Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Thực trạng khai thác các giá trị văn hóa phật giáo trong hoạt động du lịch tại thành phố Huế dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Hoạt động du lịch của Huế trong những năm gần đây
2.1.1. Thừa Thiên – Huế – Trung tâm văn hóa du lịch miền trung
Được xác định là một trong năm tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Thừa Thiên – Huế nằm trên trục giao thông chính, có cảng biển nước sâu Chân Mây, cảng Thuận An với quy mô lớn phục vụ cho khu vực miền Trung, Tây Nguyên và tiểu vùng Mê Kông; có sân bay Phú Bài nằm trên quốc lộ 1A, tuyến đường sắt xuyên Việt chạy dọc theo tỉnh, có 86km biên giới với Lào. Với vị thế đó, Thừa Thiên – Huế được xác định là cực phát triển kinh tế quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, là cửa ngõ của tuyến hành lang thương mại Đông – Tây nối Myanma, Thái Lan, Lào với biển Đông. Với vị trí thuận lợi này, Thừa Thiên – Huế có điều kiện để phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và thế giới [18].
Không những thế, Thừa Thiên – Huế còn là nơi hội tụ giao thoa các yếu tố văn hóa và kinh tế của nền văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh; của nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa và sau này là văn hóa phương Tây, tạo ra tiểu vùng văn hóa Huế độc đáo trong đa dạng và phong phú, góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Quần thể di tích Cố đô Huế với những kiệt tác về kiến trúc cung đình, những công trình văn hóa, lăng tẩm đã được UNESCO xếp hạng là một trong những di sản văn hóa lớn của thế giới bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể, nơi có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: sông Hương, núi Ngự, đèo Hải Vân, núi Bạch Mã, bãi biển Lăng Cô, Thuận An, Cảnh Dương và hàng trăm chùa chiền với kiến trúc dân tộc độc đáo như chùa Thiên Mụ, Bảo Quốc, Từ Đàm…
Bên cạnh các di sản văn hóa vật thể, Huế cũng là nơi duy nhất ở nước ta hiện còn lưu giữ được những di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng, độc đáo như các loại hình nghệ thuật, âm nhạc, ca múa cung đình Huế; ẩm thực, các hoạt động lễ hội và hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, phong tục tập quán đặc sắc mà trong mỗi loại hình đều có sự gắn bó, hòa nhập giữa văn hóa cung đình và văn hóa dân gian. Trong đó, Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, đúng như nhận định của Giám đốc UNESCO: “Huế là một kiệt tác về thơ, về kiến trúc đô thị, là một thành phố độc quyền giữ trong mình những kho tàng vô giá, một nhà bảo tàng kỳ lạ của nền văn hóa vật chất và tinh thần của Việt Nam” [18]. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Các di sản văn hóa Huế vừa hội tụ những đặc trưng, những tinh hoa của văn hóa dân tộc, vừa thể hiện những nét riêng có của một vùng văn hóa truyền thống; được đánh giá là “đỉnh cao của sức sáng tạo Việt Nam”. Không những mang ý nghĩa về mặt lịch sử văn hóa, mà nhiều di tích ở Huế còn là những tác phẩm kiến trúc nghệ thuật vô giá, có sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà nghiên cứu, du khách tham quan trong và ngoài nước.
Tất cả yếu tố đó là nguồn tài nguyên du lịch vô giá, tạo nên những sản phẩm du lịch văn hóa – thế mạnh không chỉ của riêng Thừa Thiên – Huế mà còn có ý nghĩa đối với sự phát triển của Du lịch Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.2. Hoạt động kinh doanh du lịch tại Huế
2.1.2.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch
Với những nỗ lực không ngừng về mọi mặt và đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đề ra của việc phân loại đô thị loại 1, ngày 24-8-2005, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 209/2005/QĐ-TTg công nhận thành phố Huế là đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh. Đây là sự ghi nhận hết sức quan trọng của Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương đối với sự phát triển về chất của đô thị Huế, qua đó cũng cho thấy những thế mạnh và tiềm năng của Huế. [18]
Với vai trò là hạt nhân, động lực cùng với những tiềm năng, thế mạnh của một vùng đất có bề dày về lịch sử, văn hóa, một nơi có cảnh quan đẹp, con người đẹp, tỉnh Thừa Thiên – Huế nói chung và thành phố Huế nói riêng đã có những nỗ lực lớn để không ngừng phát triển du lịch của địa phương. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Xét về vị trí, thành phố Huế là trung điểm của cả nước – là đầu mối của các tuyến đường giao thông quốc gia, rất thuận lợi cho việc khai thác tiềm lực, phát triển quan hệ giao lưu kinh tế-văn hóa với các vùng trong nước và quốc tế; đặc biệt, rất quan trọng trên trục hành lang thương mại quốc tế theo quốc lộ 9. Sắp tới, khi Cảng Chân Mây hoạt động đạt công suất, các cửa khẩu và các tuyến đường quốc tế với Lào được xây dựng và khai thông… thì Huế trở thành trọng điểm giao thông đối ngoại quốc gia và quốc tế; đồng thời, sẽ sôi động với vai trò là một trong các đầu mối giao lưu quan trọng của tuyến hành lang Đông Tây.
Cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt như các tuyến giao thông ngang nối với cầu Hòa Xuân (Phong Điền), cầu Trường Hà (Phú Vang), các cửa khẩu nối với nước bạn Lào, Cảng nước sâu Chân Mây, Sân bay Phú Bài, đường Hồ Chí minh, Hầm đường bộ Hải Vân… đã tạo ra thời cơ phát triển du lịch tỉnh. Các cụm điểm du lịch: Lăng Cô – Bạch Mã – Hải Vân; khu nước khoáng Thanh Tân, Tân Mỹ – Thuận An… đã và đang được triển khai, thu hút đầu tư đã tạo một diện mạo mới cho Thừa Thiên – Huế. Hàng trăm công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ Festival, các lễ hội, thể dục – thể thao ở tầm quốc gia được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới; cùng với quá trình chỉnh trang đô thị, nhiều Khu đô thị mới được đầu tư xây dựng.
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu phục vụ du khách đến Huế ngày càng tăng, trong những năm qua, hệ thống các doanh nghiệp du lịch Huế cũng đã phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Các doanh nghiệp vận chuyển khách được đầu tư các phương tiện vận chuyển chất lượng cao với khoảng hơn 1000 xe ô tô các loại cùng với hàng trăm xe xích lô phục vụ khách. Số lượng các công ty chuyên về lữ hành có trụ sở chính hoặc văn phòng đại diện tại thành phố Huế cũng lên tới con số hàng trăm. Đặc biệt hệ thống cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch, các doanh nghiệp khách sạn có sự tăng trưởng nhanh nhất, tương xứng với tốc độ tăng trưởng của du lịch Huế.
Theo thống kê, Huế hiện có 4 khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao. Huế còn có 9 khách sạn 4 sao và 11 khách sạn 3 sao với chất lượng khá cao, tương đương hoặc có chất lượng cao hơn các khách sạn cùng loại trong nước và khu vực. Hầu hết các khách sạn đều có các tiện nghi phục vụ ăn uống phong phú như nhà hàng, quán bar, cà phê, trung tâm thương mại, các phòng tiện nghi phục vụ hội thảo, hội nghị. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Tuy đã có những bước tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng, tình trạng thiếu khách sạn và giá phòng cao vào mùa du lịch, đặc biệt vào thời gian diễn ra các kỳ Festival vẫn là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến du lịch Huế.
2.1.2.2. Các loại hình du lịch được khai thác ở Huế
Với tài nguyên du lịch phong phú, độc đáo, Huế có tiềm năng phát triển hầu hết mọi loại hình du lịch. Tại khu vực nội thành, các sản phẩm du lịch tiêu biểu được thường xuyên tổ chức hiện nay ở Huế là:
- Du lịch thăm quan di tích văn hóa, lịch sử; nghiên cứu văn hóa dân tộc; tham quan các điểm danh thắng của cố đô;
- Du lịch ẩm thực;
- Du lịch tham quan mua sắm hàng thủ công, mỹ nghệ, các làng nghề;
- Du lịch lễ hội;
- Du lịch hội thảo, hội nghị (du lịch MICE);
- Du lịch đường thủy;
- Du lịch sinh thái – tâm linh…
Trong đó, lợi hình du lịch văn hóa là thế mạnh lớn nhất của thành phố Huế, hàng năm đem về nguồn thu ngân sách quan trọng nhất. Các nhà làm du lịch ở Huế cũng không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu để cho ra đời những sản phẩm du lịch mới, mang đậm bản sắc, gắn liền với đất và người cố đô, điển hình như gần đây nhất, tháng 10/2011, sản phẩm “Du lịch Huế trong mưa” đã chính thức được đưa vào khai thác, như là một điểm nhấn để níu chân du khách trong mùa mưa của Huế.
2.1.2.3. Khách du lịch và doanh thu du lịch Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Có thể nói với vị thế là một trung tâm văn hóa du lịch lớn nhất cả nước, Thừa Thiên – Huế có tốc độ tăng trưởng cao so với các tỉnh thành khác trong hoạt động du lịch. Khách du lịch đến Thừa Thiên – Huế chủ yếu chọn điểm đến thành phố Huế vì nơi đây tập trung các sản phẩm cốt lõi du lịch của tỉnh: Quần thể di tích Cố đô Huế – di sản văn hóa thế giới; các di tích lịch sử cách mạng, bảo tàng, công trình kiến trúc tôn giáo…; các hoạt động của lễ hội, ẩm thực Huế, nhà vườn cổ…cũng tập trung nhiều tại vùng đất Cố đô. Thêm vào đó, các điểm du lịch nằm ngoài địa bàn không quá cách xa thành phố Huế là những lý do cắt nghĩa vì sao khách du lịch đến Huế hàng năm chiếm trên 90% tổng lượng khách đến Thừa Thiên – Huế.
Cũng cần nói thêm, nằm giữa hai đầu đất nước, giao thông thuận lợi; đặc biệt, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của Huế rất tốt là nguyên nhân khiến du khách chọn Huế là điểm đến. Qua thống kê, tỷ lệ khách quốc tế và nội địa đến du lịch tại Huế gần như tương đương nhau.
Từ năm 1990 đến nay, hình ảnh cố đô Huế tươi đẹp, an toàn thân thiện với bản sắc văn hóa độc đáo được biết đến ngày càng rộng rãi trên thế giới đã thu hút ngày càng nhiều du khách đến với Huế. Thông qua các hoạt động tuyên truyền quảng bá, các lễ hội, du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Huế nói riêng đã gặt hái được những kết quả đáng mừng. Nếu như tốc độ tăng trưởng bình quân toàn ngành du lịch của nước ta đạt 10 – 11%/năm, thì Thừa Thiên – Huế có tốc độ tăng trưởng bình quân lên tới 15 – 17%/năm về lượt khách. Theo thống kê, số lượt khách đến Huế với mục đích tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hóa, hay đơn giản là chỉ đến để tận mắt chiêm ngưỡng một di sản thế giới chiếm tới gần 80% tổng lượt khách du lịch. Điều này chứng minh được giá trị và sức hấp dẫn của di sản Huế, đồng thời đây cũng là thước đo và căn cứ để ngành Du lịch Huế có kế hoạch lâu dài trong phát triển sản phẩm, nhằm phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 15 – 17%/năm về lượt khách trong giai đoạn 2011 – 2015. Mục tiêu cụ thể được đề ra là đến năm 2015 ngành Du lịch Thừa Thiên – Huế sẽ đón và phục vụ 2,5 triệu lượt khách, trong đó có từ 1 – 1,2 triệu lượt khách quốc tế.
Phân tích ba bảng thống kê trên có thể thấy, lượng khách du lịch đến Huế vẫn luôn tăng đều qua từng năm. Riêng năm 2009 và 2010, do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động nên lượng khách quốc tế đến Huế trong hai năm này có giảm, song không đáng kể. Bước sang năm 2011, với những chính sách phát triển du lịch hợp lý, tăng cường xúc tiến quảng bá, đưa vào khai thác thêm nhiều sản phẩm du lịch và nhiều loại hình du lịch mới (điển hình như du lịch thiện nguyện, du lịch trong mưa…), lượng khách quốc tế đã tăng hơn 5% và lượng khách trong nước tăng hơn 10% so với năm 2011. Như vậy, trong tình hình khủng hoảng kinh tế chung hiện nay, việc duy trì khá ổn định lượng khách đến tham quan di tích Huế năm 2011 là một tín hiệu khả quan cho sự phát triển mới vào năm 2012 và 2013 với nhiều sự kiện trọng đại, đặc biệt là Festival Huế 2012, năm Du lịch quốc gia Duyên hải Bắc Trung Bộ – Huế 2012 và Festival Làng nghề truyền thống Huế năm 2013.
