Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Đề Xuất Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác giá trị văn hóa phật giáo phục vụ phát triển du lịch tại Thành Phố Huế dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Định hướng phát triển du lịch của Thừa Thiên – Huế

Một trong những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Huế lần thứ X, nhiệm kỳ 2010-2015 đề ra là: Tập trung tối đa mọi nguồn lực và chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng Huế trở thành trung tâm du lịch đặc sắc của cả nước và khu vực, ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Gắn du lịch với văn hóa, di sản; văn hóa với di tích, cảnh quan thiên nhiên, liên kết với các vùng, miền, khu vực, quốc tế… Xây dựng hoàn chỉnh Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam, tạo điều kiện đưa du lịch chiếm tỷ trọng lớn trong ngành dịch vụ, trở thành thương hiệu mạnh, hấp dẫn du khách và bền vững [19].

Theo quyết định phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, Sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh đã đề ra Quan điểm và mục tiêu phát triển du lịch như sau:

3.1.1. Quan điểm phát triển

Phát triển du lịch Thừa Thiên – Huế với tốc độ cao, có tính đột phá, tương xứng với tiềm năng và lợi thế tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, văn hóa, đưa du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Phát triển du lịch Thừa Thiên – Huế phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển du lịch các tỉnh khu vực Bắc Trung bộ, miền Trung – Tây nguyên và các trung tâm du lịch lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội… khu vực ASEAN, hành lang kinh tế Đông – Tây nhằm tạo nên những sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.

Phát triển du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế đảm bảo tính bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, tôn tạo các tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn; góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống; đảm bảo về an ninh, chính trị và an toàn xã hội.

Phát triển du lịch dựa trên sự phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các thành phần kinh tế và cộng đồng dân cư, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để đầu tư có hiệu quả cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du lịch.

Phát triển du lịch du lịch Thừa Thiên – Huế thành một điểm đến với dịch vụ đồng bộ, các sản phẩm đặc trưng mang tính chất văn hóa, sinh thái, du lịch biển… có sức cạnh tranh cao và hướng tới đẳng cấp khu vực và quốc tế.

Có thể bạn quan tâm:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

3.1.2. Mục tiêu phát triển Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Tăng dần tỷ trọng đóng góp của du lịch vào GDP tỉnh góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.

Phát triển du lịch góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển nhất là đối với tiểu thủ công nghiệp, làng nghề thủ công mỹ nghệ, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, tăng đóng góp ngân sách nhà nước.

Phát huy tối đa lợi thế so sánh, tập trung xây dựng Huế trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ lớn của cả nước. Đến năm 2015 lượng khách đến Thừa Thiên – Huế đạt hơn 4,2 triệu lượt khách du lịch, trong đó hơn 1,7 triệu lượt khách quốc tế; năm 2020 đón khoảng 6 triệu lượt khách du lịch, trong đó có hơn 2,5 triệu lượt khách quốc tế.

Phát triển du lịch làm tăng thêm giá trị nền văn hóa dân gian, giá trị của các di tích lịch sử, tự nhiên đặc thù của Thừa Thiên – Huế, đồng thời nâng cao dân trí, tạo thêm công ăn việc làm, hỗ trợ phát triển cộng đồng dân cư, tăng khả năng giao lưu văn hóa, thiết lập các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác mới.

Du lịch đã được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của Thừa Thiên – Huế, việc đa dạng các loại hình, sản phẩm du lịch trên cơ sở khai thác các giá trị của di sản Huế là việc làm cấp thiết. Hơn thế nữa, du lịch không chỉ đơn thuần là một hoạt động kinh tế, nó còn mang nội dung nhân văn và xã hội sâu sắc, có thể thông qua hoạt động du lịch để truyền thụ kiến thức, giáo dục truyền thống và góp phần nâng cao dân trí. Để thực hiện được chức năng này, việc tổ chức, đào tạo cho những người cung cấp sản phẩm du lịch, hướng dẫn viên và xây dựng cơ chế chính sách nhằm huy động mọi nguồn lực, huy động sự tham gia của cộng đồng vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của di sản Huế phải được xem là một nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của các cấp chính quyền [19]. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Tóm lại, giữ vai trò là đô thị hạt nhân, đô thị động lực, hơn lúc nào hết, Thành phố Huế phải quan tâm nhiều hơn đến phát triển du lịch trên địa bàn, để những nội dung mà Nghị quyết Đại hội của Đảng bộ tỉnh, thành phố đề ra thực sự đi vào cuộc sống.

Điều cần nhấn mạnh đầu tiên là các cơ quan chức năng của ngành văn hóa thể thao và du lịch cần nhận thức đầy đủ về di sản Huế. Huế không đơn thuần là một địa danh về mặt địa lý, mà Huế là một địa danh văn hóa, là tên gọi của một vùng văn hóa. Di sản Huế không chỉ có những thành quách, cung điện, lăng tẩm, mà còn có cả những hệ thống đình chùa, các giá trị lịch sử cách mạng, một kho tàng văn hóa phi vật thể khổng lồ. Sự phong phú, đa dạng và độc đáo của di sản Huế đòi hỏi phải có cách nhìn và cách ứng xử công bằng, khách quan cho từng loại giá trị để tiếp tục bảo tồn và phát huy chúng. Và điều không ai phủ nhận được đó là sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản Huế không chỉ thuộc về các cơ quan chuyên môn và quản lý mà còn là trách nhiệm của người dân Huế, thông qua họ mà những cái hay, cái đẹp của văn hóa đến được với đông đảo du khách trong và ngoài nước.

3.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Phật giáo tại thành phố Huế

3.2.1. Định hướng bảo tồn và khai thác giá trị văn hóa Phật giáo Huế

Nghiên cứu văn hóa Phật giáo là rất cần thiết trong việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa nước nhà; tuy nhiên có thể nói cho đến nay, kể cả trong giới Phật giáo, chưa có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện về văn hóa Phật giáo Việt Nam, ngoài một số tác phẩm nghiên cứu từng phần hoặc trực tiếp hay liên quan, nhưng phần nhiều mang tính tự phát.

Văn hóa là sản phẩm của con người xã hội, mang tính xã hội và việc bảo tồn, phát huy văn hóa chủ yếu là do quần chúng nhân dân thực hiện. Trong thời đại mới, sự tiếp xúc, hội nhập giữa các nền văn minh, văn hóa là tất nhiên; nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện để chọn lọc nhằm thâu nhận cái hay cái đẹp phù hợp với tính dân tộc, để có ý thức bảo tồn và phát huy văn hóa nước nhà. Người làm công tác nghiên cứu văn hóa nên thâm nhập vào lòng xã hội để tìm cách làm nổi bật cái hay, cái đẹp của văn hóa qua lối sống, cách nhìn, tư duy, tình cảm, cách ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và giữa con người với môi trường thiên nhiên. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Bảo vệ và phát huy văn hóa chính là nhằm xây dựng một nhận thức về một lối sống hiền thiện, về cái hay, cái đẹp của truyền thống và thận trọng với những thị hiếu nhất thời có thể gây nguy hại cho văn hóa dân tộc. Đây là công việc của tất cả mọi người, của các nhà trí thức, nhà đạo đức, tôn giáo, của chính quyền. Riêng trong Phật giáo, để thực hiện công việc này, cần lưu tâm đến một số điểm cơ bản sau đây:

  • Tăng cường việc phổ biến giáo lý của Đức Phật, đặc biệt là đạo đức học Phật giáo.
  • Bảo tồn các cơ sở, tự viện, di tích, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Phật giáo tại Huế.
  • Khuyến khích việc giữ gìn và phát huy các tập tục tốt đẹp của người Phật tử (đến chùa, tham gia thực hiện các lễ lớn, ăn chay, thờ Phật, bố thí, phóng sinh…)

Không chỉ có vậy, việc khai thác và phát huy giá trị văn hóa Phật giáo Huế là giải pháp tốt nhất để bảo tồn văn hóa Phật giáo xứ Huế, làm cho văn hóa đó gắn liền, hòa vào cuộc sống của xã hội đương đại, có tác dụng giáo dục và nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế tại địa phương.

Việc khai thác và phát huy giá trị văn hóa Phật giáo cũng tạo điều kiện cho công tác phục hồi các nghi lễ và nghệ thuật Phật giáo truyền thống, nghệ thuật ẩm thực chay để phát triển mạnh mẽ đáp ứng các nhu cầu của ngành du lịch ngày càng lớn của Huế.

Lễ hội Phật giáo Huế là một bộ phận của văn hóa Phật giáo, nó đã đang được xiễn dương một cách mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, ước vọng của tín đồ, quần chúng để làm nổi bật nên giá trị độc đáo của Lễ hội Phật giáo mang đặc trưng của xứ Huế. Qua lễ hội cũng đồng thời thể hiện sự phát triển, sức sống của Phật giáo trong xu thế nhập thế với nhiều phương tiện khác nhau, đưa tín đồ, quần chúng đến với giáo lý giải thoát của Phật. Trên góc độ phát triển du lịch lễ hội, lễ hội Phật giáo Huế đã xác lập vị thế trên những giá trị văn hóa đặc trưng tôn giáo bên cạnh lễ hội dân gian truyền thống của cư dân xứ Huế, cho nên, phát triển lễ hội Phật giáo phục vụ cho các hoạt động du lịch cần phải có cái nhìn toàn diện, hợp lý và khai thác tối ưu những đặc trưng, đặc điểm, tính chất của lễ hội Phật giáo Huế trong từng trường hợp cụ thể. Do đó cần khôi phục lại các lễ hội phật giáo truyền thống, đảm bảo tính uy nghiêm, linh thiêng, tôn vinh các giá trị văn hóa tâm linh đạo đức mà Phật giáo đem lại cho đời sống xã hội. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Hoạt động lễ hội được tổ chức hằng năm là cơ hội lớn để cố đô phô bày, trình diễn vẻ đẹp phong phú, giàu có về văn hóa của mình, nhất là các Lễ hội Phật giáo thu hút hàng nghìn Phật tử và khách du lịch. Và đây cũng chính là cơ hội để Huế kêu gọi sự hợp tác, đầu tư để bảo tồn và phát huy giá trị di sản truyền thống. Nghệ thuật là sự thể hiện cụ thể nhất giá trị văn hóa, cho nên việc tìm hiểu, bảo trì và phát huy nghệ thuật Phật giáo đối với hàng Phật tử trí thức là vô cùng quan trọng.

