Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở Quảng Ninh dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Khái quát về tỉnh Quảng Ninh
Tỉnh Quảng Ninh ngày nay được hợp nhất giữa khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh từ tháng 10 năm 1963 theo Nghị quyết khoá II kỳ họp thứ 7 ngày 30 tháng 10 năm 1963 của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Là tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo, nằm ở phía Đông Bắc của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong khoảng: 20,4 – 22,4 độ vĩ Bắc; 106,26 – 108,31 độ kinh Đông. Chiều rộng từ Đông sang Tây, khoảng rộng nhất là 195 km; chiều dài từ Bắc xuống Nam, khoảng dài nhất là 102 km.
Phía Bắc và phía Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) dài 132,8 km. Tây Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn. Phía Tây giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, thành phố Hải Phòng. Phía Đông và phía Nam giáp vịnh Bắc Bộ.
Quảng Ninh có cửa khẩu quốc tế, quốc gia Bắc Luân và nhiều cửa khẩu địa phương trên đất liền, trên biển đã tạo nên vị trí tiền đồn rất quan trọng về kinh tế, quốc phòng – an ninh đối với cả nước.
Quảng Ninh có diện tích 611.081,3 ha gồm thành phố Hạ Long và các huyện là: thị xã Cẩm Phả, thị xã Uông Bí, thị xã Móng Cái, huyện Bình Liêu, Hải Hà, Tiên Yên, Ba Chễ, Vân Đồn, Yên Hưng, Hoành Bồ, Đông Triều, Cô Tô.
Dân số của tỉnh Quảng Ninh năm 1955 có 280.692 người. Theo kết quả điều tra sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số Quảng Ninh hiện nay có 1.144.381 người thuộc 22 dân tộc khác nhau gồm: Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Sán Chay, Hoa, Mường, Nùng, Thái…. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Quảng Ninh có địa hình đa dạng gồm cả vùng núi, đồng bằng và một vùng biển giàu tiềm năng.
Bờ biển Quảng Ninh dài hơn 250 km với hàng ngàn hécta bãi triều ven biển có nhiều lợi thế để nuôi trồng thuỷ sản, trên 600.000 ha mặt biển có 2078 đảo chiếm 2/3 số đảo ven biển Việt nam (trong đó 22 đảo có dân sinh sống) và 30 con sông, suối bắt nguồn từ phía sườn đồi đón gió thuộc cánh cung Đông Triều ở độ cao 500 m, chảy ra vịnh Bắc Bộ, tạo nên nhiều bến cảng sông biển, thuận tiện cho lưu thông hàng hoá, quan hệ giao lưu với các vùng trong nước, nước ngoài đang là một lợi thế lớn để phát triển các ngành công nghiệp chế biến thuỷ hải sản, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, sản xuất muối và xây dựng các trạm thuỷ điện nhỏ phục vụ đời sống đồng bào dân tộc miền núi cùng nhân dân trong tỉnh Quảng Ninh….
Khoáng sản ở Quảng Ninh có nhiều loại với trữ lượng lớn, ngày nay đã có hơn 140 mỏ khoáng sản và hàng ngàn điểm quặng có trữ lượng lớn, nhỏ đang được khai thác như: than đá, đá vôi, đất sét, sét trắng, cát thuỷ tinh, cao lanh Pyrôphilít, Titan, Ăngtymoam, Vàng, Kẽm, Nước khoáng thiên nhiên…
Nước khoáng thiên nhiên và nước khoáng nóng có ở một số địa phương như Quang Hanh, Cẩm Thạch (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên), Đồng Long (Bình Liêu), nhưng có thương hiệu và được nhiều người biết đến là nước khoáng Quang Hanh tập trung trên địa bàn thị xã Cẩm Phả. Từ cuối thế kỷ đến nay, nguồn tài nguyên này bắt đầu được khai thác để phục vụ nhu cầu của khách du lịch và chữa bệnh cho nhân dân vùng mỏ.
Quảng Ninh là tỉnh có nhiều điều kiện để phát triển, là tỉnh nằm trong tam giác kinh tế phía Bắc Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Quảng Ninh còn có những cảnh quan nổi tiếng như: Vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, nhiều bãi biển đẹp: Trà Cổ, Cô Tô, bãi Dài (huyện Vân Đồn), đảo Tuần Châu, núi Bài Thơ…cùng các di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật tạo khả năng mở các tuyến du lịch trên đất liền, trên biển đảo.
Tỉnh Quảng Ninh có gần 500 di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật…gắn với nhiều lễ hội truyền thống, trong đó có những di tích nổi tiếng của Quốc gia như chùa Yên Tử, đền Cửa Ông, di tích lịch sử Bạch Đằng, chùa Long Tiên, đình Quan Lạn…đây là những điểm du lịch thu hút khách thập phương đến với các loại hình du lịch văn hóa, tôn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội.
Đến với Quảng Ninh du khách sẽ có cơ hội thưởng thức các món ăn được chế biến từ các loài hải sản của biển Quảng Ninh, trong đó có những đặc sản giá trị như hải sâm, bào ngư, tôm, cua, sò, ngán, hầu hà, sá sùng, rau câu…
Trong những năm gần đây du lịch Quảng Ninh rất phát triển với nhiều loại hình du lịch khác nhau và du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.
Có thể bạn quan tâm:
===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch
2.2. Tài nguyên du lịch Thiền ở Quảng Ninh
Tài nguyên du lịch là một nguồn lực quan trọng hàng đầu để tạo ra sản phẩm du lịch. Quy mô và khả năng phát triển du lịch của một địa phương hay một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào số lượng, chất lượng và sự kết hợp của các loại tài nguyên du lịch. Trên thế giới, những quốc gia có số lượng khách du lịch quốc tế đến và doanh thu du lịch đứng hàng đầu thế giới đều là những nước có tài nguyên du lịch phong phú và hấp dẫn du khách như Hoa Kỳ, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Anh , Canada, Italia…
Với bất cứ một loại hình du lịch nào thì tài nguyên du lịch cũng là cần thiết và là điều kiện thiết yếu, quan trọng để phát triển và du lịch Thiền cũng không nằm ngoài quy luật đó, nó cần có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.
Căn cứ vào định nghĩa du lịch Thiền cũng như cơ sở lý luận về sản phẩm du lịch Thiền, ta có thể thấy ở Quảng Ninh cũng có các tài nguyên để phát triển du lịch Thiền như sau:
2.2.1. Hệ thống các chùa, thiền viện Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
2.2.1.1. Đặc điểm chung
Quảng Ninh có nhiều các di tích lịch sử văn hóa, các chùa chiền, trong đó có 10 chùa được xếp hạng di tích cấp quốc gia và trên 12 chùa được xếp hạng di tích cấp tỉnh. Phần lớn các chùa đều tập trung ở đất liền, khu vực hải đảo chỉ rất ít chùa và thiền viện.
Phần lớn các di tích – chùa đều gắn liền với các lễ hội đặc sắc. Nơi có mật độ chùa dày đặc nhất là khu vực huyện Đông Triều và huyện Yên Hưng nhưng ở đây hầu như tập trung chủ yếu các chùa trung bình và nhỏ, mang tính chất địa phương như: chùa Ngọa Vân, Mỹ Cụ, Hoàng Xá, Triều Khê, Vân Đông…( huyện Đông Triều); chùa Cầm La, chùa Rui, chùa Lai Khê..( huyện Yên Hưng). Các chùa lớn và các thiền viện có khả năng phát triển du lịch Thiền tập trung ở thị xã Uông Bí (chùa Yên Tử – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử), thành phố Hạ Long (chùa Lôi Âm, chùa Long Tiên), huyện Vân Đồn ( chùa Cái Bầu – Thiền viện Giác Tâm, chùa Quan Lạn).
Ngoài ra các chùa ở Quảng Ninh còn tập trung nhiều ở các huyện khác như Hoành Bồ ( chùa Yên Mỹ), thành phố Móng Cái ( chùa Nam Thọ, Xuân Lân)…
Có thể khẳng định hệ thống các chùa Quảng Ninh rất đặc sắc và có nhiều giá trị văn hóa, lịch sử, có ý nghĩa to lớn với phát triển du lịch. Đặc biệt các thiền viện và các chùa có quy mô tương đối lớn, có quang cảnh hấp dẫn, có không gian thoáng đạt là nơi có nhiều điều kiện hơn cả để phát triển loại hình du lịch Thiền. Do đó tỉnh cần có biện pháp tổ chức quản lý và khai thác một cách hợp lý, có hiệu quả để phát huy giá trị của các nguồn tài nguyên này.
2.2.1.2. Một số chùa, thiền viện tiêu biểu
- a) Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử
Khái quát di tích – thắng cảnh Yên Tử Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Khu di tích thắng cảnh Yên Tử nằm trong dãy núi Đông Triều, thuộc địa phận thị xã Uông Bí, phía Tây giáp huyện Đông Triều và phía Đông là khu vực Than Thùng và xã Thượng Yên Công.
Khu di tích có tổng diện tích tự nhiên là 2.686,5ha. Yên Tử có đỉnh chùa Đồng là ngọn núi cao nhất vùng Đông Bắc với độ cao 1068m so với mực nước biển. Địa hình ở đây bị chia cắt rất mạnh, độ dốc trung bình 20 đến 250, có một số nơi có độ dốc cao, có thể đạt tới 350, núi đất xen kẽ núi đá tạo thành một vùng núi non trùng điệp.
Sở dĩ có tên là Yên Tử vì ở vùng đất trước đó thuộc Kinh Môn (Hải Dương) có một ngọn núi là Yên Phụ, để hợp lẽ tự nhiên có cha (phụ) thì phải có con (tử), ngọn núi phía sau đặt là Yên Tử. Con hơn cha là nhà có phúc. Nên từ xa xưa tới nay vùng đất Kinh Môn, Đông Triều, Uông Bí được coi là “phúc địa”.
Yên Tử còn có tên là núi Voi, vì núi sừng sững như một con voi nằm phủ phục. Núi Voi án ngữ gió nồm Nam. Hơi nước bể Đông theo gió gặp núi ngưng đọng thành mây. Mây trắng quanh năm giăng phủ núi. Vì thế núi còn gọi là Bạch Vân Sơn.
Ngoài ra, cách đây hơn nghìn năm có một đạo sĩ tên Yên Kỳ Sinh tu tiên đắc đạo. Ông tìm đến núi này hái thuốc, luyện đan, mong tìm cõi trường sinh. Dân lấy tên người thay tên núi, nên gọi là núi thầy Yên (Yên Tử Sơn). Yên Tử còn có tên là Phù Vân Sơn.
Yên Tử là một di sản có giá trị về nhiều mặt : đa dạng sinh học, quân sự, khoa học, bảo tồn vẻ đẹp thiên nhiên. Chính vì vậy 13/3/1974 Yên Tử được Bộ Văn hóa thông tin cấp bằng chứng nhận là khu di tích lịch sử văn hóa thắng cảnh đặc biệt quan trong trong số 80 di tích đặc biệt của quốc gia. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Yên Tử có rừng nguyên sinh với nhiều loài động vật phong phú đa dạng. Theo thống kê của Ban quản lý Yên Tử thì có khoảng 274 cây tùng đại thụ trong đó có những cây có niên đại 700 tuổi được coi là nguồn tài nguyên quý bậc nhất. Bên cạnh đó còn có rừng trúc bạt ngàn, bãi sú vẹt cổ thụ ở độ cao trên 1000m, tổng số loài động vật ở cạn có xương sống trên 206 loài. Hệ thực vật gồm 4 ngành chủ yếu: thông đất, dương xỉ hạt trần, hạt kín thuộc 21 bộ và 428 loài đặc trưng cho luồng thực vật miền Bắc.
