thấy quy định này hoàn toàn không hợp lý do nguyện vọng chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuệ. Pháp luật hiện hành cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, vì thế việc cần thiết cho phép các trường hợp này được thực hiện mang thai hộ thì tính chất nhân văn càng được thể hiện rõ rệt. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Thứ ba, quy định về người ký thỏa thuận mang thai hộ (hợp đồng). Quy định “Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng” và phần ký kết trong hợp đồng cũng ghi rõ là bốn người cùng ký. Đây là một quy định còn khá cứng nhắc bởi lẽ trong trường hợp người chồng của người phụ nữ mang thai hộ là người mất năng lực hành vi dân sự, là người mắc các chứng bệnh như thiểu năng, liệt toàn thân, hoặc các chứng bệnh về thần kinh khác… thì rất khó để cho ý kiến và đồng ý bằng văn bản trong trường hợp này. Thậm chí, việc ký vào hợp đồng của họ cũng còn là một điều khó khăn. Chính vì thế cần có sự điều chỉnh từ pháp luật trong vấn đề này.

Thứ tư, quy định về quyền quyết định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai. Cụ thể tại khoản 4 Điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai”. Trong trường hợp thai nhi trong bụng phát triển không bình thường, có dấu hiệu của dị tật, bệnh hiểm nghèo thì bên mang thai hộ có quyền quyết định việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai. Quy định này nếu xét theo khía cạnh của người nhận mang thai hộ thì rất nhân đạo bởi điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể và sức khỏe của họ. Hơn nữa theo quy định, phụ nữ được quyền nạo thai, phá thai theo nguyện vọng và được theo dõi sức khỏe trong thời kì thai nghén.Đứng dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhờ mang thai hộ thì đây là một quy định hợp lý. Tuy nhiên, nếu xét dược góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhờ mang thai hộ quy định này còn một vấn đề như sau: Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014  bên nhờ mang thai hộ sẽ là người chịu trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ đó từ thời điểm trẻ được sinh ra cho đến khi trưởng thành và được công nhận là cha mẹ của trẻ. Chính vì vậy, nếu trong quá trình mang thai, bào thai phát triển không tốt do các khuyết tật bẩm sinh thì chính cha mẹ của thai nhi sẽ là người quyết định tiếp tục duy trì thai kỳ hay chấm dứt theo lời khuyên của bác sĩ. Việc cho đơn phương cho phép bên nhận mang thai hộ quyết định là không hợp lý vì như thế rất có thể xảy ra trường hợp bên mang thai hộ vì một lý do nào đó dùng đứa trẻ uy hiếp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ để đáp ứng những yêu cầu khác không theo thỏa thuận ban đầu.

Thứ năm, pháp luật không cho phép trường hợp mẹ đơn thân vô sinh và nhóm người đồng tính, chuyển giới nhờ mang thai hộ. Với những người không kết hôn mà không có khả năng mang thai, pháp luật hạn chế quyền này của họ. Điều này đặt ra câu hỏi tại sao cùng là phụ nữ trong trường hợp đặc biệt nhưng người được trao quyền còn người thì bị hạn chế? Liệu quyền con người, quyền bảo vệ nhóm người yếu thế ở đây có được đảm bảo? Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã cho phép phụ nữ độc thân được phép sinh con bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Họ được phép xin  tinh trùng, sau đó lấy trứng của bản thân minh thụ tinh thành phôi và cấy trở lại dạ con của mình. Họ được phép có con, có quyền có con như mình mong muốn. Tuy nhiên, nếu bản thân những người phụ nữ độc thân này có noãn nhưng noãn của họ không thể phát triển thành phôi hoặc họ mắc một số bệnh bẩm sinh, bệnh di truyền, dị tật, bản thân họ không thể mang thai bình thường được thì họ vẫn không được phép nhờ mang thai hộ vì pháp luật hiện hành không cho phép họ mang thai hộ.

