Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam và sự tương thích với chuẩn mực pháp luật quốc tế dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tiếp cận thông tin đã trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần phải bảo đảm đối với mọi công dân bởi thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách và hoạt động của các cơ quan nhà nước được coi là yếu tố cốt yếu trong mọi hoạt động khi xã hội được quản lý, vận hành theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.

Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản của con người, đây không phải là khái niệm mới nhưng nó chỉ trở thành mối quan tâm trên phạm vỉ quốc tế sau khi Liên hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59, quy định: tự do thông tin là quyền con người cơ bản và là nền tảng của tất cả các quyền tự do khác. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người được thông qua vào năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và trong một số công ước quốc tế như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham những năm 2003…cũng đều đề cập đến quyền tiếp cận thông tin.

Nhiều quốc gia cũng đã công nhận tầm quan trọng của tiếp cận thông tin với tư cách là một quyền của con người và cũng là một quyền quan trọng trong việc nâng cao khả năng điều hành, tăng cường tính minh bạch, phòng và chống tham nhũng trong các hoạt động của Chính phủ. Điều này được ghi nhận bằng các đạo luật của quốc gia. Trên thế giới, tính đến tháng 9 năm 2009, đã có 140 quốc gia ban hành Luật về tiếp cận thông tin hoặc đang trong quá trình chuẩn bị ban hành luật này hoặc ban hành nghị định riêng đề điều chỉnh về vấn đề này. Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền được thông tin.

Theo đó, công dân có quyền được biết những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, được thông tin những vấn đề cấp thiết, gắn liền với cuộc sống hàng ngày. Quyền được thông tin của người dân phản ánh bản chất xã hội ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi việc của quốc gia phải được cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Trước đây, vì nhiều lý do, nhất là trải qua chiến tranh, nên việc tạo điều kiện cho công dân được thông tin còn hạn chế. Đến nay, chúng ta nhận thấy quyền tiếp cận thông tin là quyền rất cần thiết và quyền đó phải được thê hiện một cách chính thống thông qua một đạo luật để quy định cụ thẻ những gì người dân được thông tin, những gì hạn chế, cắm thông tỉn. Vì vậy, việc nghiên cứu quyền tiếp cận thông tin trên cơ sở những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam là vô cùng cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Kể từ thời điểm quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và đặc biệt là từ khi Luật tiếp cận thông tin được đưa vào chương trình xây dựng luật của Quốc Hội thì số lượng bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến quyền tiếp cận thông tin đã phát triển đáng kể. Việc nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau trong các cuộc hội thảo, luận văn và các bài nghiên cứu của các học giả khác nhau:

Luận án “Quyển được thông tin của công dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Thái Thị Tuyết Dung (2014) đã làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng việc thực hiện quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm quyền được thông tin trong điều kiện nước ta.

Luận văn “Quyên tiếp cận thông tin và việc bảo đảm thực hiện ở Việt Nam” của tác giả Đoàn Ngọc Chung (2014) nghiên cứu tổng quát về tỉnh hình thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, đánh giá lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.

Luận văn “Xây đựng cơ chế bảo đảm quyên quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam từ kinh nghiệm ở các nước trên thể giới” của tác già Đình Quỳnh Mây (2014) làm rõ khái niệm, nhận diện đúng bản chất về quyền tiếp cận thông tin, khái quát pháp luật tiếp cận thông tin ở các nước khác nhau để đưa vào các nhóm, các xu thế khác nhau và rút ra kinh nghiêm trong việc hoàn thiên thể chế ở Việt Nam. Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu nêu trên đã giúp cho tác giả có cách nhìn tổng quan về quyền tiếp cận thông tin cũng như nhiều tư liệu và các luận điểm khoa học quan trọng. Tuy nhiên, từ thời điểm ra đời luật tiếp cận thông tin năm 2016 đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách riêng biệt về Pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam và sự tương thích với các chuẩn mực quốc tế.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Khóa luận

Kết quả nghiên cứu của Khóa luận sẽ góp bổ sung những những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận và thực tiễn về quyền tiếp cận thông tin; cung cấp cho người đọc một cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về các hệ thống pháp luật quốc tế cũng như trong nước về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.

Khóa luận cũng nêu lên những thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, những bất cập, hạn chế trong pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam; từ đó nêu ra một số giải pháp cơ bản để hoàn thiện và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.

4. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Khóa luận là làm rõ cơ sở lý luận về quyền tiếp cận thông tin theo các chuẩn mực quốc tế và của các nước trên thế giới, từ đó so sánh với hệ thống pháp luật về tiếp cận thông tin của Việt Nam nhằm tìm ra sự tương thích giữa của hệ thống pháp luật Việt Nam và đưa ra những kiến nghị cải thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về tiếp cận thông tin để phù hợp với các chuẩn mực của quốc tế.

5. Phạm vi nghiên cứu

  • Phạm vi về nội dung: Khóa luận nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam, có sự so sánh với chuẩn mực pháp luật quốc tế.
  • Phạm vi về không gian: Khóa luận nghiên cứu chủ yếu ở Việt Nam, có sự liên hệ so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới.
  • Phạm vi về thời gian: Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu từ khi có luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam đến nay (từ năm 2016 đến nay).

6. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu, Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường của khoa học xã hội và luật học như: phân tích, tông hợp, so sánh,… Khóa luận này tiếp cận theo hướng nghiên cứu định tính.

Nguồn tài liệu nghiên cứu là các văn bản pháp luật quốc tế và quốc gia về vấn đề quyền tiếp cận thông tin, cũng như một số báo cáo, nghiên cứu, đánh giá của các cơ quan nhà nước và tô chức xã hội về vấn đề này ở Việt Nam.

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

1.1. Khái niệm, lịch sử hình thành, phát triển của quyền tiếp cận thông tin

1.1.1. Khái niệm về quyền tiếp cận thông tin

Thông tin đã trở thành nền móng quan trọng cho sự phát triển của xã hội loài người và là một nhu cầu khách quan, thiết thực của con người. Sự tiếp nhận, lưu giữ và truyền đạt thông tin giữa các thế hệ đã tạo ra những những cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật và cách mạng xã hội trong lịch sử. Được cập nhận, lưu trữ và phổ biến qua các hình thức như: văn bản giấy, tập file điện tử,…, thông tin chính là công cụ đáp mọi nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi của con người, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Đối với hoạt động của nhà nước, thông tin đóng vai trò như một thước đo sự hiệu quả cũng như sự minh bạch của các cơ quan công quyền. Qua đó phần nào thể hiện mức độ dân chủ của các quốc gia. Nếu các thông tin về hoạt động của nhà nước đó bị giới hạn một cách phổ biến, bị che giấu, thậm chí ngăn cấm tiếp cận sẽ cho phép những hành vi lạm quyền,tham nhũng, mất dân chủ tự do hoành hành. Một chính phủ cởi mở với các thông tin được công khai, minh bạch và dễ dàng tiếp cận sẽ mang lại cho người dân quyền làm chủ thực sự với chính phủ đó. Các quyền tự do dân chủ của họ được phát huy tối đa và là công cụ hữu hiệu để giám sát các hoạt động của nhà nước, chống lại nạn tham nhũng, quan liêu.

Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin với con người và xã hội, quyền tự do thông tin, quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin ngày nay được quốc tế cũng như các quốc gia coi là một quyền con người cơ bản, là điều kiện tiên quyết để thực hiện các quyền công dân và quyền con người. Điều này đã được khẳng định trong điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948: “ Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào mà không có biên giới”[4]. Phát triển thêm những nội dung của Điều 19 Tuyên ngôn, Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng quy định:

Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp vào. Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.[4] Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Mặc dù Điều 19 ICCPR không đề cập đến thuật ngữ “quyền tiếp cận thông tin ” nhưng tại Bình luận chung số 34 của Ủy ban nhân quyền (HRC) đã đặc biệt lưu ý đến quyền tiếp cận các thông tin được nắm giữ bởi cơ quan nhà nước. HRC giải thích rằng, quyền này được bao hàm trong khoản 2 Điều 19 ICCPR. Theo đó, mọi người có quyền tiếp cận thông tin mà các cơ quan công quyền nắm giữ. Các thông tin ấy bao gồm các dạng hồ sơ do một cơ quan công quyền nắm giữ, bất kể hình thức lưu trữ, nguồn tin và ngày xác lập. Các cơ quan công quyền là các cơ quan được nêu trong đoạn 7 của Bình luận chung này bao gồm “tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của Chính phú, dù ở cấp độ nào quốc gia, khu vực hay địa phương”. Quyền tiếp cận thông tin làm tăng tính chủ động của chủ thể có nhu cầu thông tin khi có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin phải cung cấp thông tin mà họ cần với điều kiện thông tin đó nằm trong giới hạn cho phép. Một điều cần lưu ý là quyền tiếp cận thông tin cũng chỉ có nghĩa là quyền tìm kiếm, tiếp nhận thông tin mà không bao gồm quyền chia sẻ, phổ biến thông tin được cơ quan nhà nước, các tổ chức và các nhân khác trong xã hội chia sẻ. Nó khác với thuật ngữ “quyền tự do thông tin” vốn được hiểu với nghĩa là công nhận và bảo hộ quyền của con người được tự do tìm kiếm, tiếp nhận, lưu giữ, phổ biến, sử dụng thông tin dưới tất cả các hình thức khác nhau với bất kỳ người nào khác. Mục đích của việc bảo hộ tự do thông tin này là tạo ra sự lưu thông thông tin trong xã hội một cách tự do mà không phải chịu một rào cản bất hợp lý nào. Hay nói cách khác, quyền tự do thông tin chủ yếu hướng đến khả năng phổ biến thông tin mà không bị giới hạn bởi quyền lực hay những công cụ nào khác[7].