Yên Tử còn là nơi có nguồn tài nguyên nhân văn phong phú. Yên Tử là vùng đất có nhiều tộc người sinh sống, quá trình con người bắt đầu đến định cư, sinh sống trên vùng đất này đã xây dựng nên những nét nổi bật, đặc thù về văn hóa xã hội. Mỗi cộng đồng người đều có những phong tục tập quán khác mà quá trình sinh hoạt làm ăn kinh tế, khai thác tài nguyên tự nhiên cũng như đấu tranh sinh tồn góp phần hình thành nên. Dần dần những nét đặc thù đó đã được định hình, phát triển, trở thành bản sắc văn hóa cộng đồng – một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo của Yên Tử.
Yên Tử còn là cội nguồn của “Đạo Phật Việt Nam”, qua sử sách, khảo sát, khai quật, bằng các hiện vật thu được các nhà sử học, chuyên gia khảo cổ đã khẳng định Yên Tử là nơi phát tích của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đây là Thiền phái đạo Phật duy nhất do người Việt Nam sáng lập, cũng là Thiền phái duy nhất kết tinh tinh hoa của dân tộc.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Mỹ, Yên Tử là căn cứ cách mạng của nhân dân chiến khu.
Bên cạnh những giá trị lịch sử và tâm linh, kể từ thời Trần Nhân Tông trong quá trình tu hành của mình, ông và các Thiền sư đã để lại cho thế hệ sau những di vật quý giá. Đó là hệ thống chùa, am, tháp, tượng bia phong phú với nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đặc biệt.
Yên Tử là một hệ thống gồm 10 chùa: chùa Bí Thượng ( chùa Trình Yên Tử), chùa Suối Tắm, chùa Cầm Thực, chùa Lân (Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử), chùa Giải Oan, chùa Hoa Yên (chùa Cả), chùa Một Mái, chùa Vân Tiêu, chùa Bảo Sái, chùa Đồng. Ngoài ra còn có một hệ thống các di tích khác như vườn tháp Huệ Quang, tháp Tổ (là nơi thiêng liêng nhất Yên Tử), Hòn Ngọc, Vọng Tiên Cung, các tháp ở khu vực chùa Lân, chùa Hoa Yên, Bảo Sái, Một Mái; các địa danh lịch sử như Am Ngọa Vân, Am Thiền Định, Am Lò Rèn, đường Tùng trên 700 tuổi, dốc Hạ Kiệu, dốc Voi Quỳ, dốc Dây Diêu, suối Giải Oan, suối Tắm, dốc Cửa Ngàn, tượng An Kỳ Sinh, bia Phật và trên 600 các di vật, di tích, giá trị văn hóa phi vật thể khác.
Hệ thống chùa, am, tháp ở Yên Tử tập trung trên sườn núi phía Đông của ngọn núi. Không kể chùa Bí Thượng ở chân dốc Đỏ, chùa Cầm Thực ở Uông Bí, chùa Lân ở thôn Nam Mẫu thì đường lên Yên Tử sẽ qua một hành trình như sau: Giải Oan – Hòn Ngọc- Hoa yên – Bảo Sái – An Kỳ Sinh – Cổng Trời. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, Yên Tử thực sự có tiềm năng phát triển mạnh mẽ bởi nhiều lý do. Các du khách đến Yên Tử đều cảm thấy hết sức mãn nguyện và sung sướng, lúc mới trèo lên, mọi người không biết mình có thể lên tới nơi hay không, nhưng không hiểu sao càng đi càng thấy dẻo dai như có người nâng bước, và họ cho đó là Phật phù hộ, Phật giúp sức; sự sung sướng thể hiện trên nét mặt họ thật khó có lời nào tả hết được.
Vấn đề ở đây không phải là phép thần thông biến hoá gì của tôn giáo, mà là mặt tâm lý của con người khi tiếp xúc với những tín ngưỡng tôn giáo. Nó đã đem đến cho người ta sự thanh thản và giải toả rất nhiều lo lắng, bức xúc trong cuộc sống. Đó chính là tiềm năng to lớn nhất mà Yên Tử có thể đem lại cho con người hiện đại hôm nay. Đặc biệt, trong tình hình xã hội hiện đại như bây giờ, con người đang chịu không biết bao áp lực do cuộc sống đem lại như cường độ công việc, nỗi lo lắng của công ăn việc làm, ô nhiễm môi trường, những bất trắc của cuộc sống…
Môi trường sinh thái Yên Tử là cũng là tiềm năng để phát triển. Ở Yên Tử quy mô của nó khác hẳn với các nơi khác ở chỗ nó không chỉ đẹp về cảnh quan, mà hấp dẫn bởi môi trường sinh thái với trúc lâm (rừng trúc), với những rừng thông, những cây tùng cổ thụ xen kẽ trong các di tích tôn giáo…. Tất cả những cái đó tạo nên sự u tịch, tĩnh lặng và trong lành, vừa thiêng liêng vừa hoang sơ làm nao lòng các du khách. Đến đây người ta như trút được tất cả để thả hồn trong rừng cây, con suối… để lấy lại sức lực cho những thách thức mới đang đợi họ phía trước. Sự thanh thản ấy sẽ là một liều thuốc vô cùng quý giá càng tăng thêm sự tự tin và sức mạnh trong mỗi con người.
Điều kiện kinh tế càng ngày càng cho phép du khách đến đây đông hơn, thường xuyên hơn không chỉ vào dịp hội mà trong suốt cả năm.
Một điểm chú ý khác đó là xu thế du lịch hành hương đang ngày càng phát triển ở nước ta. Bên cạnh những niềm tin tôn giáo thì giá trị lịch sử của khu di tích này như một bài học lịch sử đối với tất cả người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài về một triều đại oanh liệt, về một dòng thiền Trúc Lâm trong Phật giáo nước ta. Đến đây, du khách được thấy tận mắt những bằng chứng sống của một giai đoạn lịch sử, hơn thế là những giai thoại và câu chuyện gắn liền với các hiện vật còn lại ở đó, như vậy bài học lịch sử càng sâu sắc thêm. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Cùng với du lịch hành hương là những tour du lịch kết nối giữa các điểm hành hương và thắng cảnh trong khu vực như Côn Sơn – Kiếp Bạc – Hạ Long – Bạch Đằng… cũng có lễ hội vào dịp đó. Do vậy đây là một tiềm năng lớn mà ngành du lịch đã và đang khai thác triệt để.
Những tiềm năng văn hoá khác như các nghi lễ và sinh hoạt văn hoá cũng đang dần dần được khôi phục và phát triển, chẳng hạn năm 2008 ngày
khai hội đã vang lên “tiếng nhạc Long âm cùng tiếng trống khai hội vang vọng khắp núi rừng cùng Lễ dâng hương, lễ cầu quốc thái dân an”. Đặc biệt hơn nữa, trong lễ khai hội năm 2008, để tạo thêm sắc thái mới, Ban tổ chức đã mang đến cho du khách một tiết mục rất đặc sắc, đó là “múa bài bông” – một điệu múa cổ tương truyền có từ thời Trần, thường được trình diễn tại các đại lễ của triều đình – do 20 diễn viên đến từ Hà Nội thể hiện.
Ngày nay, khu di tích Yên Tử đã trở thành một điểm đến lý tưởng của nhiều du khách thập phương, được Đảng, Nhà nước quan tâm, đầu tư công sức để tôn tạo, tu sửa, bảo vệ và phát huy giá trị của di tích.
Yên Tử với các giá trị về cảnh quan thiên nhiên cũng như các giá trị văn hóa, lịch sử, tạo điều kiện hỗ trợ cho phát triển du lịch Thiền ở thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, nó sẽ là sản phẩm bổ sung cho các chương trình du lịch Thiền tại thiền viện, làm phong phú và hấp dẫn hơn cho các chương trình du lịch Thiền ở đây.
- Thiền viện Trúc Lâm
Chùa Lân tên chữ là Long Động tự thuộc địa phận thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí. Chùa Lân xưa kia là một trong những ngôi chùa quan trọng nhất trong hệ thống chùa tháp của Thiền phái Trúc Lâm.
Chùa Lân là địa điểm vua Trần Nhân Tông đã dừng chân trước khi lên Yên Tử tu hành. Năm Kỷ Hợi (1293) ngài cho tôn tạo, xây dựng chùa Lân thành một nơi khang trang lộng lẫy, chùa Lân trở thành Viện Kỳ Lân, là nơi giảng đạo, độ tăng. Trong hệ thống chùa tháp ở Yên Tử, chùa Lân là ngôi chùa quan trọng chỉ đứng sau chùa Hoa Yên, nơi có nhiều vị cao tăng đã trụ trì, thuyết pháp, trong đó vua Trần Nhân Tông đã từng giảng đạo tại đây. Trong “Tam tổ thực lục”, cuốn sách ghi chép về hành trang của ba vị sư tổ Trúc Lâm, có phần chép khá tỉ mỉ bài giảng của Trần Nhân Tông tại Viện Kỳ Lân ngày 1 tháng giêng năm Bính Ngọ (1306). Ngài thuyết pháp và trực tiếp trả lời các câu hỏi của sư môn. Theo các tài liệu Phật giáo, chỉ có hai bài giảng của Trần Nhân Tông được chép lại, bài thứ nhất giảng tại chùa Sùng Nghiêm (Chí Linh – Hải Dương), bài thứ hai giảng tại Viện Kỳ Lân. Đệ nhị Tổ Pháp Loa và Tam tổ Huyền Quang cũng thường đến đây thuyết pháp, giảng kinh.
Chùa Lân nằm trên một quả đồi có hình dáng một con lân nằm phủ phục. Danh tiếng và sự nguy nga của chùa Lân còn được lưu truyền trong dân gian qua câu ca: ngõ chùa Lân, sân chùa Muống, ruộng chùa Quỳnh. Hiện thời ngõ chùa Lân vẫn con lưu dấu tích xưa, ngõ dài, rộng, hai bên có nhiều tháp mộ các nhà sư. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Sau thời Trần, chùa Lân vẫn là thiền viện do các thiền sư nối tiếp “truyền đăng lục diệm”. Thời nhà Lê, thiền sư Chân Nguyên, người đã có công chấn hưng Phật pháp đã niên soạn “Thiền tông bản hạnh”, “Kiến tính thành Phật” và thiền sư Tuệ Nguyên in “Trúc Lâm tam tổ”, “Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục” tại chính Viện Lỳ Lân.
Trong kháng chiến chống Pháp, chùa gần như bị thiêu huỷ hoàn toàn, chỉ còn hệ thống các mộ tháp gồm 23 tháp, trong đó tháp lớn nhất là tháp mộ thiền sư Chân Nguyên. Nhằm tôn tạo lại chốn Tổ, bảo tồn và phát huy tinh thần Thiền phái Trúc Lâm, ngày mười chín tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (2002), lễ đặt đá xây dựng chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử đã được tổ chức trang nghiêm, trọng thể. Công trình được xây dựng với sự khởi xướng của hoà thượng Thích Thanh Từ, Viện trưởng Viện Trúc Lâm Đà Lạt và công đức của các tăng ni, phật tử trong, ngoài nước. Nhân dịp ngày sinh của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, ngày 11 tháng 11 năm Nhâm Ngọ (2002) chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử được chính thức khánh thành trên diện tích gần 5 mẫu. Chùa được xây dựng bằng vật liệu hiện đại nhưng vẫn giữ được nét truyền thống của ngôi chùa Việt. Các công trình chính của chùa gồm Chính điện, Nhà thờ tổ, Lầu trống, Lầu chuông, Nhà tăng, La Hán đường… Bài trí trong chùa đơn giản, khoáng đạt, dùng ngay chữ quốc ngữ trên các hoành phi, câu đối.
Hiện tại, ở chùa Lân có một số hiện vật quý, độc đáo. Trong toà Chính điện có tượng đồng Thích ca mâu ni nặng gần 4 tấn, là pho tượng đồng lớn nhất tại Yên Tử hiện nay. Ngoài ra chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử còn có một pho tượng độc đáo khác, đó là tượng Bồ Đề Đạt Ma làm bằng gỗ dáng hương có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Tượng cao 3,2m, bệ đỡ cao 0,65m, chiều rộng bệ đỡ 0,95m, nặng khoảng 3,2 tấn với những đường nét chạm khắc tinh tế. Pho tượng đặt sau Chính điện, trước nhà thờ Tam tổ Trúc Lâm, do các Phật tử thành tâm công đức.