Trong Quý 1/2013 du lịch Thừa Thiên – Huế được đánh giá là tăng trưởng mạnh, lượng khách du lịch đến Thừa Thiên – Huế đạt trên 632.492 lượt, trong đó khách du lịch quốc tế là 257.019 lượt, khách du lịch nội địa là 375.475 lượt. Khách lưu trú ước đón được gần 384.397 lượt, tăng 6,24% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó khách du lịch quốc tế đạt gần 200.195 lượt, tăng 3,41% so với cùng kỳ năm 2012, khách nội địa đạt 184.202 lượt tăng 9,50%. Doanh thu du lịch ước đạt 560,520 tỷ đồng, tăng 16,50% so với cùng kỳ năm trước. [18] Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Thời gian tới, ngành du lịch Thừa Thiên- Huế hứa hẹn có nhiều điểm mới, hấp dẫn phục vụ du khách. Điểm nhấn của du lịch Huế năm 2013 là Festival Nghề truyền thống Huế diễn ra từ ngày từ 27/4 đến 01/5/2013, bên bờ sông Hương với chủ đề “Tinh hoa Nghề Việt”, với sự hội tụ các nghệ nhân tiêu biểu có bàn tay vàng trên cả nước đến từ Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Giang, Nam Định, Ninh Bình, Quảng Nam, An Giang, Ninh Thuận, Bình Dương, Huế… Các nghệ nhân sẽ trực tiếp giao lưu, giới thiệu sản phẩm và thao diễn sản xuất với công chúng.
Năm 2013, Thừa Thiên – Huế đặt mục tiêu phấn đấu đón trên 2,5 triệu lượt khách, trong đó trên 1 triệu lượt khách quốc tế và nguồn thu từ dịch vụ, du lịch chiếm gần 50% GDP. Trên cơ sở đó, nhiều biện pháp kích cầu du lịch được tỉnh Thừa Thiên – Huế thực hiện như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, công ty lữ hành, khách sạn, nhà hàng và các điểm du lịch nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, xây dựng các tour mới, chú trọng phát triển sản phẩm du lịch tuyến du lịch hành lang kinh tế Đông – Tây [18].
Thừa Thiên – Huế cũng tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch đến các thị trường truyền thống, tiềm năng như các nước Pháp, Nhật, Canada, Bỉ, Ý, Úc, Hàn Quốc; tăng cường giới thiệu về các sự kiện du lịch trong nước nhân Năm Du lịch Quốc gia 2013. Với những biện pháp kích cầu như vậy, nên doanh thu từ hoạt động du lịch của Huế nhìn chung cũng tăng lên qua từng năm (ngoại trừ năm 2009).
Với doanh thu du lịch như vậy, những năm qua, ngành du lịch đã có nhiều đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế của thành phố Huế. Ngành du lịch tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp khách sạn, nhà hàng, nhà vườn sinh thái, gắn với tổ chức các hoạt động lễ hội, festival, tạo ra những sản phẩm du lịch mới có chất lượng. Hiện, số cơ sở kinh doanh dịch vụ, thương mại, khách sạn, nhà hàng trên địa bàn thành phố lên tới con số 6.351 cơ sở, tăng 1,8 lần so với 5 năm về trước và đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Ngành du lịch ở Huế đóng góp tích cực trong việc tạo ra việc làm và giảm nghèo trên địa bàn. Chưa có một con số chính xác, nhưng hiện nay tỷ lệ lao động du lịch tại thành phố Huế được xác định là chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động của thành phố. Sự đầu tư cho du lịch đã thực sự góp phần làm cho bộ mặt đô thị Huế ngày càng khang trang.
2.2. Thực trạng khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch tại thành phố Huế Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Hiện nay, du lịch Thừa Thiên – Huế đang có lợi thế không nhỏ trong chiến lược phát triển du lịch tâm linh, du lịch hành hương khi mà số lượng Phật tử ngày càng đông đảo. Theo số liệu thống kê của nhà nghiên cứu tôn giáo Đỗ Quang Hưng thì: chỉ tính riêng tín đồ của Phật giáo ở Việt Nam, số liệu điều tra vào năm 2005 thì số lượng tín đồ “sống đạo” (Pratiquant) của Phật giáo là 7.204.380 người/15.279.478 người có tôn giáo và con số đó vẫn không ngừng tăng lên. [29]
Là trung tâm Phật giáo không chỉ vì trên mảnh đất này có số lượng chùa nhiều nhất, mật độ chùa dày nhất, mà hiện nay ở Huế còn bảo tồn được trên 100 ngôi chùa cổ, trong đó có hàng chục Tổ đình, cũng như bảo lưu nhiều nghi lễ Phật giáo truyền thống và hoạt động Phật sự tôn nghiêm.
Các ngôi chùa Huế đều giữ được nét cổ kính của kiến trúc Á Đông, kiến trúc truyền thống của Việt Nam và nghệ thuật sinh vật cảnh. Chùa Huế là một mảng kiến trúc quan trọng cùng với quần thể kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian tạo nên “bài thơ đô thị Huế” có bản sắc riêng.
Từ lâu, chùa Huế đã trở thành sản phẩm du lịch đặc thù của Huế. Tuy nhiên, du khách đang đến với chùa Huế như đến với công trình kiến trúc – sinh cảnh, đến với một không gian tâm linh để chiêm bái, thư giãn. Dòng văn hóa Phật giáo đang chảy trong Huế vẫn chưa được du khách cảm nhận hết như những gì vốn có.
Đó là tính đa dạng trong hệ cảnh quan, kiến trúc, trang trí, nội thất của những ngôi chùa Huế; là những giá trị trong nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật diễn xướng mang hơi thở của Phật giáo xứ Đàng Trong nói chung và Phật giáo xứ Huế nói riêng. Sự đa diện trong sinh hoạt văn hóa thông qua các lễ hội, sinh hoạt của tăng chúng – phật tử, văn hóa ẩm thực… phản ánh những ảnh hưởng của giáo lý nhà Phật, vẫn đang được luân chuyển một cách lặng lẽ trong đời sống thường nhật, trong mạch nguồn văn hóa Huế, và đang chờ đợi du khách đến Huế thẩm thấu và cảm nhận.
Vì thế, ngoài những loại hình du lịch cụ thể đã được khai thác lâu nay như du lịch thiện nguyện, tham quan danh lam thắng cảnh, chiêm bái, hành thiền chữa bệnh… văn hóa Phật giáo Huế hội đủ điều kiện để tổ chức thành Festival văn hóa tâm linh.
2.2.1. Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo tại các ngôi chùa Huế Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
2.2.1.1. Du lịch tham quan
Chùa Huế từ lâu đã trở thành điểm đến chiêm bái, vãn cảnh cho bao du khách thập phương. Điều đáng nói ở đây là ngôi chùa trong di sản văn hóa Huế không phải là di tích của một thời đã qua như cung điện, lăng tẩm nhà Nguyễn; chùa Huế cũng không phải là hồi quang của quá khứ mà là những thực thể sống động chứa đựng những dòng chảy văn hóa thâm trầm, nối quá khứ với hiện tại, nối con người nơi đây với sự ứng xử xã hội trong các mối tương quan với đất trời, với cộng đồng và tha nhân. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì Chùa Phật là một nội dung quan trọng của Trung tâm du lịch Huế bởi từ cuối thế kỷ 18, khi người dân Thuận Hóa – Phú Xuân chưa có khái niệm gì về du lịch thì đã có những người vị khách đến Huế thời ấy đi vãn cảnh chùa Huế. Người du khách nổi tiếng còn để lại trong sử sách là nhà thơ Phan Huy Ích. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 người Pháp đã tổ chức du lịch Trung Kỳ trong đó chùa Huế là một trong những điểm đến của họ [14]. Như vậy có thể nói, những ngôi chùa ở Huế đã trở thành địa chỉ hành hương thu hút không chỉ tăng ni, phật tử, mà còn rất nhiều du khách. Hiện ở Huế có hơn 400 ngôi chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có những ngôi Tổ đình, cổ tự nổi tiếng từ hàng trăm năm như Chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Báo Quốc, Từ Hiếu, Quốc Ân, Trúc Lâm, Thiền Tôn, Trà Am, Vạn Phước…Mỗi ngôi chùa ở Huế không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo hòa quyện giữa con người với cảnh quan thiên nhiên, mà còn là một địa chỉ lịch sử, văn hóa, tâm linh đặc sắc. Nhiều ngôi chùa đã trở thành biểu tượng đặc trưng trong đời sống văn hóa tâm linh Huế. [31]
Một Tour du lịch đến với những ngôi chùa Huế bao gồm: vãn cảnh, thưởng ngoạn vẻ đẹp về kiến trúc, điêu khắc Phật giáo trong khuôn viên ngôi chùa; thưởng thức ẩm thực chay. Các công ty du lịch thường tổ chúc các tour đến với một số chùa nổi tiếng như: Thiên Mụ, Từ Đàm, Từ Hiếu, Diệu Đế. Đến với tour du lịch này, du khách sẽ được đắm chìm trong không gian linh thiêng, chiêm ngưỡng những nét độc đáo của kiến trúc Phật giáo truyền thống, được thưởng thức những món chay đặc sắc do ni sư chế biến… Sau đây xin điểm qua hoạt động tham quan du lịch của du khách tại một số ngôi chùa tiêu biểu nhất của thành phố Huế.
Chùa Thiên Mụ Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Khi nói đến chùa Huế nhất định phải nhắc đến ngôi chùa nổi tiếng nhất mảnh đất Thần kinh này – chùa Thiên Mụ. Đây là ngôi chùa được coi là cổ nhất ở Huế gắn liền với chúa Nguyễn Hoàng – vị chúa đầu tiên mở mang bờ cõi, gây dựng cơ nghiệp cho nhà Nguyễn sau này. Chùa Thiên Mụ chính thức xây dựng vào năm Tân Sửu (1601), chùa tọa lạc trên ngọn đồi Hà Khê, về phía tả ngạn sông Hương cách kinh thành khoảng 5km theo hướng Tây. Theo đà hưng thịnh và phát triển của Phật giáo Đàng Trong, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) chùa được xây dựng lại quy mô hơn với việc trùng tu lại các công trình lớn như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết pháp… Đến thời các vua Nguyễn (1802 – 1945), đặc biệt dưới thời vua Thiệu Trị (1841 – 1847), chùa được xây dựng lại quy mô hơn nữa với việc xây dựng thêm các công trình có giá trị về mặt kiến trúc như hai Bi Đình (nhà để bia đá), Phước Duyên bảo tháp, đình Hương Nguyện…
Khi chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng chùa trên đồi, đặt tên là Chùa Thiên Mụ (bà mụ nhà trời). Về sau, vua Gia Long cho đổi tên thành chùa Linh Mụ. Người Huế vẫn thường gọi bằng cả hai tên: Thiên Mụ và Linh Mụ. Trải qua hàng trăm năm tồn tại, mở rộng và phát triển từ thời các chúa Nguyễn đến các vua Nguyễn, với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong, và được vua Thiệu Trị xếp vào “Thần kinh nhị thập cảnh” (20 cảnh đẹp của đất thần kinh) và ngày nay vẫn là biểu tượng tâm linh của người dân Cố đô.[24]
Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Quán Âm cùng bia đá chuông đồng…, chùa Thiên Mụ còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Nhị Thập Thiên Vương… hay những hoành phi câu đối đều ghi dấu ấn thời kỳ lịch sử vàng son của chùa.
Một trong những điểm nhấn về kiến trúc chùa Thiên Mụ đó là bảo tháp Phước Duyên. Tháp được xây dựng theo kiểu kiến trúc văn hóa dung hợp được hai nguồn văn hóa Trung Quốc và Champa để sáng tạo ra một nét độc đáo riêng cho văn hóa Việt Nam (nửa đầu thế kỷ XIX) vào năm 1844 dưới thời vua Thiệu Trị. Đây được xem là một trong những công trình lớn nhất của chùa và gây được sự chú ý đặc biệt với khách thập phương khi đến thăm chùa bởi vị trí đắc địa nghiêng mình soi bóng bên dòng sông Hương. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Với vẻ đẹp tự nhiên hài hòa trong giá trị kiến trúc điêu khắc, đồng thời mang trong mình dòng chảy lịch sử Phật giáo xứ Đàng Trong và gắn bó với thuở ban đầu “mang gươm đi mở cõi”, nên chùa Thiên Mụ là ngôi chùa được du khách chọn đến tham quan nhiều nhất. Bên cạnh đó, về phía các công ty du lịch cũng chọn đây là một điểm đến không thể thiếu trong chương trình tour của mình cũng bởi vẻ đẹp huyền sử và vị thế là ngôi chùa khai quốc của Thiên Mụ. Nhà tổ chức tour còn đưa du khách đi thuyền ngược sông Hương để có cơ hội ngắm nhìn cảnh quan nên thơ dọc hai bên bờ và cập bến ngay trước cổng chùa rất thú vị. Khi đưa du khách đến đây, các hướng dẫn viên đều đã tập trung giới thiệu về lịch sử của ngôi chùa cũng như nét kiến trúc độc đáo của chùa cho du khách. Tuy nhiên, có thể nói hoạt động du lịch ở đây còn rất hạn chế, thuần túy chỉ là hoạt động tham quan vãn cảnh và chụp ảnh lưu niệm của du khách. Ngoài ra, trước hoặc sau khi tham quan xong, du khách có thể mua một ít sản phẩm lưu niệm về làm quà dọc theo hai lối đi lên chùa Thiên Mụ. Nhưng, nhìn chung, ngoài giá trị kiến trúc được hướng dẫn viên giới thiệu một cách sơ sài, những giá trị Phật giáo tinh túy khác của chùa Thiên Mụ vẫn chưa được giới thiệu đến du khách, chẳng hạn như nghệ thuật điêu khắc tượng, nghệ thuật vườn thiền, ẩm thực chay hay những nghi lễ Phật giáo… Du khách cũng rất ít khi được tiếp cận với các nhà sư trong chùa để được hiểu thêm về đời sống tu hành cũng như việc thực hành nghi lễ, giáo pháp của họ. Chùa Thiên Mụ cũng như các chùa khác ở Huế đều không thu phí tham quan, hơn nữa với vị thế đặc biệt là một ngôi quốc tự nổi tiếng vì vậy mà số lượng du khách gần xa đến thưởng ngoạn là rất đông đảo, gần như quanh năm. Nhưng nếu như chỉ đến tham quan, vãn cảnh thì quả thực là vô cùng lãng phí những giá trị văn hóa nghệ thuật Phật giáo đặc sắc của nơi đây.