Như vậy, theo ý nghĩa chung nhất, có thể hiểu  quyền tiếp cận thông tin của công dân là quyền của mọi công dân được tiếp cận những thông tin được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước[8]. Quyền tiếp cận thông tin của công dân có những biểu hiện sau:

  1. Công dân có quyền được tiếp nhận thông tin từ các cơ quan nhà nước hoặc có quyền tìm kiếm thông tin để thực hiện quyền chủ thể của mình một cách nhanh chóng mà không bị ngăn cản
  2. Công dân có khả năng yêu cầu các chủ thê có trách nhiệm cung cấp thông tin thực hiện nghĩa vụ phải cung cấp thông tin khi có yêu cầu hoặc yêu cầu họ chấm dứt các hành vi cản trở như từ chối cung cấp thông tin nhằm đáp ứng quyền được có các thông tin nhà nước của mình;
  3. Công dân có khả năng yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo vệ quyền của mình khi bị vi phạm như trường hợp quyền khiếu nại, khởi kiện khi việc cản trở cung cấp thông tin gây thiệt hại cho quyền và lơi ích hợp pháp của mình [5, tr.22].

1.1.2. Lịch sử hình thành, phát triển của quyền tiếp cận thông tin Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Quyền tiếp cận thông tin là quyền con người cơ bản được ghi nhận và bảo vệ tương đối sớm trong lịch sử phát triển của các quyền con người. Quyền tự do thông tin đầu tiên được ban hành ở Thụy Điển vào năm 1766 với tên gọi Luật tự do báo chí trong đó cho phép công dân có quyền tự do tiếp cận tài liệu công. Được lấy cảm hứng từ Anders Chydenius, một triết gia của chủ nghĩa tự do, luật này đã bãi bỏ sự kiểm duyệt của tất cả các ấn phẩm theo tinh thần của Thời đại Khai sáng đồng thời thiết lập các nguyên tắc pháp lý cho việc truy cập công khai vào dữ liệu chính thức như một yêu cầu ràng buộc đối với hành chính công. Cho đến nay, sau gần hai thế kỷ, khái niệm quyền được thông tin trong pháp luật Thụy Điển vẫn được coi là tiến bộ và sâu sắc.[35, tr.2]

Tuy vậy, xu hướng toàn cầu về quyền tự do tiếp cận thông tin do nhà nước nắm giữ xuất hiện khá muộn. Bước sang thế kỷ 20, với việc thừa nhận rộng rãi quyền tự do dân chủ và quyền con người, đặc biệt, sau Tuyên bố toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, xu hướng về việc pháp luật hóa quyền tiếp cận thông tin đã hình thành trên phạm vi toàn cầu. Xuất hiện đầu tiên là Đạo luật Tự do Thông tin Hoa Kỳ (FOIA), được Tổng thống Lyndon B. Johnson ký vào năm 1966. Đạo luật bắt nguồn từ phong trào thập niên 1960 vì dân quyền và dân chủ. Nó đặt ra nhiệm vụ cho tất cả các khu vực hành pháp của chính phủ phải cung cấp thông tin cho công dân và áp đặt những trường hợp ngoại lệ cần thiết cho quy tắc minh bạch chung. Nhờ có FOIA, các cơ quan của Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ vận hành với mức độ minh bạch cao, được coi là một yếu tố chính của quản trị tốt và là thước đo cho một xã hội dân chủ và đa nguyên thực sự. Quyền truy cập vào các tài liệu chính thức được coi là thiết yếu đối với sự đánh giá của người dân và thực thi các quyền  con người cơ bản, đồng thời giúp các cơ quan hành chính minh bạch và đáng tin hơn trong mắt công chúng.[35,tr.3]

Ngay từ năm 1969, một án lệ đột phá của Tòa án Tối cao Nhật Bản đã thiết lập nguyên tắc rằng “quyền được biết” được bảo vệ bởi Điều 21.1 của Hiến pháp Nhật Bản (bảo đảm quyền tự do ngôn luận). Sau đó, vào năm 1989, Tòa án Hiến pháp Hàn Quốc ra phán quyết rằng quyền được thông tin là một điều kiện thiết yếu cho quyền tự do ngôn luận và báo chí được đảm bảo bởi Điều 21 của Hiến pháp Hàn Quốc. Theo đó, việc có đủ quyền truy cập vào thông tin được nắm giữ, thu thập và xử lý bởi chính phủ là điều cần thiết để thực hiện đúng quyền đó. Hơn nữa, Tòa án tuyên bố rằng công chúng có quyền yêu cầu chính phủ tiết lộ thông tin đang nắm giữ và chính phủ phải tuân thủ các yêu cầu đó. Tuy nhiên, theo án lệ này, việc tiếp cận thông tin có thể bị hạn chế một cách hợp lý bằng cách cân bằng lợi ích trực tiếp của người yêu cầu thông tin với tổn hại tiềm tàng đối với lợi ích công cộng. Tại Ấn Độ, Tòa án Tối cao đã đưa ra nhiều tuyên về quyền lợi để truy cập thông tin trong quyền tự do ngôn luận, đồng thời cho rằng quyền thông tin xuất hiện từ quyền sống (Điều 21 của Hiến pháp Ấn Độ).[35,tr.3] Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Ngay cả trước khi Tòa án Nhân quyền Liên châu Mỹ (I / A Court HR) phải đối mặt với vấn đề về quyền tiếp cận thông tin theo Công ước châu Mỹ về Nhân quyền (ACHR) năm 2006, Ủy ban Nhân quyền Châu Phi đã đưa ra một cách giải thích theo nghĩa rộng cho Điều 9.1 của Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc, theo đó kết luận rằng những bảo đảm của nó bao gồm “quyền được truy cập thông tin” . Cùng mục đích đó, Tòa án Nhân quyền Liên châu Mỹ cho rằng Điều 13.1 của Công ước Hoa Kỳ về Nhân quyền không chỉ bao hàm quyền cơ bản để tìm kiếm và nhận thông tin, mà còn có nghĩa vụ tích cực của các nước thành viên phải cung cấp thông tin đó, để cá nhân có thể có quyền truy cập vào thông tin đó hoặc nhận được câu trả lời bao gồm lý do, Nhà nước được phép hạn chế quyền truy cập vào thông tin trong một số trường hợp cụ thể được Công ước cho phép . Thận trọng hơn là Tòa án Nhân quyền Châu Âu (ECtHR ) với việc vẫn chưa chấp nhận rằng quyền truy cập vào thông tin của chính phủ là quyền chung, nhưng nó có thể được cấp đặc biệt cho những người nộp đơn có nhu cầu pháp lý đặc biệt.[35,tr.4]