Trước sân thiền viện đặt một quả cầu Như ý báo ân Phật bằng đá hoa cương đỏ (rubi), đường kính 1,590m, trọng lượng 6,5 tấn được lấy từ mỏ đá An Nhơn (Quy Nhơn). Quả cầu được đặt trên một bệ đá có tiết diện vuông, nặng 4 tấn, bên ngoài là bể nước hình bát giác với tám bồn hình cánh hoa bao quanh tượng trưng cho bát chính đạo. Quả cầu đã được trung tâm Sách kỉ lục Việt Nam xác định: quả cầu Như Ý lớn nhất Việt Nam. Trong La Hán đường có bộ tượng gỗ mười tám vị La Hán được chạm khắc tinh tế, đủ các dáng điệu tư thế và lai lịch của từng vị. Du khách được chứng kiến những trạng thái cuối cùng của các vị tu hành đắc đạo đang trên con đường giải thoát về cõi vĩnh hằng. Bộ tượng gỗ gợi nhớ tới chùa Tây Phương và bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Huy Cận: Các vị La Hán chùa Tây Phương. Phía bên trái tháp thiền viện có một cây đa cổ thụ bảy trăm năm tuổi, cành lá sum xuê tươi tốt. Đứng dưới gốc đa cổ thụ du khách không khỏi bồi hồi về những dấu tích người xưa để lại và sự trường tồn của đạo pháp dân tộc. Hiện thời, chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm đang được tiếp tục xây dựng, tôn tạo để ngày càng khang trang sạch đẹp, phát huy tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm và là địa điểm tham quan, tìm hiểu hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Thiền viện xây dựng theo kiến trúc mới, khác với thế kỷ XVI,XVII. Các công trình chính điện, nhà thờ tam tổ, lầu trống, lầu chuông, nhà trưng bày, nhà sách đều được xây theo kiến trúc chùa hiện đại, hoành tráng uy nghi, hài hòa với thiên nhiên.
Thiền viện giống các thiền viện khác là sự thanh thoát, nhẹ nhàng, đậm tính dân tộc. Nếu kiến trúc chùa Việt Nam xưa sử dụng phần lớn chữ Hán thì tại thiền viện đều sử dụng chữ quốc ngữ với chủ trương Việt hóa, đề cao bản sắc dân tộc. Thiền viện xây dựng theo một trục chính xuyên và được chia làm hai khu vực: khu nội viện và khu ngoại viện.
Nét đặc sắc trong cách trang trí của tòa chính điện là 9 bức tranh về quá trình tu hành và đắc đạo của đức Phật được trang trí hai bên tường, tranh đắp bằng xi măng và mạ đồng do các nghệ nhân Hà Nội làm.
Nếu không gian chùa thường nhỏ, thấp thì không gian trong nhà chính điện lại rất thoáng mát, uy nghi, hoành tráng. Sự kết hợp tài tình giữa kiến trúc phương Đông và phương Tây đã tạo nên vẻ đẹp thanh thoát, trang nhã nhưng vẫn cổ kính, linh thiêng cho thiền viện.
Thiền viện có nhiều giá trị du lịch, nhưng còn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch Thiền. Vườn Thiền nơi có hoa thơm cỏ lạ, những cây cổ thụ, những loài hoa quý, thảo dược. Vườn thiền không cầu kì hoa mĩ như các thế bonsai trong vườn thiền Trung Hoa, Nhật Bản mà nhẹ nhàng, gần gũi. Đến với không gian Thiền trong Thiền viện du khách như được cảm nhận sâu sắc triết lí “cư trần lạc đạo” ( vui đạo ở giữa đời) mà đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã gửi gắm khi tạo lập dòng thiền của người Việt Nam.
Thiền viện còn có các công trình như Thiền đường, trai đường, nhà khách…là điều kiện để mở cửa đón du khách về tu tập Thiền và thưởng thức ẩm thực chay, trà đạo, học các loại hình nghệ thuật Thiền…
- b) Thiền viện Giác Tâm Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Mặc dù mới được khánh thành, song chùa Cái Bầu (Vân Đồn) đã được rất nhiều du khách trong và ngoài tỉnh viếng thăm bởi những giá trị lịch sử văn hoá và vẻ đẹp nên thơ của cảnh quan thiên nhiên.
Chùa Cái Bầu ở thôn 1, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn. Chùa được xây dựng trên nền chùa Phúc Linh Tự (có từ thời Trần cách đây trên 700 năm). Theo truyền thuyết đền Cái Bầu có từ thời Trần, do người Thái Binh di cư ra đảo lập nên. Nhưng dù có từ bao giờ thì cá trận can qua thời kì cuối Lê đầu Nguyễn cả chùa và đền đều bị phá hủy. Vào niên hiệu Duy Tân dân mới có điều kiện phục hưng. Nhưng công trình này còn bị phá hủy vào thời kì kháng chiến chống Pháp. Đền và chùa chỉ còn lại móng và ba bức tượng. Trong thập kỷ 90 dân xã mới có điều kiện dựng lại nhưng do thiếu ngân sách, thiếu quy hoạch nên tất cả đều khiêm tốn, sơ sài.
Ngày 07/12/2007, chùa được khởi công xây dựng lại trên tổng diện tích ha, với tổng mức đầu tư trên 24 tỷ đồng bằng nguồn vốn huy động xã hội hóa và khánh thành giai đoạn I vào cuối năm 2009.
Chùa ở gần khu du lịch Bãi Dài nổi tiếng với vẻ đẹp hoang sơ bên bờ Vịnh Bái Tử Long. Với vị trí lưng tựa núi, mặt hướng ra biển, đây có lẽ là một trong những ngôi chùa có vị trí đẹp nhất trong hệ thống chùa của Việt Nam. Đây còn là Thiền viện Giác Tâm, một trong hai thiền viện phật giáo của Quảng Ninh.
Chùa Cái Bầu – Thiện viện Trúc Lâm Giác Tâm là công trình văn hóa tâm linh có kiến trúc và cảnh quan đẹp tọa lạc bên bờ Vịnh Bái Tử Long, nơi gắn liền với bao chiến công hiển hách của những anh hùng hào kiệt đã giữ vững cửa ải địa đầu của vùng Đông Bắc. Đây cũng là nơi còn ghi dấu những chiến công trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược của nhà Trần. Trải qua thời gian và những thăng trầm lịch sử, chùa đã bị hư hỏng nặng.
Vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước chùa đã được tôn tạo lại nhưng còn đơn sơ, thiếu quy hoạch. Từ năm 2007 chùa đã được quy hoạch đầu tư xây dựng lại khang trang, xứng với những giá trị lịch sử, văn hoá to lớn của nơi đây. Chùa Cái Bầu mang dấu ấn, dấu tích giống các ngôi chùa cổ về cả kiến trúc, trang trí, phù điêu, hoa văn trang trí, bậc thang…
Hiện tại Chùa đã hoàn thành các hạng mục: thiền viện – Chánh điện cao 2 tầng rộng 6.000 m2, cổng tam quan, nhà tổ, lầu chuông, thất ở hòa thượng, nhà khách chư tăng- chư ni, bến bãi đỗ xe… Giai đoạn II chùa Cái Bầu sẽ được tiếp tục đầu tư gồm: Thất đường trụ trì, thất chuyên tu, thiền đường, nhà trưng bày , trai đường và dựng 1 tượng Phật cao 50 m trên đỉnh núi sau Thiền Viện. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Trụ trì nhà chùa – Ni sư Hạnh Nhã cho biết: “Để giữ gìn sự tôn nghiêm nơi cửa phật, công tác an ninh trật tự trong khu vực chùa được các tăng ni, phật tử triển khai thực hiện rất tốt. Trong khuôn viên nhà chùa không cho phép bán hàng, không có những hoạt động chèo kéo du khách. Du khách đến chùa muốn dùng cơm chay hay tá túc tại đây sẽ không phải trả tiền. Nhà chùa chỉ đặt hòm công đức để cho du khách tuỳ tâm công đức”.
Đến đây, du khách cảm nhận được sự yên bình, thanh thản, một không khí trong lành và cảnh đẹp làm say đắm lòng người với hướng nhìn ra biển; tạo sự tĩnh lặng, môi trường trong lành cho các khóa tu tập thiền; bên cạnh đó thiện viện còn có các khu trưng bày, nhà khách, trai đường sẽ được xây dựng trong tương lai gần là nơi có thể tiếp đón nhiều du khách hơn với nhiều hoạt động thiền hơn… Có lẽ chính vì vậy mà những người đến vãn cảnh chùa đang ngày một đông. Và Chùa Cái Bầu đang dần trở thành một điểm du lịch tâm linh đối với du khách mỗi lần về với Quảng Ninh, về với Vân Đồn.
- c) Chùa Quỳnh Lâm
Chùa Quỳnh Lâm thuộc xã Tràng An, huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh – di tích Lịch sử Nghệ Thuật được xếp hàng cấp Quốc gia ngày 15/11/1991.
Chùa Quỳnh Lâm tên thường gọi là chùa Quỳnh, tên chữ là Quỳnh Lâm tự, tọa lạc trên một ngọn đồi nằm giữa hai thôn là thôn Thượng và thôn Hạ xã Tràng An, xưa kia nơi đây gọi là núi Tiên Du. Quỳnh Lâm là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng xứ Đông.
Theo nghiên cứu văn bia trong chùa cho thấy chùa được hình thành từ thời Tiền Lý (khoảng cuối thế kỷ V, đầu thế kỷ VI) , trải qua nhiều lần trùng tu, tu sửa ở các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê. Đặc biệt chùa được tôn tạo hoàn chỉnh vào cuối triều đại Lý – Trần (thế kỷ XIII đến giữa thế kỷ XIV) và người có công lớn trong việc tu tạo, mở mang để chùa Quỳnh Lâm trở thành một trung tâm phật giáo lớn của cả nước và thành một giảng đường quy mô phục vụ cho việc giảng tập kinh sách Thiền Tông chính là thiền sư Pháp Loa. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Vào thời Lý, nhà sư Không Lộ (còn gọi là Minh Không) đã cho đúc một pho tượng Di Lặc bằng đồng cao 6 trượng, được coi là một trong “An Nam tứ đại khí” (bốn báu vật lớn của Việt Nam) và một tấm bia đá lớn cao 2,5m với hoa văn hình rồng uốn lượn mềm mại.
Năm 1299 Trần Nhân Tông chính thức xuất gia và tu ở núi Yên Tử, ông thành lập phái Trúc Lâm và lấy Pháp hiệu là Trúc lâm đại sỹ. Ông đã đi khắp nơi và trong cuộc vân du năm 1304 vua Trần Nhân Tông đã gặp Pháp Loa, dưới sự dìu dắt của Trần Nhân Tông Pháp Loa đã trở thành ông tổ thứ 2 của thiền phái Trúc Lâm. Từ đó ông nhận được sự ủng hộ rất lớn của nhà vua và các giới quý tộc, ông đã cho xây dựng và mở mang nhiều chùa tháp.
Riêng năm 1314 ông cho xây dựng 33 cơ sở điện thờ Phật, gác chứa kinh… Chính trong thời kỳ này trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ, năm 1316 Pháp Loa cho thành lập “viện Quỳnh Lâm” – trường đại học Phật giáo đầu tiên ở nước ta được ra đời từ đây. Quỳnh Lâm trở thành trung tâm Phật giáo lớn với 2000 mẫu ruộng, gia nô hơn 1000 người.