 Bên cạnh đó, nhóm người đồng tính, song tính, chuyển giới nếu có nhu cầu có con bằng phương pháp mang thai hộ thì không được pháp luật cho phép do pháp luật không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cho phép cá nhân chuyển đổi giới tính. Như vậy, người chuyển đổi giới tính sẽ được quyền kết hôn theo quy định của pháp luật về HNGĐ. Đương nhiên, họ có quyền nhớ mang thai hộ. Tuy vậy, theo quy định thì cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải có noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để kết hợp thụ thai, vì vậy trường hợp này nếu không đảm bảo điều kiện trên thì không được nhờ mang thai hộ. Có nghĩa, pháp luật HNGĐ đã công nhận và bảo vệ quyền của họ nhưng lại hạn chế quyền mang thai hộ. Đây cũng là 1 điểm bất cập lớn của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Thứ sáu, có rất nhiều loại thủ tục phải thực hiện để hoàn tất hồ sơ mang thai hộ. Mặc dù tất cả giấy tờ cần thiết đểu được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật nhưng việc đảm bảo các thủ tục hành chính rất khó khăn vì rườm rà. Hồ sơ đó phải gồm đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 4 ban hành kèm theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15-32015, bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 5, bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào, bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận. Cần có bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe. Ngoài ra còn cần 6 văn bản xác nhận nữa, là xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích, xác nhận của chồng người mang thai hộ, trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý của chồng về việc cho mang thai hộ…Chính vì những khó khăn về khâu giấy tờ khiến các cặp vợ chồng hiếm muộn e ngại, thời gian chờ đợi để duyệt hồ sơ lâu. Điều đó cũng gián tiếp tạo ra điều kiện để họ tìm đến các cơ sở mang thai hộ “chui” gây khó kiểm soát trong mang thai hộ ở nước ta hiện nay.

Thứ bảy, chi phí để thực hiện mang thai hộ hiện nay còn khá cao mà không được hỗ trợ Bảo hiểm y tế. Ngoài các quy định về điều kiện chủ thể, thì nếu muốn thực hiện việc sinh con bằng mang thai hộ thì người vợ phải là người mà kết quả khám bệnh chỉ ra rằng không thể sinh con dù đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Chi phí để thực hiện các thủ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đã có giá hàng chục triệu đồng, thêm vào đó chi phí để thực hiện việc mang thai hộ có thể lên đến hàng trăm triệu đồng.

Luật BHYT năm 2015 sửa đổi ban hành có thêm một số hạng mục thuốc điều trị mới được thanh toán, nhưng người điều trị hiếm muộn vẫn phải tự chi trả chi phí điều trị.Vì sao ở nước ta, điều trị hiếm muộn chưa được đưa vào danh sách BHYT chi trả? Ông Hà Văn Thúy – Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế) cho biết: Nguyên nhân gây hiếm muộn rất khó xác định; đồng thời chi phí cho chẩn đoán và điều trị cũng rất lớn. Trong khi đó, hiện nay quỹ BHYT chỉ bảo đảm chi trả cho khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ và sinh con. Tuy nhiên, có một thực tế là điều trị hiếm muộn có nhiều phương pháp, trong đó các biện pháp trị hiếm muộn ít phức tạp như điều trị bằng hoóc môn, thụ tinh nhân tạo… có xác suất thành công 20-30% tùy vào mức độ bệnh lý.Giá mỗi đợt điều trị này chỉ dao động từ 5 triệu đến 20 triệu đồng.Số tiền không quá lớn, vì sao BHYT vẫn không chi trả? Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Theo BS Hoàng Thị Diễm Tuyết, hiếm muộn, vô sinh không phải là căn bệnh hiếm gặp, 10% dân số nước ta có nhu cầu điều trị vô sinh, hiếm muộn. Với các phương pháp hỗ trợ sinh sản, những cặp vợ chồng hiếm muộn phải chi trả mức phí từ vài chục triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng. BS Hoàng Thị Diễm Tuyết nói: “Đây là rào cản khiến không ít gia đình ngậm ngùi chấp nhận cảnh không có con vì không có tiền điều trị”. Mấy chục năm gắn bó với nghề điều trị vô sinh, GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã xót xa với không ít trường hợp: “Nhiều cặp điều trị 5-6 lần, cầm cố nhà cửa, đến khi thành công thì không còn nhà để con ở. Có khi vì quá tội với đứa trẻ, sinh ra phải khổ sở nên tôi đã tự mình bỏ tiền túi cho bệnh nhân về chuộc lại nhà, chuộc lại sổ đỏ”. Việc điều trị hiếm muộn tốn phí tiền bạc, công sức, làm nhiều gia đình nghèo trở nên khốn khó hơn.”Khi chữa trị thành công cho những cặp vợ chồng hiếm muộn, tôi vừa mừng và giật mình lo lắng vì không ít đứa trẻ được sinh ra phải chịu cảnh nghèo khó.Bản thân tôi cũng phân vân, không biết làm thế nào?” – GS. BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng nói [16] Như vậy, có thể nói điều này là không thể đối với những cặp vợ chồng nghèo. Vậy nên, mang thai hộ hiện nay vẫn còn là cơ hội dành cho những người có điều kiện. Còn người nghèo hiếm muộn chỉ biết…đợi chờ.