Khai thác các Đại lễ trong năm tại Huế theo lịch nhà Phật là một yếu tố quan trọng tạo nên các sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, hấp dẫn. Trong nhiều ngôi chùa, đã hình thành những không gian văn hóa truyền thống điển hình – nơi diễn ra những sinh hoạt văn hóa Phật giáo, các nghi thức tôn giáo như: Lễ Vu Lan, Đại lễ Phật Đản, Đàn Tràng giải Oan, chạy đàn cầu mưa, tụng kinh niệm Phật hàng ngày…. Như chúng ta đã biết, lễ hội văn hóa truyền thống được coi là một thành tố văn hóa mang giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu. Lễ hội văn hóa Phật giáo cũng là một thành tố văn hóa như vậy. Lễ hội Phật giáo còn là nơi tích hợp các mặt giá trị văn hóa phi vật thể rất phong phú và đa dạng. Ngoài phần nghi lễ Phật giáo, trong lễ hội ta thấy nhiều hình thức văn hóa nghệ thuật độc đáo khác như: trình diễn các hình thức nghệ thuật dân gian, đặc biệt là nghệ thuật Chèo gắn với các tích Phật, tích truyện giàu tính nhân văn, khuyến thiện – trừng ác, múa Phật giáo (Lục cúng hoa đăng), âm nhạc Phật giáo, các phẩm phục… Lễ hội Phật giáo cũng đóng vai trò là nơi giao lưu, cộng cảm và liên kết tình thân trong các cộng đồng Phật tử ở từng đạo tràng nói riêng, cộng đồng cư dân ở các làng xã, vùng miền nói chung.

Đối với ngành văn hóa và du lịch cần xây dựng những kế hoạch cụ thể khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa Phật giáo, tạo sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, tạo điều kiện cho mọi người dân có cơ hội để hiểu biết, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực nghệ thuật, bảo tồn, tôn tạo các giá trị văn hóa truyền thống, không để những giá trị đó bị hoang phế hóa từ những hoạt động du lịch.

Cuối cùng là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển. Đây là vấ lược đúng đắn cùng những sách lược linh hoạt của lãnh đạo địa phương, nỗ lực của đơn vị được trực tiếp giao phó việc quản lý khu di sản Huế, và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng là một yêu cầu không thể thiếu trong bối cảnh hội nhập cùng thế giới.

Đây là một số giải pháp đưa ra ở phương diện vừa khai thác tối đa lợi ích vừa bảo tồn và giữ gìn được giá trị văn hóa. Đó là một bài toán khó đặt ra với ngành du lịch song từng bước chúng ta phải thực hiện được để ngày càng phát triển hoạt động du lịch theo hướng chuyên nghiệp nhưng vẫn dựa trên quan điểm phát triển bền vững mà Đảng và chính phủ đã vạch lối chỉ đường.

3.2.2. Bảo lưu các giá trị văn hóa Phật giáo truyền thống Huế Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

3.2.2.1. Bảo tồn giá trị kiến trúc đặc sắc trong chùa Huế

Hiện nay do sự phát triển kinh tế của đất nước, nên đời sống tinh thần của người dân được cải thiện, vì vậy họ có điều kiện tu bổ sửa sang lại những công trình kiến trúc Phật giáo đặc sắc, góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa tinh thần quý báu. Song để quá trình đó thực thi có hiệu quả, các cơ quan chức năng cần có định hướng rõ ràng để việc tu bổ, tôn tạo đó vừa giữ được giá trị truyền thống, vừa mang hơi hướng của thời đại. Đặc biệt, cần bảo lưu các đặc điểm kiến trúc truyền thống, tránh lai căng pha tạp, luôn tôn trọng các giá trị đạo đức tốt đẹp của Phật giáo Huế đóng góp cho đời sống xã hội.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Bảo Đàn, “trong không gian một kinh đô thơ mộng, núi đồi thấp và sông bình lặng, nét đẹp của Huế chỉ là cái đẹp tinh tế, không đồ sộ, khoa trương. Ngay cả kiến trúc cung đình so với những nước khác vẫn rất khiêm tốn, thì chùa Huế càng không thể là những chùa đồ sộ. Ở Huế chưa từng có những ngôi chùa trăm gian như chùa Dâu, hoặc những ngôi chùa mà phu phen phục dịch xây cất hàng vạn người suốt mấy năm trời như chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều, chùa Sài Nghiêm ở Chí Linh, chùa Hồ Thiên ở Kinh Bắc. Kiến trúc Huế vẫn bình dị, thân thiết, gần gũi với dân gian [15].

Với kiến trúc chùa Huế, có thể thấy rằng hiện nay đã và đang diễn ra cuộc cạnh tranh giữa cái “cao, to, hoành tráng” với “nhỏ nhắn, hiền hòa, ẩn tàng vào thiên nhiên”, về xu thế, tinh thần, lẫn quy mô giữa những ngôi chùa cũ và những ngôi chùa mới được trùng tu hoặc xây dựng. Để rồi có rất nhiều câu hỏi đặt ra nét đặc trưng của kiến trúc Huế và chùa Huế nói riêng là gì? Và khi Huế hướng đến việc xây dựng hình ảnh của một thành phố Festival, chùa Huế có còn là một điểm đến trong lòng du khách, một nét đẹp mà khách viễn phương cần phải chiêm ngưỡng khi đến đất thiền kinh? Chiêm ngưỡng, cho dù dưới bất kỳ hình thức nào: tham quan du lịch, hành hương, thiện nguyện… hay chỉ đơn giản là trải nghiệm.

Kiến trúc chùa Huế cổ truyền thường được kiến trúc trên dạng vật liệu nhẹ, tồn tại trong không gian, sinh cảnh có khí hậu ẩm thấp, nguy cơ thiên tai đe dọa thường xuyên, nên đa phần ngôi chùa Huế rất dễ hư hỏng. Chính vì thế, hình ảnh và quy mô hiện nay của ngôi chùa Huế, phần lớn đều là kết quả sau cùng của những đợt trùng tu, đại trùng tu, được tiến hành trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, cho dù có tái thiết, thay đổi không gian, hay xây dựng bằng vật liệu hiện đại…, thì nhìn chung, chùa Huế vẫn giữ được nét truyền thống, phản ánh những mối quan hệ mật thiết với kiểu kiến trúc cung đình và dân gian xứ Huế, từ nội đến ngoại thất. Ngoài ra, chùa Huế cũng tiếp thu lối kiến trúc cắt mái hai tầng, tạo dáng cổ lâu, làm cho mái chùa có phần thanh thoát, nhẹ nhàng (chùa Tây Thiên, Báo Quốc, Quốc Ân, Diệu Đế…). Bên cạnh đó, một số ngôi chùa khác vẫn giữ nguyên quy cách truyền thống với tầng mái liền, sâu và rộng, không có tiền đường phía trước chính điện (chùa Viên Thông, Quảng Tế, Thiên Hưng…) [15]. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Kiến trúc chùa mới hiện nay dần xa rời mẫu hình của nhiều ngôi chùa cổ với sự thể hiện của vật liệu hiện đại, sự thu hẹp cảnh quan và nhu cầu mở rộng không gian. Tuy rằng, việc giải quyết mặt bằng sử dụng trong những ngôi chùa truyền thống Huế vốn đã xuất hiện từ rất sớm nhằm đáp ứng nhu cầu, lẫn số lượng tín đồ hành lễ bằng lối kiến trúc trùng thiềm – điệp ốc và trần thừa lưu, dạng cấu trúc này vẫn giữ được sự ấm áp, gần gũi khi chiều cao không gian bị giới hạn, sự xuất hiện của nhiều hàng cột không mang lại cảm giác chật chội mà rất ấm cúng khi những pho tượng Tam thế, Dược Sư, Phổ Hiền… vẫn hiển hiện trong tầm mắt người chiêm bái. Việc giải quyết không gian bằng tính năng vật liệu mới như hiện nay mang lại cảm giác cao lộng, phủ chụp và mang tính trấn áp của kiến trúc. Hiện nay, việc trùng tu tôn tạo chùa Huế đang rơi vào một số hiện tượng sau:

Về kiến trúc: xu hướng Bắc hóa hoặc Trung Quốc hóa trên mặt thể hiện, cấu trúc, lẫn mô típ trang trí, làm mất đi những nét riêng của kiến trúc Huế.

Không gian nội thất: xu hướng nâng chiều cao và mở rộng không gian nội thất dễ mang lại cảm giác trấn áp, người chiêm bái trở nên quá nhỏ bé trước một không gian có thể nói là rất “hoành tráng”, và để phù hợp với dạng không gian như thế này, hệ thống tượng thờ thường được làm lớn hơn. Hình ảnh đức Thích Ca lúc này không còn nguyên vẹn là vị bổn sư hiền từ và gần gũi trong lòng bổn đạo, mà phần nào đã trở thành vị giáo chủ với nhiều quyền năng, và ngày càng xa tầm với.

Vườn chùa Huế: Những khu vườn Huế đặc trưng đã mai một, thay vào đó là hình ảnh của những tiểu cảnh Nhật Bản hoặc Trung Hoa. Tư tưởng Phật giáo vì thế cũng chuyển lệch sang những biểu hiện của Lão giáo. Hòa vào thiên nhiên, trấn áp thiên nhiên là hai cách thể hiện, hai tinh thần khác biệt và là hai xu hướng hoàn toàn khác nhau. Đành rằng, không như những loại hình di sản khác, ngôi chùa vẫn đã, đang và sẽ là vật thể sống trong lòng hàng triệu triệu tín đồ chứ không phải là một hóa thạch cần bảo tồn nguyên dạng, nhưng những biểu hiện của nhiều ngôi chùa Huế hiện nay làm nảy sinh nhiều vấn đề rất đáng quan tâm, nếu chúng ta chỉ nhìn chúng dưới con mắt của người làm văn hóa.