Năm 1979, Hội đồng Nghị viện của Hội đồng Châu Âu đã thông qua Khuyến nghị số 854 (1979) về quyền truy cập của công chúng đối với dữ liệu của chính phủ và quyền tự do thông tin sau khi các nguyên tắc đã được Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu tinh chỉnh nhiều lần. Sau đó, vào tháng 6 năm 1998, Công ước Liên hợp quốc về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng vào việc ra quyết định và tiếp cận công lý trong các vấn đề môi trường đã được ký kết tại Aarhus. Công ước này đã thực hiện Nguyên tắc 10 của Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển (1992): Tất cả công dân quan tâm đến các vấn đề môi trường nên có quyền truy cập vào thông tin do chính phủ nắm giữ, ngay cả khi quyền pháp lý của họ không bị vi phạm. Cuối cùng, trong Tháng 6 năm 2009, Công ước về Tiếp cận các tài liệu chính thức đã được các Bên tham gia Ủy Hội châu Âu mở ra để ký kết. Sau khi phê chuẩn, Công ước này sẽ là công cụ pháp lý quốc tế ràng buộc đầu tiên công nhận quyền chung để truy cập các tài liệu chính thức do các cơ quan công quyền nắm giữ, kể cả các thể nhân hoặc pháp nhân khi họ thực thi thẩm quyền hành chính.[35,tr.4] Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Đến nay, quyền tiếp cận thông tin đã được thừa nhận rộng rãi không chỉ trong phạm vi các quốc gia mà còn trong phạm vi quốc tế bằng các văn kiện pháp lý quốc tế như: Bản tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966. Tính đến năm 2018 đã có hơn 130 luật hoặc bộ luật liên quan đến quyền tiếp cận/tự do thông tin trên thế giới.

Việt Nam là một thành viên của cộng đồng quốc tế nên cũng là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng này. Cũng như nhiều quốc gia khác, quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận tại Việt Nam tương đối muộn. Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên xác định được quyền được thông tin là quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 2013 kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 nhưng đã tiến thêm bước lớn thông qua việc đổi tên thành quyền tiếp cận thông tin của công dân, khẳng định rõ hơn quyền của công dân trong việc chủ động tìm kiếm, tiếp cận thông tin. Đến ngày 01/07/2018, Luật tiếp cận thông tin được quốc hội thông qua ngày 06/04/2016 chính thức có hiệu lực  nhằm thể chế hóa đầy đủ quy định của Hiến pháp, quy định việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Có thể thấy luật tập trung vào việc giải quyết những vấn đề liên quan nhằm bảo đảm mỗi người dân bình thường có thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên cụ thể hóa quyền tiếp cận thông tin của công dân, quy định một cách tập trung và thống nhất trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước và quyền của công dân trong việc tìm kiếm, tiếp cận thông tin. Đây là đạo luật rất quan trọng, tạo khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân và góp phần nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời cho thấy các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của người dân và các chuẩn mực quốc tế trong việc truy cập những thông tin có liên quan đến các lợi ích thiết thực do các cơ quan công quyền nắm giữ.

1.2. Những nguyên tắc của quyền tiếp cận thông tin

Để thúc đầy việc thực thi quyền tiếp cận thông tin, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực đã xây dựng các nguyên tắc chuẩn về quyền quan trọng này. Trong đó, ARTICLE 19 (một tổ chức phi chính phủ quốc tế chuyên hoạt động nhằm thúc đầy quyền tự do thông tin, lấy tên gọi theo Điều 19 – ARTICLE 19 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người) đã đặt ra các nguyên tắc mẫu cơ bản của quyền tự do thông tin, trong đó có quyền tiếp cận thông tin. Những nguyên tắc này đề cập một cách rõ ràng và cụ thể đến những cách thức mà các Chính phủ có thể công khai hóa tối đa hoạt động của họ phù hợp với các tiêu chuẩn và kinh nghiệm quốc tế. Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về quyền con người cũng đã kêu gọi và khuyến nghị các quốc gia cân nhắc nghiên cứu bộ các nguyên tắc này.