Năm 1319 Pháp Loa đã kêu gọi tăng nhân và phật tử chích máu in hơn 5.000 quyển kinh Đại Tạng cất giữ ở Quỳnh Lâm viện. Năm 1328 ông lại cho đúc một pho tượng Di Lặc. Sau đó ông tâu xin nhà vua cho được kéo tượng từ nền điện lên bảo toạ để dát vàng.
Năm 1329 chùa Quỳnh Lâm được xây dựng lại với một kiến trúc đồ sộ, hoàn chỉnh và trở thành một đệ nhất danh lam cổ tích của nước An Nam (Văn bia). Nhiều hội lớn được tổ chức tại đây như hội “Thiên Phật” tổ chức vào năm 1325, hội kéo dài bảy ngày bảy đêm. Chùa Quỳnh Lâm đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đúc chuông, tạc tượng…
Năm 1329 Pháp Loa cho đem theo một phần tro hài cốt của Nhân Tông (vị tổ thứ nhất của thiền Trúc Lâm) về đặt trong tháp đá chùa Quỳnh Lâm. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Chùa Quỳnh Lâm cũng nhận được sự cung tiến của nhiều người trong hoàng tộc như phò mã họ Vũ cúng 20 mẫu ruộng, tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều và Thượng Trân công chúa cúng 900 lạng vàng để đúc tượng Phật Di Lặc…Ruộng chùa Quỳnh Lâm có đến 1.000 mẫu, tá điền đông đến 1.000 người, người trong nước truyền tụng chùa Quỳnh Lâm là chốn “Thiên Nam đệ nhất danh lam”. Những năm cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, cùng với chùa Vân Yên ở Yên Tử, chùa Báo Ân ở Siêu Loại, thiền viện Quỳnh Lâm do Pháp Loa (đệ nhị tổ) trụ trì là 1 trong 3 trung tâm lớn nhất của giáo hội Trúc Lâm thời Trần. Trần Nhân Tông sau khi đã xuất gia từng đến thuyết pháp ở chùa.
Sang đầu thế kỷ XV chùa bị phá huỷ nặng nề, phải trùng tu rất nhiều lần. Đến thế kỷ 18 (1727) chùa dựng tháp Tịch Quang bằng đá xanh (tháp mộ của nhà sư Chân Nguyên – một nhà sư có công lớn đối với chùa), tháp gồm 7 tầng cao 10 m, đỉnh tháp hình búp đa, trên tháp có gắn tấm bia ghi lại tiểu sử của sư Chân Nguyên.
Đặc biệt vào thế kỷ XVIII chúa Trịnh cho tu sửa với quy mô lớn. Tạc các lan can bậc, hai con sấu đá và một số công trình khác nhưng vì tốn kém quá mức nhân dân phục vụ vất vả, lòng người bất bình nên công trình bị bỏ dở. Mới đưa được một con sấu đá bên trái vào đúng vị trí còn con sấu đá bên phải và lan can cửu cấp hai bên mới tạc xong chưa đưa vào vị trí. Đến thời Nguyễn chùa được xây dựng thêm 5 ngọn tháp để kỷ niệm các nhà sư đã trụ trì ở đây và có công lớn trong việc tu bổ, tôn tạo chùa.
Không chỉ là trung tâm phật giáo lớn của cả nước trong thời kỳ chiến tranh chùa Quỳnh Lâm còn là căn cứ kháng chiến, nằm trong đệ tứ chiến khu Đông Triều. Dưới sự tàn phá của chiến tranh năm 1947 chùa Quỳnh Lâm đã bị hủy hoại hoàn toàn chỉ còn là phế tích. Năm Đinh Dậu (1957) Thích Thanh Trí quê ở Hà Bắc đã về tu tại đây và cùng nhân dân xây dựng phần kiến trúc hiện nay, lần thứ 2 xây khu nhà tổ năm Đinh Mùi (1967).
Năm 1990 chủ trì Thích Đạo Quang cho xây dựng thêm 4 gian nhà khách và sửa một số ngọn tháp. Trải qua hỏa hoạn và chiến tranh chùa Quỳnh Lâm không giữ được vẻ nguy nga, cổ kính như trước nữa nhưng các di vật cổ còn lại quanh chùa đã giúp chúng ta hình dung dáng vóc ngôi chùa và quy mô to lớn của nó qua các thời kỳ.
Di vật cổ ở đây là tấm bia đá cao 2,5m dựng trước chùa vẫn giữ được những hình rồng trang trí uốn lượn mềm mại, đặc trưng cho rồng thời Lý. Sau nữa là các thành bậc rồng bằng đá xanh, gần một trăm tảng đá kê chân cột, chạm cánh sen, đầu rồng bằng đất nung, khánh đá. Đặc biệt là một góc bệ đá có hình chim thần Garuda được tạo như một hình người ngồi xổm, hai tay vươn lên hai giá bệ để đỡ tòa sen. Tất cả đều thể hiện rõ nét điêu khắc đá thời Trần. Sang thời Lê, hiện vật còn lại ở đây nhiều nhất là các bia đá và các ngôi bảo tháp đặc biệt là hai bức chạm đá ở bài vị và tượng của bà Hậu Phật Bùi Thị Thao với các hình chạm trổ công phu, tỷ mỉ, mềm mại đang ở thế động rất tự nhiên, hiện thực. Ngoài ra chùa còn có bia đá ghi rõ ngày tháng năm trùng tu chùa, tên các thiện nam tín nữ đã có hảo tâm công đức tiền của tu bổ chùa và những công trình đã làm trong các đợt trùng tu. Trong vườn chùa còn hệ thống tháp cổ được ghép bằng đá xanh thớ mịn với kỹ thuật ghép mộng chắc chắn đã để lại cho hậu thế một kho tàng nghệ thuật vô giá. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch, nhưng khách du xuân đến chùa trong suốt ba tháng xuân, với lòng thành kính của tất cả các tín đồ Phật tử gần xa tín tâm về đây dâng hương, lễ Phật.
Với những di vật còn lại của chùa Quỳnh Lâm đã cho chúng ta thấy được những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật qua các thời đại; các giá trị tiềm tàng (không gian) để phát triển du lịch Thiền.
- d) Chùa Lôi Âm
Cụm di tích Hồ Yên Lập – chùa Lôi Âm thuộc xã Đại Yên, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh đã được Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng công nhận là di tích thắng cảnh. Hồ cách Bãi Cháy – Hạ Long 20km, có rừng thông bao bọc xung quanh.
Hồ Yên Lập là hồ nhân tạo với tổng diện tích là 182km2 ban đầu nhằm phục vụ cho nông nghiệp và ngày nay đã trở thành điểm du lịch lý tưởng với nhiều cảnh quan hấp dẫn. Trên núi Lôi Âm vẫn còn di tích khu chùa từ thế kỷ 17.
Năm 1975, Hồ Yên Lập được hình thành tạo nguồn nước tưới tiêu cho các huyện Hoành Bồ, Yên Hưng, Uông Bí….với tổng diện tích 182,2 km2, trữ lượng nước trung bình là 128 triệu m3, độ sâu trung bình là 29,5m. Hồ gồm một đập chính là đập Yên Lập và hai đập phụ là đập Nghĩa Lộ và đập Dân Chư. Đây là công trình thủy lợi lớn nhất của tỉnh Quảng Ninh. Sau khi hồ Yên Lập được hoàn thành, mực nước ở đây dâng cao, ôm quanh các chân núi tạo thành một hồ nước lớn có nhiều cảnh đẹp hấp dẫn với những đảo nhỏ nối tự nhiên như đảo Bàn Tay, đảo Canh, đảo Cua, đảo Giáp Giới… cùng với hàng thông xanh thẳng tắp tạo nên cảnh huyền bí, kì diệu.
Chùa Lôi Âm (chữ Lôi Âm nghĩa là tiếng của Phật) ở trên độ cao 350m, tựa lưng vào đỉnh núi Linh Thứu. Lịch sử xây dựng chùa còn nhiều tranh cãi. Có người cho rằng chùa được chính thức xây dựng vào thời hậu Lê cách đây năm, có người lại cho rằng xây dựng vào thời Trần với qui mô kiến trúc rộng lớn và trải qua nhiều lần trùng tu. Theo sách Đại Việt sử ký tiền biên của
Ngô Thì Sĩ, vua Trần Nhân Tông cùng các đại sư Pháp Loa, Huyền Quang, những nhà sáng lập Thiền phái Trúc Lâm trong Đạo Phật Việt Nam đã từng đến giảng kinh ở đây vào thời Trần, cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV.
Nằm giữa bạt ngàn rừng thông, dưới chân là hồ nước Yên Lập mênh mông, phẳng lặng, muốn tới phải qua đò khiến cảnh sắc Lôi Âm càng trở nên xa xăm, thanh tịnh. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Ngày nay, chùa thu hút nhiều khách thập phương đến thăm quan và lễ Phật. Trải qua thăng trầm lịch sử, chùa ngày nay không còn nữa nhưng vẫn giữ lại được không gian rộng lớn của nền chùa với vườn tháp, vườn bia và cây hương đã có niên đại từ đầu thế kỷ 17.
Năm 2001, Chùa Lôi Âm được Hội Phật giáo Việt Nam cho phép xây cất lại hoàn toàn trên nền cũ với diện tích chùa chính 300m2 và toàn bộ nội thất bằng gỗ quý.
Hàng năm, hội chùa mở vào ngày 27 tháng giêng. Nhưng bốn mùa, khách hành hương vẫn lặng lẽ tới đây chiêm bái. Đặc biệt là bà con phật tử vẫn dốc lòng công quả phục vụ cho việc kiến thiết khuôn viên và các công trình phụ trợ của chùa.
Trong tương lai gần, Lôi Âm sẽ là một trong những chốn tu hành chân tín nhất mà người đời không thể nào không biết tới.
2.2.2. Các loại hình nghệ thuật Thiền
Nghệ thuật Thiền là một khái niệm còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Ngay cả triết lý Thiền, hay tôn giáo Thiền cũng chưa phải là những vấn đề được đa số người Việt hiểu một cách đúng đắn và đầy đủ. Trong khi đó, tại một số nước trên thế giới, Thiền đã là một khái niệm rất phổ biến. Đặc biệt, ở Nhật Bản và Trung Hoa, Thiền đã trở thành một triết lý sống, một lối tư duy có ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống văn hóa xã hội.
Trong các nhà chùa, mọi thiền sư – người học Thiền và hành Thiền đều có khả năng am hiểu và là tác giả của các tác phẩm nghệ thuật Thiền:
Trà thiền: Nói một cách đơn giản trà thiền là một phương pháp thiền thông qua việc uống trà. Tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, mọi nền văn hóa khác nhau, mọi tôn giáo đều có thể thực hiện được .Trà thiền ở đây khác hẳn với trà đạo của Nhật Bản. Trà thiền Việt Nam đơn giản hơn rất nhiều. Khi uống trà, chỉ nghĩ đến việc lựa chọn vài nhúm trà, mùi của trà, tiếng reo của ấm nước đang sôi và cảm giác cái vị của hớp trà đầu tiên trên môi. Việc nhận thức chén trà đầu tiên sẽ làm cho chúng ta có cảm giác bị nhấn chìm vào một vũ trụ mà trong đó chỉ có mình, tách trà và thế ngồi của chính mình. Thực hiện được các điều trên là chúng ta đã đi vào thiền định.
Tranh thiền là một loại tranh rất khó vẽ, đòi hỏi người vẽ có sức tập trung cao. Tranh vẽ trên một loại giấy rất mỏng dễ rách nên nét vẽ không thể dừng lâu ở một chỗ và cũng không thể bôi sửa vì sẽ làm rách giấy. Tranh thường vẽ bằng mực đen . Mỗi một nét vẽ cần phải có sự định thần và nét bút phải dứt khoát đều đặn thì bức tranh mới có thể thành công.