Mặc dầu, khác với những loại hình di sản kiến trúc khác của Huế, ngôi chùa là một loại hình di sản sống chứ không đơn thuần là một bảo tàng tín ngưỡng, nên sự vận động của nó trong xã hội hiện đại là xu thế dù muốn hay không chúng ta buộc vẫn phải đối diện. Tuy nhiên, nếu để nó “sống” một cách tự do, không quy tắc ràng buộc thì di sản kiến trúc đặc thù như chùa Huế sẽ không còn là chính nó. Chính vì thế, vẫn rất cần sự can thiệp của một bộ phận, bằng những nghiên cứu của mình, đúc kết thành những tiêu chí làm nên hình ảnh mái chùa xứ Huế trong lòng người Phật tử, lẫn du khách. Những tiêu chí này sẽ là bắt buộc đối với những ngôi chùa xây mới, hoặc cần phải cải tạo, nâng cấp – chỉ riêng về mặt đặc trưng kiến trúc. Nếu được như thế, dù tuổi đời không lớn, dù tồn tại dưới bất cứ “cơ thể” nào, hay quy mô nào, hình ảnh ngôi chùa vẫn mãi là một phần của di sản Huế: một di sản đặc biệt trong lòng một di sản đặc biệt. Và đấy chính là một trong những thế mạnh cần lưu tâm trong chiến lược phát triển du lịch của Huế. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

3.2.2.2. Bảo tồn Lễ nhạc Phật giáo Huế

Lễ nhạc, cũng như các loại hình nghệ thuật Phật giáo khác, được chi phối bởi hệ thống triết học và quan niệm của tôn giáo này. Nhưng, trên mỗi vùng đất cụ thể, trong quá trình hội nhập tiếp biến, Phật giáo của mỗi vùng đất đã có những cải biến linh hoạt để phù hợp với tâm lý cũng như quan niệm chung của dân chúng trên vùng đất đó. Lễ nhạc Phật giáo Huế cũng vậy, qua thời gian đã tạo riêng cho mình một dấu ấn, với những nét riêng biệt, trong dòng chảy âm nhạc truyền thống của dân tộc.

Ngoài việc kế thừa truyền thống âm nhạc vốn có của Phật giáo, tiếp biến lễ nhạc Phật giáo Trung Hoa, lễ nhạc Phật giáo Huế còn khéo léo vận dụng các hình thức âm nhạc vốn có của vùng đất này nhằm mục đích truyền bá, duy trì đạo pháp. Việc kế thừa những khoa nghi, cho đến các bài tán tụng, theo pháp độ và kinh điển mà Phật giáo Trung Hoa đã thiết lập, đó là điều dễ nhận ra trong quá trình diễn xướng lễ nhạc Phật giáo Huế. Nhưng, âm điệu tán tụng cùng với âm nhạc phù trợ trong lễ nhạc Phật giáo Huế, trên phương diện ngữ âm, giai điệu và bài bản âm nhạc, thì lại hoàn toàn mang tính truyền thống của vùng văn hóa này. Chính vì thế, lễ nhạc Phật giáo Huế đã trút bỏ được nhiều màu sắc của lễ nhạc Phật giáo Trung Hoa, bằng những cải biến linh hoạt của mình. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Có thể nhận thấy, lễ nhạc Phật giáo Huế dễ dàng dung hợp được nhiều loại hình âm nhạc truyền thống khác, bởi vì đặc tính âm nhạc truyền thống của các dân tộc phương Đông và Việt Nam nói chung, cũng như âm nhạc truyền thống vùng Huế nói riêng, cho dù đã được ký âm, ghi lại bằng nhạc phổ, nhưng chúng thường có tiết tấu linh hoạt, không chuẩn hóa cao độ và trường độ như âm nhạc phương Tây, cho nên, mỗi trường phái, hay mỗi người thể hiện, không phải hoàn toàn là phiên bản của nhau, mà điều đó còn tùy thuộc trình độ thẩm âm, sự tài hoa, tâm trạng của từng người. Điều này lý giải cho việc vận dụng âm nhạc truyền thống vùng văn hóa Huế, kể cả âm nhạc cung đình, dù đã được điển chế và trở thành quy tắc bắt buộc đối với các nhạc công khi biểu diễn, nhưng vẫn được thể hiện trong lễ nhạc Phật giáo Huế một cách hài hòa.

Sự linh động của Phật giáo Huế, vì mục đích hoằng pháp lợi sinh, đã vận dụng tối đa những lợi thế âm nhạc vốn có của vùng đất này để chuyển hóa vào trong nghi lễ. Trên chất liệu ca từ không thể vượt ra ngoài giáo lý nhà Phật, việc vận dụng các hình thức âm nhạc truyền thống nhằm tạo nên sự sinh động truyền cảm, thu hút lòng người đến với Phật pháp, truyền bá giáo lý, chuyển hóa nhân tâm là một thành công về Phật sự của các nhà hoằng pháp mà vai trò lễ nhạc Phật giáo Huế cần phải khẳng định. Mỗi một thể loại âm nhạc đều có một đời sống xã hội riêng, một môi trường diễn xướng chuyên biệt và mang một chức năng xã hội nhất định. Đối với lễ nhạc Phật giáo Huế, âm nhạc gắn bó chặt chẽ với nghi lễ, đó là một thực thể không tách rời. Các hình thức âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo Huế được vận dụng một cách khá linh hoạt. Có thể nói, lễ nhạc Phật giáo Huế điểm chính yếu được chú trọng là thanh nhạc, nội dung mà âm nhạc tập trung chuyển tải chủ yếu thông qua các hình thức biểu đạt ý nghĩa bằng ca từ. Tương ứng với mỗi buổi lễ có các bài tán, tụng, niệm, xướng, dẫn, bạch, vịnh, thỉnh, ngâm, thài… phù hợp. Còn các nhạc cụ chỉ đóng vai trò thứ yếu, bổ trợ cho nghi lễ, nhưng nó góp phần làm cho các buổi lễ trở nên trang nghiêm, long trọng, thu hút được lòng người, hướng con người đến với đạo pháp, thâm nhập giáo lý của nhà Phật. Tính chất hùng tráng, trang nghiêm, cao quý của đại nhạc, tính chất sâu lắng, vui tươi, êm dịu của tiểu nhạc, trong âm nhạc cung đình, được vận dụng vào lễ nhạc Phật giáo Huế một cách linh hoạt. Đối với các bài bản không có lời ca đi kèm, so với âm nhạc chính thống được điển chế ở cung đình, khi diễn tấu trong không gian nghi lễ Phật giáo hầu như không có sự khác biệt lớn. Những bài bản như: Tam luân cửu chuyển, được tấu lên mở đầu cho một đại lễ, lúc thượng phan sơn thủy, dịp khánh hỷ…; còn Đăng đàn kép, Đăng đàn đơn… được dùng cung nghinh chư Tăng, thỉnh Sư đăng tòa hành lễ, thuyết pháp…; Và Long ngâm (âm) được dùng rất linh động khi chủ sám niêm hương hay đan xen vào những khoảng trống của buổi lễ, khi không có lời tán tụng của các kinh sư…

Bên cạnh đó, những bài bản của âm nhạc dân gian vẫn được đưa vào diễn tấu trong nghi lễ Phật giáo Huế, chẳng hạn: Thái bình, Cách giải, Tam thiên, Tứ châu, Lai kinh, Tấn trạo,… và ngay cả bài Phần hóa diễn tấu trong lúc đốt vàng mã đình, miếu, từ đường, tư gia… và nhiều lễ tế khác trong dân gian cũng được vận dụng. Không chỉ như vậy, những làn điệu hò, lý, ngâm thơ, tùy vào từng lúc, cũng được vận dụng một cách triệt để. Tất cả làm cho lễ nhạc Phật giáo Huế trở nên phong phú, đa dạng hơn trong thể hiện. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Lễ nhạc Phật giáo Huế ngày xưa đã phát triển đến trình độ khá cao, điều đó có thể thấy được qua sự khảo cứu về lễ nhạc cổ điển. Nhưng lễ nhạc bây giờ của Phật giáo, theo người viết, về hình thức lẫn nội dung có lẽ thua kém xa ngày trước và phần nào không còn biểu lộ được nếp sống tâm linh siêu việt như lễ nhạc cổ điển. Lời văn trong nghi lễ đa phần là Hán văn, nhưng Hán ngữ ngày nay không được chú trọng và không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của lời bài tán, câu kệ… Chính vì thế để có thể bảo tồn và phát huy được những đặc trưng của Lễ nhạc Phật giáo nói chung và Lễ nhạc Phật giáo Huế nói riêng có thể dựa trên một số chủ trương và biện pháp sau:

Lễ nhạc cần phải được thiết lập một cách nghiêm chỉnh căn cứ trên truyền thống cũ. Những thanh âm, điệu thức của Thiền gia phải được duy trì và sáng tạo. Việt hóa những văn bản chữ Hán để khế hợp với căn cơ người thời nay (những người không có trình độ Hán Văn).

Về nhạc cụ có thể dùng bằng chất liệu ngày nay (kỹ thuật mới), phải có sự giao lưu giữa ba miền, tạo điều kiện gặp gỡ thường xuyên giữa các nhà nghiên cứu có kiến thức uyên thâm, kinh nghiệm hành trì về lễ nhạc Phật giáo.

Giáo hội Phật giáo Huế cần phải thành lập một trường chuyên đề về âm nhạc Phật giáo hoặc có thể đưa lễ nhạc Phật giáo thành một môn học chính thức tại trường Phật học để các Tăng Ni trẻ có điều kiện tiếp xúc, hầu có những tư tưởng và cái nhìn đúng đắn về vị trí lễ nhạc trong Phật giáo.

Những buổi lễ truyền thống Phật giáo như tết Nguyên Đán, Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan, các buổi lễ tưởng niệm quý Hoà Thượng có công trong Phật giáo… phải được sử dụng những nét nhạc cổ điển truyền thống, gạn lọc những nét nhạc ngoại lai, và phải nghiên cứu kỹ có nên chăng cử xướng dòng nhạc này nơi Điện Phật trong những buổi lễ truyền thống.

Đào tạo một số tu sĩ vững chãi về kiến thức và khả năng trong ngành nghi lễ, để có thể đưa lễ nhạc của đạo Phật tiến đến những hình thức phù hợp với tâm lý và ngưỡng vọng của con người thời đại đồng thời phải đào tạo một đội ngũ kế thừa truyền thống quý báu mà các vị tổ sư đã dầy công xây dựng.