Bất cập về chế tài xử lý vi phạm:

Về chủ thể tội phạm, Điều 187 BLHS năm 2015 quy định đối với cá nhân có hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục thương mại là những cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét trong mối tương quan giữa tên tội danh “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại” với chủ thể tội phạm theo tinh thần điều luật thì đối tượng chủ thể của điều luật này không chỉ hướng tới cá nhân trực tiếp mang thai hộ mà còn cả những người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Tuy nhiên, cả tên điều luật và chủ thể phạm tội quy định tại khoản 1 điều này đang tạo ra các cách hiểu khác nhau theo chiều hướng thu hẹp đối tượng phạm tội chỉ đối với “người tổ chức”, còn người mang thai hộ đơn thuần (không có yếu tố tổ chức) thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội danh này. Vì thế, trong trường hợp người mang thai hộ không qua khâu “trung gian” mà trực tiếp làm việc với bên nhờ mang thai hộ theo hình thức thỏa thuận thương mại thì rất dễ bị tội phạm lợi dụng sơ hở của pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội.  Phần này viết nặng quá không tương xứng với phần trên

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về mang thai hộ Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

2.2.1. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực mang thai hộ

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế, Thế giới có khoảng 8-12% các cặp vợ chồng bị vô sinh, còn theo thống kê của Bộ Y tế ở Việt Nam tại hội thảo quốc gia về sức khỏe sinh sản và tình dục tổ chức ngày 12/12/2012 tại Hà Nội, thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản trung ương, T.S Nguyễn Viết Tiến cho biết kết quả điều tra gần 14.400 cặp vợ 35 chồng đại diện cho tại 8 vùng sinh thái tại Việt Nam cho thấy tỉ lệ vô sinh chung trên phạm vi toàn quốc là 7,7% trong độ tuổi từ 15-49 tuổi trong đó vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%. Từ những số liệu trên cho thấy, tỉ lệ vô sinh của nước ta liên tục tăng cao, năm 1982 là 13%, năm 1998 là 13,4%, năm 2000 là 15%. Trong vòng 15 năm (1982 – 2000), tỉ lệ vô sinh tăng 2%, trung bình 0,13% /năm. Trong những năm về sau, dù Việt Nam đã ứng dụng nhiều dịch vụ y tế trong chẩn đoán và điều trị vô sinh tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng tỉ lệ vô sinh vẫn rất cao. Tỉ lệ thành công của những cặp vợ chồng vô sinh áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chiếm rất ít (chỉ khoảng 20- 30%), những cặp vợ chồng còn lại (70 – 80%) dù đã tiến hành các biện pháp hỗ trợ sinh sản vẫn không thể mang thai và sinh con, chính vì vậy đã dẫn đến hiện tượng mang thai hộ diễn ra ngày càng nhiều trong thực tế cuộc sống [6]. Nguyên nhân này 1 phần  xuất phát cũng bởi các kỹ thuật y tế nước ta thời kỳ này phát triển chưa mạnh nên việc chữa trị vô sinh hiếm muộn còn gặp nhiều khó khăn.

Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) có hiệu lực từ 01/01/2015 và Nghị định 10/2015 có hiệu lực từ 15/03/2015  giống như “phao cứu sinh” hạnh phúc cho nhiều đôi vợ chồng hiếm muộn, bởi cho phép mang thai hộ. Và chỉ sau đó 1 năm, ngày 22-1-2016, Việt Nam đã lần đầu tiên đón nhận em bé chào đời từ mang thai hộ, đánh dấu một nét son mới của ngành y tế và cũng là bước tiến bộ đầy nhân văn đáng ghi nhận. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Ngày 22-1-2016, Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã đón chào công dân đầu tiên ra đời bằng kỹ thuật mang thai hộ .Bé gái được đặt tên Đinh Quỳnh Anh ra khỏi bụng mẹ ở tuần thai thứ 38, nặng 3,6kg, là con của chị Nguyễn Thị Hà (ngụ tại Hà Nam). Vợ chồng chị Hà lấy nhau đã 18 năm, không có con do chị bị tử cung nhỏ bẩm sinh. Vợ chồng chị cố gắng chạy chữa vẫn không có kết quả. Ngay khi biết luật cho phép, vợ chồng chị liền nhờ người cô họ mang thai hộ. Bác sĩ đã tiến hành lấy noãn của chị và tinh trùng của chồng, sau đó cấy phôi vào người MTH và bắt đầu thụ thai từ tháng 3-2015…Hiện đã có hơn 10 ca mang thai hộ thành công (trong số hàng trăm hồ sơ chờ xin được duyệt), thực hiện tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Tương tự, ngày 28-7-2016,  Bệnh viện Trung ương Huế (đại diện cho khu vực miền Trung được phép triển khai kỹ thuật mang thai hộ) cũng đón chào bé gái đầu tiên từ kỹ thuật Mang thai hộ khỏe mạnh, nặng 3,5kg; là con của đôi vợ chồng (ngụ thị xã Hương Trà, Thừa Thiên – Huế) đã kết hôn được 8 năm nhưng không thể tự mang thai do người vợ bị cắt tử cung… Đến nay, Bệnh viện Trung ương Huế cũng đã tiếp nhận hồ sơ, thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm thành công cho gần 10 trường hợp. Trong khi đó, dù “quả ngọt” đến sau, nhưng Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TPHCM (đại diện được phép thực hiện mang thai hộ tại khu vực phía Nam) từ khi triển khai thực hiện đến nay, đã có 9 trường hợp mang thai hộ được thụ thai thành công tại Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) [18] và đặc biệt hơn vì đón nhận một ca sinh đôi thành công nhờ mang thai hộ. Đó là ngày 17-9-2015, BV thông báo đã thực hiện thành công trường hợp mang thai hộ song thai của 1 phụ nữ quê ở Khánh Hòa, 28 tuổi, bị khiếm khuyết ở hệ sinh dục (mắc chứng tử cung nhi hóa, không có cổ tử cung). Người mang thai hộ là người chị họ, 33 tuổi…

Theo Bộ Y tế, tính đến nay cả nước đã có hơn 30 trường hợp sinh con nhờ mang thai hộ thành công. Cùng với đó là có khoảng gần 500 hồ sơ mang thai hộ được duyệt trong số hàng ngàn hồ sơ đăng ký [19]. Bên cạnh đó, nền y học về lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm của nước ra cũng gặt hái được rất nhiều thành quả đáng mừng, khi các nguyên cứu liên tục được đăng trên các tạp chí y khoa uy tín thế giới [17]

Có thể thấy rằng, từ lúc được hợp pháp hóa đến nay, đã có rất nhiều cặp vợ chồng được tận hưởng niềm vui làm cha mẹ, điều mà trước đây họ không thể tự mình làm được. Đây quả thật là điều đáng mừng cho nền y học nước nhà và cũng là niềm hy vọng lớn lao cho những cặp vợ chồng kém may mắn khác.