Vẽ tranh thiền là một cách để các thiền sinh thể nghiệm sức định của tâm trí. Mục tiêu của tranh là thể hiện trạng thái của tâm. Tranh thường vẽ lên quan hệ giữa người và thiên nhiên mà lời nói không thể diễn tả được.
Tranh là trạng thái tĩnh, biểu lộ cuộc sống rất thâm trầm nhưng quá trình hình thành một bức tranh lại là trạng thái động. Tranh “điệu múa sư tử” biểu hiện một con sư tử đang yên lặng nhập định nhưng quá trình mô tả của họa sĩ thì có lẽ đã phải quan sát không biết bao nhiêu trạng thái sư tử múa mới có thể vẽ được một bức tranh như thế. Bức tranh vẽ sự lặng im của biển cả với bãi cát trắng trải dài vô tận, họa sĩ có lẽ phải mất hết nửa đời người mới có thể tìm được hứng khởi để phác họa trong chốc lát. Vậy mà cái hứng khởi đó đối với thiền giả chỉ cần nhón tay một cái, tùy ý tùy cơ có thể đạt được một cách dễ dàng.
Mục đích của tranh thiền là họa sĩ phải tự do, không gò ép, để dòng cảm hứng của mình trôi đi một cách tự nhiên. Nét vẽ dường như là một tổng thể của một sức mạnh huyền bí nào đó dẫn dắt đi, không để cho họa sĩ kiểm soát cảm hứng của mình. Ðấy là khả năng phi – kiểm – soát , một sự phi – kiểm – soát đầy khổ luyện. Nếu giữa bút và giấy có xen vào sự suy tư , lý luận nào đó, điều này sẽ phá hỏng họa phẩm. Chúng ta sẽ lầm nếu cho rằng bức tranh chỉ là những nét nguệch ngoạc cẩu thả vô lối. Đường nét của tranh thiền là cái gì bất toàn, nó bất chấp luật phối cảnh (perspective) và luật vẽ bóng (chiaroscuro) (phân biệt rõ cái gần với cái xa …) – vốn là định luật cơ bản của lối họa Tây phương để dựng hình ba chiều. Tranh thiền từ bỏ quan niệm không gian, thời gian, tương đối và chủ quan, điều cốt yếu là cái thần của sự vật phải thể hiện được trên giấy, do đó nét vẽ phải sống động như luồng sinh khí của một thực thể. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Nếu so với lối họa Tây Phương có bố cục chặt chẽ và hệ thống thì tranh thiền nghèo nàn, hình thức sơ sài , đường nét giản lược. Thế nhưng chúng ta có thể nhìn thấy sau những nét chấm phá đơn giản, đậm nhạt , ẩn chứa một sức sống kỳ diệu. Màu đen đậm nhạt trên tờ giấy trắng tượng trưng cho Âm Dương làm nổi bật lẫn nhau. Đen và trắng tượng trưng cho cặp mâu thuẫn gay gắt trong thế giới nhị nguyên: đen- trắng, đúng -sai, tốt – xấu, thiện – ác, hạnh phúc – đau khổ … Tư tưởng thiền là phá cái quy luật đó bởi thế trong tranh với những nét đen trắng đậm nhạt ấy chừng như vô nghĩa : nhánh cây khô, cục đá, một bông huệ cô đơn, đều chuyển tải được sự sống một cách linh động.
Tranh thiền không phải là một sao bản, một hình chụp của thực thể. Một nét chấm hay một đường cong không tượng trưng cho con chim hay ngọn núi, mà nét chấm đó chính là con chim, đường cong đó chính là ngọn núi, bởi vì thiền họa phải là sáng tạo. Một sự vật trong tranh thiền phải giống – thực mà dường như không – giống – thực, phải tràn đầy mà dường như khiếm khuyết.
Họa sĩ không phóng ra mọi nỗ lực để chụp nguyên hình sự vật, mà sáng tạo một sinh thể ngoài sự tưởng tượng của chúng ta. Thái độ của họa sĩ đối với nghệ thuật cũng là thái độ của thiền đối với cuộc sống. Đó là lý so vì sao hầu hết các họa sĩ của tranh thiền đều là thiền sư hay thiền sinh.
Nét bút của họa sĩ phải dứt khoát như tia chớp, không tô sửa , phải vừa táo bạo vừa nhẹ nhàng . Ðó là thần bút . Bởi thế cái thần trong bức họa là nét bút của họa sĩ , nét nào đã phóng ra thì không bao giờ đồ lại . Nét đồ là nét chết. Do vậy một vật chỉ đẹp khi nó không bị ràng buộc. Cái đẹp đó nằm trong sự buông xả. Bức tranh được hình thành trong cái tâm hư vô . Họa sĩ chụp bắt cái thần của sự vật đương lúc nó vận hành. Điều này có vẻ khó bởi vì vạn vật luôn vận động không bao giờ tĩnh tại. Nhưng họa sĩ thiền có thể làm được điều này nếu biết nắm bắt sự sống từ trong nội tâm hơn là bên ngoài.
Họa sĩ tranh thiền không dùng màu sắc lòe loẹt , chỉ dùng màu đen khi đậm,khi nhạt. Chỉ có sự cực kỳ đơn giản mới tượng trưng được cái Hư Không. Hơn nữa màu sắc gợi lên một thực thể trong thiên nhiên mà tranh thiền chủ trương không mô phỏng giống hệt sự vật. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Mặt khác , họa sĩ không được trì hoãn ngọn bút trong khi vẽ vì trì hoãn sẽ làm hỏng tờ giấy mong manh. Trì hoãn cũng có nghĩa là toan tính, thay đổi, điều nầy trái với tinh thần của tranh thiền. Nét bút phải xuất hiện đột ngột , bất chợt và bay đi vun vút. Nơi mà ta tưởng sẽ có một đường hay một chấm thì lại chẳng có gì cả. Nhưng sự thiếu vắng đó không gây thất vọng mà nó gợi mạnh mẽ hơn cho người xem. Cho nên tranh thiền có nhiều khoảng trống, thoáng và đầy gợi ý. Một trang giấy nhỏ có thể hàm ẩn cả vũ trụ. Một nét ngang ngụ ý cho sự mênh mông của không gian, một vòng tròn cho sự vĩnh hằng của thời gian, sự vô biên và sự sống.
Bước vào thế giới tranh thiền là bước vào thế giới vô cùng vô tận của vũ trụ , trong đó qua những hình ảnh và nét bút thô sơ người vẽ tranh muốn ký thác cho người xem một chân lý vừa được khám phá. Đó là khoảnh khắc của sự bừng tỉnh. Như vậy tranh thiền có thể xem như là một phương tiện chứng ngộ.
Vẽ hoặc ngắm tranh Thiền là cách để giúp con người ta thiền định, tĩnh tâm, đưa mình vào thế giới của suy tưởng trực giác và nhìn thấy những vẻ đẹp tuyệt vời của thế giới nội tâm.
Thư pháp: Thư pháp là nghệ thuật viết chữ của những nước sử dụng chữ tượng hình như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam (chữ Hán Việt)… Viết thư pháp là để thư giản, để bình tâm và cũng để tải Đạo. Nó giúp cho tinh thần được thanh thản bằng một thứ hình tượng nghệ thuật tao nhã. Ðó là một môn nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật, Triều Tiên, Việt Nam chấp nhận và lặng lẽ duy trì. Ðối với Ðông Phương, nói đến thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt: viết chữ bằng bút lông.
Nghệ thuật này có thể viết vài chữ vào các hoành phi, câu đối, và các tranh ảnh, quạt giấy… Song song với sự phát triển của tranh Thiền thì thư pháp Thiền , còn gọi là “Thư Ðạo” cũng ra đời và phát triển. Thư pháp thiền của Nhật (tức là sumi-e) xuất hiện sớm vào thời kỳ Kamakura (1185-1333). Ban đầu thư pháp được viết chung với các tranh thiền như là các lời minh họa ý dưới dạng thơ hay vài từ ngắn gọn. Về sau thì thư pháp được tách ra. Tuy nhiên về mục đích thì vẫn như tranh thiền.
Thư pháp thiền có một số đặc tính sau: Mực pha bằng các khối nhỏ gọi là sumi làm từ nhọ đen của đèn trộn với keo. Mực khi dùng được nhúng ướt và mài cho tới khi đạt được độ đậm nhạt vừa ý. Cọ từ lông thú. Nó được nhúng nước và để cho khô trước khi dùng. Khi viết cọ đuợc nhúng ngập trong mực được giữ trong tư thế thẳng đứng với giấy và được viết những nét cọ nhanh chắc chắn và có các độ dầy khác nhau. Vì thư pháp thiền không cho phép những sai sót nên nó thể hiện trạng thái của tâm. Các nét cọ quét và biến đổi theo cùng lúc và không dự đoán trước cũng như không tuân theo phép tắc nào.
Qua cái nhìn của Thiền thì thư pháp là phương tiện tải đạo có tính sâu sắc tế nhị. Một khi hơi thở của Thiền đi vào Thư pháp thì thư pháp trở nên sống động, tràn đầy sinh khí, mỗi chữ, mỗi nét bút biểu hiện tính hồn nhiên, thanh thoát. Chính sinh khí của Thiền đã làm thư pháp có ý nghĩa và tạo cảm giác cho người thưởng ngoạn tìm thấy một niềm vui thanh nhã.
Từ những nét chấm phá bay bổng trên mỗi tác phẩm thư pháp, xuyên qua tâm các nhà thư pháp tự do thả hồn vào nét bút. Dấu mực tuy đơn sơ nhưng ẩn tàng một chân lý sâu sắc. Các thiền giả đã nhìn thấy thư pháp như là một phương tiện tu tập. Ngoài ra thư pháp có khả năng hướng dẫn con người thâm nhập vào thế giới tâm linh, chính lúc đó thư pháp không còn là một bộ môn nghệ thuật thuần túy, và thư pháp biến thành thư đạo (Shodo). Thiền giả tin tưởng thư pháp sẽ đưa họ đến trạng thái giác ngộ. Để có một bức thư pháp đẹp và có hồn, ngoài cách trình bày sao cho thẩm mỹ, các nhà thư pháp đã phải trải qua một thời gian khổ luyện. Nhà thư pháp mỗi khi chấp bút, khí bút phải vận hành một cách tự nhiên. Hơi thở sinh động và luân chuyển trong trạng thái nhiếp tâm. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Điểm đặc biệt của thư pháp là sự đơn giản, chỉ một ngọn bút lông (lớn nhỏ tùy theo nhu cầu), nghiên mực, thỏi mực xạ, tờ giấy xuyến chỉ, lụa, gấm hay những vật dụng khác như quạt, dĩa bằng sứ..v.v. Phần màu sắc chỉ có một màu đen của mực xạ cùng với một nền màu duy nhất. Đặc tính của thư pháp là thể hiện rõ nét bình dị, không trau chuốt, màu mè.
Dưới cái nhìn của Thiền người ta thấy rõ nét chữ đã thể hiện nét người, nhìn một bức thư pháp có thể biết được tâm trạng tác giả đang ở trong trạng thái nào. Rèn luyện thư pháp chính là rèn luyện tâm thức vì vậy các nhà thư pháp thường sống ẩn cư, phong thái của nhà thư pháp thì khoan thai từ tốn, khi chấp bút một cách tự nhiên nhẹ nhàng, thư pháp càng đơn giản thì người ta càng thấy cái “thần” trong chữ viết . Sự luyện tập nội tâm được kết tinh trong từng nét bút. (Danh từ chuyên môn trong thư pháp gọi là “Mạc khí” hay dấu mực). Nhà thư pháp thực hiện mỗi nét chữ như đang đối diện với những giây phút quan trọng nhất, nói một cách khác thư pháp là một sự nối dài cá tính và năng lực nội tâm của người sáng tạo. Qua ngọn bút lông người ta có thể thực tập Thiền, tương tự như lần chuỗi hạt để theo dõi câu niệm.