3.2.3. Tăng cường công tác nghiên cứu và thành lập Nhà Bảo tàng Văn hóa nghệ thuật Phật giáo Huế Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Có nhiều ý kiến cho rằng với vốn văn hóa phong phú, đa dạng và vô cùng đặc sắc, Huế có đầy đủ điều kiện để thành lập nhiều nhà bảo tàng chuyên ngành như Bảo tàng Ẩm thực, Bảo tàng Nghi lễ, Bảo tàng Âm nhạc Cung đình và Bảo tàng văn hóa Phật giáo Huế. Những bảo tàng này sẽ là nơi lưu giữ những nét riêng độc đáo của lịch sử và văn hóa Huế, làm cho Huế khác với những nơi khác. Và quan trọng là, chỉ riêng Huế mới có thể xây dựng được những bảo tàng như thế nhờ những truyền thống văn hóa Phật giáo có tính đặc trưng riêng biệt đặc sắc của xứ Huế có giá trị to lớn. Thêm nữa, những kinh sách, những bài thuyết pháp của các vị quốc sư, những bài kệ – thi phẩm Thiền, những văn bia ở các chùa, các Thiền viện, những lễ hội Phật giáo được tổ chức hàng năm ở rất nhiều chùa chiền trên khắp đất nước, cũng như phép ứng xử chan hòa, bao dung và lối sống thanh sạch, cần kiệm, khiêm cung của những Phật tử chân tu, đều là những di sản văn hóa Phật giáo phi vật thể, nằm trong kho báu mà tổ tiên chúng ta để lại, rất cần được gìn giữ, kế thừa.

Đặc biệt, các cơ sở thờ tự của Phật giáo, những ngôi chùa hài hòa nét kiến trúc Phật giáo dân tộc và mang nét riêng đặc sắc của vùng Thuận Hóa. Đó là nơi tụ hội của làng, của cả vùng, trong những dịp lễ tết, những ngày hội chùa. Nhiều ngôi chùa có kiến trúc đẹp, có những pho tượng quý, cùng đồ thờ cúng, bài trí có dáng vẻ hấp dẫn, chạm khắc tinh xảo, thực sự là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.

Việc thành lập Bảo tàng văn hóa Phật giáo Huế là ước mơ của nhiều vị lãnh đạo Phật giáo ở trong cũng như ở ngoài nước từ mấy chục năm qua. Bởi vì những báu vật hiện được lưu giữ trong các chùa là tài sản riêng của các chùa, nên để thấy được những giá trị của chúng thì cần thống kê, chọn lọc và trưng bày tại một không gian riêng đủ lớn, đủ rộng để cho tất cả người dân và du khách đến Huế đều có cơ hội chiêm ngưỡng. Tuy nhiên để điều này có thể trở thành hiện thực thì việc quan trọng cần làm là: Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

  • Lập một bộ atlas đánh dấu có hệ thống các chùa vua, chùa Tổ, chùa làng, chùa dân lập trên toàn cõi Thừa Thiên – Huế;
  • Điều tra, thống kê, chú giải về hoàn cảnh ra đời của các hiện vật cổ trong các chùa (có thể nhờ sinh viên các Học viện Phật giáo thực hiện); nếu cổ vật không được đưa về trưng bày ở Nhà bảo tàng, những người ngưỡng mộ khi xem Atlas có thể đến tham quan tại chỗ (cũng giúp cho các chùa ở các vùng hẻo lánh có dịp đón khách đến thăm);
  • Giáo hội cần soạn thảo một qui chế hoạt động của Nhà Bảo tàng, qui định rõ quyền sở hữu của các chùa đối với những hiện vật đưa đến trưng bày trong Nhà Bảo tàng;
  • Giáo hội kêu gọi Phật tử trong và ngoài nước dành một phần tiền làm chùa mới, tiền cúng dường cho Quỹ Xây dựng Nhà Bảo tàng văn hóa Phật giáo Huế.

Trước khi viên tịch, Hoà thượng Thích Thiện Siêu có tâm sự với những người quan tâm đến Bảo tàng văn hóa Phật giáo ở Huế rằng chính quyền Thừa Thiên – Huế cũng đã rất quan tâm đến vấn đề này. Như thế ý của nhà nước và lòng Phật tử Huế đã gặp nhau. Phải chăng chỉ còn vấn đề thời gian?

Ngoài ra Huế cũng có thể thành lập một nhà Bảo tàng chuyên về ẩm thực nhằm tôn vinh di sản ẩm thực đặc sắc của vùng đất cố đô, trong đó có ẩm thực chay. Điều này có thể thực hiện được bởi du khách luôn có mong muốn có cơ hội tìm hiểu và trải nghiệm nhiều hơn với những nét văn hóa của những vùng đất mình đi qua, đặc biệt là tìm hiểu thông qua ẩm thực. Ngoài việc trực tiếp thưởng thức các món ăn, thức uống, du khách còn có nhu cầu tìm hiểu về lịch sử của món ăn, về các nguồn nguyên liệu và những tinh hoa trong nghệ thuật chế biến, bày biện và thưởng thức món ăn đó. Do vậy, một bảo tàng ẩm thực là nơi thích hợp nhất để du khách tìm đến nhằm thoả mãn nhu cầu tìm hiểu và khám phá nền văn hóa ẩm thực của xứ Huế.

Bảo tàng ẩm thực Huế sẽ là nơi trưng bày và giới thiệu tất cả những gì liên quan đến văn hóa ẩm thực Huế; từ các món ăn, đến những tinh hoa trong tuyển chọn nguyên liệu, tẩm ướp gia vị, kỹ thuật nấu nướng, cho đến những triết lý khi bày biện đồ ăn thức uống và nét văn hóa khi thưởng thức. Ở đó sẽ có những không gian riêng cho ẩm thực cung đình, ẩm thực dân gian và ẩm thực chay. Đó sẽ là nơi giới thiệu cả món mặn lẫn món chay; cả các thứ thưởng thức tại chỗ lẫn hàng quà mua về. Bảo tàng ẩm thực Huế sẽ là một “bảo tàng mở”, nơi du khách không chỉ được chiêm ngưỡng các món ăn, thức uống được giới thiệu qua các hiện vật, hình ảnh, tư liệu thành văn, phim ảnh, băng từ…, mà còn là nơi họ được tham gia trực tiếp vào quá trình tuyển chọn nguyên liệu, ướp tẩm gia vị, nấu nướng các món ăn dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân ẩm thực. Và sau cùng, đó là nơi họ có thể thưởng thức những món ăn do chính họ làm ra theo phong cách Huế và thấm đẫm phong vị Huế.

Bảo tàng ấy nên tồn tại trong một không gian nhà vườn Huế, với những cấu trúc liên hoàn được hình thành từ những ngôi nhà rường kiểu Huế. Và nếu được, nên có một khoảnh vườn để trồng các thứ cây gia vị Huế. Sau cùng bảo tàng ẩm thực Huế không nên tồn tại một cách riêng biệt như những bảo tàng khác từng thấy Huế mà chỉ là một điểm dừng trong tour “du lịch ẩm thực” khép kín. Sau khi ghé thăm bảo tàng để tham quan, chiêm ngưỡng di sản ẩm thực Huế được trưng bày nơi đây, du khách sẽ tiếp tục tour “du lịch ẩm thực” của mình bằng việc cắp giỏ đi chợ với “một bà nội trợ xứ Huế” để học cách lựa chọn nguyên liệu, hay ghé qua một điền viên để lựa mua những con gà, con cá, mớ rau… được chăm sóc và nuôi trồng theo công nghệ “sạch”. Sau cùng mới trở về bảo tàng học cách nấu nướng và thưởng thức những “món ăn Huế” mà tự tay họ làm ra để thấy được tất cả những giá trị đặc sắc của ẩm thực chay xứ Huế. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Để Huế có được một bảo tàng ẩm thực xứng tầm, thì du khách đến Huế sẽ có thêm một điểm đến hấp dẫn và ngành bảo tàng Huế sẽ có một điểm son trong đánh giá của du khách bốn phương.

3.3. Một số giải pháp khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ phát triển du lịch tại thành phố Huế

Phật giáo và những vấn đề thuộc về phật giáo xứ Huế đã và đang là một mảng rất quan trọng làm nên hình ảnh của một thành phố Festival. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, và định hướng khai thác giá trị loại hình văn hóa này vẫn còn đang ở mức độ nhất định và đang cần nhiều sẻ chia nhằm có được một loại hình du lịch khai thác được các giá trị văn hóa Phật giáo mà không làm biến dạng những giá trị mà tôn giáo này mang lại.

3.3.1. Xây dựng các chuyên tour du lịch đến các chùa

Chùa Huế là một thực thể sống động và phát triển, chứa đựng những dòng chảy văn hóa đặc sắc nối quá khứ với hiện tại, nối con người với văn hóa tâm linh…

Đến với chùa Huế, du khách không chỉ được vãn cảnh vườn thiền, thưởng thức ẩm thực chay Huế… mà còn được đắm mình trong dòng lịch sử, văn hóa phật giáo đặc trưng của vùng đất Phú Xuân – Huế.

Mỗi ngôi chùa không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo hòa quyện giữa con người với cảnh quan thiên nhiên, mà còn là một địa chỉ lịch sử, văn hóa, tâm linh đặc sắc. Nhiều ngôi chùa đã trở thành biểu tượng đặc trưng trong đời sống văn hóa tâm linh Huế, trong đó có những ngôi Tổ đình, cổ tự nổi tiếng từ hàng trăm năm như Chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Báo Quốc, Từ Hiếu, Quốc Ân,Trúc Lâm, Thiền Tôn, Trà Am, Vạn Phước…

Chùa Huế xuất phát có 2 loại: một là những ngôi thảo am nhỏ nhắn giữa chốn núi rừng thâm nghiêm, hai là cổ tự khang trang, vàng son lộng lẫy nhờ sự cúng dường từ vua quan, nhưng không gian, kiến trúc, mô típ trang trí chùa Huế đều hài hòa với thiên nhiên. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Thông qua việc khảo sát thực trạng du lịch hiện nay, nhu cầu của nhiều đối tượng du khách cũng như bản thân điều kiện cụ thể tại các ngôi chùa Huế, chúng ta có thể xây dựng một số chuyên tour du lịch đến các ngôi chùa Huế nhằm nâng cao khả năng khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo Huế phục vụ phát triển du lịch.