2.2.2. Thực trạng vi phạm pháp luật về mang thai hộ

Tuy luật mang thai hộ đã được áp dụng vào thực tiễn, mở ra cơ hội với nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn. Tuy vậy, không phải trường hợp nào cũng nhận được những “quả ngọt”.Bởi hiện nay, do những khắt khe trong việc quy định về điều kiện được phép mang thai hộ mà nhiều cặp vợ chồng dù có mong muốn nhưng không đáp ứng được vẫn phải tìm đến những cánh cửa khác. Cũng từ đó, mang thai hộ “chui” lại trở thành một mảnh đất màu mỡ để những kẻ môi giới kiếm lời trên khát khao mong mỏi của người khác. Những người nhờ mang thai hộ là những trường hợp đặc biệt nhưng không đủ điều kiện mang thai hộ theo quy định của pháp luật, hoặc cũng có thể là những người phụ nữ “sợ đẻ”, sợ ảnh hưởng sự nghiệp nhưng vẫn muốn có con huyết thống,…Còn những người nhận mang thai hộ đa phần có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cần tiền để trang trải cuộc sống, bù đắp nợ nần. Theo tìm hiểu, mỗi lần giao dịch mang thai hộ, tùy vào giá mà các bên “cò mồi” ra khác nhau, nhưng trung bình người nhờ mang thai hộ sẽ tốn khoản 300 – 500 triệu đồng, chưa tính các chi phí bồi dưỡng ngoài cho bà bầu; bên trung gian nhận 1/3 số tiền, số còn lại trao cho người “đẻ thuê”. Ngoài ra mỗi tháng, người nhờ mang thai hộ còn phải cung cấp cho người mang thai hộ tiền ăn uống, thuốc men, khám thai… và khá nhiều những khoản chi phí khác. Vì là dịch vụ chui, nên gần như họ chỉ thỏa thuận một cách sơ sài chứ ít ai lập thành hợp đồng hay công chứng chứng thực thỏa thuận của mình. Chính vì thế, kể từ khi thỏa thuận được hình thành cho đến lúc sinh em bé luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro bởi tính pháp lý khi hợp đồng của họ chỉ được bảo chứng bằng chữ “tín” của những người không quen biết [20] Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Có trường hợp người mang thai hộ sau thời gian mang thai ít nhiều cũng có tình cảm máu mủ với đứa trẻ bị sinh ra. Vì vậy, cũng có thể xảy ra tình trạng “phá hợp đồng”, không giao con cho bên thuê hoặc bỏ trốn… Lúc này thì người nhờ mang thai hộ bị đứng trước hoàn cảnh trớ trêu, không thể kiện đối tác vì rõ ràng trên luật pháp, đứa trẻ sinh ra là con của người mang thai hộ; những cũng không thể bỏ đi vì đứa con đó trên thực tế lại là máu mủ của mình. Hoặc cũng có trường hợp đối tượng mang thai hộ khi đã trở thành chuyên nghiệp có thể nghĩ ra nhiều chiêu vòi vĩnh người thuê như đòi thêm tiền, ra nhiều điều kiện “trời ơi đất hỡi”. Hoặc quá đáng hơn là sau khi nhận tiền thì tìm cách bỏ trốn, người đẻ thuê sẽ phá thai và tiếp tục hành trình lừa đảo của mình,…v….v…. Tất nhiên trong những tình huống này thì người đi nhờ mang thai hộ cũng không biết kêu ai vì họ không được pháp luật bảo vệ.

Ngược lại, người mang thai hộ cũng có nguy cơ gặp không ít rủi ro khi thực hiện dịch vụ “chui” này. Có trường hợp trong quá trình mang thai gia đình người nhờ mang thai hộ có trục trặc trong hôn nhân không muốn nhận con nữa. Hoặc khi đứa bé sinh ra gặp rặc rối về sức khỏe như sinh non, ốm yếu, dị tật,… bên thuê không muốn đón con về, trốn tránh. Khi đó người mang thai hộ sẽ găp rất nhiều khó khăn.

Những người nhận mang thai hộ “chui” không chỉ đáp ứng riêng nhu cầu nhờ mang thai hộ trong nước mà còn cả ở nước ngoài. Vì thế, những đường dây buôn người sang Trung Quốc, Campuchia để cấy phôi, thụ thai rồi về Việt Nam dưỡng thai xuất hiện rất nhiều, lẩn trốn trong xã hội. Nên những “lò” nuôi bà bầu vẫn hoạt động nhộn nhịp.

Mới đây, tháng 12/2018, Phòng Cảnh sát hình sự (Công an TPHCM) triệt phá đường dây mang thai hộ vì mục đích thương mại xuyên quốc gia. Theo tin báo, lực lượng chức năng phát hiện và bắt giữ nhóm người chuẩn bị sang Campuchia mang thai hộ. Cơ quan công an đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh tạm giam với 5 đối tượng trong đường dây này.