1.2.1. Công khai tối đa Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Có thể xem đây là nguyên tắc nền tảng, có tính chất quan trọng nhất của quyền tiếp cận thông tin. Những thông tin nào công chúng được phép tiếp cận, những thông tin nào bị hạn chế cần phải được pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của các quốc gia quy định cụ thể, rõ ràng theo hướng mở rộng nhất, tối đa nhất. Nội dung công khai thông tin được thể hiện qua các khía cạnh sau:

Thứ nhất: danh mục thông tin được phép công bố, tiếp cận phải được pháp luật quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng.

Điều này nhằm công khai cho công chúng biết được những thông tin nào họ được phép tiếp cận và được cung cấp từ các cơ quan, tổ chức của chính phủ, những thông tin nào bị hạn chế, giới hạn[3,tr.23]. Mặt khác cũng để nhằm hạn chế các hành vi cản trở việc thực hiện quyền của người dân. Thông thường, các cơ quan công quyền có nghĩa vụ đăng tải các loại thông tin tối thiểu sau:

  • Những thông tin về tổ chức, hoạt động của cơ quan và những thông tin về cách thức cơ quan thực hiện chức năng của mình, kể cả chi phí, mục tiêu, các tài khoản đã được kiểm toán, các chuẩn mực/yêu cầu đặt ra, những kết quả đã đạt…. Đặc biệt khi cơ quan đó trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công chúng[3,tr.24];
  • Những thông tin về yêu cầu khiếu nại, khiếu kiện hoặc các vụ kiện trực tiếp khác mà nhân dân có thể quan tâm đối với cơ quan công đó;
  • Hướng dẫn về quy trình, thủ tục theo đó nhân dân có thể đóng góp ý kiến vào những đề xuất chính sách lớn hoặc các dự thảo luật.
  • Các loại hình thông tin mà cơ quan nắm giữ và hình thức lưu giữ thông tin đó.

Thứ hai: các hình thức công khai thông tin đa dạng

Thông tin được cung cắp đến công chúng có thể thông qua nhiều hình thức như: văn bản giấy, bản ghi âm, băng, đĩa hình, các file, tệp dữ liệu điện tử… Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc công khai thông tin của các cơ quan chính phủ không chỉ thông qua hình thức là văn bàn giấy mà còn được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau như: băng, đĩa hình, file tài liệu điện tử… Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận thông tin thông qua các hình thức phù hợp nhất đối với họ[3,tr.25]. Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Thứ ba: việc công khai thông tin được thực hiện qua nhiều phương tiện.

1.2.2. Xác định nghĩa vụ công khai

Người dân có quyền yêu cầu được tiếp cận thông tin nào đó do các cơ quan nhà nước đang nắm giữ và các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ phải đáp ứng các yêu cầu đó. Cơ quan nhà nước có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân mà không được quyền hỏi lý do hay mục đích sử dụng thông tin của người yêu cầu. Chỉ cần người dân đưa ra yêu cầu cung cấp thông tin thì nghĩa vụ cung cấp thông tin đã phát sinh đối với cơ quan nhà nước tương ứng. Bên cạnh nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu, các cơ quan nhà nước còn có nghĩa vụ chủ động công bố một số loại thông tin cần thiết tới công chúng mà không cần phải có những yêu cầu cụ thể. Pháp luật cần quy định nghĩa vụ chung phải công khai thông tin và danh mục những thông tin chủ chốt cần phải được công khai.

1.2.3. Thúc đẩy xây dựng chính phủ mở

Các cơ quan nhà nước phải chủ động thông báo cho công dân về quyền của họ và thúc đầy một nền văn hóa mở. Các cơ quan nhà nước không được viện dẫn những lý do vô lý, không được quy định trong luật đề từ chối yêu cầu cung cấp thông tin của người dân trong bất kỳ trường hợp nào. Pháp luật cần có điều khoản quy định về tuyên truyền và phổ biến thông tin về quyền tiếp cận thông tin, phạm vi thông tin có sẵn và cách thức mà các quyền đó có thể được thực hiện.

1.2.4. Phạm vi giới hạn các ngoại lệ

Tất cả những yêu cầu cá nhân đối với thông tin từ cơ quan phải được đáp ứng, trừ khi cơ quan có thể công bố rõ ràng là thông tin liên quan nằm trong phạm vi hạn chế hay các trường hợp ngoại lệ không được công khai. Việc từ chối tiết lộ thông tin không chính thức chỉ có thể cho phép khi các cơ quan nhà nước chứng minh được ba yếu tố đó là[3,tr.25]:

  • Các thông tin không được cung cấp phải liên quan đến một mục đích hợp pháp của luật.
  • Công khai thông tin đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể và mức thiệt hại phải lớn hơn lợi ích công cộng có được từ việc công khai thông tin. Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.
  • Không có cơ quan nào được miễn trừ khỏi phạm vi tác động của pháp luật, ngay cả khi phần lớn các chức năng của cơ quan đó cho phép có ngoại lệ trong việc công khai thông tin[3,tr.25].