3.3.1.1. Tour tham quan, vãn cảnh chùa Huế trong thời gian một ngày

Du khách sẽ được tham quan từ ba đến bốn ngôi chùa tiêu biểu và nổi tiếng của xứ Huế như hai ngôi quốc tự dưới triều Nguyễn: Thiên Mụ và Diệu Đế; trung tâm giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế: chùa Từ Đàm và ngôi chùa thờ các thái giám triều Nguyễn: chùa Từ Hiếu. Với chuyên tour này, du khách sẽ di chuyển bằng phương tiện xe ô tô, buổi trưa sẽ được các vị sư mời ăn cơm chay tại chùa Từ Đàm. Điểm nhấn của tour là trong thời gian ngắn ngủi, du khách sẽ được trở về với thiên nhiên, được đắm mình trong cảnh sắc hữu tình của các ngôi chùa Huế, được nghe kể về lịch sử phát triển Phật giáo xứ Đàng Trong và đặc biệt là được nghe giới thiệu về những nét kiến trúc, điêu khắc đặc sắc trong từng ngôi chùa. Tuy nhiên, chuyên tour này cũng đòi hỏi hướng dẫn viên phải là những người có kiến thức sâu sắc để có thể truyền tải được cho du khách hết cái hay cái đẹp ẩn tàng trong những nếp ngói chùa thâm nghiêm. Có lẽ những trải nghiệm mới về 1 ngày trong chùa sẽ giúp cho du khách thập phương có cái nhìn khách quan hơn về phật giáo của Huế. Đến chùa ăn chay, khám phá ẩm thực chay của Huế và kiến trúc lịch sử của chùa để thấy lòng mình bình tâm hơn trong vòng quay gấp gáp của cuộc sống hiện đại và thứ âm thanh tinh khiết của chuông chùa sẽ khơi dậy trong tâm hồn con người những ý nghĩ tốt đẹp.

3.3.1.2. Tour du lịch hành hương

Du lịch hành hương là một loại hình du lịch cho những ai thực sự muốn hướng thượng, giải tỏa mọi căng thẳng, chuyển hóa mọi phiền não trong thân tâm thông qua chuyến hành hương đến những địa điểm thiêng liêng mà người hành hương mong muốn. Do đó, tour du lịch hành hương không những hoàn thiện về tâm linh mà nhu cầu vật chất cũng phải được đảm bảo một cách tốt nhất, vì thân không cực khổ mới dẫn đến tâm an lạc. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Về cơ bản, có thể chia du lịch hành hương thành hai loại dựa trên yếu tố nhà tổ chức là công ty du lịch hay do chính các chùa đứng ra tổ chức. Đối với loại hình do công ty lữ hành tổ chức lại có thể chia thành hai dạng: một là hành hương theo yêu cầu và hai là hành hương theo tour. Tour theo yêu cầu sẽ do khách hàng tự chọn địa điểm, thời gian dừng lại các địa điểm hành hương, đơn vị lữ hành sẽ đảm bảo về đi lại, dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi… Còn hành hương theo tour có sẵn sẽ đưa khách đến các địa điểm nổi tiếng, thường là theo dạng đi hàng loạt chùa, tổ chức làm việc thiện, thả chim phóng sinh… Loại tour này cũng có các loại hình đi kèm thêm như ẩm thực chay, trà đạo, thuyết pháp…

Điểm chung của các loại hình du lịch hành hương do các đơn vị Phật giáo tổ chức là giá rất rẻ, có khi chỉ bằng phân nửa so với các công ty du lịch. Ngoài ra, do hướng dẫn viên cũng đồng thời là các nhà tu hành nên có quan hệ rộng với các chùa khác, am hiểu cặn kẽ về văn hóa-lịch sử Phật giáo của từng địa phương, cho nên có thể vừa đồng hành khách hành hương, vừa sẵn sàng giải đáp những thắc mắc liên quan đến sinh hoạt tín ngưỡng. Tuy nhiên, điểm khó của các loại hình du lịch hành hương hiện nay là các đơn vị du lịch thì thiếu sự hiểu biết chuyên sâu về các vấn đề liên quan đến tôn giáo, còn các đơn vị tôn giáo thì thiếu những dịch vụ du lịch chuyên nghiệp. Chính vì vậy, để có thể tổ chức thành công một tour du lịch hành hương ở Huế, nên xem xét các yếu tố như:

Về địa điểm: nên chọn chùa Từ Đàm vì ngôi chùa này có lịch sử phát triển lâu dài và thăng trầm cùng lịch sử Huế cũng như lịch sử Phật giáo xứ Đàng Trong; Kiến trúc của chùa hiện nay là khuôn mẫu cho nhiều ngôi chùa khác ở Huế; với vị thế là Trung tâm giáo hội Phật giáo Huế nên tại đây cũng thường diễn ra các đại lễ lớn của Phật giáo cố đô.

Về hình thức nhà tổ chức: Các công ty du lịch nên có kế hoạch kết hợp với nhà chùa để đưa du khách tham dự tour du lịch hành hương này, công ty sẽ lo về khâu tổ chức cơ sở vật chất cho chuyến đi, còn các nhà sư trong chùa sẽ đóng vai trò thuyết minh và hướng đạo cho du khách trong suốt thời gian tham gia các hoạt động ở chùa.

Về đối tượng khách: Nên hướng tới các đối tượng du khách là khách quốc tế và khách nội địa đến từ các tỉnh thành khác nhau trong cả nước.

Về thời điểm tổ chức: Có thể tổ chức vào những ngày đại lễ lớn của Phật giáo như Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan, Lễ vía Phật A di đà (rằm tháng giêng)… Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Về nội dung chương trình Tour: xây dựng một chuỗi các hoạt động cho du khách để du khách có được những trải nghiệm tốt nhất của một chuyến hành hương như tham quan vãn cảnh, thưởng thức ẩm thực chay, nghe thuyết pháp, cùng nhau ngồi thiền và nếu có thể sẽ được hòa mình trong không khí lễ hội và được tìm hiểu trực tiếp về các thời khóa lễ nghi và nghệ thuật âm nhạc Phật giáo.

3.3.1.3. Du lịch thiện nguyện – Thực hành chánh pháp

Theo quan điểm của Thượng toạ Dhamma Chariya Ribaun Korn thuộc bộ Tôn giáo và Tín ngưỡng Campuchia cho rằng du lịch chánh pháp có nghĩa là cuộc hành trình với chánh pháp. Không có gì hạnh phúc và an vui cho bằng khi chúng ta đồng hành với chánh pháp. Du khách thường đi trên con đường (walk on a path) trong khi người Phật tử thì thực hành con đường (walk a path). Chỉ khi nào thực hành con đường chân chánh, chúng ta mới hướng đến giải thoát thật sự (Thích Nhật Từ, 2010). [21]

Chính vì vâỵ, du khách đến Huế có thể kết hợp du lịch và thực hành pháp thí, trong đó có cả việc truyền dạy những kinh nghiệm, nghề nghiệp của mình cho những thân phận thiệt thòi trong xã hội, đem lại hạnh phúc cho người khác chính là niềm hạnh phúc của bản thân. Với những trung tâm dạy nghề từ thiện như chùa Long Thọ, chùa Tây Linh (số 1 Tôn Thất Thuyết) với hơn 200 học viên là những trẻ em khuyết tật, đó là những địa chỉ mà du khách có thể đến để trực tiếp tham gia giảng dạy với rất nhiều nghề như may, thêu, đan, mộc mỹ nghệ…

Không chỉ giúp người khác giảm đi những khó khăn về mặt vật chất, Phật tử còn quan niệm giúp cho người khác không còn sự sợ hãi, không còn sầu muộn, không bi quan yếm thế, có thể vươn lên thắp lên ánh sáng niềm tin. Hiện nay chùa Đức Sơn đang nằm trong tour du lịch thiện nguyện quốc tế do Grand Circle Travel tổ chức thông qua hình thức tài trợ cơ sở vật chất hơn 3000usd/năm. Mặt khác, Cô nhi viện Đức Sơn cũng là một trong những địa chỉ nhân đạo của các thiện nguyện viên quốc tế với hơn 25 du khách – chủ yếu từ châu Âu đã đến chùa dạy tiếng Anh cho trẻ mồ côi nơi đây trong thời gian 1 tuần (2010). Đồng thời, Cô Nhi viện Đức Sơn vận động cứu trợ 1.082.700.000 đồng, xây dựng 16 căn nhà tình thương, thành lập 10 Trường Mẫu giáo với 81 lớp, có 1.270 cháu theo học, họ thường không còn nghĩ về sự giải thoát cho bản thân mà còn phải giúp người khác, không chỉ bố thí về mặt vật chất mà còn bố thí cả về tinh thần thông qua hoạt động ấn tống kinh sách hay cúng dường tam bảo, đúc chuông, tượng. Thông qua đó, tính thiện, hướng thiện của Phật pháp lan tỏa đại đồng. Không chỉ thức tỉnh tính thiện của mình và cho những người khác, nhiều Phật tử khi đến Huế còn thực hành hạnh bố thí bằng hành động cúng dường các dạng pháp khí như chuông, tượng…, góp phần chuyển tải âm thanh vi diệu của Phật pháp, thực hành Vô tự chân kinh. Từ nhu cầu đó cộng với tiềm năng hơn 56 làng nghề truyền thống, trong đó có những nghề nổi tiếng như đúc đồng Phường Đúc, chạm khảm Mỹ Xuyên, thêu ren… với trình độ tay nghề điêu luyện, những người thợ thủ công Huế có thể chế tác các sản phẩm tự khí tinh xảo đa dạng về chủng loại, phong phú về kích thước, hoàn toàn thỏa mãn nhu cầu, khiếu thẩm mỹ của bộ phận khách du lịch đặc biệt đó. Các làng nghề thủ công cũng là điểm đến quen thuộc của những Phật tử trong thực hành chánh pháp, làm từ thiện giúp đạo, giúp đời [21]. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

3.3.1.4. Du lịch thiện nguyện – Sinh hoạt gia đình Phật tử

Theo thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên – Huế, hiện nay toàn tỉnh có 91 đạo tràng Gia đình Phật tử, trung bình mỗi đạo tràng có từ 100 đến 500 Phật tử tham gia tu tập, có nơi gần 1.000 Phật tử tham gia. Đồng thời, tính toàn tỉnh có 197 đơn vị Gia đình Phật tử với 17.764 huynh trưởng và đoàn sinh đăng ký sinh hoạt trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam [21].

Gia đình Phật tử Thừa Thiên – Huế là một tổ chức xã hội Phật giáo có lịch sử lâu đời và đuợc tổ chức quy mô với nhiều hoạt động phát triển Phật pháp và xã hội phong phú như: sinh hoạt cúng dường các ngày lễ truyền thống Phật giáo và lễ tang, tưởng niệm, húy kỵ chư Tôn đức hữu công, tích cực tham gia các phong trào từ thiện xã hội như phòng chống HIV/AIDS, hiến máu nhân đạo… Mô hình kết hợp du lịch và cùng tham gia sâu vào những hoạt động Phật sự xã hội phong phú của Gia đình Phật tử có thể tạo nên những nét khác biệt cho du lịch thiện nguyện Huế không chỉ dành riêng cho Phật tử mà còn là điểm hấp dẫn, lôi cuốn tầng lớp thanh niên trong và ngoài nước.

