Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1. Pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
2.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Khái niệm
Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.
Theo điều 40 Luật cạnh tranh 2004, chỉ dẫn gây nhầm lẫn có thể được hiểu là chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lí và các yếu tố khác làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
Biểu hiện của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Theo quy định tại Điều 40 Luật cạnh tranh 2004, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn bao gồm hai hành vi vi phạm cụ thể:
Thứ nhất, hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn đại lí… làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh
Thứ hai, hành vi kinh doanh các sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Với hai hành vi này, doanh nghiệp vi phạm đã làm cho khách hàng nhầm lẫn sản phẩm của họ với những sản phẩm của doanh nghiệp khác bằng cách sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng các thông tin làm sai lệch nhận thức của khách hàng, làm cho họ không phân biệt được sản phẩm của doanh nghiệp vi phạm với sản phẩm bị nhầm lẫn. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Khi tham gia vào thị trường hàng hóa, dịch vụ các doanh nghiệp đã vì những động cơ vụ lợi của mình tìm mọi cách để cạnh tranh với sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp đối thủ bằng cách làm cho khách hàng nói chung và trong đó có khách hàng của doanh nghiệp đối thủ bị nhầm lẫn trong việc quyết định sử dụng dịch vụ sản phẩm của mình thông qua việc doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh thực hiện hành vi tạo ra những chỉ dẫn trên sản phẩm có thể bị nhầm lẫn với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác.
Hình thức xử lý
Doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng trong các trường hợp sau: Sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình và của doanh nghiệp khác nhằm mục đích cạnh tranh; Kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói trên.
Doanh nghiệp vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng:
Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ;
Hàng hoá, dịch vụ liên quan được lưu thông, cung ứng trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Ngoài việc bị phạt tiền nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là:
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; – Buộc cải chính công khai.
Thực tiễn hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn chủ yếu được biểu hiện qua các vi phạm liên quan đến chỉ dẫn thương mại (tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá, chỉ dẫn địa lý). Thực tế cạnh tranh cho thấy, không chỉ trước đây (trước khi ban hành Luật cạnh tranh 2004) mà hiện nay, các vi phạm này vẫn khá phổ biến, ngày càng tinh vi hơn, thể hiện dưới nhiều dạng, trong đó tập trung vào hành vi gây nhầm lẫn về tên gọi, xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ nhất, hành vi gây nhầm lẫn về tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý: Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm đến tên gọi xuất xứ hàng hoá tuy chưa phổ biến so với nhiều loại hành vi không lành mạnh khác, nhưng cũng không phải là hiếm, tập trung vào những địa danh có “đặc sản nổi tiếng riêng có”, ví dụ điển hình là tên gọi xuất xứ “Gạo tám thơm Hải Hậu” được in trên bao bì của nhiều loại gạo không có xuất xứ từ huyện Hải Hậu của tỉnh Nam Định; hay trường hợp sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn về xuất xứ hàng hoá của Công ty TNHH Young Titan (Đài Loan) đối với hai sản phẩm rượu Wisky Royal Reserve Old 21 Rare Premium sản xuất tại Mỹ và rượu Wisky pha chế Crowley sản xuất tại Pháp với nhãn hiệu và bao bì là “Scotch Wisky” bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Những chỉ dẫn địa lý có danh tiếng lâu năm trên thị trường thế giới như Made in Japan, Made in USA, Made in Italy, Made in UK, Made in Korea… cũng thường bị lợi dụng sử dụng để gắn vào các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, đánh vào tâm lý sính đồ ngoại của đa số người tiêu dùng Việt Nam. Các sản phẩm sử dụng chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn này thường rất đa dạng từ quần áo, nồi cơm điện cho đến mỹ phẩm, giày dép…
Thứ hai, hành vi gây nhầm lẫn về nhãn hiệu hàng hoá (hàng nhái), bao bì, kiểu dáng công nghiệp: Có thể nói đây là các hành vi vi phạm rất phổ biến và cũng khá đa dạng trên thị trường. Hành vi gây nhầm lẫn về nhãn hiệu hàng hoá đều tập trung vào những nhãn hiệu nổi tiếng, vì đây được coi là một lợi thế kinh doanh đặc biệt quan trọng, tạo nên lợi thế so sánh về sản phẩm. Các sản phẩm bị sử dụng chỉ dẫn dễ gây nhầm lẫn về nhãn hiệu rất đa dạng từ nước uống, bột giặt, máy móc cho đến dược phẩm… Ví dụ như trường hợp của nước khoáng Lavie hiện đang có rất nhiều “anh em đồng hao” như: Lavile, Lavige, La vise; sản phẩm thuốc Decolgen (của Công ty dược phẩm Philipines) đến nay đã có 7 nhãn hiệu tương tự: Decoagen, Debacongen, Devicongen… với mẫu mã viên thuốc cũng được dập hình thoi nổi giống hệt.
Thứ ba, về hàng giả, hàng nhái: Có thể nêu ví dụ, hiện nay 80% số phụ tùng xe máy bày bán trên thị trường có nguồn gốc xuất xứ của các cơ sở sản xuất trong nước, nhưng lại được gắn thương hiệu ngoại. Theo Công ty Phạm & Associates (P&A) (công ty được Honda thuê đảm nhận việc bảo vệ kiểu dáng công nghiệp), qua điều tra hiện có 17 chi tiết máy của Honda bị làm giả, hoặc nhái trên thị trường.
Qua khảo sát các loại thức vi phạm phổ biến dưới dạng chỉ dẫn gây nhầm lẫn như trên, xin có một số nhận xét sau:
Một là, hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn đã và đang diễn ra khá phổ biến, tập trung vào một số vi phạm về tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và điều cũng đáng chú ý là việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp diễn ra cũng khá phổ biến.
Hai là, hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá đều chưa được quy định trong Luật cạnh tranh 2004.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.1.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh Khái niệm
Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
Bí mật kinh doanh theo định nghĩa tại khoản 10 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thông tin đó không phải là hiểu biết thông thường
Tức là công chúng nói chung và các đối tượng quan tâm không thể tiếp cận, tìm hiểu thông tin bằng các biện pháp, phương tiện thông thường. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ được hoặc không sử dụng thông tin đó.
Giá trị kinh tế mà thông tin đem lại xuất phát từ yếu tố bí mật, không phổ biến của nó. Một khi thông tin được tiết lộ, ai cũng biết, giá trị thương mại của thông tin và lợi thế cạnh tranh nó đem lại cho chủ sở hữu sẽ không còn. Đặc điểm này cũng đòi hỏi thông tin phải có giá trị ứng dụng về mặt kinh doanh nói chung, không nhất thiết phải gắn liền với tiến bộ khoa học – công nghệ và tiêu chí này sẽ được đánh giá trên hoàn cảnh thực tế. Lấy ví dụ thông tin là danh sách khách hàng hay đối tác kinh doanh của một doanh nghiệp có thể coi là một bí mật kinh doanh của doanh nghiệp đó, vì thông tin có thể đem lại lợi thế cạnh tranh mặc dù không thể hiện yếu tố “trí tuệ” hay “sáng tạo”. Đây cũng là một khía cạnh giải thích cho việc đặt bí mật kinh doanh vào khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba, được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Đặc điểm cuối cùng này đòi hỏi chủ sở hữu hay người nắm giữ bí mật kinh doanh hợp pháp (thông qua hợp đồng, ủy quyền) phải bảo mật thông tin bằng các biện pháp cần thiết, nhằm ngăn cản công chúng và các đối tượng quan tâm tiếp cận, tìm hiểu, thu thập và phổ biến thông tin. Điều đó cũng có nghĩa là về chủ quan, bản thân chủ sở hữu cũng phải ý thức được tính chất bí mật của thông tin. Nếu chủ sở hữu không có ý thức bảo mật, vô ý do cẩu thả hoặc chủ động cung cấp thông tin cho người khác, thì cho dù bí mật kinh doanh có giá trị thực sự, pháp luật cũng sẽ từ chối bảo hộ.
Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh theo quy định trong Luật cạnh tranh 2004 bao gồm các hành vi sau:
Thứ nhất, hành vi tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó.
Đây là dạng xâm phạm bí mật kinh doanh điển hình, khi bên vi phạm chủ động tiếp cận, thu thập thông tin bằng cách phá vỡ lại các biện pháp bảo mật của người có bí mật. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nghiêm cấm việc tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được sự đồng ý của người sở hữu bí mật kinh doanh đó. Ví dụ: hành vi truy cập một cách trái phép vào hệ thống mà nguồn (máy tính) lưu trữ bí mật kinh doanh thuộc sở hữu của một doanh nghiệp khác.
Thứ hai, hành vi tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh.
Dạng hành vi này chủ yếu hướng đến các đối tượng thứ ba, không trực tiếp chiếm đoạt bí mật kinh doanh từ chủ sở hữu hay người nắm giữ hợp pháp bí mật nhưng có thể tiếp nhận từ người trực tiếp chiếm đoạt, những người thứ ba khác hoặc từ các nguồn công khai sau khi bí mật đã được bộc lộ. Kể cả trong trường hợp người này tiếp nhận thông tin một cách ngay tình, pháp luật cũng không cho phép họ tiếp tục sử dụng hay lưu truyền thông tin cho người khác.