1.2.5. Các quy trình đảm bảo thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin

Trong mọi trường hợp, luật pháp cần quy định quyền kháng cáo của một cá nhân đối khi bị một cơ quan công quyền từ chối cung cấp thông tin. Một quy trình quyết định khi nhận được yêu cầu cung cấp thông tin phải được quy định ở ba mức độ khác nhau:

  • + Cơ quan Nhà nước;
  • + Kháng cáo tới một cơ quan hành chính độc lập;
  • + Kháng cáo lên tòa án.

Trường hợp cần thiết, hồ sơ dữ liệu phải được hoàn chỉnh đầy đủ để đảm bảo một số nhóm dân chúng có thể truy cập thông tin, ví dụ những người không thể đọc hoặc viết, những người không giải thích được văn bản trong hồ sơ, hoặc những người bị khuyết tật như mù, khiếm thị,…. Tất cả các cơ quan nhà nước cần thiết lập hệ thống truy cập nội bộ để đảm bảo quyền của công chúng trong việc tiếp nhận thông tin. Nói chung, các cơ quan cần chỉ định một cá nhân có trách nhiệm xử lý yêu cầu tiếp cận thông tin đó và đảm bảo tuân thủ pháp luật.

Các cơ quan nhà nước cũng nên được yêu cầu hỗ trợ người nộp đơn có yêu cầu liên quan đến thông tin được công bố hoặc không rõ ràng, quá rộng, hoặc nếu không cần cải cách. Mặt khác, các cơ quan nhà nước có thể từ chối các yêu cầu nhỏ nhặt hoặc gây phiền nhiễu.

Luật pháp cũng cần quy định các giới hạn thời gian nghiêm ngặt để xử lý các yêu cầu và yêu cầu mọi sự từ chối phải kèm theo các lý do chính đáng bằng văn bản.

1.2.6. Chi phí tiếp cận thông tin Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Về cơ bản, người dân không phải trả chi phí hoặc chi phí quá cao cho. việc yêu cầu thông tin. Nếu phải trả chi phí thì khoản tiền này cần được xác định không phải là lệ phí mà là một khoản phí. Khoản phí này là cần thiết nhằm đảm bảo bù đắp một phần các chi phí hoạt động cho cơ quan nhà nước, tránh tình trạng quá tải cho ngân sách nhà nước và tránh tình trạng công dân yêu cầu cung cấp thông tin một cách tùy tiện. Tuy nhiên, khoản phí này không được quy định mang tính chất kinh doanh, vì lợi nhuận và phải đảm bảo người dân chấp nhận được, đảm bảo rằng những chi phí cho việc yêu cầu thông tin không phải là một hình thức cản trở cho việc yêu cầu thông tin. Bởi vì, Luật tiếp cận thông tin là để thúc đẩy tiếp cận thông tin và nhằm hướng tới lợi ích lâu dài của sự mở cửa thông tin hơn là vấn đề chi phí, nên việc không cảm thấy sợ phải nộp khi tiếp cận thông tin là rất quan trọng.

1.2.7. Các cuộc họp mở

Nguyên tắc này có hàm ý cuộc họp của cơ quan nhà nước phải được công khai trước công chúng, bảo đàm quyền được biết của công chúng về những công việc do chính quyền thực hiện. Có thể bằng nhiều hình thức phù hợp như văn bản, nói chuyện trực tiếp, thông tin đại chúng, trực tuyến,… Dĩ nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này cũng phải đảm bảo nguyên tắc về các giới hạn của thông tin được tiếp cận.

Một khía cạnh quan trọng của chính phủ mở là bất kỳ cơ quan công quyền nào có quyền ra quyết định nên được mở cho công chúng. Điều này sẽ không bao gồm các cuộc họp nội bộ hoặc tư vấn, nhưng sẽ bao gồm bất kỳ cuộc họp nào có quyền quyết định. Điều này có thể bao gồm các cơ quan lập kế hoạch hoặc phân vùng, cơ quan y tế, cơ quan phát triển công nghiệp, cơ quan giáo dục,…

Các cuộc họp có thể được tiến hành bí mật, nhưng chỉ theo quy trình đã được thiết lập và khi có đủ lý do để đóng cửa. Bất kỳ quyết định nào để đóng cửa cuộc họp nên được mở cho công chúng. Các căn cứ để đóng cửa rộng hơn danh sách các trường hợp ngoại lệ cho quy tắc công bố nhưng không giới hạn. Lý do đóng cửa, trong những trường hợp thích hợp, có thể bao gồm sức khỏe và an toàn công cộng, thực thi pháp luật hoặc điều tra, vấn đề nội bộ của nhân viên, quyền riêng tư, bí mật thương mại và an ninh quốc gia.[33] Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

1.2.8. Sự công khai có vị trí ưu tiên

Luật pháp không phù hợp với nguyên tắc công khai tối đa thông tin phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ, Luật về tiếp cận thông tin yêu cầu cần giải thích các điều luật khác một cách phù hợp với quy định của luật. Về lâu dài cần ban hành một cam kết để đưa tất cả các luật liên quan đến thông tin phù hợp với các nguyên tắc cơ bản. Ngoài ra, các công chức nên được bảo vệ khỏi các chế tài khi cung cấp những thông tin mà họ được yêu cầu một cách hợp lý và đáng tin.