Thư pháp thiền là một thư pháp sống động. Trong từng chữ, ngoài những nét thẩm mĩ tiềm ẩn một đạo lý, một cách sống an nhiên tự tại, một triết lý đầy tính chất nhân bản. Thư pháp được thực hiện bằng cả một tâm hồn tự do và sáng tạo, người viết chữ được tu tập cho đến lúc tình và ý không còn tách rời làm hai, thân và tâm trở thành một.
Thơ Thiền phản ảnh toàn bộ tư tưởng thiền học, có thể nói đó là kết quả của sự hội ngộ, dung hợp giữa thiền và thơ. Sở dĩ có sự hội ngộ, dung hợp thú vị này là vì thiền và thơ có nhiều điểm tương đồng. Phần lớn Thơ Thiền là những bài kệ, hoặc là vấn đáp giữa sư phụ và môn đệ cốt để khai thông trí tuệ. Nhiều bài khô khan nghiêm khắc như kinh tụng, nên Thơ Thiền còn được gọi là Kệ có nghĩa là ca ngợi, tụng tán, dùng để khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho đệ tử.
Thơ Thiền xuất phát từTrung Hoa và phát triển mạnh từ thời nhà Đường.
Việt Nam phát triển vào thời Lý Trần. Các nước khác như Ấn Ðộ, Triều Tiên, Nhật Bản đều không làm loại thơ này. Hầu hết các học giả phương Tây cho rằng thơ Thiền là kiểu thơ Haiku của Nhật. Thật ra thơ Haiku Nhật có đặc điểm riêng của nó. Thơ Thiền cũng có đặc điểm riêng. Về hình thức thơ thường dùng các thể loại Ðường luật. Ở Việt Nam thơ chỉ viết bằng chữ Hán.
Lời thơ mộc mạc hoà vào thiên nhiên, thức tỉnh trước sự vô thường, tha thiết với trật tự và sự mầu nhiệm của thế giới để giác ngộ và trở về với thế tục. Ngày nay, Thơ Thiền dùng đủ mọi thể loại và đề tài miễn nội dung thơ chứa đựng được tất cả sự hiểu biết sâu xa về thiền học. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Ở một mức độ khác, thơ thiền còn mô tả các biến cố trực tiếp chỉ thẳng vào chân lý huyền diệu thâm sâu (như các công án). Khai mở tâm ra khỏi thói quen cảm xúc sự vật theo cách thông thường.
Thiền tông chủ trương “bất lập văn tự”, vì ngôn ngữ văn tự không có giá trị tuyệt đối, không diễn tả được hết những khái niệm trừu tượng về tâm linh, và vật ngoài tự tâm. Không quan tâm nhiều đến ngôn ngữ văn tự mà phải rời bỏ nó để đạt tới chân lý, để ngộ đạo.
Thơ trước hết giống Thiền ở cách thể nghiệm. Thơ là một nghệ thuật dùng ngôn từ để diễn đạt ý tưởng. Đối tượng nhận thức của thơ cũng là con người và cuộc sống. Thông qua ngôn từ, thơ biểu hiện những rung cảm về nội tâm và ngoại cảnh, những thao thức, trăn trở về thân phận con người, khiến cho người làm thơ và người đọc thơ cảm thông lẫn nhau .Thơ không chỉ phản ánh cái hiện thực mà còn là nơi ký thác tâm tư, tình cảm và lý tưởng.
Ngôn ngữ của Thiền, không phải ngôn ngữ mà chúng ta thường sử dụng. Một tiếng hét vang của Ngài Lâm Tế làm bừng vỡ chân tâm của hành giả; những chiêu gậy hàng ma của Ngài Bách Trượng xua đi đám mây mù che mắt thế gian; sự im lặng đến vô tình của Ngài Bồ Đề Đạt Ma hay một đóa sen Đức Phật đưa lên ở hội Linh Sơn… đó là ngôn ngữ của Thiền. Mục đích của Thiền là ngộ chân tâm. Nó là những phương tiện để phá vỡ vỏ bọc mê muội về cuộc đời.
Thơ Thiền không những phản ảnh sâu sắc và tập trung vào đời sống tinh thần, mà tiếp tục mở rộng tới các lĩnh vực khác của cuộc sống, nhưng vẫn mang trong mình tư tưởng “hòa quang đồng trần”, “cư trần lạc đạo”. Nó giúp cho con người (dù là vua, tướng, hay sư) bước ra khỏi những giáo điều khô khan, cứng nhắc để nhập thế, giúp đời, tạo nên tinh thần khai phóng, cởi mở, vừa siêu thoát lại vừa gần gũi…
Ẩm thực chay: Khởi nguyên của kiểu nấu ăn này bắt nguồn từ các nhà sư. Nguyên liệu chế biến món ăn thường làm từ gạo và rau quả. Cách trang trí các món ăn với nhiều màu sắc, nhiều dạng hình cũng khiến cho người thưởng thức cảm thấy được hòa mình rất gần với thiên nhiên. Ngày nay, nghệ thuật và phong cách ẩm thực kiểu Thiền đang trở thành một trào lưu thu hút sự quan tâm của nhiều người sau những chứng minh về tính khoa học của các bữa ăn mà nguyên liệu chế biến chủ yếu từ thực vật. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Kiến trúc Thiền: Đặc trưng của các công trình kiến trúc này đó là sự cởi mở, nhẹ nhàng và hòa hợp tối đa với thiên nhiên. Mục tiêu chính kiến trúc Thiền là nhằm tạo bầu không khí an nhiên, cởi mở cho tâm hồn các thiền sư cũng như của những người vãn cảnh chùa.
Vườn Thiền (vườn dành cho việc thực hành Thiền) thường có đặc điểm không quá lớn về kích cỡ, sử dụng các hiệu ứng tâm lý tạo cảm giác về không gian và khoảng cách như sắp đặt các bonsai, hòn non bộ, trải cát thành các dòng nhỏ tạo hình ảnh của nước, cây cỏ sắp xếp giản dị, không đối xứng… phản ánh khung cảnh thiên nhiên. Triết lý của vườn Thiền là giúp người thực hành Thiền nắm bắt được tinh thần của thiên nhiên.
Luyện tập yoga, là các phương pháp luận tâm và luyện thân cổ xưa bắt nguồn từ Ấn Độ. Hệ thống các phương pháp này bao gồm rất nhiều bước khác nhau và ở mỗi bước (mỗi cấp bậc), người luyện yoga (yogi) lại phải tuân theo những mục tiêu, những tư thế nhất định.
Nghệ thuật cây cảnh (bonsai) một loại hình nghệ thuật đặc sắc của Thiền tông. Ở Việt Nam, nghệ thuật chơi cây cảnh cũng đã được du nhập vào từ rất sớm và cũng chịu nhiều ảnh hưởng của tâm hồn, tính cách và hoàn cảnh dân tộc. Dáng cây, thế cây, chậu cảnh của Việt Nam thường mang dáng vẻ chống đỡ hơn là chấm phá và thoát ly. Cho dù mang những đặc trưng khác nhau nhưng nghệ thuật chơi cây cảnh mang tính Thiền có một đặc điểm chung là sự mô tả lại thế giới tĩnh lặng, trang trọng của tự nhiên. Trồng và ngắm cây cảnh, giúp cho những nghệ nhân diễn đạt được chí hướng, tâm tư và tình cảm của mình.
Như vậy các loại hình nghệ thuật Thiền này có nhiều giá trị để phát triển du lịch Thiền.
2.3. Hiện trạng khai thác sản phẩm du lịch Thiền ở Quảng Ninh Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
2.3.1. Tình hình hoạt động du lịch Quảng Ninh trong thời gian qua
Theo số liệu thống kê của Sở Du lịch, trong 6 năm (2001-2006), về chỉ tiêu khách du lịch đạt tốc độ tăng bình quân 14%/năm; trong đó, khách quốc tế đạt tốc độ tăng bình quân 13%/năm. Nếu như năm 2001, tổng lượt khách đến Quảng Ninh mới chỉ đạt 1,9 triệu thì năm 2006 đã vượt qua mốc 3 triệu. Riêng 7 tháng đầu năm 2007, lượng khách tăng 35% so với cùng kỳ năm 2006. Tổng doanh thu du lịch năm 2001 là 468 tỷ đồng thì năm 2006 là 1.269 tỷ đồng; tốc độ tăng bình quân trong 6 năm là 27%.
Đến năm 2009, tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, bệnh dịch… nhưng ngành Du lịch Quảng Ninh đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, các hoạt động quản lý nhà nước về du lịch của ngành được duy trì thường xuyên và có hiệu quả. Ngành du lịch đã chủ động phối hợp với các ban, ngành và các địa phương trong tỉnh tổ chức thành công Lễ hội Du lịch Hạ Long 2009, góp phần quảng bá hình ảnh du lịch Hạ Long – Quảng Ninh đến bạn bè trong nước và quốc tế. Đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác, giao lưu của tỉnh đối với các tỉnh, thành phố trong và ngoài nước, được dư luận đánh giá cao. Chương trình Hạ Long vào hè 2009 với các hoạt động biểu diễn văn nghệ, chiếu phim, ẩm thực, thể dục thể thao, trưng bày triển lãm tại Công viên Quốc tế Hoàng Gia… đã thực sự thu hút khách du lịch. Các hoạt động tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch cũng có những chuyển biến rõ nét, sáng tạo và chuyên nghiệp hơn, tạo được ấn tượng sâu sắc cho du khách về hình ảnh và thương hiệu du lịch Quảng Ninh. Trong năm 2009, ngành Du lịch Quảng Ninh đã phối hợp liên kết với các nước trong diễn đàn du lịch Đông Á (EATOF) quảng bá hình ảnh, sản phẩm du lịch của hai bên. Đồng thời tập trung quảng bá, xúc tiến vào một số thị trường lớn như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước trong khu vực đông Nam Á… và thị trường nội địa. Cùng với đó, du lịch Quảng Ninh cũng đã đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế về phát triển du lịch giữa Quảng Ninh với Cục Du lịch một số tỉnh, thành của Trung Quốc như: Quảng Tây, Bắc Hải, Phòng Thành, Vân Nam… và hợp tác phát triển du lịch liên vùng giữa Quảng Ninh với một số tỉnh trong nước, tạo điều kiện cho việc kết nối các điểm du lịch trong các tour du lịch liên vùng. Điều đáng chú ý trong hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch là công tác xã hội hoá được quan tâm, ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến quảng bá với cơ quan nhà nước. Các hoạt động phổ biến tuyên truyền pháp luật, công tác quản lý hoạt động kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch, vận chuyển khách du lịch, quản lý lưu trú, đảm bảo môi trường tự nhiên và xã hội cũng được triển khai tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp du lịch…
Thị trường khách du lịch quốc tế tuy giảm nhưng bù lại thị trường khách du lịch nội địa tăng mạnh. Theo thống kê của Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch, tổng lượng khách du lịch đến Quảng Ninh trong năm 2009 đạt: 4,7 triệu lượt khách, tăng 5% so với cùng kỳ. Trong đó, khách quốc tế đạt 1,6 triệu lượt, giảm 1% so với cùng kỳ. Tổng doanh thu đạt 2.600 tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ, trong đó doanh thu từ các hoạt động du lịch đạt 2.400 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ. Công suất sử dụng buồng phòng bình quân trên địa bàn tỉnh đạt 45%. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch Quảng Ninh quý IV – 2009
Danh mục
A – Tổng khách du lịch
Trong đó: khách du lịch quốc tế
I – Khách lưu trú
- Lượt khách
Trong đó: khách quốc tế
- Ngày khách
Trong đó: khách quốc tế
II – Lữ hành
- Khách quốc tế
Khách do ĐV tự tổ chức Khách tiếp nhận
Nét nổi bật rất dễ nhận thấy của hoạt động du lịch trong 2 năm 2008-2009, đó là đã có nhiều tiến bộ về tổ chức kinh doanh, tuyên truyền, quảng bá, tiếp thị nhờ đó số khách du lịch đến Quảng Ninh ngày càng tăng. Địa bàn phát triển không chỉ tập trung ở khu vực Bãi Cháy mà đã mở rộng phạm vi ra 4 trung tâm du lịch của tỉnh: Hạ Long; Uông Bí – Đông Triều – Yên Hưng; Vân Đồn; Móng Cái. Nét nổi bật của ngành Du lịch 2 năm qua là lượng khách du lịch quốc tế đi bằng đường biển tăng mạnh nhờ mở thêm được 2 tuyến du lịch đường biển Hạ Long đi Khâm Châu và Bắc Hải (Trung Quốc). Cơ cấu khách quốc tế có sự chuyển biến tích cực, không chỉ có khách Trung Quốc mà lượng khách đến từ các nước Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước Châu Âu, ASEAN, Bắc Mỹ tăng đáng kể. Với tốc độ phát triển như hiện nay ngành Du lịch sẽ hoàn thành chỉ tiêu Đại hội sớm hơn 1 năm đó là đón 5 triệu lượt khách, trong đó có 2,2 triệu lượt khách quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh thì du lịch Quảng Ninh vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức cần phải khắc phục. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Quảng Ninh là địa phương giàu tiềm năng du lịch, có nhiều danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng. Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng du lịch của Quảng Ninh đến giai đoạn hiện nay là hiệu quả, nhưng chưa thật cao. Hoạt động du lịch phát triển còn mang tính tự phát, manh mún, tính chuyên nghiệp chưa cao, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh còn diễn ra, thiếu nhiều sản phẩm dịch vụ có chất lượng.