Có thể nêu ra ví dụ tương đối phổ biến của hành vi này như: một cá nhân sau một thời gian làm việc cho một doanh nghiệp sản xuất và nắm được bí mật kinh doanh của doanh nghiệp đó, đã tiết lộ cho doanh nghiệp khác hoặc sử dụng cho chính mình để thành lập một doanh nghiệp trên cơ sở sử dụng thông tin về bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba, hành vi vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó.
Hợp đồng bảo mật là hợp đồng mà theo đó một bên hợp đồng được quyền tiếp cận thông tin bí mật về kinh doanh của một chủ sở hữu nhưng có nghĩa vụ phải bảo mật thông tin đó. Bên có nghĩa vụ bảo mật làm lộ thông tin về bí quyết kinh doanh cho bên thứ ba thì bị coi là xâm phạm bí mật kinh doanh theo quy định của điều luật. Ngoài ra, điều luật cũng quy định bất kì hành vi nào lợi dụng quan hệ sẵn có để lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có trách nhiệm bảo mật nhằm lấy được thông tin bảo mật về bí mật kinh doanh và sau đó tiết lộ thông tin đó cho người thứ ba thì cũng bị coi là xâm phạm bí mật kinh doanh.
Thứ tư, hành vi tiếp cận, thu thập các thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của các cơ quan nhà nước, hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, mục đích xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
Biểu hiện của hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó.
- Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó.
- Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh.
- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm quyền.
- Sử dụng, bộc lộ bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được có liên quan đến một trong các hành vi quy định tại các điểm nêu trên.
- Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật quy định tại Điều 128 Luật Sở hữu trí tuệ.
Hình thức xử lý
Mức xử phạt đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cụ thể như sau:
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó; Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh;
- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
- Ngoài việc xử phạt theo Khoản 1, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Thực tiễn hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
Ở Việt Nam, khái niệm bí mật kinh doanh cũng như vấn đề bảo vệ, gìn giữ bí mật kinh doanh còn khá mới mẻ và chưa thực sự được coi trọng. Các chế tài xử lý đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cũng chưa thực sự nghiêm khắc (chủ yếu áp dụng biện pháp dân sự, hành chính). Nguyên nhân là do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh ít khi ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng và toàn xã hội mà chỉ ảnh hưởng tới chủ sở hữu nó, do vậy, biện pháp tốt nhất hiện nay đối với doanh nghiệp để bảo vệ bí mật kinh doanh của mình là tự thiết lập các chiến lược, kỹ thuật bảo mật. Ngoài ra còn do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh hiện nay vô cùng đa dạng rất khó phát giác, điều chỉnh; mức độ cạnh tranh trên thị trường thì ngày càng khốc liệt các doanh nghiệp có thể vì lợi nhuận bằng mọi thủ đoạn để khai thác bí mật kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ. Hơn nữa, khi mà người lao động có quyền tự do lựa chọn và thay đổi nơi làm việc, sẽ có khả năng rất cao là họ mang theo thông tin đến nơi làm việc mới mà thông thường là các đối thủ cạnh tranh của công ty cũ. Cuối cùng, bản thân các thông tin bí mật không phải là giải pháp kỹ thuật nên không thể nào bảo hộ được dưới danh nghĩa sáng chế; và cũng không thể giải trình công khai để đăng ký bảo hộ do tính bảo mật của thông tin.
Trong trường hợp phát hiện ra hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của các chủ thể khác, chủ sở hữu bí mật kinh doanh có thể yêu cầu hoặc sử dụng các biện pháp cần thiết để buộc họ phải chấm dứt hành vi vi phạm. Nếu các chủ thể có hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thừa nhận hành vi xâm phạm, thì chủ sở hữu nên giải quyết bằng thương lượng hòa giải nhằm đảm bảo tính bí mật. Trong trường hợp không thể giải quyết thông qua con đường thương lượng, hòa giải, chủ sở hữu có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Tòa án, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp xử lý hành vi xâm phạm thông quan các biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự theo quy định của pháp luật.
Như vậy, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh Việt Nam đã xây dựng một hệ thống khá hoàn chỉnh để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh của các thương nhân song trên thực tế các thương nhân Việt Nam vẫn còn rất xa lạ với việc sử dụng pháp luật và sử dụng quy trình tố tụng Tòa án để bảo vệ bí mật kinh doanh của họ.
2.1.3. Ép buộc trong kinh doanh Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Khái niệm
Theo Luật Cạnh tranh 2004 (Điều 42) quy định: “Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó”.
Biểu hiện của hành vi ép buộc trong kinh doanh
Một là, đối tượng của hành vi là khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác, bằng hành vi của mình doanh nghiệp vi phạm đã không trực diện giao tiếp với doanh nghiệp khác (đối thủ), mà tác động đến khách hàng hoặc đối tác của họ. Khách hàng, đối tác kinh doanh có thể là các tổ chức, cá nhân đang giao dịch hoặc sẽ giao dịch (khách hàng tiềm năng) của doanh nghiệp khác; có thể là người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân có giao dịch với doanh nghiệp bị xâm phạm.
Hai là, hình thức của hành vi là doanh nghiệp vi phạm dùng thủ đoạn đe dọa hoặc cưỡng ép những đối tượng trên để buộc họ không được giao dịch, ngừng giao dịch với doanh nghiệp khác. Dấu hiệu này được làm rõ từ những nội dung sau đây:
Việc đe dọa hoặc cưỡng ép được thực hiện nhằm khống chế ý chí của khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp vi phạm có thể trực tiếp hoặc gián tiếp với vai trò tổ chức hoặc thuê mướn người khác thực hiện các thủ đoạn đe dọa, cưỡng ép các đối tượng trên. Phương thức đe dọa, cưỡng ép rất đa dạng và không giống nhau trong các vụ việc cụ thể.
Yêu cầu được doanh nghiệp vi phạm đưa ra cho người bị đe dọa, bị cưỡng ép là không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp khác. Yêu cầu này có thể được đặt ra công khai hoặc ẩn chứa trong thủ đoạn đe dọa, cưỡng ép để các đối tượng bị tác động phải ngầm hiểu. Như vậy, hành vi ép buộc trong kinh doanh không bao gồm mục đích ép buộc người khác phải giao dịch với mình. Trong thực tế, đôi khi hai mục đích nói trên cùng tồn tại trong một vụ việc. Theo đó, mục đích buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác không được giao dịch, không thực hiện giao dịch với họ là để những đối tượng bị ép buộc chỉ có thể giao dịch với mình. Với nội dung này, hành vi ép buộc trong kinh doanh phản ánh chiến lược ngăn cản hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Ba là, sự không lành mạnh của hành vi được chứng minh bằng các hậu quả gây ra cho khách hàng (người tiêu dùng, đối tác của doanh nghiệp khác) và doanh nghiệp bị xâm hại:
Với khách hàng, quyền lựa chọn của họ bị xâm phạm do bị ngăn trở, bị cưỡng ép mà không thể thiếp lập được giao dịch, không tiếp tục thực hiện được giao dịch theo ý chí của mình. Quyền lựa chọn bị khống chế sẽ dẫn đến khả năng khách hàng phải giao dịch với doanh nghiệp vi phạm hoặc người được chỉ định. Dấu hiệu ép buộc khách hàng phải giao dịch với mình hoặc với người mà mình chỉ định khi điều tra về hành vi ép buộc không được đặt ra. Hành vi này mang bản chất côn đồ trong kinh doanh, có thể gây ra những xáo trộn trong xã hội, gây ảnh hưởng lớn đến trật tự an ninh của cộng đồng, là những dấu hiệu không lành mạnh trong đời sống kinh doanh đòi hỏi pháp luật và công quyền phải thẳng tay trừng trị.
Với các doanh nghiệp khác, việc không thiết lập được, không thực hiện được những giao dịch của họ với khách hàng có thể làm cho tình hình kinh doanh bị ngăn trở, rối loạn. Mặc dù đối tượng của hành vi ép buộc trong kinh doanh là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của doanh nghiệp vi phạm, song thủ đoạn cản trở khách hàng thiết lập, thực hiện giao dịch cũng đã làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bị cản trở hoặc bị hạn chế. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Hình thức xử lý
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe doạ hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm ép buộc trong kinh doanh quy định tại khoản 1 Điều này trong trường hợp ép buộc khách hàng hoặc đối tác kinh doanh lớn nhất của đối thủ cạnh tranh.
- Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại khoản 1 và 2, doanh nghiệp vi phạm còn bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Thực tiễn hành vi ép buộc trong kinh doanh
Ở Việt Nam, hành vi ép buộc trong kinh doanh thường xảy ra trong lĩnh vực kinh doanh nước giải khát. Các công ty lớn, tiềm năng thường tìm đến các cửa hàng kinh doanh vừa và nhỏ để thỏa thuận , ký kết hợp đồng đại lý bán hàng. Theo đó, công ty sẽ tài trợ một số tiền khá lớn, trang bị biển hiệu, bàn ghế, tủ lạnh, ly cốc,… với điều kiện các cửa hàng này chỉ được phép bán sản phẩm của họ mà không được có bất kì hình thức quảng cáo nào hoặc bán sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Nếu vi phạm sẽ phải bồi thường hợp đồng. Mặc dù quan hệ này được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, về hình thức là tự nguyện, nhưng thực chất lại mang tính áp đặt, ép buộc. Các cửa hàng vì nhiều lý do khác nhau đã vô tình tiếp tay cho kiểu kinh doanh độc quyền của một số doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực bảo hiểm chúng ta cũng bắt gặp một số hiện tượng các doanh nghiệp đã sử dụng biện pháp hành chính để gây sức ép, lôi kéo, ép buộc người tham gia bảo hiểm phải mua bảo hiểm hoặc sử dụng môi giới bảo hiểm tại một doanh nghiệp, trái với quyền tự do lựa chọn, giao kết hợp đồng.
2.1.4. Gièm pha doanh nghiệp khác
Khái niệm
Theo quy định tại Điều 43 Luật cạnh tranh 2004 về hành vi gièm pha doanh nghiệp: “Cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”.
Hành vi gièm pha doanh nghiệp khác là một loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh và tương đối phổ biến trong hoạt động kinh doanh, nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc kìm hãm sự phát triển kinh doanh của đối thủ cạnh tranh thông qua việc giảm lượng khách hàng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp đó.
Biểu hiện của hành vi gièm pha doanh nghiệp khác
Hành vi này được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể từ đơn giản đến phức tạp, trực tiếp hoặc gián tiếp. Doanh nghiệp có thể trực tiếp thông tin cho khách hàng bằng lời nói, văn bản, hoặc cũng có thể cung cấp thông tin gián tiếp qua một bên thứ ba đến khách hàng. Nội dung được đưa ra rất đa dạng, như chất lượng sản phẩm, tình hình tài chính, uy tín và đạo đức của người quản lý, về cổ phiếu…Những thông tin này tác động đến nhận thức và đánh giá của chính khách hàng, người tiêu dùng về sản phẩm dịch vụ cũng như tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khác
Biểu hiện của loại hành vi này cũng có thể là việc tung những thông tin chưa được xác nhận tính đúng sai, hành vi bêu xấu, xuyên tạc sự thật về chất lượng hàng hóa, dịch vụ của đối thủ nhằm mục đích khiến khách hàng không sử dụng hàng hóa, dịch vụ của Doanh nghiệp đối thủ. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Hình thức xử lý
Về xử lý vi phạm hành vi gièm pha doanh nghiệp khác :
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
- Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại khoản 1 và 2, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả.
Thực tiễn hành vi gièm pha doanh nghiệp khác
Điển hình có vụ việc Công ty Laska (doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) có sản phẩm nước tinh khiết Laska đã bôi nhọ đối thủ cạnh tranh là Công ty TNHH Trần Liên Thịnh có sản phảm cùng loại mang tên Waterman. Lợi dụng việc Bệnh viện Quốc tế Hà Nội có gửi tới Trung tâm Công nghệ và bảo vệ môi trường – Viện kỹ thuật quân sự thực hiện xét nghiệm hai mẫu nước tinh khiết có tên là Water Stream KC và Lasska, Công ty Laska đã sửa chữa nội dung của xét nghiệm này thành một bản kết quả có nội dung giả mạo. Thay mẫu nước Water Stream KC thành Waterman, Lasska thành Laska, chuyển kết luận Water Stream KC có nồng độ Nitrit (NO2) cao hơn tiêu chuẩn thành Waterman có nồng độ NO2 cao hơn tiêu chuẩn và tung ra thị trường bản kết luận giả mạo này. Người tiêu dùng đã đồng loạt thay đổi sản phẩm mới do không có điều kiện để thẩm định. Sự việc trên đã gây thiệt hại rất lớn về uy tín, danh dự, tài sản của Công ty TNHH Trần Liên Thịnh.
Nhiều vụ việc tương tự cũng đã xảy ra như: Trong bia Tiger có gián, trong bia BIGI của Tiền Giang có ruồi, trong nước giải khát Coca-cola có vật thể lạ, trà sữa trân châu Feeling Tea có giòi,…
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc đưa tin không đúng sự thật do chủ quan hay khách quan về chủ thể kinh doanh khác là điều rất khó có thể loại bỏ. Để khắc phục hành vi này, doanh nghiệp cần chủ động:
- Xây dựng website, hệ thống cung cấp thông tin minh bạch cho khách hàng để sẵn sàng ứng phó, trấn an thị trường khi xảy ra biến cố.
- Khi tin đồn xuất hiện trên thị trường, cần khẩn trương, tích cực minh bạch hóa, làm rõ thông tin ngay lập tức để thông báo với toàn bộ khách hàng, đối tác của doanh nghiệp, không để tin đồn kéo dài.
- Bản thân mỗi doanh nghiệp cần có ý thức tuân thủ pháp luật, cạnh tranh một cách lành mạnh.
- Khi phát hiện chủ thể tung tin đồn, cần thông báo ngay cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Cục Quản lý Cạnh tranh) để có biện pháp xử lý thích đáng, yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất và uy tín cho doanh nghiệp cũng như yêu cầu xin lỗi công khai. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Thị trường Việt Nam những năm qua đã xuất hiện vô số các hành vi gièm pha doanh nghiệp khác, nhưng việc xử lý còn đang gặp nhiều khó khăn do không xác định được cụ thể nguồn thông tin lan truyền trong xã hội từ đâu, gây ra vô số thiệt hại cho doanh nghiệp cả về vật chất và uy tín mà nhiều khi bản thân doanh nghiệp không thể tìm ra được “kẻ chủ mưu” đã “hãm hại” mình. Những hành vi có tính chất “ném đá giấu tay” này đã trở thành một thủ đoạn vô cùng khó chịu trong những hành vi được coi là cạnh tranh không lành mạnh. Chuyện gièm pha, nói xấu nhau vì mục đích cá nhân hay doanh nghiệp mình gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác tưởng như đã được hạn chế kể từ khi Luật cạnh tranh 2004 được ra đời tuy nhiên, vẫn tồn tại không ít cá nhân, doanh nghiệp vẫn không ngại sử dụng “ngón nghề” này khi tham gia cạnh tranh.
2.1.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Khái niệm
Theo điều 44 Luật cạnh tranh 2004 thì hành vi gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bị cấm là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Biều hiện của hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác Khác với hành vi ép buộc trong kinh doanh hoặc gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác không có quy định về hình thức của hành vi, mà chỉ căn cứ vào hậu quả đã xảy ra trên thực tế để nhận diện hành vi. Hậu quả là việc tình hình kinh doanh của doanh nghiệp bị gây rối đã bị gián đoạn hoặc bị cản trở bởi hành vi gây rối nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp vi phạm.
Hình thức xử lý
1.Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó
2.Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối vớ hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1 trong các trường hợp sau:
- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác làm cho doanh nghiệp bị gây rối không thể tiếp tục tiến hành hoạt động kinh doanh một cách bình thường
- Hành vi vi phạm được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
3.Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 , doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Buộc cải chính công khai.
Thực tiễn hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Điển hình vụ việc tranh chấp giữa Công ty TNHH Hoàn Thắng – đơn vị quản lý Taxi Thu Hương và hãng Taxi V20 của Tân Hoàng Minh là một ví dụ về hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Vào năm 2001, số lượng đầu xe chỉ chiếm khoảng 5% số xe taxi của Hà Nội nhưng Taxi V20 đã chiếm khoảng 30% – 40% thị phần vận chuyển hành khách bằng taxi ở Hà Nội. Vào thàng 10/2001, khi lực lượng cảnh sát điều tra vào cuộc đã phát hiện Công ty Taxi Thu Hương đã sử dụng thiết bị phát sóng khuếch đại gây nhiễu loạn hệ thống thông tin của Taxi V20 làm trung tâm vô tuyến điện của V20 tê liệt, không thể liên lạc được với lái xe, làm cho các giao dịch của V20 bị gián đoạn. Hành vi gây rối đó kéo dài 10 ngày đã làm cho V20 mất đi một lượng khách đáng kể, thiệt hại trên dưới 300 triệu đồng, tổn hại uy tín với khách hàng. Vụ việc này xảy ra trước khi có Luật cạnh tranh 2004, khi xem xét vụ việc này, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và được phép xử phạt hành chính mức cao nhất đối với công ty TNHH Hoàn Thắng, đồng thời áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề nếu công ty Hoàn Thắng tái phạm.