Công khai thông tin là một yêu cầu và ưu tiên của các luật liên quan đến quyền tự do thông tin, ngay cả khi thông tin không được phép tiết lộ. Nếu không như vậy văn hóa bảo mật ở nhiều cơ quan nhà nước vẫn tiếp tục tồn tại khi một bộ phận công chức có thái độ quá cẩn trọng và dè dặt trước những yêu cầu cung cấp thông tin để tránh những rủi ro cho cá nhân.[33]

1.2.9. Bảo vệ những người cung cấp thông tin về việc làm sai trái

Cá nhân phải được pháp luật bảo vệ khi liên quan đến việc xử phạt với cung cấp thông tin về việc làm sai trái (“người thổi còi”- “whistleblower”). “Việc làm sai” trong bối cảnh này bao gồm hưởng tiền hoa hồng cho đến tội phạm hình sự, việc không thực hiện theo một nghĩa vụ pháp lý, một vụ án xử sai, tham nhũng hoặc trung thực, hoặc sự quản lý không nghiêm của một cơ quan nào đó. Đó cũng bao gồm cả những mối đe dọa nghiêm trọng tới sức khỏe, an toàn, môi trường, liên quan với những việc làm sai trái của cá nhân hoặc không liên quan. Người cung cấp thông tin phải được bảo vệ nếu hành vi của họ đáng tin và các thông tin được cung cấp đúng sự thật, kèm theo bằng chứng cho hành vi sai phạm. Việc bảo vệ cần áp dụng cho cả trường hợp công khai thông tin theo đúng pháp luật.

1.3. Tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin

Tổ chức Phi chính phủ quốc tế Article 19 đã coi thông tin là “khí oxi của nền dân chủ”. Thông tin là nguồn sống cơ bản của nền dân chủ vì về bản chất dân chủ là khả năng của cá nhân tham gia hiệu quả vào quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến cá nhân đó. Theo Theo J.Madison, Tổng thống thứ tư của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã nói: “Một chính phú của đại chúng mà không có thông tin rộng rãi hoặc không có phương tiện nào để có được những thông tin đó thì chỉ là giai đoạn mở đầu của một tấn hài kịch hoặc bi kịch, hay có thể là cả hai” Những viện dẫn trên đây cho thấy thông tin nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của một Nhà nước. Một nhà nước phi dân chủ là một nhà nước mà ở đó người dân bị hạn chế, ngăn cản tiếp cận các thông tin thông thường, không liên quan đến các vấn đề an ninh quốc gia, đời tư cá nhân do các cơ quan, tổ chức công quyền nắm giữ. Tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin của người dân trong một quốc gia được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, phản ánh và đánh giá sự công khai, minh bạch và dân chủ của một Nhà nước. Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, lợi ích lợi ích của luật tiếp cận thông tin thể hiện ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, luật tiếp cận thông tin giúp tăng cường sự tham gia của người dân vào hoạt động. quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời tạo sự đồng thuận giữa người dân và nhà nước. Ở đây, luật tiếp cận thông tin là yếu tố quan trọng. trong việc thu hút sự tham la công chúng công việc xã hội. Công chúng chỉ thực sự có khả năng tham gia vào các quá trình này khi họ có đầy đủ thông tin về các chính sách và hoạt động co cơ quan nhà nước. Luật tiếp cận thông tin giúp công chúng hiểu rõ cơ sở của các quyết định chính sách, từ đó tăng cường khả năng ủng hộ, giảm thiểu những hiểu lầm và sự phản đối của công chúng với các chính sách và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, luật này còn giúp công chúng tăng cường khả năng giám sát hoạt động của các chính phủ. Về vấn đề này, có nhận định rất xác đáng rằng: “Tự do thông tin ở mức độ cao không có nghĩa là sẽ chấm dứt được mọi sự bất đồng quan điểm trong xã hội cũng như giải quyết được hết các vấn đề chính trị chủ yếu. Tuy nhiên, nếu quyền này được áp dụng một cách hệ thống với sự quan. tâm thích đáng nhằm cân bằng các nhóm lợi ích khác nhau thì nó có thể làm thu hẹp bất đồng quan điểm, tăng cường tính hiệu quả của các chính sách được ban hành cũng như nâng cao lòng tin của nhân dân vào hệ thống chính trị”.[32] Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, luật tiếp cận thông tin góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Thực tế ở các quốc gia đã ban hành luật tiếp cận thông tin cho thấy, luật này giúp tăng cường khả năng thực thi các quyền con người khác về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Ví dụ, ở Ấn Độ, Luật Tự do thông tin giúp cho việc phân phối lương thực, thực phẩm được công bằng, bởi mọi thông tin về tiền trình này phải công khai nên những cơ quan và cá nhân được ủy quyền phân phát lương thực, thực phẩm do Chính phủ trợ cấp không dám lạm dụng để cầu lợi. Ở nhiều quốc gia khác luật tự do thông tin giúp thúc đẩy các cơ quan và quan chức chính phủ phải ph nhanh chóng và trách nhiệm với n đề tồn tại như sự xuống cấp của đường xá, tình trạng xây dựng vô tổ chức, tình trạng thiếu việc làm hay những hiện tượng bắt công trong xã hội. Ví dụ, ở Thái Lan, một bà mẹ có con học giỏi nhưng không được chấp nhận vào học ở một trường công danh tiếng đã yêu cầu nhà trường phải cho xem kết quả thi đầu vào, khi nhà trường từ chối, người mẹ này đã gửi đơn khiếu nại lên Ủy ban Thông. tin và Tòa án. Kết quả là nhà trường phải công khai thông tin về điểm thi đầu vào qua đó cho. thấy con cái của nhiều người có ảnh hưởng lớn được chấp nhận vào học mặc dù có điểm thi rất thấp. Điều này đã gây ra những bức xúc lớn trong xã hội, dẫn đến việc Hội đồng Nhà nước ban hành một quyết định rằng các trường chỉ được phép tiếp nhận học sinh dựa trên một yếu tố duy nhất là kết quả | học tập. Còn ở Hoa Kỳ, việc vận dụng Luật Tiếp cận thông tin đã khiến nhiều trường hợp tra tấn hoặc theo dõi bất hợp pháp của các cơ quan Chính phủ, bao gồm Cục tình báo trung ương (CIA) bị phanh phui trước công luận và buộc phải chấm dứt những hành vi này.[32]