Với từ khoá cho và nhận con nuôi trên mạng xã hội, hàng loạt nhóm cho và nhận con nuôi hiện lên xoay quanh câu chuyện những người phụ nữ nhỡ mang thai, không có khả năng nuôi con và người hiếm muộn muốn tìm nhận con nuôi. Mỗi ngày, có cả chục trường hợp bà bầu muốn cho con đăng trên nhóm.Với những thông tin rất công khai và đề cập trực tiếp nhu cầu, hoạt động này diễn ra nhộn nhịp như một cái chợ buôn bán trẻ sơ sinh.có rất nhiều người môi giới chờ sẵn trên các trang mạng để tìm bà bầu. Các hình ảnh siêu âm, ảnh bà bầu sinh hoạt được đưa lên trang cá nhân trên mạng xã hội để tạo sự tin tưởng. Không chỉ hoạt động trong nước, ngoài tuyển người sang Trung Quốc mang thai hộ, nhiều “cò mồi” còn tuyển người mang thai hộ sang Campuchia cấy phôi, trở về dưỡng thai ở Việt Nam. Với đủ chiêu trò, lời dụ dỗ ngon ngọt, chăm sóc tận tình, “cò mồi” “buông câu” những phụ nữ nhẹ dạ cả tin từ Hà Nội lên Lạng Sơn rồi vượt biên sang Trung Quốc. Không có gì bảo đảm, nhiều phụ nữ phó mặc tính mạng vào những lời cam kết qua mạng xã hội.

Như vậy có thể thấy, mặc dù pháp luật đã có những hướng đi cởi mở hơn nhưng chỉ quy định “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và đóng khung những trường hợp cụ thể là chưa đủ đáp ứng nhu cầu, do đó khó có thể ngăn những giao dịch ngầm này xảy ra trong thực tế. Điều này gây khó kiểm soát cho Nhà nước, vô hình biến chủ thể của mang thai hộ thành “công cụ” đẻ thuê và trẻ em thành mặt hàng để mua bán, đi ngược lại với đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Thứ nhất là do nhận thức của xã hội tác động đến nhận thức của nhà làm luật

Hiện nay pháp luật quy định về điều kiện đối với người mang thai hộ phải là “người thân thích cùng hàng với bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ” nhằm ngăn chặn nguy cơ thương mại hóa. Tuy nhiên, không phải ai cũng tìm được người đủ điều kiện theo quy định để thực hiện thủ tục mang thai hộ. Có người thì không có chị, em cùng hàng đáp ứng phù hợp (về độ tuổi, khả năng sinh con, sức khỏe,…). Hoặc tìm được thì không đồng ý nhận vì sợ “lời ra tiếng vào” hoặc ảnh hưởng đến vóc dáng, công việc.Điều này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mang thai hộ “chui” vì mục đích thương mại.

Quan niệm của người dân Việt Nam có vẻ rất “dị ứng” với những mối quan hệ gia đình, những mối quan hệ truyền thống mà lại dính dáng đến kinh doanh, đến tiền bạc. Song thực tế, những thỏa thuận rõ ràng, sòng phẳng thường lại là những thỏa thuận dễ điều chỉnh nhất, dưới góc độ pháp lý.

Việc bỏ qua quyền nhờ mang thai hộ của phụ nữ độc thân vô sinh có thể coi là khoảng trống của nhà làm luật khi chưa quan tâm đến quyền làm mẹ của người phụ nữ trong trường hợp này. Điều này có lẽ xuất phát từ định kiến xã hội Việt Nam về người phụ nữ làm mẹ đơn thân. Quan niệm “không chồng mà chửa” đã ăn sâu vào tư tưởng của người dân Việt Nam với những cái nhìn không mấy thiện cảm, gây ảnh hưởng tới tư duy của nhà làm luật. Mặc dù quy định về mẹ đơn thân đã được luật hóa nhưng thực tế khó thay đổi được quan niệm truyền thống.

Đối với những trường hợp chuyển giới hoặc đồng tính, pháp luật hiện hành không công nhận hôn nhân đồng tính nên họ không được coi là vợ chồng và vì thế không được nhờ mang thai hộ. Bởi những người này không đảm bảo về điều kiện kết hôn theo quan điểm thuần phong mỹ tục của Việt Nam và điều kiện thụ thai nên pháp luật không công nhận trường hợp của họ, vì thế gián tiếp không trao cơ hội mang thai hộ cho những người này mà chỉ cho phép nhận nuôi con nuôi. Mặc dù hiện nay, xã hội Việt Nam đã có cái nhìn thoáng hơn về những người thuộc giới tính thứ 3. Tuy vậy, tư tưởng đậm tính truyền thống vẫn ăn sâu vào tiềm thức nên pháp luật cũng chưa có những quy định rộng hơn.