Cũng tương tự như trên, báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh cũng có tin, vào sáng ngày 11/3/2009, 26 chủ xe thuộc 5 hợp tác xã vận tải ở Quảng Ngãi đồng loạt ký tên vào đơn kiến nghị phản đối không cho xe khách chất lượng cao Mai Linh tham gia đưa rước khách tuyến Quảng Ngãi – Đà Nẵng với lý do Sở Giao thông Vận tải Quảng Ngãi cấp phép cho Công ty Mai Linh tham gia đưa rước khách tuyến Quảng Ngãi – Đà nẵng là bất hợp lý, dẫn tơi việc “bóp chết” họ vì họ không thể cạnh tranh được với xe Mai Linh. Đây là hành vi ngăn cản hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, đã vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Trên thực tế tại Việt Nam đã xảy ra rất nhiều vụ việc gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác làm ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp bị hại cũng như khách hàng và người tiêu dùng song các hành vi này vẫn diễn ra khá phổ biến và phức tạp trên thị trường và vẫn chưa có biện pháp kiểm soát, ngăn chặn.
2.1.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Khái niệm
Trong hoạt động kinh doanh, quảng cáo là công cụ hữu hiệu và phổ biến của doanh nghiệp để giới thiệu sản phẩm tới người tiêu dùng. Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 thì: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”.
Với bản chất là một hoạt động xúc tiến thương mại (là quá trình thông tin nhằm định hướng hành vi mua, bán hàng hóa và sử dụng dịch vụ của khách hàng), quảng cáo là phương pháp quan trọng giúp doanh nghiệp cạnh tranh, giành thị phần cho mình trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Nhằm đạt được mục tiêu xúc tiến thương mại ở mức độ tối ưu, doanh nghiệp dễ có thể thực hiện quảng cáo không trung thực về giá trị và chất lượng thật của hàng hóa, sản phẩm với tính chất cạnh tranh không lành mạnh. Theo Luật Cạnh tranh (Điều 45), các doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hoạt động quảng cáo sau đây:
- So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác;
- Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;
Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây:
- Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành.
- Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành.
- Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
- Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm.
Biểu hiện của hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
- Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức, cá nhân khác.
- Quảng cáo có sử dụng các từ ngữ “nhất”, “duy nhất”, “tốt nhất”, “số một” hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự mà không có tài liệu hợp pháp chứng minh theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.
- Quảng cáo vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ
Hình thức xử lý
Mức xử phạt đối với hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định như sau:
- Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo sau đây:
- So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác;
- Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 140.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung: giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
- Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1, Khoản 2, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả.
Như vậy, mức xử phạt đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng đối với từng hành vi cụ thể. Ngoài hình thức xử phạt bằng tiền, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi hoặc buộc cải chính công khai
Thực tiễn hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Năm 2003, công ty sản xuất nệm Kymdan khi tiến hành quảng cáo trên báo đã so sánh giữa chất lượng nệm do công ty này sản xuất với hai loại nệm mút xốp và nệm lò xo của các doanh nghiệp khác sản xuất. Mặc dù Kymdan không gọi trực tiếp tên của đối thủ cạnh tranh trong quảng cáo của Kymdan, người ta dễ dàng nhận ra được sản phẩm của các công ty khác. Công ty Vạn Thành, Ưu Việt và Anh Dũng đã kiện công ty Cổ phần cao su Sài Gòn – Kymdan về hành vi quảng cáo này đồng thời yêu cầu Kymdan chấm dứt ngay hành vi quảng cáo và xin lỗi công khai. Ngày 17/07/2003, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra phán quyết trong phiên xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp này, theo đó, hành vi quảng cáo của Kymdan là vi phạm pháp luật, vì vậy, Kymdan phải xin lỗi công khai các công ty Vạn Thành, Ưu Việt, Anh Dũng đồng thời sửa lại nội dung quảng cáo.
Cũng tương tự như vụ việc trên là vụ việc công ty cà phê Trung Nguyên với thương hiệu G7 nổi tiếng cũng bị quy vào một trong những doanh nghiệp có hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể là công ty Trung Nguyên đã sử dụng nhãn hiệu ba chiều hình cốc đỏ của Nestle để so sánh trực tiếp sản phẩm G7 của họ với sản phẩm Nescafe của Nestel. Đó là hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Tóm lại, quảng cáo mặc dù là công cụ để doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm và quảng bá thương hiệu của mình tới công chúng, tới người tiêu dùng, song, doanh nghiệp cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật trong lĩnh vực này để không biến quảng cáo thành nguyên nhân phá hoại hình ảnh, uy tín của bản thân doanh nghiệp mình và các đối thủ cạnh tranh khác.
2.1.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Khái niệm
Khuyến mại (hay chính xác là khuyến mãi) : được hiểu là sự kiện hoặc tập hợp các sự kiện/hoạt động tập trung của hơn một doanh nghiệp/tổ chức hoặc một chính sách/chương trình hành động nhằm xúc tiến hỗ trợ hoạt động bán hàng và làm tăng trưởng giao dịch thương mại. Đơn giản hơn, có thể hiểu khuyến mại là khuyến khích phát triển thương mại, mục đích chính của khuyến mại là kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và mua nhiều hơn các hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. Ngoài ra, hoạt động khuyến mại còn nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp.
Hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi thông qua hoạt động khuyến mại của thương nhân nhưng nhằm gây ra những bất lợi cho đối thủ cạnh tranh của mình nhằm thu về cho mình những lợi ích nhất định.
Biểu hiện của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Một là hành vi khuyến mại gian dối về giải thưởng: đối với hành vi này, bên vi phạm đã đưa ra những thông tin sai lệch về giải thưởng, trao thưởng không đúng theo nội dung cam kết, công bố trong thể lệ khuyến mại hay các thông tin, quảng cáo trước khi thực hiện chương trình khuyến mại. hành vi này có tính chất lôi kéo bất chính người tiêu dùng để họ tham gia chương trình khuyến mại.
Hai là hành vi khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng. Trường hợp này bên vi phạm đã gian dối, không trung thực trong quá trình, cách thức thực hiện khuyến mại với các hình thức khác nhau như tặng quà, tổ chức thi có giải hay chương trình may rủi… về bản chất, hành vi này có phần giống với hành vi “tổ chức khuyến mại gian dối về giải thưởng”.
Ba là hành vi phân biệt đối xử giữa các khách hàng, không đảm bảo sự bình đẳng và cơ hội hưởng lợi ích kinh tế dành cho mọi người tham gia trong cùng một chương trình khuyến mại. tuy nhiên, căn cứ vào chiến lược kinh doanh chung của doanh nghiệp để nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động kinh doanh tại một địa phương nhất định, pháp luật sẽ không can thiệp nếu như doanh nghiệp thực hiện ưu đãi lớn hơn đối với khách hàng tại địa phương riêng biệt này.
Bốn là hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa khác cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình. Đây là một hình thực khuyến mại đặc biệt, bị pháp luật cấm bởi tính chất của nó nhằm cản trở, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, phá vỡ các quan hệ ổn định của khách hàng đối với đối thủ cạnh tranh.
Ngoài các hành vi cụ thể nêu trên, khoản 5 điều 46 Luật cạnh tranh 2004 cũng quy định: “Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm”. Đây có thể coi là một quy định mở của pháp luật trong trường hợp các hành hành vi cụ thể trên chưa bao quát hết được các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp.
Hình thức xử lý Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng; Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng; Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại; Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.
Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định trên trong trường hợp quy mô tổ chức khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Ngoài việc bị phạt tiền, doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; Buộc cải chính công khai.
Thực tiễn hành vi khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Trong vụ gian dối về giải thưởng của công ty điện tử LG diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006 thì việc gian dối về giải thưởng thực hiện kín đáo, rất khó phát hiện. Giải thưởng được đưa ra bao gồm chiếc xe Toyota trị giá gần 30.000 USD (giải nhất), xe tải Huyndai 1,5 tấn (giải nhì), xe máy Honda Dylan (giải ba). Chương trình bốc thăm giải thưởng đang được diễn ra thì có một khách hàng tuyên bố lá phiếu 233 mà anh ta đang giữ cuống vé không có trong thùng phiếu. Ban tổ chức để khách hàng đó kiểm tra thùng. Quả nhiên trong thùng không có lá phiếu số 233. Và tất cả các tờ phiếu từ số 200 trở lên do một số người khác nắm giữ đều không có trong thùng.
Tương tự, chương trình khuyến mại của một công ty bia “bật nắp chai trúng thưởng” diễn ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải thưởng gồm 200.000 giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô BMW, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại- nay là Bộ Công thương), trong tổng số 215 tỉ đồng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà các thương nhân đăng ký thì tổng số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng, tương đương 3% tổng số tiền đã đăng ký cho chương trình khuyến mại. Như vậy, giá trị thật mà các doanh nghiệp trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số được nêu ra trong chương trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận được nhiều những phần thưởng có giá trị từ các chương trình khuyến mại gian dối trên.