Với bề dày về mặt thời gian, đông đảo về số lượng các ngôi cổ tự, sự phong phú về phong cách kiến trúc cùng với những nét độc đáo ở cảnh quan, kết hợp với những ưu thế về di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nơi đây, cũng như truyền thống “nhập thế” giúp đời của Phật giáo Huế là những yếu tố cực kỳ thuận lợi cho việc phát triển kinh tế du lịch nói chung và du lịch thiện nguyện nói riêng. Những di sản văn hóa Phật giáo, nổi bật với những hoạt động từ thiện xã hội rộng rãi và chuyên sâu là những điều kiện tốt cho loại hình du lịch thiện nguyện có điều kiện phát triển, để lại ấn tượng tốt trong lòng du khách. Đó cũng là một phương cách để ngành du lịch Huế đa dạng hóa sản phẩm, níu kéo thời gian lưu trú và tăng thêm số lần ghé lại của du khách. Như vậy, có thể thấy rằng những Trung tâm thiện nguyện Phật giáo Huế ngoài ý nghĩa là một con đường hoằng pháp, đồng thời nó còn mang một ý nghĩa xã hội to lớn, thể hiện tinh thần “nhập thế”, chung vai gánh vác những khó khăn cho xã hội. Từ đó, vô hình trung, thiện nguyện Phật giáo sẽ đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch Huế.

3.3.2. Nâng tầm Lễ hội và tăng cường khai thác giá trị văn hóa Phật giáo trong các Lễ hội phật giáo tại Huế Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Trong xu thế của xã hội hiện đại, nhu cầu tâm linh của con người luôn được đặt ra và chú trọng nhiều hơn, và hình thức du lịch tâm linh hay du lịch hành hương vốn đã có từ lâu, nay lại được đặt ra, đồng thời được gắn liền với lễ hội và lấy nó như là một hướng chiến lược quan trọng để phát triển du lịch. Cho nên, phát triển du lịch gắn liền lễ hội Phật giáo với Huế là một hướng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo với tiềm năng phát triển du lịch tâm linh hấp dẫn và đa dạng, đồng thời qua đó, cũng cho thấy nhiều vấn đề đã, đang đặt ra nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Phật giáo Huế trước những tác động của xu thế xã hội, cũng như trong mối quan hệ gắn kết: văn hóa – du lịch hay lễ hội Phật giáo – du lịch tâm linh trong bối cảnh xã hội đương đại.

Mặc dù có nhiều phương thức khai thác khác nhau, ví dụ như thực hiện festival lễ hội Phật giáo Huế, giống như thành phố đã từng năm thực hiện các festival về các nghề thủ công truyền thống, điều này có thể thực hiện được bở i Huế là vùng đất phật, tinh thần Phật giáo thấm đượm trong các sinh hoạt của con người nơi đây với niềm tin tâm linh chi phối mạnh mẽ nên các lễ hội diễn ra đều có sự tự nguyện của mỗi người dân dù họ là tín đồ hay không phải tín đồ khi tham gia vào lễ hội.

Huế có hai Lễ hội Phật giáo quan trọng có thể chọn làm điểm nhấn để thu hút khách du lịch đến và tìm hiểu về những giá trị văn hóa Phật giáo Huế. Đó là các Lễ Phật đản và lễ hội Quán Thế Âm, những năm qua đều đã thu hút một lượng khách hành hương từ các tỉnh khác đến và cả các đoàn phật tử nước ngoài, họ tham dự lễ hội như chính người dân địa phương với niềm tin tâm linh sâu sắc. Cũng với tinh thần đó, lễ hội Phật giáo Huế đã quảng bá hình ảnh của mình đến với du khách, sự mộ đạo và niềm tin tâm linh hay tinh thần bao dung của Phật giáo đến với mọi người.

Cái hay và hiệu quả kinh tế từ việc phát triển du lịch tâm linh/hành hương trong hệ thống lễ hội truyền thống của dân tộc Việt đang ngày được khẳng định một cách chắc chắn. Do đó, hướng khai thác du lịch tâm linh là một trong những hướng khai thác lễ hội Phật giáo Huế khá thuận tiện và hiệu quả. Bởi vì thời gian, chương trình thực hiện lễ hội đã được ấn định rõ ràng (mặc dù ở các nơi khác Phật giáo cũng tổ chức các ngày lễ vía quan trọng này) và các giá trị văn hóa đặc trưng được thể hiện qua lễ hội chính là sức hút mọi người đến với lễ hội Phật giáo Huế. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả khai thác những kễ hội này trong hoạt động du lịch, không đơn thuần chỉ để cho du khách hòa vào dòng người đi xem lễ, hay đến chùa chiêm bái thắp hương mà quan trọng hơn cả là tạo cho họ không gian để có thể cảm nhận cái hay, cái đẹp, để có thể thẩm thấu những giá trị tinh thần tâm linh sâu sắc của văn hóa và nghệ thuật Phật giáo Huế, mà một trong những giá trị văn hóa cần được đẩy mạnh khai thác đó là Lễ nhạc Phật giáo Huế.

Do tính chất đặc thù của lễ nhạc Phật giáo, âm nhạc gắn bó chặt chẽ với nghi lễ nên không thể tách riêng phần âm nhạc ra để thể hiện, như một số loại hình âm nhạc khác. Nếu đưa lễ nhạc Phật giáo thành một loại hình dịch vụ để phục vụ du khách, bằng cách sân khấu hóa, thiết kế bài bản, chiêu tập kinh sư, nhạc công, ấn định thời gian diễn xướng… để bán vé cho du khách thưởng lãm, như ca Huế, nhã nhạc là điều không cần thiết bởi làm như vậy sẽ mất đi tính thiêng liêng của loại hình giáo nhạc này. Rõ ràng, điều này khó có thể được chấp nhận từ những người diễn xướng, nhất là những người tu hành.

Để lễ nhạc Phật giáo Huế đến được với du khách một con đường tiện lợi nhất đó chính là giới thiệu cho du khách đến trực tiếp tham dự các nghi lễ của Phật giáo. Trong tất cả các nghi lễ thường nhật, thường nguyệt, thường niên và các nghi lễ đặc biệt của Phật giáo Huế, bao giờ cũng toát lên những nét đặc trưng về âm nhạc riêng có ở vùng đất này. Tuy nhiên, người hướng dẫn cần phải dẫn giải, giới thiệu giúp cho du khách có thể khám phá, trải nghiệm. Đó cũng là một cách làm tăng thêm sức hấp dẫn của du lịch Huế nói chung và du lịch Phật giáo Huế nói riêng.

Trong các tuyến lữ hành, ngoài việc được nghe, nhìn hệ thống nghi lễ vừa đề cập một cách thụ động, chúng ta cũng nên nghĩ đến một tuyến du lịch khác mà du khách được trực tiếp tham gia hành lễ một cách chính thức vào nghi lễ của Phật giáo Huế, tất nhiên điều đó phải được thỏa thuận và có sự nhất trí của nhà chùa trong một nghi lễ cụ thể. Ở đó, trước khi được hòa nhập vào không gian nghi lễ, du khách có thể được nghe chính những người diễn xướng nói về những điều vi diệu của nghi lễ, nội dung của ca từ, những nét đặc trưng của các bài bản, giá trị nghệ thuật của âm nhạc, tác dụng về mặt tâm linh mà lễ nhạc mang lại. Có thể các công ty lữ hành, khai thác kết hợp thưởng thức lễ nhạc Phật giáo Huế với các loại hình du lịch như: tham quan, chiêm bái, kỳ nguyện, ẩm thực… trong một tuyến du lịch Phật giáo Huế mà lễ nhạc như một điểm nhấn thú vị. Có người hiểu biết dẫn giải là điều rất cần thiết, nếu không du khách khó có thể lĩnh hội được hết những nét độc đáo của lễ nhạc Phật giáo Huế, chẳng hạn, phần lớn ca từ trong lễ nhạc Phật giáo Huế đều sử dụng từ Hán Việt, đây là một điểm du khách khó có thể hiểu được ý nghĩa chuyển tải thông qua ca từ, mà thanh nhạc là điểm chính yếu của lễ nhạc.

Bên cạnh Lễ nhạc, một giá trị văn hóa Phật giáo khác của Huế cũng đã được khai thác khá thành công trong hoạt động du lịch những năm vừa qua đó chính là ẩm thực chay. Nhận thức được giá trị của việc ăn chay và ý nghĩa của việc quảng bá ẩm thực chay đến các phật tử cũng như nhiều đối tượng du khách, văn hóa ẩm thực chay đặc sắc của xứ Huế đã được đem ra giới thiệu tại một số lễ hội Phật giáo và các kỳ Festival trước đây như Đại lễ Phật đản 2009, 2010, Festival “Bếp Việt trong vườn Huế” 2011 và đã thu được những thành công nhất định. Song tiềm năng của ẩm thực chay còn có thể khai thác nhiều hơn thế. Để ẩm thực chay ngày càng đến được với nhiều người hơn, thiết nghĩ không nên tổ chức dàn trải hoặc lặp đi lặp lại một loại lễ hội mà có thể thay đổi linh hoạt theo từng năm. Nói cách khác, mỗi một năm nên chọn một lễ hội đặc trưng về phật giáo tại Huế để làm đòn bẩy đưa khách đến, đồng thời khắc phục được tính mùa vụ trong du lịch. Chẳng hạn năm nay có thể tổ chức vào dịp đại lễ Phật đản (tháng 4 âm lịch), năm tới tổ chức vào mùa Vu lan báo hiếu (tháng 7 âm) hoặc cũng có thể nghiên cứu lễ hội Quán Thế Âm (ngày 18,19 tháng 6 âm), biến lễ hội này thành một sự kiện văn hóa – tôn giáo lớn của tỉnh và tổ chức thay đổi thường xuyên hàng năm. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Tại những lễ hội này, Ban tổ chức cần nghiên cứu để tạo ra những không gian riêng biệt, độc đáo cho việc trình diễn ẩm thực chay. Đó có thể là một khung cảnh không gian hết sức bình dị và duyên quê với những ngôi nhà tranh tinh tế, dễ thương, được trang trí bằng những giàn bầu, giàn mướp cùng các loại cà, ớt, mồng tơi…; đó cũng có thể là không gian của một ngôi chùa cổ kính, một khu vườn thiền hay thậm chí là một gian thiền đường thanh tịnh, trầm mặc, giản dị, đơn sơ… Trong những không gian đó sẽ diễn ra các hoạt động như: giới thiệu các thực phẩm chay; thuyết giảng cho du khách có cái nhìn đúng đắn về giá trị của việc ăn chay, chế độ ăn uống khoa học, thái độ và phương pháp ăn uống cho sức khỏe và cộng đồng; giới thiệu món ăn chay truyền thống để phổ cập rộng rãi trong quần chúng. Đồng thời không thể thiếu đi phần quan trọng nhất là du khách sẽ được tận mắt chứng kiến các sư cô cùng phật tử chế biến những món chay truyền thống xứ Huế và thưởng thức tại chỗ. Chút duyên quê tạo thêm chút thanh đạm và thiền vị giúp du khách có một cảm giác đầy thành kính để hướng về đạo tâm thanh tịnh, về nẻo chính của phật pháp, và đạt tới sự hòa hợp thăng hoa giữa Đạo và Đời.