Thứ hai, nhận thức pháp luật còn hạn chế Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

Những người nhận mang thai hộ thực tế thường là những người có hoàn cảnh khó khăn, ở các vùng nông thôn, sự tiếp cận và hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Các thỏa thuận nhiều khi lại không có hợp đồng, khi trao con cho người khác lại bị “bùng” tiền không được thanh toán.Lúc đó câu hỏi đặt ra ở đây là ai sẽ bảo vệ họ?hay họ chỉ còn cách ôm nỗi uất ức chấp nhận?

Sự phổ cập pháp luật không phải chỉ hạn chế với những người ở vùng sâu vùng xa, khó khăn với tiếp cận pháp luật mà còn là với những người có tiền, kinh tế vững nhưng không chịu tìm hiểu pháp luật hoặc khinh thường, coi rẻ luật pháp mà vẫn tiếp tục thực hiện các hành vi bị cấm. Hoặc chỉ vì họ khao khát có một đứa con huyết thống mà không tìm được cách nào khác ngoài việc nhờ mang thai hộ “chui”

Việc kém hiểu biết về pháp luật tạo nên một lỗ hổng kiến thức, dễ dẫn đến tình trạng tranh chấp xảy ra.

Thứ ba, các thủ tục yêu cầu mang thai hộ rườm rà

Để đảm bảo kiểm soát chặt chẽ việc mang thai hộ không bị biến tướng, pháp luật yêu cầu rất nhiều thủ tục để hoàn thiện hồ sơ mang thai hộ gồm xác nhận của nhiều cấp chính quyền và cơ quan chức năng khác nhau. Tuy nhiên chính điều này cũng gây khó khăn cho các cặp vợ chồng đi xin giấy tờ khi bỏ nhiều thời gian ra để đi làm thủ tục hành chính rất rườm rà. Chính vì thế nên điều này cũng khiến các cặp vợ chồng e ngại.Hơn nữa, thời gian đợi duyệt hồ sơ lâu. Đây cũng có thể coi là nguyên nhân gián tiếp khiến các cặp vợ chồng tìm những dịch vụ “đẻ thuê” bên ngoài vì tính chất “nhanh, gọn, tiện”.

Thứ tư, về điều kiện kinh tế

Chi phí cho các lần chữa trị vô sinh hiện nay rất lớn mà không được bảo hiểm y tế chi trả. Bên cạnh đó lại tốn kém về thời gian nên không ít cặp vợ chồng chọn cách tìm “thị trường ngoài” để rút ngắn lại thời gian và đảm bảo được chi phí mình có thể chi trả, mặc dù biết đứa trẻ sinh ra có thể bị hạn chế nhiều quyền lợi hợp pháp mà đáng lẽ nó phải được nhận.

Mang thai hộ không nhằm mục đích thương mại nhưng có thể sẽ là một lý do để sau khi mang thai người mang thai hộ đòi hỏi tiền hoặc lợi ích vật chất từ người nhờ mang thai hộ. Vì thế mà nguyên nhân về kinh tế là một trong những nguyên nhân chính gây ra hoạt động mang thai hộ vì mục đích thương mại hoặc lợi ích kinh tế khác.

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

Ở chương II, tác giả đã nêu và phân tích cụ thể các quy định về mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Luật Hình sự năm 2015. Từ nội dung quy định của pháp luật đến việc đưa pháp luật áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, bên cạnh những kết quả đạt được đáng mừng của việc thực hiện pháp luật về mang thai hộ thì cũng còn nhiều hạn chế và bất cập. Sự va chạm đến quyền và lợi ích của các nhóm chủ thế; đến nhu cầu thực tế của xã hội đã vượt qua những dự liệu của pháp luật, dẫn đến tình trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại vẫn tiếp tục diễn ra, gây sự mất cân bằng xã hội và hạn chế tầm kiểm soát của Nhà nước. Vì lợi nhuận và vì khó khăn kinh tế có thể sẽ có trường hợp phụ nữ Việt Nam trở thành công cụ sản xuất những đứa trẻ. Hơn nữa, đây còn là nguy cơ cho việc bóc lột và thương mại hóa người đẻ thuê.

Từ những nhận định khách quan về nguyên nhân và sự hạn chế của pháp luật đã phân tích tại chương II sẽ là cơ sở thực tiễn quan trọng để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam tại chương III. Khóa luận: Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993