Trong bài báo “Đánh lừa người tiêu dùng bằng các chiêu khuyến mại” đăng trên trang web báo Lao động ngày 23/12/2010 đã đưa ra một trường hợp khuyến mại gian dối của siêu thị Vinaconex (Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội). Một khách hàng mua sản phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận được phiếu cào trong chương trình khuyến mại “Mừng giáng sinh – Chào năm mới”. Sau khi cào, khách hàng này trúng giải nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi đến lĩnh thưởng thì điều kiện lĩnh thưởng là: “Phiếu chỉ có giá trị lĩnh thưởng khi khách hàng mang theo phiếu này và mua 01 chiếc áo Complet hoặc 01 bộ quần áo Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi xem quần áo Comple để mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ 880.000 đồng đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức “có cho không cũng không nhận”. Chương trình khuyến mại của mạng di động Vinaphone thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/2010, khuyến mại nhân 100% số tiền nạp thẻ cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến mại thực hiện trong 03 ngày như trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận được tiền khuyến mại. Chỉ những khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc khuyến mại thì mới được hưởng khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra đó là Vinaphone dựa vào tiêu chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di động được hưởng khuyến mại và tổng số thuê bao được hưởng khuyến mại là bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo của Vinaphone, đó là tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng trung thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người vừa hòa mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt đối xử đối với khách hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone.
Việc mạng di động Viettel đã tố giác mạng di động MobileFone về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009, mạng di động Viettel đã nêu rõ hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của mạng MoblieFone tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán hàng lưu động với chương trình “Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Theo đó, khách hàng có sim của mạng khác (trong đó có Viettel), còn tài khoản dưới 15.000 đồng và còn hạn sử dụng, có thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của MobiFone có sẵn trong tài khoản 50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng, tặng trong 12 tháng. Như vậy, có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh của MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của mạng di động khác chuyển sang sử dụng dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Thực trạng hiện nay cho thấy, có rất nhiều chương trình khuyến mại được tổ chức với hình thức phong phú, hấp dẫn và quy mô khác nhau trong phạm vi cả nước như: Các chương trình ưu đãi quà tặng, giảm giá hàng hóa, bốc thăm trúng thưởng… Hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng công cụ khuyến mại với mục đích hướng khách hàng tiến tới hành vi mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ để tăng doanh thu và tìm kiếm lợi nhuận. Đồng thời, ưu đãi mà người tiêu dùng nhận được qua mỗi chương trình khuyến mại cũng thể hiện sự chia sẻ lợi ích giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Những chương trình khuyến mại diễn ra hợp pháp sẽ kết hợp lợi ích của doanh nghiệp với người tiêu dùng, quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp và kích cầu tiêu dùng xã hội, cũng như kích thích tính cạnh tranh trong thị trường. Tuy nhiên, vì mục tiêu doanh thu và lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã bằng nhiều chiêu thức không chấp hành các quy định của pháp luật về khuyến mại, cạnh tranh thị phần, lôi kéo khách hàng bằng các hành vi không lành mạnh, gây ảnh hưởng tới thị trường kinh doanh và lợi ích người tiêu dùng.
Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46 Luật cạnh tranh 2004 khá rõ ràng, được áp dụng dễ dàng trong thực tế, tạo điều kiện giúp các cơ quan quản lý cạnh tranh thuận tiện trong việc áp dụng các quy định pháp luật trong quá trình thực thi.
2.1.8. Phân biệt đối xử trong hiệp hội
Khái niệm
Luật cạnh tranh không giải thích thế nào là hiệp hội và thực tế ở Việt Nam đã tồn tại rất nhiều tên gọi khác nhau của hội như: hội, hiệp hội, liên hiệp, liên minh, liên đoàn, ủy ban,…Tuy nhiên, là chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của luật cạnh tranh thì chỉ có các hiệp hội hành nghề. Hiệp hội ngành nghề bao gồm hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp, gọi chung là hiệp hội, được thành lập trên cơ sở sự tự nguyện của các doanh nghiệp thành viên có chung lợi ích, là nơi cung cấp các thông tin đã được xử lý về các lĩnh vực trên thị trường trong nước và quốc tế, nơi học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp. Với vai trò của mình, thông qua những hành động nhất định, hiệp hội có thể tạo ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Phân biệt đối xử (hay kỳ thị) là một thuật ngữ xã hội học nhằm chỉ tới một sự đối xử, một hành vi, định kiến với một cá nhân hay một nhóm nhất định dựa vào sự phân loại tầng lớp hay đẳng cấp. Nó bao gồm việc loại bỏ hoặc hạn chế các thành viên trong một nhóm khỏi những cơ hội mà những nhóm khác được tiếp cận. Liên Hiệp Quốc giải thích như sau: “Những hành vi phân biệt đối xử có nhiều hình thức, nhưng tất cả chúng đều có liên quan đến một số hình thức loại trừ và từ chối”.
Biểu hiện của hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội
Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong cạnh tranh.
Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Hình thức xử lý
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
- Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong cạnh tranh;
- Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.
- Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi quy định tại Khoản 1 thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Thực hiện hành vi vi phạm nhiều lần đối với một doanh nghiệp;
- Thực hiện hành vi vi phạm đối với nhiều doanh nghiệp cùng một lúc.
- Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi quy định tại Khoản 2 trong trường hợp hạn chế bất hợp lý để chèn ép doanh nghiệp thành viên phải rút khỏi hiệp hội.
Thực tiễn hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội
Hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội chưa xảy ra phổ biến ở nước ta. Trong ví dụ đã nêu trên, việc Công ty taxi Thu Hương cạnh tranh không lành mạnh với Công ty taxi V20 của Tân Hoàng Minh được xem xét dưới góc độ là hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Tuy nhiên theo pháp luật của Hàn Quốc và Nhật Bản thì hành vi vi phạm của taxi Thu Hương với sự tiếp tay của Hiệp hội mà Công ty taxi Thu Hương là thành viên, có thể xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh cấm các hiệp hội thực hiện. Hiệp hội đã có sự phân biệt đối xử đối với Công ty taxi V20, hiệp hội có hành vi bao che cho Công ty taxi Thu Hương, ngăn chặn cơ hội cũng như tiềm năng của Công ty taxi V20.
Tính đến năm 2009, có khoảng 400 hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc ( trong đó có 70 hiệp hội các tổ chức kinh tế), gần 3000 hội có phạm vi hoạt động cấp tỉnh và hàng chục nghìn hội được tổ chức và hoạt động trong phạm vi cấp huyện. Tuy nhiên pháp luật về hiệp hội hiện nay vẫn còn chưa đồng bộ và đầy đủ, cần phải bổ sung điều chỉnh và hoàn thiện hơn nữa.
2.1.9. Bán hàng đa cấp bất chính Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Khái niệm
Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện:
- Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
- Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia.
- Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị, bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.
Bán hàng đa cấp bất chính là hành vi bán hàng đa cấp không chính đáng, trái với đạo đức, pháp luật.
Biểu hiện của hành vi bán hàng đa cấp bất chính
- Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.
- Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại.
- Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.
- Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
Hình thức xử lý
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi:
- Hoạt động bán hàng đa cấp mà không đảm bảo các điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật.
- Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp bổ sung, thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
- Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị mất hoặc bị rách, nát.
- Cung cấp thông tin gian dối trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
- Không triển khai hoạt động bán hàng đa cấp trong thời hạn 12 tháng liên tục kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp quá 12 tháng liên tục.
- Ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến hoạt động đào tạo người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến việc cấp, đổi, thu hồi thẻ thành viên bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ công bố công khai tại trụ sở và cung cấp cho người có dự định tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp các thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật.
- Không thường xuyên giám sát hoạt động của người tham gia bán hàng đa cấp để bảo đảm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện đúng Quy tắc hoạt động, Chương trình trả thưởng của doanh nghiệp.
- Không khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho người tham gia bán hàng đa cấp.
- Không quản lý người tham gia bán hàng đa cấp qua hệ thống thẻ thành viên theo quy định của pháp luật.
- Không thông báo hoặc thông báo không đúng, không đầy đủ cho người tham gia bán hàng đa cấp những hàng hóa thuộc diện không được doanh nghiệp mua lại trước khi người đó tiến hành mua hàng.
- Ký hợp đồng với người tham gia bán hàng đa cấp không bằng hình thức văn bản hoặc không bao gồm đầy đủ các nội dung cơ bản theo quy định của pháp luật.
- Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các hành vi:
- Không thực hiện đúng quy định về đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp hoặc kinh doanh theo phương thức đa cấp đối với hàng hóa chưa đăng ký với cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định khi tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tiếp tục hoạt động bán hàng đa cấp sau thời gian tạm ngừng.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến cơ quan có thẩm quyền khi chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp.
- Hoạt động bán hàng đa cấp ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp không có trụ sở chính khi chưa có xác nhận của Sở Công Thương tỉnh, thành phố đó về việc tiếp nhận hồ sơ thông báo hoạt động.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến Sở Công Thương nơi tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo theo quy định của pháp luật.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mua lại hàng hóa của người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật.
- Trả cho người tham gia bán hàng đa cấp tổng giá trị hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác trong một năm vượt quá 40% doanh thu bán hàng đa cấp trong năm đó của doanh nghiệp bán hàng đa cấp.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ pháp luật quy định khi chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp.