Song song với việc khai thác tại các lễ hội riêng của Phật giáo, ẩm thực chay cũng nên được quan tâm quảng bá sâu rộng tại các kỳ Festival được tổ chức 2 năm một lần tại Huế. Một trong những biện pháp khả thi là Tổ chức hội chợ ẩm thực, trong đó bên cạnh việc giới thiệu các món mặn, không thể không dành những không gian riêng cho các món chay. Để tạo ra sức hấp dẫn với du khách thì yếu tố quan trọng không thể thiếu là quảng bá, tiếp thị các món ăn chay đến với du khách. Vì vậy, thông qua hội chợ ẩm thực chay, du khách sẽ có được cái nhìn gần gũi hơn và tổng thể hơn về những món ăn chay xứ Huế. Họ cũng có cơ hội được thưởng thức trực tiếp, tại chỗ, từ đó tiếp tục giới thiệu sâu rộng hơn đến bạn bè và người thân.

3.3.3. Hướng tới xây dựng Fesstival văn hóa tâm linh Huế

3.3.3.1. Tiền đề tổ chức Festival tâm linh Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Tại Hội thảo “Di sản văn hóa Phật giáo và vấn đề phát triển du lịch ở Huế” được tổ chức vào tháng 5/2010, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã đưa ra một đề xuất được nhiều học giả quan tâm là tiến tới xây dựng một Festival tâm linh gắn liền với văn hóa Phật giáo Huế và đời sống tâm linh của người Huế. Cơ sở để ông Nguyễn Đắc Xuân đưa ra đề xuất này là theo tác giả, Huế có nguồn tài nguyên du lịch tâm linh ưu việt, cụ thể là:

“Không cần phải làm một cuộc khảo sát, chúng ta cũng có thể thấy được: Thừa Thiên Huế nói chung và Thành phố Huế nói riêng được thiên nhiên và con người ban tặng, trong vòng bán kính 40 km, Huế có đủ cảnh quan tiêu biểu của các địa phương của nước Việt Nam:

  • Rừng núi nguyên sinh ở Bạch Mã, ở phía tây các huyện Nam Đông A Lưới không thua gì Cúc Phương, Tam Đảo, Sa-Pa.
  • Vùng núi đồi phía Tây Huế, rừng thông Thiên An, không thua gì các đồi thông Đà Lạt.
  • Các bãi biển Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô không thua gì các bãi biển ở Đà Nẵng, Nha Trang.
  • Vùng đồng ruộng bao la ở các huyện Phong Quảng Điền người ta có thể nhầm là vùng ruộng đồng Nam Bộ.

Ngoài ra, Huế còn có những tài nguyên du lịch không nơi nào có được. Đó là con sông thơ mộng Hương Giang, vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, nhã nhạc và quần thể di tích văn hóa lịch sử Cố đô Huế đã được UNESSCO công nhận là hai di sản văn hóa thế giới, có hằng trăm ngôi chùa vua, chùa quan, chùa sắc tứ, chùa tổ, chùa làng…

Nếu xem nguồn tài nguyên du lịch đa dạng trên đây là “phần cứng” – không gian để tổ chức du lịch sinh thái – du lịch tâm linh, thì “phần mềm” – những yếu tố làm nên nội dung du lịch sinh thái – tâm linh phục vụ du khách ở Huế cũng vô cùng phong phú (Ở đây không đề cập đến các yếu tố phục vụ phát triển du lịch văn hóa lịch sử đang phục vụ).

  • Môi trường yên tĩnh, không gian nguyên sơ còn tương đối nhiều; ở vào trung độ của nước Việt Nam, có sân bay quốc tế, có cảng biển nước sâu;
  • Có đầy đủ vật phẩm sạch để chế biến các món ăn chay;
  • Có truyền thống nấu chay rất ngon, với một “đội ngũ” đầu bếp đông đảo;
  • Có các Tỳ-kheo, Tỳ- kheo ni uyên bác có kinh nghiệm rao giảng Đạo Phật, đưa Đạo Phật hiện đại hóa vào đời;
  • Còn giữ được di sản âm nhạc Phật giáo, giữ được và có thể huy động được nhiều cổ vật Phật giáo quý giá trong và ngoài nước mà khách du lịch văn hóa quan tâm; Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.
  • Huế bí ẩn, vẫn “luôn luôn mới” dưới mắt những người thích khám phá.
  • Trong thế giới âm hồn, biết bao người đã chết trong biến cố lịch sử như biến cố Nguyễn Huệ từ Qui Nhơn ra giải phóng Phú Xuân trong tay quân Trịnh năm 1786 (cuối thế kỷ 18), biến cố Thất thủ Kinh đô mở đầu thời Pháp thuộc năm 1885, (cuối thế kỷ 19), biến cố Mỹ phản kích hồi Tết Mậu thân 1968 (nửa sau của thế kỷ 20).
  • Thừa Thiên Huế là nơi có số lượng địa chỉ cúng tế thờ tự nhiều nhất ở Việt Nam: Ngoài các chùa, các nhà thờ họ, trên địa bàn Thành phố Huế, trước đây, BAVH khảo sát và thống kê có đến 214 nơi thờ cúng khác. Chỉ ở Huế mới có đàn Âm hồn của Nhà nước và nhiều đàn âm hồn của dân chúng, đặc biệt, Huế có Nghĩa trang Ba Đồn – nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất và xưa nhất ở Việt Nam.

Sống trong không gian lịch sử – thế giới của âm hồn, cho nên từ vua xuống đến thần dân Huế đều rất quan tâm đến việc tế tự cúng dường. Các tế lễ quốc gia như Tế Nam Giao, Tế Xã Tắc, Tế Thần hoàng, Tế thần Sông, Tế thần Biển, Tế Thần Núi, Tế Thần Lửa, Tế Âm Hồn, giỗ tổ và nghệ nhân Hát Bội ở Thanh Bình Từ Đường… Trong dân gian, làng xã nào cũng có tế, lễ; dòng họ nào cũng có “việc họ” cúng tế tổ tiên dòng họ mình. Đặc biệt ở Thừa Thiên Huế còn có tục Cúng Đất – nhớ ơn những người đã khai sơn lập ấp làm nên hai châu Ô, Lý tiền thân của địa bàn Trị Thiên Huế ngày nay; cúng 23 tháng 5 tưởng nhớ cúng dường những người đã chết trong ngày Thất thủ kinh đô năm 1885; lễ Điện Hòn Chén vào Rằm tháng 3 và Rằm Tháng 7 hằng năm cúng dường thần nữ Thiên-y-a-na, bà Liễu Hạnh”. [15 ; tham luận của Nguyễn Đắc Xuân, Phật giáo Huế và Festival tâm linh].

3.3.3.2. Mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức Festival tâm linh

Nếu đề án tổ chức Festival tâm linh Huế được đưa vào thực thi, sẽ có một ý nghĩa to lớn và toàn diện, tác động đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực văn hóa xã hội khác nhau. Trước hết, với Phật giáo – tôn giáo có số lượng tín đồ đông đảo nhất Việt Nam hiện nay, tổ chức Festival giúp cho dân chúng trong và ngoài nước, người Việt và người ngoại quốc được tiếp cận với Đạo Phật một cách khoa học, văn hóa, văn minh. Không chỉ có vậy, thông qua Festival này, đạo Phật nói chung và văn hóa Phật giáo Thuận Hóa – Phú Xuân xưa nói riêng được truyền bá rộng rãi, làm sống dậy những di sản văn hóa Phật giáo đã bị lãng quên. Việc tổ chức Festival thành công cũng góp phần đem lại một nguồn kinh phí để trùng tu, tôn tạo các ngôi chùa đang bị xuống cấp. Đồng thời, Huế tổ chức Festival tâm linh để phát huy tính ưu việt của lễ hội ở Huế góp phần giáo dục dân chúng về lễ hội, cũng là tạo cơ hội cho dân chúng nhớ ơn những người mình đã chịu ơn, đến với Phật thánh để thân tâm được an lạc.

Với ngành văn hóa du lịch: Có Festival tâm linh, Huế phát huy được một thế mạnh và sự độc đáo khác của mình – tức Kinh đô của Phật giáo Xứ Đàng trong. Với sự tham gia của Giáo hội Phật giáo, các cư sĩ và phật tử hữu tâm từ khắp mọi miền tổ quốc, việc tổ chức Festival đậm chất tâm linh hứa hẹn đem lại một hình ảnh khác cho hoạt động lễ hội, khắc phục được tình trạng cán bộ nhà nước làm du lịch – sân khấu hóa mọi hoạt động của lễ hội. Festival tâm linh tạo điều kiện cho đông đảo quần chúng tham gia, làm cho nội dung du lịch Thừa Thiện – Huế trở nên phong phú, thiết thực, sống động và luôn luôn mới. Hơn nữa, du khách đến tham dự Festival tâm linh, ngoài việc tham gia vào chuỗi các hoạt động tôn giáo thì dịch vụ chủ yếu mà họ sử dụng như lưu trú, ăn uống, đi lại vẫn do ngành du lịch Huế cung cấp. Không những thế, đến Huế trong dịp Festival tâm linh, du khách cũng được tự do thoải mái lựa chọn cho mình những tuyến du lịch và những điểm tham quan khác đã từ lâu trở nên nổi tiếng ở Huế. Nói một cách khác, Festival tâm linh có thể do Ban trị sự Phật giáo Huế chịu trách nhiệm tổ chức chính nhưng việc thực hiện, ngoài một số chùa, tự viện, thì vẫn đòi hỏi sự tham gia, sự chia sẻ và chung sức của các doanh nghiệp lữ hành – khách sạn trên địa bàn thành phố Huế. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Do đó, nếu chủ trương Festival tâm linh sớm trở thành hiện thực, Huế – thành phố Cố đô, cũng nổi tiếng là Kinh đô của Phật giáo Xứ Đàng trong, nay sẽ có dịp phát huy cả hai thế mạnh ấy. Thừa Thiên Huế nói chung và Thành phố Huế nói riêng sẽ trở thành Thành phố văn hóa lịch sử tâm linh mà không nơi nào trên nước Việt Nam có thể so sánh được.