Quảng Ninh chỉ mới phát triển du lịch trọng tâm là du lịch tham quan thắng cảnh Vịnh Hạ Long, du lịch tâm linh sinh thái Yên Tử – Uông Bí, du lịch tham quan, mua sắm tại cửa khẩu Móng Cái… Đó là những loại hình du lịch chủ yếu và đã được thực hiện tương đối tốt trong điều kiện phải bảo tồn tính nguyên vẹn và sự phát triển bền vững của các danh thắng nói trên.
Sự phối hợp liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch, giữa doanh nghiệp du lịch với các ngành còn hạn chế, thiếu sự hợp tác chặt chẽ: Các doanh nghiệp lữ hành chủ yếu tập trung vào khai thác thị trường Trung Quốc, chưa đủ năng lực để vươn tới các thị trường có khả năng chi tiêu cao. Chất lượng, hiệu quả kinh doanh du lịch còn thấp Sản phẩm du lịch chưa đa dạng, chương trình tour tuyến còn đơn điệu kém hấp dẫn. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn nhiều bất cập…
2.3.2. Hiện trạng khai thác du lịch Thiền ở Quảng Ninh
2.3.2.1. Thiền viện và chùa ở Quảng Ninh
- a) Yên Tử, thiền viện Trúc Lâm Yên Tử
Nói đến du lịch Uông Bí, ấn tượng đầu tiên thu hút du khách chính là khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử – một trung tâm du lịch văn hóa tâm linh kết hợp với du lịch sinh thái tạo nên điểm nhấn cho du lịch của thị xã. Bên cạnh đó, Uông Bí còn có nhiều cảnh quan thơ mộng được thiên nhiên ban tặng như: Lựng Xanh, Hang Son, Hồ Yên Trung… tạo thành một quần thể du lịch hấp dẫn du khách đến với thị xã công nghiệp than, điện này. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Trong những năm gần đây, với việc đầu tư, bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích lịch sử văn hóa – danh thắng Yên Tử của Trung ương và địa phương, việc quy hoạch, đầu tư phát triển các khu du lịch sinh thái, khu vui chơi giải trí đã tạo điều kiện cho ngành “công nghiệp không khói” của thị xã có những bứt phá mới, trở thành một trọng điểm du lịch của tỉnh.
Khu danh thắng Yên Tử trải dài gần 20km với diện tích 2.686,5 ha núi rừng hùng vĩ, có hệ sinh thái đa dạng phong phú của rừng nhiệt đới và á nhiệt đới. Nơi đây vốn lưu giữ nhiều di tích lịch sử và đã trở thành Trung tâm Phật giáo, “Đất tổ của Phật giáo Việt Nam” từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, khoác áo cà sa về Yên Tử tu hành (1299), sáng lập ra một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam – dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị Tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Trải qua 19 năm tu hành, ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ bao gồm các chùa, tháp, am để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Đặc biệt, tọa lạc trên đỉnh non thiêng Yên Tử ở độ cao 1068m so với mực nước biển là Chùa Đồng – tên chữ là Thiên Trúc Tự. Nơi đây có không gian thiên nhiên bao la kỳ vĩ, quanh năm mây trắng, sương mờ che phủ.
Năm 2006, chùa được trùng tu bằng 70 tấn đồng nguyên chất, chiều dài 4,6m, rộng 3,6m, cao 3,35m có hình dáng như một đài hoa sen. Chùa thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mầu Ni và Tam Tổ Trúc Lâm. Tổng chiều dài đường bộ lên đỉnh Yên Tử (Chùa Đồng) vào khoảng 6.000m. Ngày nay, du khách lên vãn cảnh Yên Tử không còn vất vả như xưa bởi hệ thống cáp treo giai đoạn II lên đỉnh Yên Tử đã đưa vào sử dụng từ mùa lễ hội 2008.
Năm 2008, thị xã đẩy mạnh công tác kiểm tra, khảo sát các cơ sở lưu trú có liên quan đến phục vụ khách du lịch và các Trung tâm du lịch lữ hành nhằm thống nhất công tác quản lý trên địa bàn; chủ động đầu tư, sửa chữa hoàn thành một số công trình phục vụ cho việc thu hút khách vãn cảnh Yên Tử, trong đó có việc hoàn thành và đưa vào sử dụng tuyến cáp treo giai đoạn với kinh phí 118 tỷ đồng, tạo thuận lợi cho du khách vãn cảnh Yên Tử từ trên cao; hoàn thành và đưa vào sử dụng tuyến đường từ quốc lộ 18A vào bến xe Giải Oan có chiều dài 13,5km với tổng vốn đầu tư trên 40 tỷ đồng; mở rộng bến xe Giải Oan, đầu tư sửa chữa tuyến đường nội vi, tuyến đường lên Chùa Đồng… giảm thiểu tình trạng ùn tắc giao thông vào mùa lễ hội, đảm bảo việc đi lại thuận lợi cho khách hành hương. Hiện tại, thị xã đang tiếp tục triển khai Dự án mở rộng và phát triển khu di tích Yên Tử, trong đó tập trung vào việc xây dựng và triển khai thực hiện dự án Chùa Suối Tắm, dựng Tượng đức vua Trần Nhân Tông Yên Tử là cõi linh thiêng, du lịch Yên Tử là du lịch tâm linh kết hợp sinh thái.
Những năm gần đây, lượng du khách đến Yên Tử tăng đột biến, nếu như năm 2004 có 404.700 khách du lịch, thì đến năm 2005 Yên Tử đón 43 vạn lượt khách, doanh thu đạt gần 20 tỷ đồng thì đến năm 2008, Yên Tử đã đón gần 1,6 triệu lượt khách, doanh thu trên 85 tỷ đồng, đến giữa tháng 4 năm 2009 đã có trên 1,4 triệu lượt khách hành hương về Yên Tử, bằng 185% so với cùng kỳ năm 2008, đã chứng tỏ sức hút lớn của danh thắng này và sự bứt phá của du lịch địa phương. Mặt khác, hiện nay du khách đến với Yên Tử không chỉ giới hạn vào mùa lễ hội đầu năm như trước kia mà đang có xu hướng diễn ra quanh năm. Theo số liệu thống kê của thị xã thì năm 2009, lượng du khách đến Yên Tử là hơn 2,4 triệu lượt khách tới thăm quan, vượt xa tầm một Trung tâm du lịch quốc gia. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Nhưng hoạt động kinh doanh du lịch ở Yên Tử cũng giống như các điểm du lịch khác là có tính mùa vụ. Vào thời gian chính vụ, lượng khách thập phương đổ về Yên Tử rất đông, đặc biệt là tháng 1, 2 mùa lễ hội Yên Tử. Thời gian ngoài vụ từ 1/4 đến 9/1 năm sau, lượng khách thưa thớt, mọi hoạt động đơn điệu.
Khách thập phương hành hương về Yên Tử chủ yếu với mục đích lễ Phật, về với vùng đất tổ, về với cội nguồn Phật giáo Việt Nam. Trong tâm khảm của du khách Yên Tử là cõi tâm, cõi thiện, là nơi gửi gắm niềm tin, lẽ sống, giải tỏa những niềm u uất, phiền não khổ đau..
Trong số khách về với Yên Tử, chủ yếu là lễ Phật, cầu những điều may mắn, sức khỏe, tiền tài…cho gia đình và bản thân. Số còn lại với mục đích tham quan, vãn cảnh, tìm hiểu nghiên cứu khoa học, lịch sử, chiêm ngưỡng những nét kiến trúc, khảo cổ.
Khách du lịch quốc tế đến Yên Tử chủ yếu đi theo tour du lịch của các công ty lữ hành, đặc biệt từ Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Sài Gòn…Khách quốc tế đến Yên Tử cũng chỉ với mục đích tham quan phong cảnh thiên nhiên, tìm hiểu văn hóa, nghiên cứu khoa học, thể thao leo núi….
Khách du lịch nội địa thường tự tổ chức, không có hướng dẫn viên, họ đền từ các tỉnh lân cận như Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội, Thái Bình, và cư dân của Quảng Ninh. Họ đến Yên Tử theo truyền thống đầu năm dâng hương lễ Phật, tham quan và tìm hiểu văn hóa Phật giáo. Một số ít trong số họ đến
Yên Tử để Thiền, ăn ở, sinh hoạt giống đời sống của một thiền sư, được nghe giảng kinh Phật…nhưng hầu như đơn lẻ, không có tổ chức, manh mún. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Hiện nay, có một số tour du lịch mới từ Hà Nội hoặc TP.HCM đến Yên Tử do Công ty Transviet tổ chức. Từ Hà Nội có 2 tour: tour 1 ngày (280.000 đồng/khách) đến Yên Tử: đi cáp treo lên khu tháp tổ, thăm chùa Hoa Yên, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu, thăm Thiền viện Trúc Lâm; tour 2 ngày cũng có các địa điểm trên, và có thêm chương trình nghe sư trụ trì giới thiệu về Thiền phái Trúc Lâm, lịch sử chùa Yên Tử, học cách ngồi
thiền…Trong chương trình học ngồi thiền, du khách sẽ được Thiền sư của chùa giảng giải và hướng dẫn thực hành tư thế ngồi thiền đơn giản nhất, các tác dụng của việc ngồi Thiền…Như vậy các lớp học Thiền ở các thiền viện cũng như các chùa sẽ có tác dụng kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch tại điểm đến, nó góp phần tạo cơ hội cho sợ phát triển du lịch của địa phương và của tỉnh.
- b) Thiền viện Giác Tâm
Chùa Cái Bầu – Thiền viện Giác Tâm là một điểm du lịch mới của huyện Vân Đồn. Trước cũng có nhiều người đã đến thăm và dâng hương tại chùa Cái Bầu nhưng số lượng không nhiều, chủ yếu là người dân sinh sống ở huyện đảo Vân Đồn vì chùa lúc đó còn đơn sơ và thiếu quy hoạch.
Đến năm 2007 chùa mới được quy hoạch, xây dựng khang trang trên tổng diện tích 20ha. Vì chùa còn nằm ở gần khu du lịch Bãi Dài nổi tiếng với vẻ đẹp hoang sơ bên bờ vịnh Bái Tử Long nên ngôi chùa được nhiều người biết đến. Từ năm 2008 sau khi các công trình của chùa đã được hoàn thiện thì chùa Cài Bầu – thiền viện Giác Tâm đã trở thành một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh, đã có rất nhiều du khách thập phương đến viếng thăm bởi giá trị lịch sử, văn hóa và vẻ đẹp nên thơ của cảnh quan thiên nhiên.