- Rút khoản tiền ký quỹ khi chưa có văn bản đồng ý của Cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp trừ trường hợp doanh nghiệp rút khoản tiền đã ký quỹ vào ngân hàng thương mại để thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp mà không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
- Không thực hiện thay đổi văn bản xác nhận ký quỹ hoặc thực hiện thủ tục thay đổi văn bản xác nhận ký quỹ nhưng không thông báo đến cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có sự thay đổi liên quan tới các nội dung cơ bản của văn bản xác nhận ký quỹ.
- Không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ báo cáo định kỳ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Phạt tiền doanh nghiệp bán hàng đa cấp từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
- Kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải đặt cọc hoặc đóng một khoản tiền nhất định dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.
- Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải mua một số lượng hàng hóa dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.
- Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải trả thêm một khoản tiền dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền duy trì, phát triển hoặc mở rộng mạng lưới bán hàng đa cấp của mình.
- Hạn chế một cách bất hợp lý quyền phát triển mạng lưới của người tham gia bán hàng đa cấp dưới bất kỳ hình thức nào.
- Cho người tham gia bán hàng đa cấp nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ việc dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp.
- Từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay các lợi ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng đa cấp có quyền hưởng.
- Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải tuyển dụng mới hoặc gia hạn hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với một số lượng nhất định người tham gia bán hàng đa cấp để được quyền hưởng hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi ích kinh tế khác.
- Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo liên quan tới các nội dung trong chương trình đào tạo cơ bản phải trả tiền hoặc phí dưới bất kỳ hình thức nào, trừ chi phí hợp lý để mua tài liệu đào tạo.
- Ép buộc người tham gia bán hàng đa cấp phải tham gia các hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về các nội dung không thuộc chương trình đào tạo cơ bản của doanh nghiệp.
- Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về các nội dung không thuộc nội dung cơ bản của chương trình đào tạo phải trả tiền hoặc phí cao hơn mức chi phí hợp lý để thực hiện hoạt động đó.
- Thu phí đối với việc cấp, đổi thẻ thành viên cho người tham gia bán hàng đa cấp dưới bất kỳ hình thức nào.
- Không cam kết cho người tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng hóa và nhận lại khoản tiền đã chuyển cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Cản trở người tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng hóa theo quy định của pháp luật.
- Cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, về tính chất, công dụng của hàng hóa, về hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp.
- Duy trì nhiều hơn một vị trí kinh doanh đa cấp, hợp đồng bán hàng đa cấp mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương đương đối với cùng một người tham gia bán hàng đa cấp.
- Kinh doanh theo mô hình kim tự tháp.
- Mua bán hoặc chuyển giao mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp khác trừ trường hợp mua lại, hợp nhất hoặc sáp nhập doanh nghiệp.
- Yêu cầu, xúi giục người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện hành vi bị cấm theo quy định của pháp luật.
- Phạt tiền gấp hai lần mức quy định tại Khoản 3 đối với các hành vi quy định tại Khoản 3 trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
- Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả sau:
- Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp đối với hành vi quy định tại Điểm d, Điểm đ Khoản 1 và hành vi quy định tại Khoản 3 trừ trường hợp kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Buộc cải chính công khai.
Thực trạng hành vi bán hàng đa cấp bất chính
Phương thức kinh doanh bán hàng đa cấp bất chính đã xuất hiện ở Việt Nam thông qua các sản phẩm như: mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, thiết bị khử trùng,… thông thường, các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp không quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà tổ chức các hội nghị, hội thảo khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Thuyết trình viên được mời đến hội nghị này tự xưng là dược sỹ, bác sỹ, tổng giám đốc,… Vai trò của họ là quảng cáo sản phẩm khiến khách hàng tin tưởng đó là sản phẩm có công dụng diệu kỳ. Khách hàng tin tưởng mà mua sản phẩm đó với giá trị đắt gấp nhiều lần giá trị thực của sản phẩm, các công ty sẽ hưởng hoa hồng từ những nạn nhân đó.
Hiện nay, cơ quan chức năng vẫn còn nhiều lúng túng trong quản lý hoạt động của mô hình kinh doanh dạng này. Từ 1998, kinh doanh đa cấp đã xuất hiện ở Việt Nam nhưng mãi đến 24/8/2005, Chính phủ mới ban hành Nghị định 110/2005/NĐ-CP thừa nhận tính hợp pháp của hình thức kinh doanh này. Vẫn tồn tại nhiều đơn vị tổ chức bán hàng đa cấp vẫn chưa có giấy phép kinh doanh và hoạt động lén lút. Khi tiến hàng hoạt động thanh tra, kiểm tra các cơ quan chức năng rất khó phát hiện và quản lý.
2.2. Các cơ quan quản lý cạnh tranh
Vào giữa thập niên thứ hai của quá trình đổi mới, các nhà làm luật Việt Nam đã đặt ra nhiệm vụ trọng yếu là phải xây dựng một đạo luật cạnh tranh mang tầm vóc của một đạo luật căn bản trong cấu trúc pháp luật thương mại. Trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm xây dựng Luật Cạnh tranh ở các nước, Luật Cạnh tranh Việt Nam đã được ban hành năm 2004. Gắn liền với quá trình hình thành pháp luật cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam cũng được thành lập như là một thiết chế kinh tế đặc biệt, được xây dựng để thực thi pháp luật cạnh tranh trên tinh thần bảo vệ các thiết chế kinh tế, thúc đẩy, giám sát các hoạt động kinh tế để tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
Hiện nay hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam được thành lập và tổ chức với hai cơ quan riêng biệt là Cục quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
2.2.1 Cục quản lý cạnh tranh Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Sự ra đời cục quản lý cạnh tranh
Năm 2003, Bộ trưởng Bộ Công thương đã thành lập Ban Quản lý cạnh tranh. Ngày 26/02/2004, để triển khai Nghị định số 29/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương, Bộ trưởng Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý cạnh tranh. Theo Quyết định số 1808/2004/QĐ-BTM ngày 06/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Công thương thì Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Bộ Công thương có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Các đơn vị trực thuộc Cục Quản lý cạnh tranh bao gồm: Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh, Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Phòng Bảo vệ người tiêu dùng, Phòng Kiểm soát theo mẫu – điều kiện giao dịch chung, Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước, Phòng Hợp tác quốc tế, Văn phòng, Trung tâm thông tin, Trung tâm đào tạo điều tra viên và các Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí và chức năng
Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức thuộc Bộ Công Thương có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng theo quy định của pháp luật; kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp và từ các nguồn khác theo quy định của Nhà nước. Cục Quản lý cạnh tranh có tên giao dịch viết bằng tiếng Anh: Vietnam Competition Authority, tên viết tắt: VCA, trụ sở chính tại thành phố Hà Nội.
Với chức năng chính là tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam, Cục Quản lý cạnh tranh đã và đang nỗ lực hoạt động nhằm:
Thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh
Tiêu chí hoạt động của Cục là tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh với cơ hội kinh doanh bình đẳng cho tất cả doanh nghiệp trên thị trường, khuyến khích và thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, qua đó đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, sự phát triển khoa học công nghệ và tiến bộ xã hội.
Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước những hành vi hạn chế cạnh tranh
Cục có nhiệm vụ điều tra các vụ việc liên quan đến các hành vi làm giảm, bóp méo và cản trở cạnh tranh trên thị trường. Cụ thể, Cục có nhiệm vụ tổ chức điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường và kiểm soát hiệu quả các hoạt động tập trung kinh tế. Sau khi kết thúc điều tra, Cục chuyển báo cáo điều tra và kiến nghị lên Hội đồng Cạnh tranh hoặc các cấp có thẩm quyền xem xét xử lý vụ việc.
Chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Nỗ lực hạn chế và loại bỏ hành vi cạnh tranh không lành mạnh như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, gièm pha hoặc gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, bán hàng đa cấp bất chính,… nhằm đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đối với các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, Cục có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Cục chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Để thực hiện trách nhiệm này, cục sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng và các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên toàn quốc nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người tiêu dùng được các nhà sản xuất cũng như các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ tôn trọng.
Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn cho ngành sản xuất trong nuớc
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và xuất phát từ thực tế nhiều ngành sản xuất của Việt Nam hiện còn non trẻ, Cục Quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ kiến nghị áp dụng những biện pháp phòng vệ chính đáng, cho phép những ngành công nghiệp còn non trẻ đó một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện các điều chỉnh cần thiết. Đồng thời Cục cũng nỗ lực nhằm đảm bảo loại bỏ tác động tiêu cực của các hành vi bán phá giá và trợ cấp hàng hóa nhập khẩu, qua đó tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn cho ngành sản xuất trong nước.
Hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nuớc phòng, chống các vụ kiện bán phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài
Cục chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương trong việc chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan hỗ trợ cho các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp xuất khẩu phòng, chống các vụ kiện bán phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành hoặc để Bộ trưởng Bộ Công thương trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành. Phát hiện và kiến nghị cơ quan có liên quan giải quyết theo thẩm quyền về những văn bản đã ban hành có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về hoạt động về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của pháp luật. – Về cạnh tranh:
- Thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh để Hội đồng cạnh tranh xử lý theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức điều tra, xử lý hoặc đề xuất biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo các quy định của pháp luật để trình Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định.
- Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế.
- Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp độc quyền, về quy tắc cạnh tranh trong hiệp hội, về các trường hợp miễn trừ.
Về xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam:
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
- Thụ lý, tổ chức điều tra việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt nam để đề xuất áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo quy định của pháp luật.
- Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp tạm thời và quyết định áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời theo quy định của pháp luật.
- Báo cáo kết quả điều tra lên Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ xem xét, trình Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện, rà soát việc chấp hành các quyết định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá; chủ trì hoặc phối hợp với các doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành đối thoại về quy chế kinh tế thị trường với các quốc gia, vùng lãnh thổ; chủ trì hoặc tham gia đàm phán vấn đề cạnh tranh và phòng vệ thương mại trong các điều ước quốc tế về thương mại theo phân công của Bộ trưởng Bộ Công thương.
Về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:
- Tiếp nhận đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong trường hợp hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung áp dụng trên phạm vi cả nước hoặc áp dụng trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; xử lý hoặc đề xuất biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Công khai danh sách tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở và đăng tải trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý cạnh tranh.
- Hợp tác quốc tế trong việc xây dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao; được sử dụng tư vấn trong và ngoài nước trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công việc theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật.
- Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên quan đến các lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng.
- Hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức, xây dựng cơ sở dữ liệu, quản lý và cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ Công thương.
- Xây dựng và thực hiện chương trình cải cách hành chính của Cục Quản lý cạnh tranh theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính của Bộ Công thương.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, thực hiện chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ đãi ngộ về thi đua, khen thưởng, kỷ luật, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức thuộc Cục theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ Công thương.
- Quản lý tài chính, tài sản được giao, tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Công thương giao.
Những bất cập trong tổ chức và hoạt động của Cục quản lý cạnh tranh
Thứ nhất, trong điều kiện mới được thành lập chưa lâu, số lượng chuyên gia cạnh tranh còn ít thì việc đào tạo, bồi dưỡng điều tra viên, chuyên gia,… chỉ mới đáp ứng được nhu cầu trước mắt và chất lượng vẫn còn hạn chế. Số lượng các điều tra viên của Cục chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội và người tiêu dùng.
Thứ hai, qua gần 5 năm hoạt động, Cục quản lý cạnh tranh vẫn chưa có nhiều động thái nhằm thể hiện vai trò của mình trong đời sống xã hội và chức năng chuyên biệt của nó trong hệ thống cơ quan nhà nước. Các khảo sát gần đây cho thấy hiểu biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh dừng lại ở mức “biết Luật Cạnh tranh mới ra đời” và nhận thức về cơ quan quản lý cạnh tranh cũng không khả quan hơn. Điều này xuất phát từ nguyên do kết quả hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh chưa tạo được con số ấn tượng.
Thứ ba, hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh được quy định “ôm đồm” quá nhiều chức năng, từ điều tra xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Có một thực tế là không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào trên thế giới được quy định nhiều chức năng, đặc biệt là bao gồm cả các chức năng thực thi pháp luật về các biện pháp đảm bảo công bằng trong thương mại quốc tế như Việt Nam. Điều này đã dẫn đến tình trạng quá tải cho hoạt động của Cục quản lý cạnh tranh trong thời gian qua.
2.2.2. Hội đồng cạnh tranh Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Sự ra đời hội đồng cạnh tranh
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ 11 đến 15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương. Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh cũng được Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm trong số thành viên của Hội đồng cạnh tranh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương. Ngày 09/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.
Ngày 12/06/2006, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 843/QĐ-TTg bổ nhiệm 11 thành viên Hội đồng cạnh tranh. Thành viên Hội đồng cạnh tranh là đại diện của các bộ: Bộ Công thương, Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư,… Hội đồng cạnh tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ tịch có 02 Phó Chủ tịch. Để giúp việc cho Hội đồng, ngày 28/08/2006, Bộ trưởng Bộ Công thương đã có Quyết định số 1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh. Ban Thư ký gồm 8 người làm việc chuyên trách. Tháng 01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm thêm 5 thành viên nâng tổng số thành viên Hội đồng cạnh tranh lên 16 người.
Vị trí và chức năng
Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh độc lập do Chính phủ thành lập, có chức năng tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.
Hội đồng Cạnh tranh có tên giao dịch viết bằng tiếng Anh: Viet Nam Competition Council, viết tắt là VCC. Hội đồng Cạnh tranh có tư cách pháp nhân, có trụ sở làm việc tại Hà Nội, có con dấu hình Quốc huy và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước. Kinh phí hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh do ngân sách nhà nước đảm bảo và được bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công Thương
Nhiệm vụ và quyền hạn
- Về tổ chức xử lý, giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh:
- Tổ chức tiếp nhận Báo cáo điều tra và Hồ sơ vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định tại Điều 93 Luật Cạnh tranh.
- Xử phạt, xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh theo quy định tại Điều 119 Luật Cạnh tranh.
- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Về giải quyết khiếu nại:
- Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
- Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định khác của Hội đồng Cạnh tranh, Chủ tịch Hội đồng Cạnh tranh, Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh, Chủ tọa Phiên điều trần theo trình tự, thủ tục của pháp luật khiếu nại.
Về tham gia tố tụng hành chính: Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Tham gia tố tụng hành chính theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật tố tụng hành chính.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác:
- Theo dõi việc thi hành các Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
- Tham gia ý kiến đối với các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch ngành, lĩnh vực, văn bản hành chính có liên quan.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh trong phạm vi thẩm quyền.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở dữ liệu, tài liệu liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Cạnh tranh.
- Hợp tác quốc tế về cạnh tranh trong phạm vi thẩm quyền.
- Báo cáo định kỳ hàng năm hoặc đột xuất theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh.
- Các nhiệm vụ khác trong phạm vi thẩm quyền.
Những bất cập trong tổ chức và hoạt động của hội đồng cạnh tranh
Thứ nhất, xét về mặt tổ chức, chúng ta chưa xác định được Hội đồng cạnh tranh trực thuộc Chính phủ hay Bộ Công thương. Nghị định số 05/2006/NĐ-CP chỉ quy định Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập mà chưa khẳng định rõ ràng nó trực thuộc cơ quan nào trong bộ máy hành pháp. Với tình trạng lấp lửng này, những cuộc tranh luận về tổ chức của Hội đồng cạnh tranh đến nay vẫn chưa thể kết thúc.
Thứ hai, các luận thuyết nền tảng của pháp luật cạnh tranh đã khẳng định rằng tính độc lập và tự quyết tạo nền tảng vững chắc cho các cơ quan quản lý cạnh tranh hoạt động độc lập và có hiệu quả. Dựa vào nội dung của Nghị định số 05/2006/NĐ-CP khó có thể khẳng định được sự độc lập của Hội đồng cạnh tranh. Việc Bộ trưởng Bộ Công thương có khả năng: đề nghị Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên và chủ tịch Hội đồng cạnh tranh; quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ban thư ký Hội đồng cạnh tranh – bộ phận giúp việc cho Hội đồng; phê duyệt quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh sẽ dẫn đến khả năng chi phối đối với việc tổ chức và hoạt động của cơ quan này. Ngoài ra, kinh phí hoạt động của Hội đồng cạnh tranh được bố trí theo dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công thương . Với những ràng buộc này, các ý định đưa Hội đồng cạnh tranh thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Bộ Công thương là rất mong manh. Dù biết rằng, do sự hạn chế về khả năng lựa chọn nhân sự và những non kém về kinh nghiệm trong việc thực thi pháp luật cạnh tranh đã làm chúng ta không có nhiều khả năng lựa chọn những phương án tối ưu, song điều đó không thể là cơ sở để trao toàn bộ khả năng thi hành đạo luật này cho Bộ Công thương. Nhất là trong điều kiện hiện nay, Bộ này vẫn còn đóng vai trò chủ quản của một số công ty nhà nước quan trọng và những nghi ngờ về tính khách quan trong hoạt động của các cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn còn cơ sở.