Chùa Từ Đàm Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Ngoài chùa Thiên Mụ, ngôi chùa được nhiều du khách viếng thăm nhất là chùa Từ Đàm. Ngôi chùa này tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế. Thuở sơ khai đây chỉ là ngôi thiền thất được ngài Minh Hoằng Tử Dung, vị Thiền sư Trung Hoa dựng vào cuối thế kỷ XVII (khoảng năm 1690) vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái, đặt tên là Ấn Tôn với ý nghĩa lấy sự truyền tâm làm tông chỉ. Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong cho chùa là Sắc tứ Ấn Tôn Tự. Đến năm 1841, vua Thiệu Trị ra sắc chỉ đổi tên là “Từ Đàm Tự” tức đám mây lành, tượng trưng cho đức Phật như mây lành, đem bóng mát đến cho thế gian, cho ngôi chùa Việt Nam. Dù là một ngôi chùa cổ song hiện nay kiến trúc chùa lại không cổ, sở dĩ như vậy là do chùa đã được xây lại, mở rộng ra, cùng với phong trào chấn hưng Phật giáo năm 1935 để trở thành trụ sở Hội Phật giáo cho cả xứ Trung kỳ. Ngôi chùa có nhà tiền đường, mái ngói, ba gian, rộng 7,4m, dài 18m; gian trong cùng thờ tượng đức Phật Thích Ca ngự trên tòa sen, tay bắt ấn Tam muội. Tượng bằng đồng, cao khoảng 1,30m, do hai ông Nguyễn Khoa Toàn và Nguyễn Hữu Tuân thực hiện năm 1940. Ngày 04-7-2006, chùa Từ Đàm lại tổ chức tái thiết lại ngôi chánh điện với chiều dài 42m, chiều ngang 35,9m gồm hai phần, dưới là tầng hầm dùng làm hội trường, trên là ngôi chánh điện, kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, ba gian hai chái, kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế. Trong sân chùa có cây Bồ đề cổ thụ mang nguồn gốc từ cây Bồ đề chính tại Ấn Độ, nơi đức Phật Thích Ca thành đạo quả. Dưới gốc Bồ Đề là bức tượng của nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, còn có Tháp Ấn Tôn bảy tầng cao 27m, nơi đặt tượng Phật bảy đời trong quá khứ. Bảo tháp này thể hiện sự phát triển, vươn lên của Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế. [24]
Mặc dầu không phải là ngôi chùa vào loại cổ nhất Việt Nam, nhưng Từ Đàm được Phật tử cả nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn hưng và phát triển của Phật giáo Việt Nam thời kỳ cận đại. Đây là nơi diễn ra đại hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và ký tên gia nhập Hội Phật giáo thế giới năm 1951, cũng là trung tâm của các hoạt động đấu tranh của Giáo hội Phật giáo chống chế độ độc tài tại miền Nam vào những năm 60 của thế kỷ XX, để lại dấu ấn lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng Miền Nam. Ngày nay, chùa trở thành trung tâm phật học lớn của cả nước, hàng trăm Niệm Phật đường và các khuôn hội thành lập ở Huế sau này đều lấy bài trí cấu trúc và cách thờ tự của chùa Từ Đàm làm khuôn mẫu. [31]
Với những đặc sắc về giá trị kiến trúc, điêu khắc Phật giáo và là trung tâm Phật học Huế nên chùa Từ Đàm luôn được chọn là nơi đến hấp dẫn, làm phong phú thêm tour tham quan cảnh đẹp chùa chiền Huế. Chùa Từ Đàm đặc biệt đón đông đảo du khách thập phương đến tham quan lễ bái vào những dịp lễ hội lớn của Phật giáo như lễ Phật đản (rằm tháng 4 âm), lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm), lễ Phật thành đạo (8/12 âm)… Đặc biệt, cứ mỗi kỳ đại lễ Phật đản, chùa Từ Đàm lại đón hàng vạn người về dự lễ, bởi đây là điểm kết thúc của hành trình rước Phật mỗi kỳ Phật Đản từ quốc tự Diệu Đế đến Từ Đàm. Trong những ngày lễ hội, khuôn viên chùa được mở rộng, trang hoàng theo phong cách nghệ thuật Phật giáo, và âm nhạc, nghi lễ Phật giáo điển hình cho xứ Huế cũng được thể hiện một cách đầy đủ nhất. Với vị trí là trung tâm Phật học miền Trung, chùa Từ Đàm cũng thường xuyên tổ chức các khóa tu dành cho phật tử, tuy nhiên cho đến hiện nay mới chủ yếu thu hút sự quan tâm và tham gia của các gia đình phật tử Huế. Hy vọng trong tương lai không xa sẽ có nhiều phật tử là du khách đến từ mọi miền đất nước và cả những người không phải là phật tử cũng được tham dự những khóa tu này và có cơ hội trải nghiệm những giá trị Phật giáo đậm đà bản sắc cố đô. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Chùa Báo Quốc
Chùa được xây dựng từ thế kỷ XVII thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, là trung tâm đào tạo tăng tài cho Phật giáo Đàng Trong, nơi đầu tiên thành lập Trường sơ đẳng Phật học (1935) và Trường cao đẳng Phật học (1940) của cả nước. Chùa trở thành một trung tâm đào tạo Tăng Ni lớn của Phật giáo cả nước từ đó cho đến ngày nay.
Tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm 1747, Chúa Nguyễn Phúc Khóat ban cho chùa tấm biển “Sắc Tứ Báo Quốc Tự” có ghi dòng chữ: “Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề”. Hiện vẫn còn tấm biển vàng thếp vàng và những bức liễu từ thời ấy. Hiện nay chùa là một trong những địa chỉ du lịch ưa thích của khách du lịch đến Huế [31].
Năm 1808, để báo hiếu mẹ là Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu, vua Gia Long trùng tu chùa, xây tam quan và đúc một đại hồng chung nặng 826 cân ta, cao 1,4m, đường kính 1,2m nay vẫn còn. Vua đặt tên là Thiên Thọ Tự, nhưng về sau vì lăng Gia Long cũng gọi là Thiên Thọ lăng nên vua Minh Mạng đổi lại tên như cũ. Vua Minh Mạng trùng tu chùa vào năm 1824 và vua Tự Đức góp phần tôn tạo vào năm 1858. Khu mộ tháp có tháp tổ Giác Phong và và các vị kế thế như Phổ Tịnh, Viên Giác, Diệu Giác [31].
Chùa Bảo Quốc ở vị trí trung tâm thành phố, được nhiều người biết đến, nên rất tiện cho sinh hoạt du lịch. Từ nhiều năm nay, chùa Báo Quốc được đông đảo bạn bè, du khách gần xa lui tới thăm viếng, song hoạt động du lịch cũng mới chỉ dừng lại ở việc tham quan, vãn cảnh chùa. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Chùa Từ Hiếu
Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa Thái giám được xây dựng vào năm 1843, gắn với câu chuyện cảm động về tình mẫu tử của Thiền sư Nhất Định – người sáng lập chùa để phụng dưỡng mẹ già. Chuyện đến tai Tự Đức, cảm phục trước tấm lòng hiếu thảo của sư Nhất Định nên đặt tên là Từ Hiếu Tự. Năm 1848, chùa được các vị quan lại trong cung triều Nguyễn nhất là các vị thái giám cúng dường đóng góp trùng tu tôn tạo qui mô hơn để lo việc thờ tự sau này.
Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông chập trùng trên một vùng đồi của xã Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh chảy róc rách đêm ngày, phong cảnh rất thơ mộng. Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt xinh xắn ngát hương sen và những con cá cảnh đủ màu bơi lội tung tăng. Chùa Từ Hiếu có ba căn hai chái, trước là ngôi chính điện thờ Phật, sau là Quảng hiếu đường. Đặc biệt ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông [24].
Ngoài cảnh trí tuyệt vời, xung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Ngoài lịch sử lâu đời cùng với kiến trúc độc đáo mang đậm nét đặc trưng của vùng đất cố đô, chùa Từ Hiếu còn nổi tiếng khắp trong ngoài nước bởi nơi đây còn có một nghĩa trang độc nhất vô nhị – nơi chôn cất các quan thái giám của triều Nguyễn năm xưa. Với điểm độc đáo này, chùa Từ Hiếu luôn thu hút được đông đảo du khách gần xa đến không chỉ để chiêm nghiệm đạo “thiền” mà còn để tìm hiểu một di tích lịch sử, văn hóa và tâm linh đặc sắc gắn liền với triều đại phong kiến nhà Nguyễn.
Bên cạnh đó, với địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố nên nơi đây thường là điểm tham quan dã ngoại của thanh niên Huế vào những ngày nghỉ, ngày lễ. Những tour đến chùa Từ Hiếu cũng thường được tổ chức cho du khách để trải nghiệm một chút lắng lòng và cũng để hiểu hơn thân thế, phận đời của những vị thái giám từng phục vụ trong cung cấm năm xưa [31]. Được biết gần đây, các vị sư tu hành ở chùa Từ Hiếu cũng thường tổ chức các khóa tu thiền vào đầu năm âm lịch và đã thu hút được nhiều phật tử đến từ nhiều miền của đất nước tham dự. Đến với những khóa tu này, phật tử phải tạm thời dứt bỏ lối sống thường nhật và thực hành tu tập, sinh hoạt như những người xuất gia thực thụ. Họ sẽ cùng nhau ngồi thiền, nghe giảng giáo lý, lao động công ích và ăn cơm chay, đồng thời cũng được xem các nhà sư diễn tấu một phần lễ nhạc phật giáo thông qua các bài thiền ca, các điệu nhạc nghi lễ. Vì hoàn toàn do nhà chùa tổ chức nên tính quảng bá không sâu rộng, tính thương mại thường thấy trong hoạt động du lịch cũng không có vì phật tử khi đến đây chỉ phải đóng góp những chi phí thấp nhất cho phần sinh hoạt của mình tại chùa, thậm chí được miễn phí. Song cũng chính vì vậy mà rất ít du khách được biết đến và có cơ hội trải nghiệm những khóa tu này, đồng nghĩa với việc họ không được thụ hưởng những giá trị văn hóa phật giáo đặc sắc tại một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất của Huế. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Chùa Diệu Đế
Cùng với chùa Thiên Mụ, chùa Diệu Đế (100B Bạch Đằng) cũng là ngôi Quốc Tự còn lại khá nguyên vẹn cho đến ngày nay. Ngôi chùa này gắn liền với một sự kiện quan trọng, đó là nơi ra đời của Hoàng tử Miên Tông, con vua Minh Mạng, tức là vua Thiệu Trị. Sau khi lên ngôi (1844) vua Thiệu Trị đã cho hạ lệnh biến nơi ở của mình thành ngôi chùa và đặt tên là Diệu Đế tự.
Kiến trúc chùa Diệu Đế vào thời đó rất khác với chùa Huế, không theo kiểu chữ Nhất của chùa Thiên Mụ, cũng không theo chữ Môn hay chữ Phẩm như một số ngôi chùa khác mà xây dựng theo kết cấu với bố cục hài hòa đối xứng cho từng công trình kiến trúc.
Về kiến trúc đại thể thì bốn phía quanh chùa đều xây thành. Những thành hiện nay vẫn còn dấu tích, quanh bốn phía thành có tất cả sáu cửa, mặt trước có 3 cửa, bên trên có cơi lầu trong đó có thờ Hộ Pháp, hai bên tả hữu đều có cửa ra vào. Hiện nay tất cả các cửa đều còn, nhưng không phải là lối kiến trúc ngày xưa.