Các chương trình du lịch thăm viếng chùa của du khách ngoại tỉnh (Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội, Thái Bình…) chủ yếu được thực hiện bởi các công ty lữ hành, như một số chương trình du lịch Chùa Lân – chùa Long Tiên – Đền Cửa Ông – chùa Cái Bầu (1 ngày), Yên Tử – chùa Cái Bầu (2 ngày), Côn Sơn – chùa Long Tiên – chùa Cái Bầu – thiền viện Trúc Lâm Yên Tử (2 ngày)…Phần lớn khách đến thăm chùa là người dân Quảng Ninh với hình thức tự tổ chức, không có hướng dẫn viên, họ đi theo một truyền thống đầu năm lễ Phật, đến các ngôi chùa trong địa bàn của tỉnh như chùa Long Tiên – chùa Yên Tử – đền Cửa Ông – chùa Cái Bầu hoặc các con nhang đệ tử đến chùa trong dịp lễ hội, ngày lễ Phật đản được tổ chức tại chùa.
Khách du lịch đến chùa Cái Bầu – thiền viện Giác Tâm cũng chỉ với mục đích dâng hương lễ Phật, cầu bình an, sức khỏe, tham quan, ngắm cảnh….còn mục đích Thiền gần như không có. Và trên thực tế cũng chưa có tour du lịch hay chương trình du lịch Thiền nào về Cái Bầu – thiền viện Giác Tâm mặc dù Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Thiền viện Giác Tâm là một Thiền viện mới xây dựng, có đầy đủ nơi ăn nghỉ, trai đường, Thiền đường cho du khách đến để tu tập Thiền và nghe giảng kinh sách, sống cuộc sống của một Thiền sư trong khung cảnh thiên nhiên yên bình để tìm lại sự cân bằng cho bản thân, để giải tỏa những lo âu, những điều vướng bận trong cuộc sống gấp gáp hiện đại, để nhìn mọi thứ một cách nhân ái hơn.
- c) Chùa Quỳnh Lâm
Chùa Quỳnh Lâm là một trong những ngôi chùa nổi tiếng của xứ Đông xưa, là nơi các nhà tu hành, trụ trì các chùa về đây học đạo và nghiên cứu. Chùa đã trở thành địa điểm khá quen thuộc với người dân Quảng Ninh cũng như du khách của các tỉnh lân cận khác.
Mỗi dịp lễ hội lượng khách du lịch là 2-3 nghìn người 1 ngày. Khách du lịch đến từ các tỉnh lân cận như Hải Phòng, Hải Dương và khách nội tỉnh. Đối tượng khách đa dạng đủ mọi lứa tuổi, ngành nghề. Tuy nhiên khách nội tỉnh cũng như khách ngoại tỉnh, họ thường đi theo chương trình của công ty lữ hành, hay tự tổ chức nhưng chỉ ghé qua tham quan chứ không lưu trú tại đây.
Sở dĩ một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, lại mang nhiều giá trị văn hóa nhưng lượng khách đến đây ít, chủ yếu vào dịp đầu năm và lễ hội, vì hiện nay chùa đã bị xuống cấp nhiều do thời gian, chùa có quy mô tương đối nhỏ, sự đầu tư cho xây dựng và tu bổ chùa chưa được chính quyền địa phương quan tâm đúng mức, chùa lại không có không gian và nơi ăn nghỉ cho khách thập phương. Mặt khác di tích còn bị khai thác sai mục đích: nuôi gấu trong khuôn viên chùa.
Loại hình du lịch Thiền chưa có ở đây cũng vì những lý do trên, chùa có điều kiện để phát triển du lịch Thiền nhưng cần sự đầu tư tích cực và mạnh mẽ về kinh tế để tu bổ, mở rộng không gian, xây dựng trai đường, thiền đường, giảng đường, nhà khách…trên một diện tích rộng có sẵn của chùa.
- d) Chùa Lôi Âm Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Chùa Lôi Âm tu bổ lại từ năm 2007, tuy nhiên chùa vẫn chưa được nhiều khách du lịch biết đến. Du khách đến chùa chủ yếu là người dân địa phương đi về trong ngày, không lưu trú qua đêm. Khách thập phương đến đây trong dịp lễ bái đầu năm và ngày lễ hội của chùa.
Tuy chùa có cảnh quan hấp dẫn, nhưng do diện tích nhỏ hẹp, cùng với chùa chưa được xây dựng hoàn thiện các hạng mục, các khu nhà trai đường, thiền đường, nhà khách còn rất hạn chế nên chưa thu hút được khách du lịch đến đây lưu trú qua đêm, và loại hình du lịch Thiền cũng chưa hình thành và phát triển.
2.3.2.2. Các loại hình nghệ thuật Thiền trong các chùa và thiền viện Quảng Ninh
Các loại hình nghệ thuật Thiền như trà thiền, tranh thiền, thư pháp, vườn thiền…đều đang tồn tại trong các chùa , thiền viện Quảng Ninh. Những người hiểu và sáng tác các tác phẩm của các loại hình nghệ thuật này chỉ là các thiền sư tại các chùa. Các thiền sư vẽ tranh thiền, làm thơ thiền, viết thư pháp…cũng có tác phẩm trưng bày trong các nhà trưng bày của chùa, trong nhà quà lưu niệm nhưng vẫn còn hạn chế. Nhìn chung các loại hình nghệ thuật ấy mới chỉ được hoạt động trong nội bộ chùa, phục vụ cho đời sống và quá trình tu tập Thiền của các Thiền sư mà chưa được phát triển rộng rãi, chưa đủ sức để trở thành một sản phẩm du lịch Thiền vì hiếm có nhiều người biết và hiểu được cái hay,cái đẹp và ý nghĩa Thiền của các loại hình nghệ thuật này.
Có thể thấy rõ nét rằng trong mỗi ngôi chùa đều có phòng tiếp khách, có khuôn viên cho du khách dừng chân nghỉ ngơi và đồ uống dùng tiếp khách ở đây là trà. Tuy rằng nghệ thuật uống trà Việt Nam rất đơn giản, nhẹ nhàng, uống trà trong vườn với khung cảnh bình yên, không cầu kì phức tạp như Nhật Bản, Trung Quốc, nhưng cách thức uống trà của du khách tại các chùa không mang tính chất thiền sâu sắc và trà Thiền chưa trở thành đặc trưng trong du lịch Thiền. Người ta uống trà với mục đích là để giảm bớt cơn khát, cái mệt nhọc trong quá trình tham quan chùa…mà không hiểu uống trà theo phong cách Thiền, không đạt được tới cái đích Thiền. Trà thiền vốn có nhiều tiềm năng phát triển, có nhiều tác dụng cho sức khỏe và đời sống tâm lý, nhưng chúng chưa được khai thác một cách hợp lý, đúng giá trị.
2.3.3. Đánh giá chung về hoạt động du lịch Thiền ở Quảng Ninh Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Nhìn chung Quảng Ninh cũng là tỉnh có nhiều chùa chiền nổi tiếng, lại là nơi phát tích của dòng Thiền Việt Nam – Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử do Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập.
Hoạt động du lịch của Quảng Ninh cũng khá phát triển, bên cạnh du lịch biển, du lịch tham quan, mạo hiểm, thì lượng du khách và doanh thu từ loại hình du lịch dựa vào các tài nguyên du lịch lễ hội, chùa chiền cũng đáng kể.
Nhưng hầu như, khách du lịch, các chương trình du lịch đến chùa chiền của Quảng Ninh chủ yếu với mục đích dâng hương lễ Phật, cầu bình an, may mắn, hạnh phúc, sức khỏe…cho gia đình và bản thân. Rất ít hoặc có khi rất hiếm ai đến chùa để tu tập Thiền, nghe giảng kinh Phật, nghe thuyết pháp, sống cuộc sống của Thiền sư. Chính vì vậy mà hoạt động du lịch Thiền ở Quảng Ninh dường như mới chỉ bắt đầu trên con đường hình thành, manh mún, ở giai đoạn sơ khai.
Nếu như ở các tỉnh, thành phố khác trên đất nước, nơi có Phật giáo phát triển và có các Thiền viện như Đà Lạt ( thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt), Vĩnh Phúc (thiền viện Tây Thiên), thành phố Hồ Chí Minh ( thiền viện Phước Sơn, thiền viện Vạn Hạnh..), Nha Trang loại hình du lịch Thiền đã hình thành và bắt đầu phát triển trong vài năm gần đây. Họ đã tổ chức các lớp tu tập Thiền với nhiều hình thức khác nhau, thu hút được nhiều du khách tham gia. Đặc biệt vào những tháng nghỉ hè, người dân địa phương và các vùng lân cận thường cho con em mình lên các thiền viện để sống, sinh hoạt như một thiền sư trong 2 tháng hè. Kết quả các em đã trưởng thành hơn, nhiều em ham chơi, lười làm công việc nhà, lười học, bướng bỉnh, ốm yếu …. đã ngoan hơn, sống gần gũi, cởi mở hơn…và điều quan trọng là các em thông hiểu được đạo lý sống để trở thành một công dân có ích cho xã hội.
Nhìn lại hiện trạng khai thác du lịch Thiền ở Quảng Ninh, các chùa và thiền viện của Quảng Ninh vẫn chưa làm được những chương trình du lịch Thiền như thế. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
Nguyên nhân của sự chậm phát triển loại hình du lịch Thiền ở Quảng Ninh là do:
Nhận thức của cấp quản lý nhà nước, người làm du lịch, người dân về loại hình du lịch mới mẻ này chưa hình thành và chưa phổ biến.
Kết quả điều tra 150 người đang sinh sống tại thành phố Hạ Long, trung tâm kinh tế, hành chính của tỉnh, cho thấy: tất cả họ đều cho rằng du lịch Thiền gắn với chùa chiền, 80% họ không biết du lịch Thiền là như thế nào, có những hoạt động gì, nó bổ ích ở chỗ nào, mục đích làm gì; 20% chỉ nghe nói đến loại hình du lịch này mới xuất hiện và hiểu một cách sơ khai về nó; hầu như trong số họ chưa có ai đã đi du lịch Thiền, họ chỉ đến chùa để lễ Phật theo truyền thống, nếu có tập Yoga thì cũng là đến các câu lạc bộ hoặc tự tập ở nhà…Nhìn từ góc độ quản lý, các cơ quan các cấp và chính quyền địa phương dường như cũng chưa có một chương trình hay dự án nào cho loại hình du lịch hấp dẫn này. Hiện tại, chỉ quan tâm, chú trọng đến việc khai thác các lễ hội truyền thống tại các chùa chiền và Thiền viện mà chưa quan tâm đến khai thác tổng thể các nguồn tài nguyên phong phú ( hệ thống kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên, các loại hình văn hóa trà đạo, thư pháp, hội họa Thiền, ẩm thực chay, vườn thiền…) tại các điểm du lịch này để phát triển loại hình du lịch Thiền, loại hình du lịch gần gũi với môi trường, du lịch bền vững.
- Không gian cho du lịch Thiền tại các chùa và các thiền viện chưa được quy hoạch cụ thể, thiếu không gian cho sự phát triển của loại hình du lịch này. Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN.
- Chưa xây dựng được các chương trình du lịch Thiền đặc trưng.
- Các loại hình nghệ thuật cho sự phát triển của du lịch Thiền chưa được chú trọng khai thác, phát triển phục vụ cho du lịch
- Đội ngũ cán bộ nhân viên, hướng dẫn viên cho du lịch Thiền chưa có.
- Vốn đầu tư cho việc tôn tạo, phát triển các nguồn tài nguyên cho du lịch Thiền còn hạn chế.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Giải pháp phát triển du lịch thiền ở Quảng Ninh

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch thiền ở QN […]