3.3.3.3. Phác thảo nội dung tổ chức Festival tâm linh

Trên cơ sở thống kê tài nguyên văn hóa tâm linh của Huế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng Huế có đầy đủ tiềm năng để tổ chức một kỳ Festival tâm linh xen kẽ với các kỳ Festival hiện nay đang do ngành Văn hóa thể thao và du lịch tổ chức vào các năm chẵn. Người viết cũng đồng quan điểm với nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân và hy vọng rằng một Festival tâm linh như vậy sẽ sớm được tổ chức ở vùng đất cố đô để các giá trị văn hóa Phật giáo đặc sắc của Huế không bị mai một, mà còn được giới thiệu một cách sâu rộng đến bạn bè và du khách bốn phương. Đề án xây dựng Festival tâm linh đó có thể có những điểm cần lưu ý như sau:

Thời gian tổ chức: Nên tổ chức cùng với Tuần lễ Phật đản tại Huế hiện nay, tức là vào tháng tư âm lịch. Festival có thể kéo dài 7 ngày, trước rằm tháng tư 3 ngày và tiếp nối sau đó 3 ngày. Có thể tổ chức vào các năm lẻ nhưng với qui mô 2 năm/ lần.

Nhà tổ chức: Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế nên kết hợp với Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán ở Huế, các chùa, các Công ty khách sạn – du lịch trong và ngoài tỉnh; đồng thời kêu gọi các doanh nhân, các cư sĩ trong, ngoài tỉnh và cả nước ngoài tham gia xây dựng chương trình, thực hiện công tác chuẩn bị và tổ chức Lễ hội.

  • Nội dung tổ chức:

Tham quan chùa Huế: không chỉ dừng lại ở các ngôi chùa nổi tiếng mà còn xây dựng thêm các chương trình du lịch về các ngôi chùa làng. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Hội thảo, pháp thoại: Vận dụng giáo lý Đạo Phật giải quyết những vấn đề của cuộc sống đương đại đang đặt ra: Vấn đề môi trường, vấn đề hạnh phúc, vấn đề ẩm thực, vấn đề sinh sản, vấn đề tín ngưỡng với khoa học, vấn đề Đạo Phật hiện đại hóa; vấn đề đưa Đạo Phật vào cuộc đời, Giới thiệu các Tỳ-kheo, các Cư sĩ đã có công lớn với Phật giáo và đất nước; Người Phật tử Kinh doanh, làm giàu như thế nào, Những giá trị của nhạc Phật giáo, Văn học nghệ thuật Phật giáo, Mối quan hệ giữa những người thân trong gia đình, cá nhân với gia đình, cha mẹ, nuôi dạy con…

Chủ đề các cuộc hội thảo có thể thay đổi qua từng năm.

  • Dự các khóa tu, tham dự các Trai đàn, cúng dường âm hồn, tọa Thiền chữa bệnh
  • Xem văn nghệ Phật giáo trên bộ và trên sông nước.
  • Biểu diễn nghệ thuật Phật giáo tại Trung tâm văn hóa Liễu Quán, tại các chùa.
  • Tái hiện các thời khóa lễ nghi của chư tăng và tạo không gian mở cho du khách có nhu cầu tham dự.
  • Xem triển lãm nghệ thuật Phật giáo, xem triển lãm cổ vật (của Phật giáo Huế và của các chùa trong và ngoài nước).

Nghệ thuật bonsai Phật giáo.

  • Ăn chay, tham dự các khóa dạy nấu các món chay, chế biến thức ăn chay, trồng rau sạch….

Ông Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế, cho biết: Văn hóa tâm linh đã đi vào đời sống của người dân thành phố Huế nói riêng và tỉnh Thừa Thiên – Huế nói chung. Đây là nét mới, nét độc đáo, là sản phẩm du lịch mới để tỉnh Thừa Thiên – Huế đưa vào khai thác loại hình du lịch tâm linh và tiến tới là xây dựng Festival tâm linh [31]. Điều này được khẳng định qua nhiều công trình đã, đang và sắp được xây dựng như Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, Thiền viện Hương Vân, trường Đại học Phật giáo Huế… Tin rằng trong một thời gian không xa, một kỳ Festival tâm linh Huế, gắn liền với các giá trị văn hóa Phật giáo Huế sẽ sớm được khai mở, vừa để hướng thiện cho người dân và du khách, vừa góp phần đem lại một diện mạo mới cho thành phố Festival của Việt Nam.

TIỂU KẾT Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

Những đóng góp to lớn của Văn hóa Phật giáo đã để lại những giá trị tinh thần vô giá, là những di sản văn hóa phi vật thể, là sự kết tinh tài năng của trí tuệ Việt Nam qua nhiều thế kỉ, là những hình ảnh sinh động về sự hội tụ văn hóa trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Với ý nghĩa to lớn sâu xa về nhiều mặt, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng các cấp ban ngành chức năng, đã đưa ra những chính sách phù hợp, tạo ra những loại hình du lịch độc đáo liên kết được các giá trị văn hóa Phật giáo, các khu du lịch tâm linh nổi tiếng nhằm thu hút du khách trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu. Tuy nhiên để khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo có hiệu quả tốt hơn trong việc phục vụ cho hoạt động kinh doanh du lịch tương xứng với tiềm năng vốn có, cần có ý thức khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo đi đôi với việc bảo vệ, không làm mất đi giá trị truyền thống. Phát triển du lịch tôn giáo, du lịch tâm linh tín ngưỡng không chỉ hấp dẫn du khách trong và ngoài nước mà còn chứng tỏ được sự hấp dẫn, lí tưởng và an toàn cho sự lựa chọn của khách du lịch.

Du khách đến Huế vẫn ao ước bắt gặp thêm ở Huế cái tinh thần sáng tạo vô biên của văn hóa Phật giáo, dựa trên sự cởi mở, tranh luận và khám phá chứ không dừng lại thưởng thức thụ động những giá trị đã được khẳng định từ hàng trăm năm trước.

Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể như giáo lý, triết học, giáo dục, âm nhạc, nghi lễ… của Phật giáo được coi là sự nghiệp hàng đầu để bảo tồn sinh mệnh của Phật giáo Việt Nam đồng thời là nghĩa vụ cao cả của toàn xã hội, đặc biệt là của Giáo hội và Tăng Ni, Phật tử trong cả nước. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

KẾT LUẬN

Phật giáo là một tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm trong lòng các dân tộc Á Đông nói chung và dân tộc Việt nói riêng. Tác dụng của tôn giáo, chính yếu là đời sống tinh thần – Văn hóa biểu hiện được đời sống ấy. Do vậy, chỉ cần nhìn vào văn hóa, người khác có thể đánh giá được nét đẹp của đời sống dân tộc Việt. Với lịch sử hình thành và phát triển trên 7 thế kỷ (1305 – nay) có thể khẳng định rằng Thuận Hóa – Phú Xuân là vùng đất có bề dày lịch sử. Song song với quá trình hình thành và phát triển, mảnh đất này đã để lại trong kho tàng văn hóa dân tộc những tài sản vô cùng to lớn, đó là những giá trị vật thể và phi vật thể. Trong những bộ phận cấu thành di sản văn hóa Huế, Phật giáo và những vấn đề thuộc về phật giáo xứ Huế đã và đang là một mảng rất quan trọng làm nên hình ảnh của một thành phố di sản. Đó là tính đa dạng trong hệ cảnh quan, trang trí nội thất của những ngôi chùa Huế, là những giá trị trong nghệ thuật tạo hình kiến trúc, điêu khắc, lễ hội và nghệ thuật diễn xướng mang hơi thở của Phật giáo xứ Đàng Trong nói chung và Phật giáo xứ Huế nói riêng. Có thể nói đó là sự đa diện trong sinh hoạt văn hóa thông qua các lễ hội, sinh hoạt của tăng chúng – phật tử, văn hóa ẩm thực… phản ánh những ảnh hưởng của giáo lý nhà Phật, được luân chuyển một cách lặng lẽ trong đời sống thường nhật, và trong mạch nguồn văn hóa Huế.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu, và định hướng khai thác giá trị loại hình di sản này vẫn còn đang ở mức độ nhất định. Trong thời gian qua, nhiều sự kiện, lễ hội Phật giáo được tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, thu hút rất nhiều sự quan tâm của công chúng, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề luận bàn và tranh cãi về việc kế thừa, phát huy và biến di sản văn hóa Phật giáo thành một loại hình sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch.

Để các giá trị văn hóa Phật giáo Huế được bảo lưu một cách nguyên vẹn và tiếp tục được phát huy trong cuộc sống hiện đại, thiết nghĩ mỗi người hãy góp thêm một chút công sức vào công cuộc phục hưng văn hóa của dân tộc. Đồng thời để văn hóa Phật giáo Huế đến được với bạn bè và du khách bốn phương, điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của ngành du lịch, đặc biệt là của những người trực tiếp làm du lịch – những nhà điều hành, những hướng dẫn viên và cả những du khách đều đang là những mảnh ghép để làm nên một bức tranh du lịch tôn giáo hoàn chình của Việt Nam.

Đề tài “Khai thác giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ sự phát triển du lịch tại Thành phố Huế” là một đề tài không mới nhưng vẫn luôn là vấn đề được ngành du lịch quan tâm. Rõ ràng rằng những giá trị văn hóa tại những công trình kiến trúc Phật giáo này là rất lớn và đó chính là tiềm năng vô giá cho sự phát triển du lịch nhưng thực trạng hoạt động du lịch tại đây luôn phải đối mặt với những vấn đề khiến các nhà quản lý phải suy nghĩ. Đó là vấn đề làm cách nào để khai thác được tối đa những giá trị tiềm ẩn phục vụ cho hoạt động du lịch, mang lại nguồn lợi cho các tổ chức, địa phương và quốc gia. Đó là vấn đề vừa khai thác nhưng phải giữ gìn và bảo tồn được nét văn hóa Phật giáo cha ông để lại cho thế hệ tương lai. Khóa luận: Giải pháp khai thác văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Khai thác giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ du lịch

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993