Bên trong vườn chùa được chia làm ba phần, có nhiều đoạn thành ngăn cách, qua tam quan lầu thì phần ngoài là Trung Đình treo cái chuông lớn được tạo vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), đối diện qua bên phải có Bi Đình là nhà chứa bia khắc thơ ngự chế của nhà vua. Trung Đình, Bi Đình với Đại Hồng chung và tấm bia Thạch Bi vẫn còn với nhiều nét chạm trổ và nhiều hoa văn rất đặc biệt [24].
Vào đến phần trong của chùa thì phải qua một bức tường có ba cửa. Cửa chính thẳng với trung đạo từ trước ra sau, hai cửa tả, hữu thẳng sau lưng ngôi nhà cát tường từ thất và trí huệ tịnh xá. Qua cửa chính của bức tường này là đến ngôi Đại Giáp Điện, đặc biệt trước đây chùa Diệu Đế có tôn chỉ một bảo tháp bằng ngà được chạm trổ rất mỹ thuật.
Chùa mang những nét kiến trúc độc đáo như vậy nên trong các tour du lịch giới thiệu về chùa, hướng dẫn viên du lịch thường đưa du khách tham quan, và giới thiệu cho họ hiểu về nét kiến trúc riêng biệt đó. Cùng với sự kiện chùa là nơi tổ chức lễ Mộc Dục trong Đại lễ Phật Đản hàng năm mà chùa càng thu hút đông đảo du khách gần xa đến thăm viếng chùa.
2.2.1.2. Du lịch thiện nguyện Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Trong vòng quay của xã hội đầy biến động như hiện nay con người đang đứng trước nhiều thách thức cả trong đời sống vật chất và tinh thần. Để có thể tìm lại thăng bằng trong cuộc sống, con người đang có xu hướng tìm đến triết lý giải thoát, an lạc của Phật giáo, điều đó đang phát triển mạnh ở Việt Nam và thế giới.
Do đó, khi đến với Huế, du khách không chỉ đáp ứng tâm nguyện cúng dường từ thiện mà còn có thể tìm cho mình nhiều hình thức du lịch tâm linh, giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống hiện hữu, cũng như tìm được trong Phật giáo sự bình an trong tương lai. Sau những ngày làm việc căng thẳng, bận rộn với những lo toan của cuộc sống đời thường, tất yếu mỗi người cũng cần có những giây phút thư giãn để thoải mái tinh thần và huớng đến tâm linh. Nhu cầu đó không chỉ dành riêng cho những Phật tử mà nó còn trở thành nhu cầu của nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Chính vì vậy, mô hình du lịch thiện nguyện kết hợp với pháp giảng có những điều kiện thuận lợi để thực hiện ở những Thiền tự Huế.
Bằng sự thuyết giảng trực tiếp của các giảng sư, mỗi du khách đều có thể cảm nhận trực tiếp về tâm linh, từ đó dễ phát khởi lòng tin và tinh tấn hành trì giáo lý của Phật pháp để làm lành lánh dữ, tìm được nguồn an lạc, hạnh phúc. Ngoài ra, ở các chùa cũng có thể tổ chức những buổi học ngắn ngày hay các lễ cầu an kết hợp với các hoạt động thiện nguyện khác. Mô hình này bắt đầu hình thành và đang trên đà phát triển ở một số cơ sở như chùa Ba La Mật (258 Nguyễn Sinh Cung), chùa Đông Thuyền (65/2 Lê Ngô Cát)… các chùa Long Thọ (385 Bùi Thị Xuân), Diệu Viên (Thủy Phương, Hương Thủy) cũng có những tiềm năng để phát triển trong tương lai.
Các loại hình du lịch thiện nguyện
Du lịch thiện nguyện – Vãn cảnh chùa Huế Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Với số lượng chùa, Niệm phật đường ở Huế lên đến gần 400 ngôi, chiếm 1/3 số lượng chùa của cả nước, ngoài những quốc tự như Thiên Mụ, Diệu Đế, Từ Đàm… là điểm đến của nhiều du khách và khách hành hương trong nước và quốc tế, Huế còn có nhiều ngôi chùa mang giá trị lịch sử cũng như văn hóa đặc sắc như: chùa Huyền Không (Hương Hồ, Hương Trà), Từ Hiếu, Thuyền Tôn (thôn Ngũ Tây, xã Thủy An), Đông Thuyền, tịnh thất Hoàng Mai (Thượng 1, Thủy Xuân)… Chính vì vậy, mô hình du lịch thiện nguyện kết hợp với tham quan các danh lam cổ tự có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển.
Mô hình này có thể thực hiện ở chùa Long Thọ hoặc Diệu Viên. Trong đó tiêu biểu là Viện dưỡng lão Diệu Viên, đây được xem là ngôi chùa sư nữ đầu tiên ở Huế, được sư bà Thích Nữ Hướng Đạo khai sơn năm 1924. Chùa có kiểu kiến trúc đặc biệt, nổi bật với cổng tam quan Thanh Trúc, được xây dựng theo lối cổng – động rất đặc trưng. Phía dưới chỉ một vòm cổng dẫn sâu hút vào chùa bằng một lối đi, phía trên là động Quán Âm, chất liệu gạch và vôi vữa nhưng bên ngoài ốp đá để tạo ra một loại cổng hình hang động rất ấn tượng. Hơn thế, chùa Diệu Viên là một trung tâm từ thiện xã hội từ rất sớm, bắt đầu từ năm 1959, chùa thành lập bệnh xá giúp đỡ cho đồng bào nghèo, khám bệnh, cấp thuốc miễn phí. Năm 1960, chùa mở nhà dưỡng lão làm nơi cư ngụ cho các cụ già neo đơn, tàn tật. Năm 1962, chùa thành lập cơ sở may tạo công ăn việc làm cho các thanh thiếu nữ địa phương, thành lập trường sơ học miễn phí giúp cho những người mù chữ. Năm 1965, chùa mở vườn trẻ Lâm Tỳ Ni. Hiện nay chùa đang duy trì Viện dưỡng lão, nuôi dưỡng hơn 27 cụ bà từ 70 – 90 tuổi. Với nhiều ý nghĩa như vậy, ngôi chùa đang là một điểm đến của nhiều khách du lịch trong cả nước. [7; 58]
Du lịch thiện nguyện – Ẩm thực già lam (ăn chay)
Không chỉ dành riêng cho Phật tử, xu thế ăn chay không chỉ để thực hành hạnh từ bi với mong muốn tu tâm dưỡng tính để thực hiện “cứu khổ độ sinh”, mà còn nhằm hạn chế bớt việc sát hại các sinh vật vô tội, tránh làm đau những sinh vật hữu tình. Hiện nay, xu thế ăn chay đang thịnh hành nhiều nơi trên thế giới với nhiều mục đích khác nhau: ăn vì sức khỏe, vì bảo vệ môi sinh, môi trường sống… Chính vì vậy, Huế, ngoài những nhà hàng chay nổi tiếng như Liên Hoa, Bồ Đề, Tĩnh Tâm… du khách cũng không xa lạ với những gánh hàng chay vào những ngày sóc vọng hiện diện trên nhiều đường phố. Hơn thế, du khách còn có cơ hội thưởng ngoạn những tinh túy nghệ thuật ẩm thực già lam trong một không gian thiền viện ở trong chùa, các tịnh xá ở Huế. Đồng thời, qua việc thưởng thức ẩm thực, du khách còn có thể thực hành thiện nguyện qua việc đóng góp công đức giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn thông qua các trung tâm từ thiện Phật giáo. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Hiện nay, mô hình tổ chức hoạt động du lịch ẩm thực chay đang được Cô nhi viện Đức Sơn (Thủy Bằng, Hương Thủy) tập trung phát triển. Từ chỗ là một ngôi chùa được khai sơn từ năm 1994, hiện nay ngôi chùa này nổi tiếng dưới cái tên Cô nhi viện Đức Sơn vì các ni sư ở đây đã nhận nuôi gần 200 trẻ mồ côi, không nơi nương tựa. Ban đầu, với mục đích tổ chức hoạt động nhà hàng chay ở chùa để tăng thêm kinh phí hoạt động cho Cô nhi viện, sau một thời gian hoạt động nhà hàng chay của cô nhi viện Đức Sơn trở thành một điểm đến không thể bỏ qua của những du khách thiện nguyện. Tới đây, du khách có thể thưởng thức những món chay không cầu kỳ, không khơi gợi trí tưởng tượng của thực khách, mà đó chỉ là những món ăn thanh đạm hàng ngày của ni giới. Với mục đích làm từ thiện cho nên thực khách có thể đóng góp công đức bằng tiền (từ 20.000đ đến 70.000đ/suất) hoặc trợ giúp bằng hiện vật cứu trợ cho nhà chùa. Quan điểm kết hợp kinh doanh du lịch để lấy kinh phí duy trì và phát triển Cô nhi viện, cứu trợ nhân đạo đã trở thành mô hình kinh tế Phật giáo tiêu biểu ở Huế hiện nay [7; 59]
Huế được mệnh danh là vùng đất Phật, không chỉ bởi lịch sử phát triển lâu đời của Phật giáo, hay đơn thuần là hệ thống Phật tích đặc sắc mà còn bởi những giá trị cao đẹp về mặt tinh thần đang hiện hữu một cách sống động trong đời sống cư dân theo đạo Phật nơi đây. Nếu kết hợp được những nét đẹp của phong trào du lịch thiện nguyện với những đặc trưng độc đáo khác trong kho tàng di sản văn hóa Phật giáo nói riêng, của văn hóa Huế nói chung, ngành du lịch Thừa Thiên – Huế có thể tạo thành một loại hình du lịch phù hợp với xu thế phát triển của thị trường du lịch thế giới hiện nay. Đó là những tiềm năng mà ngành du lịch có thể khai thác để phát triển các mô hình du lịch gắn liền với Phật giáo.
2.2.2. Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo Huế tại các lễ hội Phật giáo – Các kỳ Festival Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
2.2.2.1. Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2008 (Đại lễ Phật đản)
Phật Đản là ngày kỷ niệm Đức Phật sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni, năm 624 TCN, diễn ra vào ngày 15 tháng 4 âm lịch hàng năm. Đây là ngày lễ trọng đại được tổ chức hằng năm bởi cả hai truyền thống Nam tông và Bắc tông. Ngày nay người ta thường biết đến Phật Đản qua tên gọi Vesak. Ngày 15 tháng 12 năm 1999, theo đề nghị của 34 quốc gia, để tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật, Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc tại phiên hợp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự đã chính thức công nhận Đại lễ Vesak là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên Hiệp Quốc, những hoạt động kỷ niệm sẽ được diễn ra hàng năm tại trụ sở và các trung tâm của Liên Hợp quốc trên thế giới từ năm 2000 trở đi. Cho đến năm 2013, Đại lễ Vesak Liên Hiệp quốc đã được tổ chức 10 lần, trong đó, Thái Lan đã đăng cai tới 9 lần, Việt Nam là quốc gia duy nhất ngoài Thái Lan đã được trao quyền đăng cai vào năm 2008. Và sự kiện trọng đại này đã được tổ chức qui mô tại thủ đô Hà Nội và nhiều tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt với vị trí trung tâm Phật giáo miền Trung, các giá trị văn hóa Phật giáo Huế đã được tái hiện huy hoàng trong suốt thời gian từ ngày 12 đến ngày 19/05 với nhiều chương trình, lễ hội đặc sắc tại thành phố Huế. Điều đáng chú ý là Đại lễ Phật đản Phật lịch Liên Hiệp Quốc tại Huế lần này diễn ra ngay trước thềm Festival Huế 2008, nên càng thu hút sự quan tâm của bạn bè, du khách gần xa [32].
Đại lễ Vesak 2008 tại Huế được tổ chức tại 8 huyện và thành phố Huế, với 19 lễ đài chính cúng dường Đại lễ Phật đản. Trong đó, thành phố Huế là tâm điểm của tuần lễ Phật đản, có 3 lễ đài cúng dường Đại lễ là chùa Từ Đàm, chùa Diệu Đế, và lễ đài quần chúng tại Thương Bạc bên bờ sông Hương. Tại đây diễn ra các hoạt động nghi lễ chính của lễ hội, đồng thời làm nơi tổ chức thuyết giảng và biểu diễn văn nghệ nghệ thuật Phật giáo trong suốt thời gian lễ hội từ 8/4 đến 15/4 âm lịch, nhằm thể hiện ý nghĩa một Đại lễ lớn của Phật giáo [33]. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Theo truyền thống rước phật tại Huế, trong Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2008, đoàn rước phật khởi đầu tại chùa Diệu Đế đến chùa Từ Đàm. Trong khuôn khổ chương trình của Đại lễ, hai đêm 17 và 19/05, diễn ra lễ diễu hành xe hoa với 70 chiếc xe hoa của các khuôn hội trong tỉnh đăng ký diễu hành, xe hoa được bài trí họa tiết hoa văn đặc sắc, hình ảnh hoa sen, hình ảnh đức phật nối đuôi trên các tuyến đường hai bên bờ Bắc, bờ Nam Sông Hương. Đặc biệt, năm 2008 nhằm tạo điểm nhấn trong dịp Đại lễ Vesak Liên hợp quốc, các tăng ni trẻ ở Thừa Thiên – Huế đã có ý tưởng thiết lập bảy đóa sen khổng lồ lớn nhất từ trước đến nay đặt trên dòng sông Hương với chủ đề “Bảy đoá sen vàng nâng gót tịch”. Những đóa sen này được đặt trên bệ phao, thả nổi giữa sông Hương từ cầu Phú Xuân đến cầu Bạch Hổ. Với hoạt động này Ban tổ chức đã làm nổi bật biểu tượng bông hoa sen mang ý nghĩa linh thiêng trong Phật giáo tới đông đảo du khách [33].
Lễ đài tại công viên Thương Bạc đã liên tiếp diễn ra các buổi thuyết giảng của các Hòa thượng, các giáo sư đầu ngành về vấn đề ảnh hưởng của phật giáo trong đời sống tâm linh, các hoạt động văn nghệ mang tính chất đại chúng, nhã nhạc cung đình Huế, trong 4 đêm liên tục, từ ngày 12 đến ngày 16/05.
Tại các chùa trong tỉnh Thừa Thiên – Huế, trong suốt một tuần của lễ hội, những hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hoạt động từ thiện diễn ra đã đưa đến một không gian lễ hội linh thiêng, thu hút đông đảo tăng ni, phật tử và du khách hành hương đến tham dự.
Văn nghệ quần chúng tại Đại lễ có các buổi văn nghệ từ ngày 8 đến 13/05 tại các lễ đài chính chùa Từ Đàm, Bia Quốc Học, lễ đài Thương Bạc và lưu diễn tại các huyện. Chương trình văn nghệ do các tổ chức Gia đình phật tử Thừa Thiên – Huế, đội nhã nhạc cung đình Huế, các câu lạc bộ ca Huế, đội múa lục cúng của Ban Nghi lễ Phật giáo Huế… tham gia biểu diễn [30]. Đặc biệt, tại Đại lễ có buổi hoà nhạc chào mừng do Đại đức Thích Minh Hiền chịu trách nhiệm thực hiện. Với đặc thù một chương trình nghệ thuật mang tinh thần Phật giáo của Việt Nam dành cho khán giả quốc tế, nên các ngôn ngữ trình diễn được sử dụng gồm múa và âm nhạc, giới thiệu những giá trị đặc sắc nhất của nghệ thuật Phật giáo Huế với khách du lịch [30]. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Về ẩm thực chay, lần đầu tiên trong khuôn khổ tuần lễ Phật đản, một Hội chợ ẩm thực chay được tổ chức, nhằm giới thiệu ẩm thực chay của Huế tại Trung tâm dịch vụ du lịch Festival. Qua đó, tâm điểm của hội chợ ẩm thực nhằm quảng bá giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ của ẩm thực chay đất cố đô. Phố ẩm thực chay do Ni bộ Thừa Thiên – Huế chủ trì đảm trách giới thiệu văn hóa ẩm thực chay Huế tại Thương Bạc, với nhiều gian hàng và ý tưởng giới thiệu độc đáo lần đầu tiên xuất hiện tại Huế với các món chay khác nhau hội đủ màu sắc, hương vị chua cay, mặn ngọt và nhiều món bánh như bánh bèo, bánh hỏi, bánh ướt… Đến với hội chợ ẩm thực chay ở Huế trong dịp Lễ hội Phật Đản 2008, các đầu bếp phục vụ cho tất cả mọi người những món chay truyền thống xứ Huế, để thực khách được thưởng thức những món ăn chay vừa hấp dẫn mà giá cả vừa phải [7; 45].
Ban Tôn giáo chính quyền tỉnh, đại diện cho lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên – Huế đã phối hợp với Ban trị sự Phật giáo Huế tổ chức một mùa Phật đản thật hoành tráng, long trọng đạt được kết quả tốt nhất, nhằm để lại một dấu ấn tốt đẹp cho quần chúng nhân dân Phật tử Thừa Thiên – Huế và các đoàn khách quốc tế đến Huế trong mùa Phật đản năm 2008. Đại lễ Phật đản đã kết thúc viên mãn trong niềm hoan hỷ vô biên của toàn thể Tăng, Ni, Phật tử và người dân Huế, đồng thời được giới chuyên môn và báo chí đánh giá là thể hiện được tầm vóc của một đại lễ hội mang tầm quốc gia hoành tráng, bề thế và chất lượng [30].
Có một điều có thể nhận thấy là đại lễ Vesak 2008, trong khuôn khổ các lễ hội của tuần lễ Phật đản, các hoạt động lễ hội không chỉ bó hẹp ở chốn cửa thiền, mà được đưa đến với cộng đồng, dựa trên cơ sở khai thác giá trị độc đáo của lễ hội Phật giáo Huế với mong mỏi tuần lễ Phật đản thu hút sự tham gia, ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, để nhằm quảng bá lễ hội Phật giáo Huế và thu hút khách du lịch trong nước và nước ngoài.
2.2.2.2. Festival Huế 2010 Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Trong khuôn khổ các hoạt động của Festival Huế 2010 diễn ra từ mùng 5 đến 13-6-2010, có những lễ hội mới như “Hành trình mở cõi”, “Thao diễn thuỷ binh thời Chúa Nguyễn”, “Đêm phương Đông”… Đặc biệt Phật giáo Huế cũng tham gia với 3 tiết mục “múa lục cúng hoa đăng” tối 7-6 tại chùa Từ Đàm; biểu diễn âm nhạc nghi lễ Phật giáo tối 11-6 tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán và phóng sanh đăng trên sông Hương đêm bế mạc 13-6.
Lần đầu tiên, Trung tâm dịch vụ Festival Huế đã phối hợp với Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên – Huế đưa ra giới thiệu với công chúng, du khách trong nước và quốc tế nhiều chương trình đặc sắc trong văn hóa, âm nhạc, nghi lễ của Phật giáo Huế. Festival Huế 2010 thể hiện âm hưởng chủ đạo là sự tôn vinh các giá trị Phật giáo truyền thống của xứ Huế. Điểm nổi bật của Festival Huế 2010 là đưa lễ hội đến gần hơn với công chúng, để người dân thực sự là chủ thể của lễ hội. Tại Festival Huế 2010, ban trị sự Giáo hội Phật giáo Tỉnh Thừa Thiên – Huế đã khai mạc “Tuần văn hóa Phật giáo 2010” với sự tham gia của đông đảo tăng ni, phật tử, nhân dân địa phương và khách du lịch. Ngoài việc gìn giữ, khai thác và giới thiệu các yếu tố văn hóa đậm đà bản sắc văn hóa Huế, trong đó có văn hóa Phật giáo Huế, các chương trình lễ hội được kết hợp với những sáng tạo mới lạ để các yếu tố truyền thống được song hành cùng hiện đại, bản sắc dân tộc được nổi bật trong giao lưu quốc tế.
Cũng trong khuôn khổ “Tuần lễ văn hóa Phật giáo”, tối ngày 16/5/2010, Lễ hội ẩm thực chay đã được khai mạc trong một khung cảnh hết sức bình dị và duyên quê từ những chiếc nhà tranh tinh tế đến không gian được trang trí bằng những giàn bầu, giàn mướp cùng các loại cà, ớt, mồng tơi… do chính bàn tay của các tăng ni, Phật tử tạo dựng trên đường đi bộ Nguyễn Đình Chiểu.
Ngành du lịch tập trung khai thác ẩm thực chay Huế để phục vụ du khách trong dịp này, trên mọi nẻo đường tấp nập người đi chùa trong những chiếc áo lam gửi gắm niềm tin vào cõi Phật. Đây cũng là lúc các quán chay di động được mở ra dọc hai bên đường phục vụ thực khách. Theo đó có 20 món chay do các nữ tu của 7 ngôi chùa sư nữ ở Huế chế biến. Đó là những món chay bổ dưỡng xuất phát từ cung đình Huế như cơm sen, chè sen, gỏi sen đến những món chay dân dã như mít trộn, vả trộn, kẹp bánh tráng. Nói cách khác, đó là những món chay từ lâu đã làm nên danh tiếng và hương vị riêng của ẩm thực chay xứ Huế. Ngày hội ẩm thực “món chay xứ Huế” sôi động gắn với các hoạt động ẩm thực nói chung phục vụ du khách. Phố ẩm thực còn được tổ chức tại các vùng ven thành phố Huế như Hương Thủy, Phong Điền, A Lưới… [7; 46]
Đặc biệt, tại Festival Huế 2010, lần đầu tiên điệu múa “Lục cúng hoa đăng” được tái hiện lại và biểu diễn, mang lại nét mới và đặc sắc cho kỳ Festival lần này nhằm thu hút đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế. Bình thường môi trường diễn xướng của điệu múa “Lục cúng hoa đăng” luôn được trình diễn trong những hoàn cảnh đặc biệt như lễ an vị Phật, lễ lạc thành chùa hay lễ vía Phật, hoặc tại các Đại đàn giải oan bạt độ, trai đàn chẩn tế thì điệu múa này cũng được đem ra trình diễn với ý nghĩa nguyện cầu cho những người đã khuất giải thoát oan khiên, chúc mọi người còn sống được thái bình, hạnh phúc, an lạc.
Chương trình biểu diễn điệu múa “Lục cúng hoa đăng” tại Festival 2010 do chư tôn đức trong Ban Nghi lễ Giáo hội Phật giáo tỉnh và các Tăng sinh trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên – Huế phụ trách biểu diễn vào tối ngày 7/6/2010 tại sân chùa Từ Đàm. Có rất đông du khách trong nước và quốc tế đến xem. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Múa Lục cúng hoa đăng là một điệu múa cổ xưa của Phật giáo do các vị sư Ấn Độ truyền vào Việt Nam và được chư vị Tổ sư trong chốn thiền môn xứ Huế tiếp thu, phát triển lên đến đỉnh cao nghệ thuật, điệu múa Lục cúng hoa đăng từ đó trở thành là một loại hình âm nhạc đặc thù của Phật giáo xứ Huế.
Việc Ban Tổ chức Festival Huế phối hợp với Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên – Huế tổ chức giới thiệu điệu múa “Lục cúng hoa đăng” trong dịp Festival Huế 2010 là nhằm giới thiệu nét đặc sắc và đa dạng của văn hóa nghệ thuật Phật giáo Huế 2010, toàn bộ chương trình được dàn dựng trên nền cổ nhạc Phật giáo, phân bố thành 3 hồi chính: hồi 1: triệu thỉnh Tiên đồng bái Phật; hồi 2: hành đàn Song lục và chồng bình dâng phẩm cúng; hồi 3: kết chữ “thiên hạ thái bình” và tự quy hồi đàn.
Hơn nữa biểu diễn múa “Lục cúng hoa đăng” trong dịp diễn ra Festival là để giới thiệu cho du khách chứ không phải thuần túy biểu diễn trong các nghi lễ Phật giáo nên giữa các màn biểu diễn Ban Tổ chức đã linh động cử một vị Tăng đọc lời giới thiệu, thuyết minh điệu múa để cho khán giả dễ hiểu khi theo dõi và làm nổi bật những giá trị, ý nghĩa nghệ thuât Phật giáo trong điệu múa. Ứng với mỗi phần, ban nhạc cử lên các bài tán cổ tương ứng. Phần 1 gồm các bài “Hội Phật tiền”, “Nhạn giới”, “Phật diện”, “Ngã kim y giáo”, “Thuyền duyệt tô đà”; Phần 2 gồm các bài “Nhân duyên”, “Khể thủ”, “Diệu hoa thiên mẫu”; Phần 3 gồm các bài “Ngã kim y giáo”, “La liệt”, và “Tam tự quy”[34].
Theo từng điệu tán ngân nga, du dương, trầm tĩnh, tiếng kèn tiếng trống, tiếng não bạt đánh liên hồi, các vũ sinh là các vị Tăng sinh được hóa trang thành các vị Tiên đầu đội mũ Trang kim, mình mặc áo Mã tiên, chân đeo xà phù xuất hiện kèm theo tiếng hô, ứng rất uy dũng. Các điệu múa hành đàn (chạy đàn) bái Phật, vấn liên đăng (các vũ sinh kết với nhau theo hình hoa sen), vấn kết thằng (vũ sinh kết với nhau theo hình sợi giây), vấn Tứ Châu (kết với nhau tại 4 góc đàn) xen kẻ có rất nhiều điệu múa phức tạp cần có sự chú tâm cao và nhanh nhẹn phối hợp nhịp nhàng giữa cổ tay, cổ chân, thân mình trong cùng một điệu múa như “Hội Phật tiền”, “Nhạn giới”, “Hoa khai hoa hạp”… Các vũ sinh tay cầm đèn hoa sen 2 người cầm não bạt (xập xỏa) khi thì hành đàn song lục khi thì xếp bình, nâng bình, hạ bình, xã bình theo tư thế nhiều người xếp lại với nhau thành nhiều tầng (tượng trưng hình chiếc bình cúng Phật) [34]. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Điệu múa đã được 30 vũ sinh (là Tăng sinh) biểu diễn rất thành công trong sự trầm trồ thán phục của công chúng và du khách. Tuy nhiên do mang tính biểu diễn, giới thiệu nên “môi trường diễn xướng” không là một kỳ đại lễ của Phật giáo có hương khói quyện tỏa có đèn nến lung linh nên chưa thể hiện được chức năng nghi lễ đặc thù của điệu múa.
Mặc dầu vậy, việc Ban Tổ chức Festival Huế phối hợp với Ban Trị sự cùng chư tôn đức trong Ban Nghi lễ Phật giáo Thừa Thiên – Huế đưa ra giới thiệu với công chúng, với du khách trong nước và quốc tế về điệu múa “Lục cúng hoa đăng” là đã thể hiện được “tầm nhìn” rất có chiều sâu văn hóa, và cần được duy trì trong các kỳ Festival tiếp theo. Phải nghiên cứu kết hợp với việc tổ chức một kỳ Đại lễ cầu “Quốc thái dân an” trong khi diễn ra Festival sẽ để vừa giới thiệu được nét đặc sắc của văn hóa, âm nhạc nghi lễ Phật giáo Huế vừa đặt điệu múa Lục cúng hoa đăng về đúng “môi trường diễn xướng” của nó thì sẽ thành công mỹ mãn hơn [34].
Bên cạnh điệu múa Lục cúng hoa đăng lần đầu tiên được tái hiện lại một cách đầy đủ, tối 11/6, tại Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán (11 Lê Lợi, Tp Huế), cũng lần đầu tiên một chương trình âm nhạc Phật giáo do Ban nghi lễ Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế tổ chức được trình diễn công khai đến công chúng. Chương trình nhằm giới thiệu cho khán giả trong nước và quốc tế một nghi lễ đặc sắc đầy tính nhân văn, triết lý sâu xa của Phật giáo. Theo quan niệm của đạo Phật, Nghi lễ là một trong hai con đường đi đến sự giải thoát; đó là bằng tư duy để ngộ nhập chân lý và bằng rung cảm dọn đường cho một thế giới nhiệm mầu. Nghi lễ là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên đặc trưng riêng, phân biệt Phật giáo Việt Nam với Phật giáo các nước trên thế giới.
Lễ nhạc Phật giáo Huế trình diễn tại Festival Huế 2010 với ba nội dung chính: Lễ Bật Phật khai kinh (trình với đức phật những công việc mở đầu); Lễ Bạt độ giải oan (nhổ sạch gốc rễ oan gia) và Lễ đăng đàn chẩn tế (cầu nguyện cho những hương hồn không nơi nương tựa). Lễ nhạc Phật giáo không những giữ vị trí quan trọng trong kho tàng âm nhạc dân tộc ta mà còn được bạn bè thế giới đón nhận. Năm 1997, Lễ nhạc Phật giáo Huế được mời sang dự Festival Âm nhạc trí tưởng tượng tại Đài Phát thanh Pháp. Năm 1998, một lần nữa Lễ nhạc Phật giáo Huế được mời trình diễn tại Nhà Văn hóa thế giới Paris (Pháp). Buổi trình diễn đã được ghi lại và phát hành 20 nghìn đĩa. Với thời lượng 90 phút, đĩa này đã được các nhà nghiên cứu thế giới bình chọn là 1 trong 10 đĩa CD hay nhất năm 98 về âm nhạc Phật giáo. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Hoà thượng Thích Giác Đạo – Phó Thư ký, Chánh văn phòng Ban trị sự Phật giáo Thừa Thiên-Huế, người có mặt trong đoàn Lễ nhạc Phật giáo Huế tại Festival Âm nhạc trí tưởng tượng tại Đài Phát thanh Pháp năm 1997 – nhớ lại: “Nhiều người Pháp khi xem chúng tôi biểu diễn xong đều có chúng nhận xét là “rất lạ với chúng tôi nhưng chúng tôi thấy tâm hồn thanh thản. Các vị sư đã đem đến cho chúng tôi một tâm linh rất Việt Nam”. Vậy cái gì đã làm nên “một tâm linh rất Việt Nam” ấy?”. GS Trần Văn Khê nhận xét: Lễ nhạc Phật giáo Việt Nam nói chung và Huế nói riêng thuộc trường phái tán tụng Bắc tông (cùng với Ấn Ðộ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản). Tuy có cùng trường phái, nhưng lại không có một thể nhạc Phật giáo chung cho các nước Ðông Á, như cách hát “chant grégorien” chung cho các nước Tây Âu… là bởi lời kinh giống nhau nhưng nét nhạc của các tụng, tán, tuỳ mỗi nước, mỗi vùng mà thay đổi. Ở ta, nhạc Phật giáo bắt nguồn từ nhạc dân tộc, mang hơi điệu nhạc dân gian, nhạc thính phòng, nhạc dân khấu và nhạc lễ trong cung đình Việt Nam. Nét nhạc của các bài tụng, tán rất phong phú và tế nhị, lại thay đổi tuỳ theo miền, theo vùng ; mà thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru, những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng. Nhạc mang tính chất thanh thản, nghiêm trang, đôi khi buồn man mác, mà không bi lụy ; nhạc gợi một bầu không khí trang nghiêm trầm lặng, giúp cho người tụng kinh và người nghe kinh có thể tập trung tư tưởng vào nghĩa của lời kinh, tuy nhiên gần đây, cách tụng, tán trong Phật giáo Việt Nam có xu hướng đi đến chỗ giản dị hóa [30].
Khi nói đến Nghi lễ của Phật giáo chúng ta thì không thể không đề cập đến khoa nghi Du Già Mông Sơn – Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn vì đây là một trong những điểm nhấn quan trọng. Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn là một nghi thức đã có từ lâu với nội dung chuyển tải tâm từ bi, đức tính bình đẳng, nhằm cứu giúp cho các âm hồn không nơi nương tựa. Trong Nghi lễ Phật giáo, âm nhạc là phương ngôn ngữ khả dĩ duy nhất để diễn bày sự sâu thẳm của chân lý. Âm nhạc chính là sự hiện thân, là phương tiện để khơi mạch của suối nguồn tâm linh; là linh ngữ của tế tự, phụng bái Thần Linh, Phạm Thiên. Tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng kèn, tù và… được cất lên hòa cùng trong tiếng cầu siêu của các chư tăng đã thể hiện sự trang nghiêm và long trọng của buổi lễ. Người nghe như được thưởng thức âm hưởng của Phật giáo trong từng điệu nhạc, từng câu kệ [35]. Chương trình âm nhạc đặc sắc này đã thu hút hàng trăm chư tăng, phật tử, văn nghệ sĩ trí thức Cố đô Huế và đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Có thể nói, với sự góp mặt của văn hóa nghệ thuật Phật giáo Huế, Festival Huế 2010 đã diễn ra thành công, thu hút hơn ba triệu lượt người đến tham gia lễ hội; hơn 130.000 lượt khách du lịch, mang lại hiệu quả lớn cho du lịch Thừa Thiên Huế, thúc đẩy phát triển kinh doanh du lịch tại địa phương [36]. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
2.2.2.3. Đại lễ Phật đản 2012 và 2013
Theo truyền thống Phật giáo Huế, Đại lễ Phật đản được coi là lễ hội Phật giáo lớn nhất và được tổ chức trang trọng nhất trong năm. Kể từ sau Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc 2008 và Festival Huế 2010, Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế chủ trương tổ chức Lễ Phật đản ngày càng qui mô và mang tính đại chúng hơn nhằm có thể giới thiệu sâu rộng truyền thống văn hóa Phật giáo Huế đến người dân và du khách đến Huế trong dịp này. Lễ Phật đản không chỉ gói gọn trong một hai ngày mà đã phát triển thành Tuần lễ Phật đản tại Huế. Năm 2012, Tuần lễ Phật đản bắt đầu từ ngày 28/04 (08/04 âm lịch) đến ngày 06/05 (16/04 âm lịch) với những hoạt động nổi bật:
Triển lãm ảnh nghệ thuật “Sen Đầu Hạ” tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế (15A Lê Lợi) khai mạc vào chiều 28/04 và cũng vào ngày này, 7 đóa hoa sen trên sông Hương – biểu tượng Phật đản Huế từ nhiều năm nay sẽ tỏa sáng với màu hồng đặc sắc.
- Tại Trung tâm Văn hóa thông tin tỉnh sẽ có một đêm văn nghệ cúng dường Phật đản vào tối ngày 02/05.
- Trang trí và diễu hành thuyền hoa trên sông Hương, thuyền hoa sẽ xuất hiện 3 đêm trên sông Hương với các lễ chính như: Lễ diễu hành vào tối 03/05, Lễ rước Phật vào tối 04/5 và Lễ hội hoa đăng trên sông Hương vào tối ngày 05/05 [37].
Đặc biệt, Lễ hội Hoa đăng cúng dường Đức Phật đản sanh – Lễ hội đặc sắc với truyền thống tâm linh “Rước Phật cầu quốc thái dân an” là trọng tâm của mùa Phật đản 2012. Đây là hoạt động được tổ chức qui mô còn nhằm hưởng ứng “Năm Du lịch Quốc gia duyên hải Bắc miền Trung” do tỉnh Thừa Thiên – Huế đăng cai tổ chức. Lễ hội được tổ chức trọng thể, công phu với sự phối hợp của nhiều ban ngành trong tỉnh, thành phố.
Lễ hội Hoa đăng sẽ có 2 đoàn rước đèn từ chùa Diệu Đế theo đường Bạch Đằng lên Trần Hưng Đạo và vân tập trang nghiêm trước bờ sông Hương (đoạn dọc theo Nghinh Lương Đình) và đoàn rước đèn từ chùa Từ Đàm theo đường Điện Biên Phủ qua đường Lê Lợi và vân tập trang nghiêm bên bờ sông (đoạn trước Bia Quốc Học) để cùng tham dự lễ hội Hoa Đăng trên sông Hương với nội dung nghi thức cầu nguyện sâu lắng. Tại bến Nghinh Lương đình, đúng 19h, Lễ hội chính bắt đầu với 3 phần: Nghi thức hành chính, Nghi lễ tâm linh và phụ diễn nghệ thuật trên 2 lễ đài trên bờ và dưới nước. Những tiết mục như Ca Huế, nguyện cầu Quốc thái dân an, múa hoa đăng, phật tử hát với hàng vạn người dân, du khách đứng hai bên bờ sông sát lễ đài xem đã làm cho không khí thêm náo nức nhưng không kém phần trang nghiêm. Vào lúc 19h40’, các nhà sư đã thắp ánh sáng của Phật vào các đèn hoa đăng và mời các đại biểu thả xuống dòng Hương giang. Cùng lúc, 5 chiếc đò cùng các đơn vị gia đình phật tử đi thả hoa đăng trên sông. Có tổng cộng 15.000 hoa đăng đã được thả xuống cầu mong cho hòa bình, an lạc và hạnh phúc. Sông Hương đã được thắp sáng bằng ánh nến lung linh trong đêm cầu nguyện mang theo nhiều ước nguyện của người dân Huế và khách du lịch. Các thuyền rồng cùng 14 khóm hoa đăng treo đèn dọc sông đã tôn thêm cảnh đẹp huyền ảo trong đêm rằm Phật đản 2556 đáng nhớ. Pháo bông từ lễ đài và bờ bên kia sông Hương cuối cùng đã cùng thắp sáng bầu trời trên mặt nước sông Hương đầy đèn hoa. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Theo Hòa thượng Thích Giác Quang, Phó ban thường trực Ban trị sự GHPG tỉnh TT-Huế, Lễ hội đã để lại một ấn tượng tốt, sâu lắng cho những ai tham dự. Lễ hội góp phần giới thiệu nét văn hóa tâm linh – chiều sâu của văn hóa Huế đến với mọi người… [31].
Từng nhà, từng ngõ, từng khu phố bừng lên màu cờ Phật giáo, lồng đèn, băng rôn Kính Mừng Phật Đản mang lại cho thành phố Huế một không khí hân hoan và tưng bừng. Mùa Phật đản năm nay vừa tròn 50 năm Pháp nạn (1963-2013), kỉ niệm ngày đức Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu để đấu tranh đòi hòa bình và tự do tôn giáo dưới chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong niềm hân hoan kính mừng Đức Như Lai thị hiện giữa đời; Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) tỉnh Thừa Thiên – Huế và ban Tổ chức Đại lễ Phật đản Phật Lịch 2557 đã, Ni và tín đồ Phật giáo Thừa Thiên – Huế lắng lòng tưởng niệm chư vị Thánh Tăng, Thánh Ni, chư anh linh Thánh Tử Đạo đã vị pháp thiêu thân vị Pháp hy sinh cho sự trường tồ năm 1963.
Một trong những hoạt động nổi bật của Phật giáo Huế mùa Phật đản năm 2013 thường là hình ảnh về những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật lộ trình đã định trong thành Phố và đổ về các huyện thị, thu hút người xem và sự chào đón của các Phật tử khi đoàn xe hoa đi ngang qua, kéo dài hơn cả cây số [31].
Lễ Rước Phật ở Huế cũng là một trong những hoạt động đặc sắc trong mùa Phật đản được Ban tổ chức chuẩn bị vô cùng chu đáo cùng với sự đóng góp ý kiến của Tăng Ni và Phật tử qua những kì họp chuẩn bị Đại lễ Phật đản. Đúng 17 giờ ngày 14 tháng Tư năm Quí Tỵ (23/5/2013), Lễ Rước Phật đã bắt đầu bằng Lễ Tắm Phật, dưới sự chứng minh của Hòa thượng Thích Đức Phương, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên – Huế cùng chư tôn Hòa thượng, các phái đoàn chính quyền Tỉnh và thành phố Huế, và đông đảo bà con Phật tử đến tham dự. Đoàn Rước Phật bắt đầu xuất phát từ lễ đài chùa Diệu Đế ra đường Bạch Đằng, qua cầu Gia Hội đến đường Trần Hưng Đạo, rẽ trái qua cầu Trường Tiền, tiếp theo là rẽ phải sang đường Lê Lợi, đi đến cuối đường rẽ trái qua đường Điện Biên Phủ, qua cầu Nam Giao và đến đường Sư Liễu Quán, rồi cung nghinh kim tòa Phật đản sanh tôn nghiêm ở lễ đài chùa Từ Đàm. Lộ trình tạo thành một con đường Rước Phật được trang trí các cụm hoa sen, biểu tượng và pano Kính Mừng Phật Đản, trông vừa trang nghiêm vừa hài hòa đẹp mắt [31]. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Lễ Rước Phật với 21 đoàn theo thứ tự, dẫn đầu là đoàn gánh kiệu Lư Trầm, tiếp theo là đoàn cờ Tổ quốc và cờ Phật giáo gồm 240 người xếp thành 4 hàng, ban nhạc Ngũ Lôi, đoàn Dâng hoa (100 vị), đoàn Bê tích pháp hiệu (12 vị), đoàn gánh Chuyển Pháp Luân, đoàn Chư thiên 1 trang phục áo mã nạp (20 vị), đoàn nhạc Bát Âm (8 vị), đoàn kiệu và xe hoa rước Phật, đoàn chư thiên 2 mặc trang phục mã nạp (20 vị), đoàn Chư tôn giáo phẩm – Chư Tăng – Chư Ni – Chư Tăng Ni Nam tông, đoàn gánh huy hiệu Gia đình phật tử, đoàn cờ Gia đình phật tử (100 huynh trưởng và đoàn sinh), đoàn các đơn vị Gia đình phật tử (cầm cờ Phật giáo), đoàn Nhân sĩ trí thức (cầm cờ đèn), đoàn các đơn vị NPĐ trong thành phố Huế (cầm cờ đèn, và đeo băng rôn “Kính mừng Phật Đản”, đoàn các đạo tràng đoàn chúng trong thành phố Huế (cầm cờ Phật giáo và đèn), đoàn phái đoàn Phật giáo các huyện trong tỉnh (cầm cờ Phật giáo và đèn hoa), đoàn kiệu hoa đi sau cùng. Đoàn Rước Phật đi qua các con đường, góc phố, cây cầu của lộ trình Rước Phật với hàng lối thẳng đều, trầm lặng, trang nghiêm tạo thành một khung cảnh Rước Phật linh thiêng và hoành tráng ước chừng khoảng 6-7 ngàn người tham dự đi qua lộ trình hơn 4 cây số; cũng biểu lộ lòng thành kính, vui mừng và chắp tay chào khi đoàn Rước Phật đi qua [31], lời cảm tưởng đều thể hiện tâm nguyện cầu cho thế giới hòa bình, tổ quốc vinh quang, đạo pháp trường tồn, chúng sanh an lạc. Những bông hoa tươi thắm dâng lên Đức Phật qua nghi thức múa dâng hoa do các đoàn sinh Gia đình phật tử thực hiện vừa linh thiêng vừa vui mừng chào đón bậc Giác ngộ giáng trần. Những hoạt động của Phật , một sự mong ước của toàn thể nhân loại vì mục đích an lạc của chúng sanh, xây dựng hòa bình bằng tình thương rộng lớn, bình đẳng và đem những điều tốt đẹp đến với mọi người.
2.3. Đánh giá thực trạng khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo tại thành phố Huế Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
2.3.1. Những mặt đã đạt được
Nhận xét về các Tour tham quan chùa: Chùa Huế là một thực thể sống động và phát triển, chứa đựng những dòng chảy văn hóa đặc sắc nối quá khứ với hiện tại, nối con người với văn hóa tâm linh… Con người mệt mỏi với guồng quay của cuộc sống nên từ nhiều năm nay, hệ thống chùa Huế đã trở thành điểm đến tham quan thưởng ngoạn, nghiên cứu hấp dẫn của đông đảo du khách trong và ngoài nước, là địa chỉ hành hương, thiện nguyện của đông đảo tăng ni phật tử trong cả nước. Nhận thức được giá trị của các ngôi chùa Huế qua công trình kiến trúc độc đáo hòa quyện đan xen giữa con người với cảnh quan thiên nhiên, gắn với địa chỉ lịch sử văn hóa và tâm linh đặc sắc, trong đó có rất nhiều ngôi chùa đã trở thành biểu tượng đặc trưng trong đời sống văn hóa tâm linh xứ Huế như Thiên Mụ, Từ Đàm, Báo Quốc, Từ Hiếu, Diệu Đế…, nên ngành du lịch Huế đã đầu tư khai thác giá trị tiềm ẩn của chùa chiền Huế trong sự phát triển du lịch. Các công ty lữ hành Huế đã tập trung phát triển mảng du lịch tâm linh dựa trên việc khai thác những giá trị đặc sắc tại chùa chiền Huế, thực hiện nhiều tour tham quan khám phá, tìm hiểu nét văn hóa Phật giáo cho du khách trong và ngoài nước. Các công ty này thường tổ chức những tour 1 ngày đến các chùa và được du khách hưởng ứng. Một tour hoàn chỉnh thường bao gồm: vãn cảnh, thưởng thức những món ăn chay được làm từ chính nguồn rau củ quả trong vườn; sau bữa ăn sẽ có món tráng miệng như bánh, chè do chính các ni cô hay các thầy tự tay nấu; sau cùng là ngồi đàm đạo, uống trà và tọa thiền cùng sư trong chùa.
Hiện tại có thể kể tên một số tour du lịch chùa Huế bước đầu đã được đưa vào khai thác như: Tour “Du lịch cầu an” do chi nhánh Công ty Thương mại dịch vụ du lịch đường mòn Đông Dương tổ chức đưa khách đến tham quan – đàm đạo – ăn cơm chay tại các chùa Đông Thuyền, Bà La Mật…; Tour “Du lịch thiện nguyện” nhằm chia sẻ với các hoàn cảnh trẻ em nghèo, người già không nơi nương tựa tại chùa Đức Sơn, Ưu Đàm; Hay tour “Tham quan hoạt động thủ công các ni viện” như để tận “mục sở thị” tài năng các ni giới chế biến tương, chao, bánh, ngũ cốc, làm hương… Đặc biệt các Tour Du lịch thiện nguyện không chỉ thu hút khách du lịch hành hương trong nước mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của nhiều tổ chức và du khách quốc tế. Tuy nhiên, do các chùa Huế không bán vé tham quan, nên rất khó có một con số thống kê chính xác và đầy đủ về số lượng du khách đi vãn cảnh tự do, đi hành hương hay đi theo tour do các công ty du lịch tổ chức. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Về lễ hội Phật giáo: Với sự chuẩn bị công phu, tổ chức qui mô và hoành tráng, nhìn chung Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc 2008 được đánh giá tốt qua cảm nhận của người dân, khách du lịch, ngành du lịch và các phương tiện thông tin đại chúng. Đại lễ Phật đản năm 2008, trong khuôn khổ các lễ hội của tuần lễ Phật đản, các hoạt động lễ hội không chỉ bó hẹp ở chốn cửa thiền, mà được đưa đến với cộng đồng. Khi tham gia lễ hội người dân và du khách đã cảm nhận được ý nghĩa của lễ hội Phật giáo trong không khí linh thiêng, trang trọng làm toát lên giá trị tâm linh to lớn.
Cũng như vậy, trong và ngoài nước đã có những giây phút thưởng thức nghệ thuật thật sự thú vị tại Festival Huế 2010. Đây là lần đầu tiên trong Festival Huế 2010 công chúng và du khách được thưởng thức điệu múa Lục cúng hoa đăng, do các nhà sư thể hiện kể từ khi điệu múa này được phục dựng theo nguyên bản. Đây được đánh dấu như một thành công lớn khi khai thác giá trị nghệ thuật trong Festival Huế phục vụ sự phát triển du lịch Huế.
Cũng từ Đại lễ Vesak 2008 trở đi, Lễ Phật đản đã được Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế và các ban ngành liên quan quan tâm và nâng tầm lễ hội, mục đích đưa Lễ hội từ phạm vi của một tôn giáo trở thành lễ hội của quảng đại quần chúng nhân dân. Từ chỗ chỉ kéo dài trong hai ngày, nay được nâng lên thành qui mô Tuần lễ Phật đản, trải qua 7 ngày trong không khí vui tươi, với nhiều hoạt động cúng dường, nhiều sự kiện đặc sắc được thay đổi qua từng năm. Hiện nay, lễ Phật đản đã trở thành một đại lễ lớn ở Huế và nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo người dân xứ Huế cũng như của du khách thập phương. Điển hình như Lễ Phật đản 2013 vừa qua đã thu hút riêng 7 ngàn phật tử tham gia trực tiếp cùng hàng chục ngàn người dân và du khách đến xem và chiêm ngưỡng. Bên cạnh đó, nội dung của Lễ hội cũng không ngừng được cải tiến để đem lại sức hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của người dân. Điển hình như phần Lễ rước Phật, có năm rước bằng xe hoa, có năm thay bằng thuyền hoa và có năm là rước bộ. Nhiều cuộc diễn thuyết và trưng bày triển lãm những đề tài, những tác phẩm liên quan đến Phật giáo cũng được tăng cường tổ chức tại Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế. Đồng thời, các chương trình văn nghệ Phật giáo do chính các tăng sinh và đoàn sinh thực hiện cũng được biểu diễn liên tục và thường xuyên tại Tổ đình Từ Đàm và một số ngôi chùa tiêu biểu khác của thành phố Huế. Phần nghi lễ trong ngày chính hội cũng được thực hiện trang trọng với sự góp mặt của lễ nhạc Phật giáo đặc trưng xứ Huế với các vũ khúc dâng hoa, các bài tụng, tán, sám… Có thể nói, rất nhiều những giá trị văn hóa Phật giáo đặc sắc của Huế đã được tái hiện một cách công khai cho dân chúng và du khách được chiêm ngưỡng mà không làm mất đi sự trang nghiêm và lễ nghi thành kính. Lễ hội Phật giáo Huế đã thu hút một lượng khách hành hương từ các tỉnh khác đến và cả các đoàn phật tử nước ngoài, họ tham dự lễ hội như chính người dân địa phương với niềm tin tâm linh sâu sắc. Cũng với tinh thần đó, lễ hội Phật giáo Huế đã quảng bá hình ảnh của mình đến với du khách, sự mộ đạo và niềm tin tâm linh hay tinh thần bao dung của Phật giáo đến với mọi người. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Về ẩm thực chay: Trong số các giá trị văn hóa Phật giáo Huế, có lẽ ẩm thực chay là được khai thác mạnh mẽ nhất và sâu rộng nhất trong hoạt động du lịch. Bởi ẩm thực chay là một bộ phận quan trọng và tinh túy nằm trong gia tài ẩm thực Huế từ lâu đã trở nên nổi tiếng trong lòng của du khách gần xa. Cũng chỉ có ẩm thực chay đã vượt ra khỏi khuôn viên của các tự viện để hòa nhập vào trong đời sống thường nhật của cư dân xứ Huế. Người Huế hầu như ai cũng ăn chay vào những dịp lễ như ngày rằm, mùng một, nhiều người còn ăn chay trường. Nấu món chay thể hiện tài nữ công gia chánh của người nội trợ Huế và tiếp đãi bạn bè bằng một bữa cơm chay do chính tay gia chủ nấu chính là thể hiện tấm lòng hiếu khách của người dân đất cố đô. Chính vì vậy, ẩm thực chay từ trong các ngôi chùa đã vào đến các gia đình và ra đến các quán hàng. Từ rất sớm, Huế đã khai thác lợi thế về ẩm thực chay – một trong những thương hiệu của du lịch Huế để thu hút đông đảo du khách.
khách trải nghiệm thú vị về ẩm thực chay Huế, từ những món chay đơn giản, dân dã của Huế, cho đến những món ăn chay cầu kỳ được chế biến, trang trí và có hương vị hấp dẫn như những món ăn mặn hay món chay cung đình. Tất cả tạo nên sắc màu và không gian ẩm thực chay độc đáo theo chiều dài lịch sử và văn hóa Phật giáo của vùng đất cố đô, đã mang lại giá trị to lớn góp phần thu hút khách du lịch.
Hiện tại, trên địa bàn Thừa Thiên – Huế có hàng trăm đơn vị kinh doanh du lịch, cơ sở lưu trú, trong đó các khách sạn đều chú trọng khai thác thế mạnh về ẩm thực Huế để phát triển du lịch, trong đó có ẩm thực chay. Các công ty lữ hành đã tổ chức nhiều tour du lịch như: “Ẩm thực chay Huế về đêm”, tham quan Phố ẩm thực chay trong các Lễ hội Phật giáo…
Giờ đây ẩm thực chay được đưa vào đời sống hàng ngày, du khách có thể thưởng thức bất kỳ khi nào trong các nhà hàng tư nhân, các khách sạn. Ở Huế, có rất nhiều địa chỉ đáng tin cậy dành cho thực khách thưởng thức ẩm thực chay, tại các con phố lớn như Đinh Tiên Hoàng, Hàn Thuyên, Bến Nghé, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Lê Lợi… Hàng chục quán chay thuộc các doanh nghiệp, nhà chùa hay hộ tư nhân mọc lên khắp nơi đã tạo thêm sự phong phú và đa dạng cho ẩm thực Huế, từ những cái tên quen thuộc như Bồ Đề của công ty Cổ phần Du lịch Hương giang, Liên Hoa thuộc Tuệ Tĩnh đường Liên Hoa đến các quán chay của các hộ tư nhân như Tịnh Tâm, Thiền Tâm, Thiên Phú, Bồ Đề Quán, Cát Tịnh… Có thể nói, ẩm thực chay đã trở thành một trong những hương vị không thể thiếu trong đời sống của người dân Huế cũng như khách du lịch. Do đó mà du lịch Huế càng ngày càng thu hút được đông đảo du khách, khách du lịch vừa được thưởng thức những món chay mới lạ, vừa được khám phá những giá trị đặc sắc mà ẩm thực chay Huế mang lại. Du lịch Huế càng thu hút khi trong những ngày Tết, những khách sạn, nhà hàng Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Huế đều có một hệ thống ẩm thực chay – mặn để du khách lựa chọn, tạo điều kiện cho du khách đón một cái Tết Âm lịch đầm ấm như ở nhà. Mặn thì có bánh tét làng Chuồn, dưa món, giò heo bó, nem chả, hành muối, kiệu chua…; ngọt thì đủ loại mứt bánh: mứt gừng, mứt dừa, mứt khoai lang, mứt bí đao, mứt hạt sen, mứt me, mứt cốc, mứt xoài, bánh in, bánh thuẫn, bánh dẻo, bánh bó, chè xanh đánh, chè đông sương, chè khoai tía…
Như vậy, các quán chay hiện nay đã, đang tăng trưởng và phát triển rất nhanh. Thực tế cho thấy nhu cầu đến với ẩm thực chay ngày càng tăng nhất là vào các ngày rằm, mùng một điển hình nhất là mùa lễ vu lan báo hiếu. Một điểm được đánh giá cao trong các kỳ Festival Huế gần đây, ẩm thực chay đã được chú trọng với một không gian vô cùng độc đáo cùng với các loại thực phẩm chay của thiền môn được giới thiệu do các Sư cô chế biến, vừa đảm bảo nét đẹp truyền thống của dân tộc, vừa giới thiệu phương pháp chế biến đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Với chủ trương của ẩm thực chay trong Festival là mong người có duyên với ẩm thực chay có cái nhìn toàn diện về chế độ ăn uống, thái độ và phương pháp ăn uống cho sức khỏe và cộng đồng, giới thiệu món ăn chay truyền thống để phổ cập rộng rãi trong quần chúng tại các lễ hội và festival.
2.3.2. Những mặt chưa đạt được
Huế là một trong những điểm nhấn chính của du lịch Việt Nam, nhưng nếu so với tổng khách ở Việt Nam, khách du lịch đến Huế chỉ chiếm khoảng 25%. Điều này chứng tỏ sức hấp dẫn của du lịch Huế chưa được quảng bá, xúc tiến phù hợp; số lượng điểm đến nhiều nhưng chất lượng điểm đến chưa được đầu tư cao; sản phẩm du lịch-dịch vụ còn thấp… Một kết quả khảo sát của thành phố Huế cho thấy, khách nội địa quay trở lại Huế chiếm gần 39% trong khi quốc tế đến Huế chỉ chiếm dưới 10%. Tuy nhiên các loại hình du lịch chủ yếu dành cho du khách vẫn chỉ là tham quan danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử. Chùa chỉ là điểm đến phụ nhằm lấp đầy thời gian du lịch của khách. Mặc dù Huế là kinh đô Phật giáo xưa mang một bề dày về lịch sử văn hóa Phật giáo với những giá trị đặc sắc ít nơi đâu có được nhưng những chương trình du lịch Phật giáo hiện nay còn hạn chế, chất lượng điểm đến Phật giáo còn chưa được đầu tư nhiều nên chưa khai thác được hết giá trị vốn có mà văn hóa Phật Giáo mang lại. Nói cách khác, hiện nay chùa Huế giữ một vai trò quan trọng trong các tour tham quan du lịch Huế tuy nhiên du lịch chùa Huế chỉ còn ở dạng “cưỡi ngựa xem hoa”. Du lịch Huế vẫn chưa khai thác hết được giá trị kiến trúc điêu khắc, mới chỉ trình bày một cách thụ động cho du khách. Chùa Huế nơi thờ tự linh thiêng luôn rộng mở đối với mọi người, thế nhưng chỉ vẫn dừng lại việc du lịch thưởng ngoạn cảnh quan, kiến trúc theo kiểu “ăn sẵn” gây lãng phí mà vẫn chưa khai thác được những ẩn chứa đằng sau mái ngói thâm u, tường rêu cổ kính của những ngôi chùa ấy là cả một kho tàng văn hóa, lịch sử, tôn giáo đặc sắc của đất và người xứ Huế. Hệ thống chùa ở Huế là nguồn tài nguyên du lịch đặc sắc mà lâu nay chưa được quan tâm đầu tư khai thác đúng mức. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Điều đáng buồn là những giá trị của mảng điêu khắc dần bị mai một, khi các bia đá, chuông đồng, trống và tượng đều bị viết, vẽ chằng chịt bởi du khách khiến cho các hướng dẫn viên du lịch giải thích hết sức khó nhọc về “ý nghĩa” những dòng chữ này cho du khách nước ngoài. Một hướng dẫn viên du lịch bảo: “Phải cố mà giải thích sao cho khéo để giữ thể diện quốc gia”.
Ẩm thực chay ở Huế cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa được ngành du lịch chú trọng khai thác thành một loại hình du lịch riêng biệt. Trong việc khai thác ẩm thực chay tại các lễ hội, các nhà tổ chức chưa chú trọng tổ chức những không gian ẩm thực và không gian thưởng thức ẩm thực hợp lí. Trong các hội chợ ẩm thực chay mang vẻ mới lạ nên người đi xem phố ẩm thực nhiều hơn người thưởng thức. Như trong Phố ẩm thực đêm trong năm 2010, con đường Bạch Đằng hai bên lề là hàng quán, giữa đường dày đặc xe máy chở ba, chở bốn, những chiếc xích lô chất đầy người chen chúc với người đi bộ làm bụi bay mù mịt. Trong lúc đó, những hàng quán bên đường không có nước rửa, phải đi xin từng xô. Vệ sinh an toàn thực phẩm vì thế rất đáng báo động. Nếu ngay từ đầu phố ẩm thực có bãi gửi xe vì quy định đi bộ và được cung cấp nước rửa thì điều đáng tiếc trên đã không xảy ra.
Điểm đáng lưu ý nữa là hầu hết nhà hàng chay đều chú trọng đến đối tượng khách là người dân thành phố Huế. Công tác quảng bá, giới thiệu giá trị ẩm thực chay còn hạn chế, du lịch Huế chưa thực sự quan tâm đầu tư quảng bá để thu hút thêm lượng khách quốc tế cũng như chưa chú trọng khai thác trong những dịp diễn ra các lễ hội tại các ngôi chùa Phật giáo. Việc nâng tầm vị thế cho nét văn hóa ẩm thực chay trong các hoạt động du lịch ở Huế sẽ tạo cơ hội cho việc thực hiện các tour du lịch ẩm thực, du lịch sinh thái, du lịch chữa bệnh kết hợp du lịch ẩm thực dưỡng sinh…
Về các lễ hội Phật giáo tổ chức thường niên Ban tổ chức chưa thiết kế được những không gian rộng rãi tổ chức lễ hội, khiến cho người tham dự khó chiêm ngưỡng được, nếu nhìn từ xa thì sẽ không thể thấy hết được sự hấp dẫn, vẻ độc đáo của văn hóa Phật giáo được trình diễn trên sân khấu. Hiện tượng chen lấn, thiếu không gian trình diễn nghệ thuật và trưng bày làm cho không lột tả, khai thác được hết những giá trị của văn hóa Phật giáo đối với du khách.
Các công ty du lịch vẫn “ngồi tại chỗ”, mà còn hạn chế tìm tòi, khai thác những nét độc đáo của văn hóa Phật giáo để giới thiệu cho du khách; vẫn theo “lối mòn” với những tour du lịch cũ quá truyền thống của ngành du lịch Huế; các chương trình du lịch còn nghèo nàn về nội dung, vẫn chỉ xoay quanh tham quan chùa chiền, vãn cảnh, thưởng thức ẩm thực chay. Do đó, hiện trạng du khách chưa được thỏa mãn trong các tour du lịch một ngày với chương trình tham quan chùa chiền ngày càng nhiều, họ cảm thấy nhàm chán, gây ra tình trạng không muốn quay lại với tour tham quan mà họ đã đi.
Trong các tuyến lữ hành, ngoài việc được nghe, nhìn hệ thống nghi lễ một cách thụ động thì du khách chưa được hòa nhập vào không gian nghi lễ, chưa được nghe chính những người diễn xướng nói về những điều vi diệu của nghi lễ, nội dung của ca từ, những nét đặc trưng của các bài bản, giá trị nghệ thuật của âm nhạc, tác dụng về mặt tâm linh mà lễ nhạc mang lại.
Ngay cả điệu múa “Lục cúng hoa đăng” được biểu diễn trong Festival Huế năm 2010: Điệu múa đã được 30 vũ sinh (là Tăng sinh) biểu diễn rất thành công trong sự trầm trồ thán phục của công chúng và du khách. Tuy nhiên do mang tính biểu diễn, giới thiệu nên “môi trường diễn xướng” không là một kỳ đại lễ của Phật giáo có hương khói quyện tỏa có đèn nến lung linh nên chưa thể hiện được chức năng nghi lễ đặc thù của điệu múa. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
Mặc dù văn hóa Phật giáo ở Thừa Thiên – Huế có nhiều tiềm năng nhưng chưa được quan tâm đầu tư và khai thác đúng mức. Giá trị tài nguyên văn hóa Phật giáo của Thừa Thiên – Huế tương đối đặc sắc nhưng chỉ mới khai thác được một phần nhỏ phục vụ du lịch, chủ yếu tập trung ở loại hình du lịch tham quan, vãn cảnh chùa chiền. Chúng ta đều biết văn hóa Phật giáo có một ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống xã hội của người dân xứ Huế, là một tầng văn hóa nội tại ẩn tàng trong cả đời sống vật chất và tâm linh vì thế thật là dễ hiểu khi khách du lịch ai cũng có mong muốn được tiếp cận và thưởng thức văn hóa Phật giáo Huế đúng tầm với giá trị di sản mà thành phố Huế đang sở hữu.
TIỂU KẾT
Với bề dày về mặt thời gian, phong phú về số lượng các ngôi cổ tự, sự đa dạng về phong cách kiến trúc cùng với những nét độc đáo ở cảnh quan, cũng như truyền thống nhập thế giúp đời của Phật giáo Huế kết hợp với những ưu thế về di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh – đây là những yếu tố vô cùng thuận lợi cho việc phát triển kinh tế du lịch nói chung và du lịch văn hóa Phật giáo nói riêng.
Bởi vì văn hóa Huế là một giá trị mới trong dòng chảy văn hóa Việt được khởi nguồn từ văn hóa Thăng Long, là thành quả của văn hóa từ nhiều miền đất nước hội tụ về tạo ra một giá trị mới, một sự biến đổi về chất, trong đó có sự tiếp thu những tinh hoa, những nét ưu việt của nền văn hóa bản địa, cụ thể là nền văn hóa Chămpa. Văn hóa Phật giáo là một hệ giá trị có khả năng tạo nên những lực hút thúc đẩy du lịch phát triển, nhất là du lịch văn hóa – tâm linh tại Huế. Vấn đề đáng quan tâm nhất là dòng văn hóa Phật giáo đang chảy trong Huế vẫn chưa được ngành du lịch và du khách cảm nhận được hết các giá trị như nó vốn có. Đó là điều mà giới nghiên cứu và ngành du lịch phải tiếp tục khám phá, thấu hiểu tường tận để khai thác tốt hơn. Khóa luận: Thực trạng khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com