Thứ ba, luật tiếp cận thông tin buộc các cơ quan nhà nước phải hoạt động tốt hơn. Thực trên thế giới cũng cho thấy luật này góp phần cải thiện cách thức và hiệu quả làm việc của các cơ quan nhà nước, Điều này đơn giản là nếu biết rằng một quyết định đưa ra sẽ phải công bố công khai, các cơ quan, công chức nhà nước sẽ phải cẩn thận hơn khi dự thảo quyết định đó để tránh sự phản đối của công luận. Thêm vào đó, luật tiếp cận thông tin, trong đó bao hàm quyền được yêu cầu cung thông tin cũng buộc các cơ quan nhà nước phải củng cố, tăng cường công tác lưu trữ để đáp ứng những đòi hỏi hợp pháp của công dân và các chủ thể khác trong xã hội.[32] Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, luật tiếp cận thông tin hỗ trợ các hoạt động kinh doanh. Khía cạnh này thường bị coi nhẹ song thực ra rất quan trọng bởi lẽ ở tất cả các quốc gia, hoạt động kinh doanh quyết định sự phát triển của xã hội, và thông tin kinh tế hay liên quan đến kinh tế thuộc vào nhóm thông tin được tìm kiếm nhiều hơn cả. Ở tất cả các quốc gia, các cơ quan công quyền nắm giữ lượng thông tin lớn nhất và quan trọng nhất về hoạt động kinh doanh. Vì vậy, luật tiếp cận thông. tin tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí và tăng hiệu quả hoạt động, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội.[32]

Thứ năm, luật tiếp cận thông tin sắn những chia rẽ trong xã hội. Thực tế cho thấy, việc Chính phủ công khai những thông tin, tài liệu lưu trữ theo quy định Luật Tự do thông tin đã tạo cơ hội thực hiện hòa giải xã hội. Tiến trình hòa giải ở Nam Phi được thực hiện sau khi tổng thống Nelson Mandela lên nắm quyền vào năm 1994 là mộ mình chứng sinh động cho việc này. Ở một quốc gia khác, ví dụ như ở các quốc gia Đông Âu và Trung Âu sau khi Liên Xô tan rã hay ở Mê-hi-cô năm 2002 cũng diễn ra quá trình tương tự.[32]

Thứ sáu, tuy nhiên, lợi ích được nhắc đến nhiều nhất của luật tiếp cận thông tin liên quan đến vai trò vô cùng quan trọng của nó trong phòng chống tham nhũng. Điều này đơn giản bởi vì tham nhũng dựa trên sự thiếu minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà nước trong khi luật này bảo đảm tính minh bạch và khả năng giám sát hoạt động của các cơ quan và công chức nhà nước. Về vấn đề này, nhiều tổ chức và chuyên gia quốc tế đã khẳng định, luật tiếp cận thông tin là vũ khí quan trọng nhất, là công cụ chính trong cuộc chiến chống tham nhũng.[6]

Kết luận chương 1 Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

Quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người đã đã xuất hiện trong thời kỳ Ánh sáng vào thế kỷ 18. Chính trong đạo Luật về tự do báo chí của Thụy Điển được ban hành vào năm 1766 đã thiết lập nguyên tắc các hồ sơ của Chính phủ phải công khai cho công chúng và trao cho người dân quyền được yêu cầu tiếp cận các văn bản của các cơ quan Chính phủ.

Trong chương 1, tác giả đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của quyền tiếp cận thông tin bao gồm khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển cũng như những nguyên tắc cơ bản. Từ đó cung cấp một góc nhìn tổng thể về quyền tiếp cận thông tin và tầm quan trọng của nó trong việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị khác và cải thiện các hoạt động của cơ quan nhà nước. Việc thực hiện các bảo đảm về mặt pháp lý quyền tiếp cận thông tin sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, làm tăng tính hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước. Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả và thực tiễn. Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật tiếp cận thông tin của Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt Nam […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993