Thứ ba, về sự phân định thẩm quyền giữa Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Vấn đề này có nhiều điểm chưa thực sự hợp lý. Căn cứ vào các quy định tại Mục 4 và 5 Chương V của Luật Cạnh tranh 2004 có thể thấy rằng, trong một vụ việc về hành vi lạm dụng, cơ quan có thẩm quyền xử lý là Hội đồng cạnh tranh, song gần như tất cả các hoạt động tố tụng đều do Cục quản lý cạnh tranh tiến hành. Hội đồng cạnh tranh chỉ có thẩm quyền tổ chức phiên điều trần và ra quyết định xử lý vụ việc, giải quyết các khiếu nại các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh về hành vi hạn chế cạnh tranh. Như vậy, cho dù là cơ quan có quyền cao nhất, nhưng kết quả xử lý của Hội đồng cạnh tranh gần như phải lệ thuộc vào kết quả của các hoạt động tố tụng trước đó của Cục quản lý cạnh tranh. Nếu có bất cứ nghi ngờ gì về kết quả điều tra thì phải trả lại hồ sơ để cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại. Rõ ràng, cách thiết kế cơ chế phân quyền theo các quy định hiện hành có vẻ đảm bảo sự chuyên môn hoá cao độ song lại làm mờ nhạt đi vai trò rất quan trọng của Hội đồng cạnh tranh là xử lý vụ việc . Điều này đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải xây dựng lại cơ chế phân quyền này. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ tư, trên thực tế, hoạt động của Hội đồng cạnh tranh trong thời gian qua khá mờ nhạt, dường như trở thành “cái bóng” của Cục Quản lý cạnh tranh. Số lượng vụ việc hạn chế cạnh tranh đã xử lý dừng ở mức khiêm tốn: một vụ (điều đó còn phụ thuộc vào số lượng hồ sơ vụ việc mà Cục Quản lý cạnh tranh chuyển sang và Hội đồng chỉ có chức năng xử lý chứ không có chức năng điều tra). Hội đồng cạnh tranh cũng gặp những khó khăn như: hầu hết các thành viên đều kiêm nhiệm, bộ máy còn chưa hoàn chỉnh về nhân sự và biên chế. Bên cạnh đó, Hội đồng chưa có những hoạt động nổi bật về các chức năng còn lại (quảng bá, tuyên truyền pháp luật cạnh tranh, học hỏi kinh nghiệm xây dựng, tổ chức của các nước trên thế giới, hoàn thiện pháp luật cạnh tranh,…). Vì vậy, mô hình tổ chức cũng như hoạt động của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam chỉ mới dừng lại ở mức còn sơ khai, chưa hoàn thiện.
2.3. Trình tự tố tụng xử lý cạnh tranh không lành mạnh
2.3.1. Khiếu nại và thụ lý đơn khiếu nại
Khiếu nại
Trong trường hợp tổ chức và cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm do hành vi vi phạm luật cạnh tranh thì tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại đến Cơ quan quản lý cạnh tranh.
Thời hiệu khiếu nại là 2 năm, kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện.
Thụ lý hồ sơ khiếu nại
Cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý đơn khiếu nại khi đáp ứng các điều kiện sau:
- + Hồ sơ khiếu nại hợp lệ.
- + Còn thời hiệu khiếu nại.
- + Người khiếu nại đã nộp tạm ứng phí giải quyết vụ việc trong thời hạn yêu cầu.
2.3.2. Điều tra vụ việc cạnh tranh
Điều tra sơ bộ
Mỗi vụ việc cạnh tranh đều bắt đầu bằng thủ tục điều tra sơ bộ và được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Cơ quan quản lý cạnh tranh trong những trường hợp sau:
- + Hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý.
- + Cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm của Luật này.
Thời hạn điều tra sơ bộ là 30 ngày kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ. Căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị của điều tra viên, Thủ trưởng của cơ quan quản lý cạnh tranh ra một trong số các quyết định sau:
- + Đình chỉ điều tra nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có hành vi vi phạm quy định của Luật cạnh tranh.
- + Điều tra chính thức nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có hành vi vi phạm quy định của Luật cạnh tranh.
Điều tra chính thức
Nội dung điều tra chính thức:
- Đối với vụ việc thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, nội dung điều tra bao gồm: Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Xác minh thị trường liên quan;
- Xác minh thị phần trên thị trường liên quan của bên bị điều tra;
- Thu thập và phân tích chứng cứ về hành vi vi phạm.
- Đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, điều tra viên phải xác định căn cứ cho rằng bên bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thời hạn điều tra chính thức được quy định như sau:
Đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, thời hạn điều tra chính thức là chín mươi ngày, kể từ ngày có quyết định; trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn, nhưng không quá sáu mươi ngày;
Đối với vụ việc thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, thời hạn điều tra chính thức là một trăm tám mươi ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra; trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá sáu mươi ngày;
Việc gia hạn thời hạn điều tra phải được điều tra viên thông báo đến tất cả các bên liên quan trong thời hạn chậm nhất là bảy ngày làm việc trước ngày hết hạn điều tra.
2.3.3. Xử lý vụ việc cạnh tranh
Có 2 hình thức xử phạt vi phạm pháp luật về cạnh tranh:
- + Cảnh cáo
- + Phạt tiền
Các hình thức xử phạt bổ sung bao gồm:
- + Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
- + Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
- Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
- + Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- + Chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất, buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua.
- + Cải chính công khai.
- + Loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh.
- + Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm.
2.4. Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh dù thực hiện dưới hình thức nào cũng đều gây ra thiệt hại về quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể mà pháp luật cạnh tranh bảo vệ. Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý với hành động của mình, tùy vào mức độ vi phạm và hậu quả đã xảy ra mà chủ thể sẽ bị áp dụng 1 trong 3 chế tài sau:
Chế tài hành chính: xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Chế tài hình sự: xử phạt hành vi vi phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, người vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Chế tài dân sự: xử phạt hành vi vi phạm gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2.4.1. Chế tài hành chính
Chế tài hành chính không đồng nhất với trách nhiệm hành chính. Chế tài hành chính chỉ là một bộ phận của quy phạm pháp luật hành chính. Về hình thức là các biện pháp trách nhiệm hành chính mang tính cưỡng chế áp dụng với chủ thể vi phạm. Về nội dung là sự đánh giá tiêu cực của nhà nước và xã hội đối với hành vi vi phạm và người thực hiện hành vi đó.
Các hình thức chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra. Các hình thức xử lý cụ thể:
Hình thức xử phạt chính: phạt tiền.
Các hình thức phạt bổ sung: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt trên, chủ thể vi phạm có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc cải chính công khai. Chế tài hành chính được pháp luật của các nước trên Thế giới áp dụng chủ yếu là phạt tiền.
Cụ thể: Luật thương mại lành mạnh và những quy định về độc quyền của Hàn Quốc năm 1980 (phạt tiền với mức không quá 2% mức doanh thu của doanh nghiệp, trong trường hợp doanh thu không tồn tại thì mức tiền phạt không quá 500 triệu won).
Luật Cạnh tranh thương mại của Thái Lan năm 1999 (phạt tiền không quá 6 triệu baht đối với thương nhân có hành vi cạnh tranh không tự do và không bình đẳng, gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế hoạt động của những thương nhân khác, ngăn chặn thương nhân khác hoạt động kinh doanh hoặc buộc thương nhân khác phải kết thúc hoạt động kinh doanh). Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hòa liên bang Đức cũng có rất nhiều quy định phạt tiền.
Có thể thấy, chế tài hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh của pháp luật Việt Nam có nhiều nét tương đồng với pháp luật cạnh tranh của nhiều nước trên Thế giới. Các chế tài hành chính này cùng với các hình thức, biện pháp xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã góp phần răn đe, phòng ngừa các chủ thể kinh doanh có ý định thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh để thu lợi bất chính về mình. Tuy nhiên, hình thức và mức độ áp dụng của từng nước là khác nhau đối với từng hành vi vi phạm. Ví dụ: Tháng 8-11/2007, phát hiện vụ việc Công ty CP Liên kết tri thức in tờ rơi có nội dung sai lệch về sản phẩm bán hàng đa cấp cục quản lý cạnh tranh đã có biên bản ghi nhận hành vi bán hàng đa cấp bất chính của doanh nghiệp và có quyết định xử phạt hành chính 85 triệu đồng.
2.4.2. Chế tài hình sự Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Chế tài hình sự là chế tài được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự và được áp dụng với người thực hiện hành vi phạm tội. Chế tài hình sự là bộ phận hợp thành của quy phạm pháp luật hình sự, xác định loại và giới hạn mức độ hình phạt có thể áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự đó. Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh được quy định trong BLHS năm 1999 như: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156 BLHS); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157 BLHS); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158 BLHS); tội lừa dối khách hàng (Điều 162 BLHS); tội quảng cáo gian dối (Điều 168 BLHS).
Để bảo đảm sự bình đẳng, lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định, BLHS năm 2015 đã bổ sung một điều luật riêng quy định với những chế tài hình sự nghiêm khắc đối với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người nào trực tiếp tham gia hoặc thực hiện các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh, thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho người khác từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây :
- Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
- Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận;
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan 30% trở lên thuộc một trong các trường hợp: thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, nguồn cung dịch vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Thứ hai, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền thị trường;
- Thu lợi bất chính 5.000.000.000 đồng trở lên;
- Gây thiệt hại cho người khác 3.000.000.000 đồng trở lên.
Thứ ba, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ tư, pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
- Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
- Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
- Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
2.4.3. Chế tài dân sự
Chế tài dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm trong quan hệ dân sự khi họ thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự. Chế tài dân sự thường liên quan đến tài sản (buộc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận…) hoặc có thể là những biện pháp chế tài khác (buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai…)
Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại thì phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại Chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 và pháp luật có liên quan. Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Kiến nghị pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng P. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh […]