Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của các doanh nghiệp tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của các doanh nghiệp tại Việt Nam

2.1.1. Pháp luật quốc gia

2.1.1.1. Lịch sử pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam

So với lịch sử hình thành và phát triển về pháp luật bảo hộ trên thế giới, ở Việt Nam, pháp luật bảo hộ về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói riêng chậm phát triển do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.

Ngày 8/3/1949 chính quyền Việt Nam cộng hòa đã gia nhập 2 điều ước quốc tế quan trọng liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu là công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền SHCN và Thỏa ước Madird 1891 về đăng ký quốc tế nhãn hiệu và được chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa năm 1976. Cùng năm này, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức SHTT thế giới (WIPO), đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về SHTT ở nước ta.

Văn bản pháp lý đầu tiên về vấn đề bảo hộ quyền SHCN là nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982 ban hành “Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa” của Hội đồng Bộ trưởng. Trước năm 1982, pháp luật của nước ta cũng đã manh nha quy định về vấn đề SHTT, đó là nghị định số 175-TTg về đăng ký nhãn hiệu. Còn ở miền nam, một số đối tượng về SHCN trong đó có nhãn hiệu được bảo hộ tại luật số 13/57 ngày 1/8/1957 và luật số 14/59 ngày 11/09/1959 về chống sản xuất hàng giả.

Pháp luật về SHTT nước ta chỉ thực sự khởi sắc từ sau năm 1986-năm đánh dấu công cuộc đổi mới ở nước ta. Nhiều văn bản pháp luật về lĩnh vực này đã được ban hành như : Điều lệ kiểu dáng công nghiệp ngày 13/05/1988, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam ngày 5/12/1988, Nghị định số 49/HĐBT ngày 4/03/1991 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam, Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN ngày 11/02/1989, Nghị định 84/HĐBT ngày 20/03/1990 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN…Các văn bản này đã phần nào điều chỉnh việc bảo hộ quyền SHTT nhưng còn nhiều hạn chế và bất cập, chưa đáp ứng được cơ chế bảo hộ trong thời kỳ kinh tế thị trường[9].

Điều 60, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác, Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp”.[16]

Việc quy định về bảo hộ quyền SHTT trong văn bản pháp lý cao nhất đã thúc đẩy pháp luật về bảo hộ quyền SHTT phát triển. Sau đó, nghị định 54/2000/NĐ-CP ra ngày 03/10/2000 của chính phủ về bảo hộ quyền SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến SHCN. Cũng trong năm đó, Việt Nam đã ký với Hoa Kỳ một hiệp định mại có quy định về bảo hộ quyền SHTT, các đối tượng của quyền SHCN. Phần 6 của BLDS 2005 đã pháp điển hóa các văn bản pháp luật trước đó, tuy nhiên luật mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những nguyên tắc chung.

Do nhu cầu của sự phát triển nền kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã ban hành hai đạo luật quan trọng liên quan đến lĩnh vực SHTT. Đó là luật cạnh tranh 2004 và luật SHTT 2005. Cùng với BLDS 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, chúng ta đã có một sự bảo hộ đầy đủ về quyền SHCN đối với nhãn hiệu trước các hành vi xâm phạm. Điều này phù hợp với pháp luật quốc tế và những cam kết của chúng ta khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.

2.1.1.2. Quy định hiện hành Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Nhắc đến quy định pháp luật về bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp thì có thể chia ra làm 2 nhóm quy định: quy định về phòng ngừa các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu (các quy định này giúp cho doanh nghiệp bảo vệ được nhãn hiệu của mình trước khi có các hành vi xâm phạm) và quy định về xử lý các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu (giúp các doanh nghiệp bảo vệ được nhãn hiệu sau khi thấy nhãn hiệu mình đã đăng ký có dấu hiệu bị xâm phạm cũng như đây là căn cứ pháp luật để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các cá nhân, tổ chức có hành vi trái pháp luật.

Hiện nay, việc đăng ký bảo hộ cũng như xử lý các hành vi xâm phạm trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp nói chung và liên quan đến nhãn hiệu nói riêng tại Việt Nam được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau. Việc áp dụng văn bản luật nào hay ngành luật nào để xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu  còn tùy thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm của hành vi đó. Tuy nhiên các văn bản quy phạm pháp luật sau là nguồn chủ yếu sau đây:

Luật Sở hữu trí tụê năm 2005 (sửa đổi và bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành, gồm:

  • Nghị định số 119/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và bản lồng ghép với Nghị định số 105/2006/NĐ-CP;
  • Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan
  • Nghị định số 122/2010/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp và bản lồng ghép với Nghị định số 103/2006/NĐ-CP;
  • Nghị định 39/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
  • Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/08/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp;
  • Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 /9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 13/2010/TT-BKHCN ngày 30/7/2010 và Thông tư số 18/2011/TT-BKHCN ngày 22/7/2011.

Luật Cạnh tranh năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành, gồm:

  • Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh; • Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng , nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh;
  • Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, có sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 119/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011.
  • Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
  • Bộ Luật dân sự năm 2015 (phần SHTT) và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
  • Bộ Luật hình sự năm 2015 (phần SHTT) và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
  • Luật thương mại và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
  • Luật doanh nghiệp và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
  • Luật Công nghệ thông tin.… Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Thứ nhất, nhóm quy định về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu doanh nghiệp, được quy định cụ thể trong Luật SHTT:

  • Mục 4, chương VII về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu; – Điều 87 về quyền đăng ký nhãn hiệu;
  • Điều 88 đến điều 99 về cách thức, nguyên tắc nộp đơn, các vấn đề liên quan đến văn bằng bảo hộ; ….

Thứ hai, nhóm quy định về xử lý đối với các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Tùy theo tính chất cũng như mức độ của hành vi xâm phạm mà pháp luật có những quy định cụ thể về chế tài xử phạt đối với hành vi đó (xử phạt hành chính, bồi thường dân sự hay truy cứu trách nhiệm hình sự)

  • Biện pháp hành chính: Điều 211, 214 và 215 Luật SHTT và Nghị định số 99/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp;
  • Biện pháp dân sự: Chương XVII Luật SHTT và các điều khoản có liên quan trong Bộ luật dân sự;
  • Biện pháp hình sự: Điều 212 Luật SHTT và các điều khoản có liên quan trong Bộ luật hình sự (điều 192 đến 195, điều 266 bộ luật hình sự)

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1.2. Các công ước quốc tế

Hiện nay, Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế cơ bản có quy định về việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu sau:

  • Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước vào ngày 08/03/1949;
  • Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs). Việt Nam trở thành thành viên của Hiệp định TRIPs vào ngày 07/11/2006.

Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia ký kết các Hiệp định khu vực và song phương, như:

  • Hiệp định khung ASEAN về hợp tác sở hữu trí tuệ;
  • Kế hoạch của Cộng đồng kinh tế Asean (Asean Economy Community Blueprint);
  • Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Asean – Nhật Bản;
  • Hiệp định phi thương mại Asean – New Zealand – Australia (phần sở hữu trí tuệ);
  • Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ được ký vào tháng 7 năm 2000 và có hiệu lực vào tháng 12 năm 2001. Đây là Hiệp định được thành lập và kí kết theo những quy chuẩn nhất định của WTO;
  • Hiệp định Việt Nam – Thụy Sĩ về bảo hộ sở hữu trí tuệ được kí kết vào ngày 07 tháng 07 năm 1999 tại Hà Nội, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 08 tháng 06 năm 2000. Hiệp định này bao gồm hai nội dung là bảo hộ lẫn nhau và hợp tác về sở hữu trí tuệ.
  • Hiệp định hợp tác khoa học giữa Việt Nam – Hoa Kỳ (phần SHTT);
  • Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (phần sở hữu trí tuệ).

2.1.3. Nhận xét về thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Pháp luật bảo hộ các quyền liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp có các mặt tích cực sau.

Thứ nhất, đã có những quy định cụ thể rõ ràng về quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu. Đạt được độ tương thích giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia khác. Cụ thể: Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền SHCN được quy định dựa trên tiêu chí của Điều 10bis Công ước Paris (1883) và kinh nghiệm lập pháp của các nước. Nghị định số 54/2000/NĐ – CP ngày 3/10/2000 (gọi tắt là NĐ 54) quy định trực tiếp về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền SHCN (điều 25)[8].

Thứ hai, chủ động tạo môi trường pháp luật để hạn chế tối đa hậu quả của các hành vi xâm phạm, khuyến khích các nhà kinh doanh đầu tư vào khoa học – công nghệ, ngày càng phát triển nhãn hiệu hàng hóa nói riêng cũng như thương hiệu doanh nghiệp nói chung.

Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số mặt hạn chế, có thể kể ra như sau.

Thứ nhất, các hành vi xâm phạm quyền liên quan đến nhãn hiệu, cũng như các biện pháp xử lý các hành vi này chưa được quy định tập trung, thống nhất trong một văn bản pháp luật duy nhất mà vẫn còn nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực khác nhau, làm phát sinh nhiều kẽ hở trong thực tiễn áp dụng. Hay nói khác đi, hiện nay, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi xâm phạm quyền liên quan đến nhãn hiệu chưa được ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật riêng. 5 biện pháp xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến SHCN [10] còn được quy định bởi quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực khác nhau. Ví dụ như, thủ tục tiến hành xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính vừa được quy định trong pháp luật cạnh tranh vừa được điều chỉnh bởi pháp luật sở hữu trí tuệ với những quy định giải quyết khác nhau. Các quy định của pháp luật về xử lý cạnh tranh không lành mạnh mới chỉ mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, tính thực thi không cao nên chưa ngăn cản và xử lý hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu.

Thứ hai, các chế tài xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói riêng tại Việt Nam chủ yếu mới chỉ dừng lại ở xử phạt hành chính. Lợi thế của biện pháp hành chính là áp dụng nhanh chóng, không tốn nhiều thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên, mức xử phạt quy định trong các văn bản pháp luật cạnh tranh là còn thấp so với mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh thu được, dẫn tới việc doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt. Ngoài ra, trong khi biện pháp hình sự là một biện pháp rất quan trọng nhằm ngăn chặn và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, thì lại chỉ được áp dụng đối với các cá nhân phạm tội mà không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các pháp nhân, trong khi nhóm tội về sở hữu công nghiệp chủ yếu là do tổ chức thực hiện.

Thứ ba, hiện nay, tại Việt Nam chưa có luật riêng điều chỉnh từng đối tượng sở hữu trí tuệ. Kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia phát triển với hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp tương đối phát triển như Mỹ, Đức, Nhật Bản, Pháp… thì các nước này đều có luật riêng điều chỉnh từng đối tượng sở hữu trí tuệ như: Luật nhãn hiệu hàng hóa, Luật sáng chế…, một số ít nước có Bộ luật sở hữu trí tuệ như Pháp hoặc có nước vừa có Luật bản quyền và Luật sở hữu công nghiệp.

Hay như ở Nhật xác định rõ: (i) Những hành vi xâm phạm đến đối tượng sở hữu công nghiệp đã được đăng ký bảo hộ, có chủ thể quyền sở hữu công nghiệp rõ ràng thì được giải quyết theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ; (ii) Những hành vi xâm phạm (cạnh tranh không lành mạnh) liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp chưa đăng ký bảo hộ được giải quyết theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Khi quyền sở hữu công nghiệp không tồn tại như trường hợp một nhãn hiệu hàng hóa hay tên thương mại mà không đăng ký, Luật Cạnh tranh sẽ đóng vai trò bổ sung, nếu không muốn nói là thay thế để bảo vệ doanh nghiệp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ phía đối thủ. Chủ thể bị vi phạm sẽ phải chứng minh được có hành vi xâm phạm với lỗi cố ý từ phía đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan trong việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn (như sử dụng nhái lại khẩu hiệu kinh doanh của người khác gây nhầm lẫn đối với khách hàng nhằm mục đích lôi kéo khách hàng của đối thủ [31]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Như vậy, hệ thống luật pháp của Việt Nam chưa phù hợp với mô hình phổ biến của các quốc gia trên thế giới, do đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung.

Thứ tư, trong các quy định của pháp luật về xử lý cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp nói chung và liên quan đến nhãn hiệu nói riêng, chưa có các quy định điều chỉnh từng lĩnh vực cạnh tranh. Hiện nay, cạnh tranh không lành mạnh diễn ra rất phức tạp ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh. Mỗi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh lại có những đặc thù riêng, do đó, cạnh tranh không lành mạnh ở mỗi lĩnh vực sẽ mang những đặc điểm, mức độ và tính chất khác nhau nên cần có những quy định cụ thể điều chỉnh từng lĩnh vực cạnh tranh. Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền mới chỉ ban hành một số văn bản liên quan đến hoạt động kinh doanh xe máy, như Quyết định 147/2002/QĐ-TTg ngày 25/10/2002 về cơ chế điều hành quản lý xuất nhập khẩu, sản xuất, lắp ráp xe hai bánh gắn máy và phụ tùng, giai đoạn 2002-2005 và Quyết định 01/2003/QĐBKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ về các quy định cụ thể trong việc quản lý chất lượng và SHCN áp dụng cho xe máy, động cơ và phụ tùng xe máy được sản xuất, lắp ráp trong nước và nhấp khẩu. Ngoài ra, trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác, còn thiếu vắng những quy định pháp luật kiểu này.

Thứ năm, các quy định về xử lý hành vi xâm phạm liên quan đến nhãn hiệu nói riêng chưa bao quát hết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể xảy ra trong thực tế, do đó khi có những trường hợp ngoại lệ thì rất khó có thể tìm được một cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ sở hữu nhãn hiệu. Chẳng hạn như hiện tượng chiếm dụng, sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhâm lẫn với các nhãn hiệu đã gây dựng được uy tín trên thị trường xảy ra ngày càng phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn quá ít các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Do đó, còn khó khăn trong việc giải quyết nhanh chóng và dứt điểm các hành vi xâm phạm liên quan đến nhãn hiệu như trên.

2.2. Thực trạng thực thi bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của các doanh nghiệp tại Việt Nam

2.2.1. Thực trạng thực thi pháp luật Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Việc thực thi pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp chủ yếu sẽ do các chủ thể sau thực hiện:

Chủ sở hữu (doanh nghiệp có nhãn hiệu là đối tượng của bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp). Các doanh nghiệp để bảo vệ nhãn hiệu của mình trên thị trường thì sẽ thực hiện các quyền tự bảo vệ mà pháp luật quy định, cụ thể là nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho cơ quan có thẩm quyền càng sớm càng tốt và có quyền khởi kiện các chủ thể khác khi thấy có dấu hiệu xâm phạm vào quyền đối với nhãn hiệu mà mình đã được đăng ký.

Theo số liệu của Cục SHTT (Bộ KH&CN) thì trong 5 tháng đầu năm 2017 thì đã tiếp nhận 19.131 đơn đăng ký nhãn hiệu (15.703 đơn nhãn hiệu quốc gia và 3.428 đơn nhãn hiệu quốc tế nộp qua Hệ thống Madrid) tăng 3.8% so với cùng kỳ năm 2016[32]. Như vậy có thể thấy được nhận thức của chủ sở hữu nhãn hiệu đã được nâng cao, có ý thức tự bảo vệ nhãn hiệu của mình trên thị trường.

Tuy nhiên, số lượng đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu có tăng nhưng so với tỷ lệ doanh nghiệp trên cả nước thì vẫn chiếm số lượng rất nhỏ. hiện cả nước có khoảng 600.000 doanh nghiệp và hơn 2 triệu hộ kinh doanh cá thể nhưng mới có khoảng 300.000 nhãn hiệu được đăng kí bảo hộ ở Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp nước ngoài)[34]. Con số này chứng tỏ việc nhận thức về việc đăng ký nhãn hiệu của các chủ thể kinh doanh là chưa đồng đều, việc đăng ký nhãn hiệu chủ yếu là do các doanh nghiệp vừa và lớn thực hiện còn ở bộ phận doanh nghiệp nhỏ và các hộ kinh doanh thì vai trò của việc đăng ký nhãn hiệu chưa được nhận thức rõ.

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này. Các cơ quan này sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua 2 cơ chế: ngăn cấm và chế tài xử phạt. Việc ngăn cấm sẽ được thực hiện trước khi nhãn hiệu bị xâm phạm, ví dụ như: khi nhận được hồ sơ đăng ký nhãn hiệu của doanh nghiệp mà thấy được nhãn hiệu đó không đủ điều kiện để có thể “tự bảo vệ” mình hoặc có những dấu hiệu tương tự với các nhãn hiệu đã đăng ký trước đó thì sẽ không cấp văng bằng bảo hộ; hoặc là có những quy định về việc các chủ thể khác không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu không được sử dụng nhãn hiệu đã được đăng ký vì mục đích riêng mà chưa có sự cho đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu, gây tổn thất cho doanh nghiệp là chủ sở hữu, cho người tiêu dùng,…

Cũng theo số liệu của Cục SHTT (Bộ KH&CN) thì trong 5 tháng đầu năm 2017 rong 19.131 đơn đăng ký nhãn hiệu mà đã xử lý được 11.040 nhãn hiệu (8.462 nhãn hiệu quốc gia và 2.578 nhãn hiệu quốc tế đăng ký thông qua Hệ thống Madrid). Có nghĩa là trong tổng số đơn đăng ký nhãn hiệu thì Cục SHTT đã không cấp văn bằng bảo hộ cho 8.091 đơn đăng ký nhãn hiệu, chiếm 42,3% tổng số đơn đăng ký[32]. Điều này chứng tỏ cơ quan này đã xem xét  mức độ “tự bảo vệ” của nhãn hiệu được mang đi đăng ký và có sự bảo vệ nhất định đến các nhãn hiệu đã được đăng ký trước đó.

Về chế tài xử phạt, sẽ được thực hiện sau khi xác định và chứng minh được có chủ thể xâm phạm vào quyền sở hữu công nghiệp đồi với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Chế tài xử phạt này sẽ do các cơ quan tố tụng, tòa án quyết đinh và cơ quan thi hành án thực thi đối với chủ thể xâm phạm. Các chế tài đã được trình bày bên trên bao gồm 3 biện pháp: biện pháp hành chính, biện pháp dân sự và biện pháp hình sự. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Các chủ thể khác: phải tôn trọng quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ của doanh nghiệp, không được có những hành vi xâm phạm gây tổn hại đến lợi ích của doanh nghiệp chủ sở hữu hay người tiêu dùng. Nếu đã có hành vi xâm phạm và có quyết định xử phạt của cơ quan chức năng thì cần phải tuân thủ đúng, không được có các hành vi lẩn tránh, không thực hiện.

Xâm phạm thương hiệu từ lâu đã được các đối tượng thực hiện bằng nhiều phương thức, thậm chí sử dụng công nghệ cao, thiết bị hiện đại để sản xuất, sao chép khiến người tiêu dùng và thậm chí cả các cơ quan chức năng cũng khó phát hiện để có biện pháp xử lý. Bên cạnh đó, xâm phạm thương hiệu ngày càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn diễn ra trên phạm vi quốc tế với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cùng đa dạng các chủng loại hàng hóa xâm phạm từ những sản phẩm tiêu dùng thông thường đến cao cấp, từ hàng tiêu dùng đến tư liệu sản xuất. Thương hiệu càng có uy tín thì càng bị sao chép, các thương hiệu của các chủng loại sản phẩm như quần áo, mỹ phẩm, thuốc tân dược, thực phẩm, phụ tùng xe máy, hàng gia dụng, điện tử… luôn nằm trong top các thương hiệu bị xâm phạm nhiều nhất. Mặc dù đến nay chưa có con số thống kê chính thức về số vụ xâm phạm thương hiệu cũng như lượng hàng giả, hàng nhái trên thị trường nhưng số vụ được phát hiện trong thời gian gần đây có xu hướng gia tăng với tốc độ xâm phạm ngày càng nhanh. Nếu như trước đây, sau khi sản phẩm mới ra đời, phải một thời gian trên dưới nửa năm mói có hàng giả thì nay chỉ khoảng nửa tháng là hàng giả đã xuất hiện. Thậm chí với một số sản phẩm công nghệ thì hàng giả còn thậm chí xuất hiện trước khi sản phẩm chính hãng được đưa ra thị trường. Thứ nhất, số lượng các vụ việc vi phạm có xu hướng gia tăng. Số liệu xử lý vi phạm quyền SHCN của các cơ quan có thẩm quyền trong những năm gần đây, trong đó bao gồm cả hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu và các hành vi xâm phạm quyền SHCN khác. Số liệu dưới đây đã chia theo cơ quan xử lý vụ việc [33,35,36,37].

Theo báo cáo của Thanh tra Bộ Khoa học và công nghệ, trong năm 2013 – 2014, lực lượng thanh tra, kiểm tra ở các bộ, ngành và địa phương (Thanh tra Khoa học và công nghệ, Quản lý thị trường, Công an, Hải quan…) đã xử lý 32.474 vụ việc liên quan đến hàng giả, kém chất lượng, xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp… Còn theo báo cáo thường niên về hoạt động sở hữu trí tuệ của Cục Sở hữu trí tuệ năm 2015 thì trong 5 năm từ 2011 – 2015, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp là 2 đối tượng bị xâm phạm nhiều nhất, với số tiền xử phạt cao nhất. Năm 2015, đã có khoảng 1.500 vụ xâm phạm nhãn hiệu bị xử lý bằng biện pháp hành chính, với tổng số tiền phạt gần 13 tỷ đồng, trong đó đối tượng bị xâm phạm chủ yếu vẫn là nhãn hiệu, chiếm 97% số vụ và 98% tổng số tiền phạt. TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Yên Bái, Đồng Nai, Đà Nẵng, Cần Thơ là những địa phương thực hiện xử lý xâm phạm nhiều nhất. Cụ thể dưới đây là số vụ việc được từng cơ quan có thẩm quyền phát hiện và giải quyết.

Một là, cơ quan Thanh tra chuyên ngành KH&CN Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Năm 2006 – 2008, Cơ quan thanh tra KH&CN đã tiến hành thanh tra 3.574 cơ sở, phát hiện và xử lý 459 vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, đã xử phạt cảnh cáo 152 cơ sở, phạt tiền 307 cơ sở với số tiền 1.847.988.200 đồng, buộc tiêu huỷ, loại bỏ yếu tố vi phạm ra khỏi nhiều loại sản phẩm, hàng hoá.

Năm 2009, Thanh tra Bộ KH&CN đã tiến hành thanh tra 61 vụ, đã xử lý 38 vụ xâm phạm về nhãn hiệu, 02 vụ xâm phạm về kiểu dáng và 05 vụ xâm phạm giải pháp hữu ích, đã xử phạt cảnh cáo 01 vụ, phạt tiền 45 vụ với tổng số tiền phạt 697.356.000 đồng và xử lý 156.426 sản phẩm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Theo số liệu tổng hợp được từ 55 báo cáo của Sở KH&CN các tỉnh/thành phố năm 2009, các Sở KH&CN đã tiến hành thanh tra 7453 cơ sở, đã xử lý 1.012 cơ sở vi phạm hành chính bằng các hình thức: cảnh cáo 146 cơ sở, phạt tiền 866 cơ sở với số tiền 3.175.469.500 đồng, tịch thu, xử lý và tiêu hủy nhiều tang vật vi phạm hành chính.

Năm 2012, Thanh tra Khoa học và Công nghệ đã tiến hành thanh tra 69 cơ sở, đã phát hiện và xử phạt 36 trường hợp có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với số tiền 859.000.000 đồng. Thanh tra KH&CN đã buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên 25.703 sản phẩm, buộc tiêu hủy và tịch thu tiêu hủy 7.462 sản phẩm chứa đựng các dấu hiệu xâm phạm quyền SHCN theo quy định của pháp luật. Riêng Thanh tra Bộ KH&CN tiến hành 38 cuộc thanh tra trong lĩnh vực này, đã phát hiện và xử lý 20 trường hợp vi phạm với tổng số tiền phạt lên tới 831 triệu đồng và đã thực thu về được cho ngân sách. Thanh tra Bộ đã phối hợp với Cục Quản lý thị trường xử lý 01 trường hợp và với lực lượng cảnh sát điều tra xử lý 36 trường hợp.

Hai là, cơ quan Quản lý thị trường

Năm 2008, Cơ quan Quản lý thị trường đã thụ lý 2.697 vụ (415 vụ xâm phạm KDCN, 2.268 vụ xâm phạm nhãn hiệu, 7 vụ xâm phạm CDDL, 3 vụ xâm phạm tên thương mại, 4 vụ cạnh tranh không lành mạnh), trong đó xử lý 2.506 vụ (389 vụ xâm phạm KDCN, 2.105 vụ xâm phạm nhãn hiệu, 6 vụ xâm phạm CDDL, 2 vụ xâm phạm tên thương mại, 4 vụ cạnh tranh không lành mạnh) với tổng số tiền phạt lên tới hơn 7.000.000.000 đồng.

Năm 2009, Cơ quan Quản lý thị trường phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng như Công an, Y tế… đã tập trung kiểm tra các cơ sở sản xuất, chế biến, đóng gói, các đầu mối kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa quy mô lớn, nhiều vụ bị phát hiện tại Hải Phòng, Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh. Tại TP.Hồ Chí Minh, lực lượng quản lý thị trường đã xử lý 201 vụ xâm phạm nhãn hiệu với số tiền phạt gần 2,7 tỷ đồng. Đồng Nai, Cà Mau, Hải Dương cũng là những địa phương có số vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý khá cao, chủ yếu liên quan đến nhãn hiệu (tại Cà Mau, lực lượng quản lý thị trường đã xử lý 186 vụ xâm phạm nhãn hiệu với số tiền phạt trên 704 triệu đồng; tại Đồng Nai, lực lượng quản lý thị trường đã thụ lý 106 vụ xâm phạm nhãn hiệu, xử lý 76 vụ với số tiền phạt hơn 191 triệu đồng…) – Năm 2012, Cơ quan quản lý thị trường các địa phương và trung ương đã tiến hành xử lý 9556 vụ việc xâm phạm quyền SHTT, trong đó có 61 vụ xâm phạm quyền tác giả/quyền liên quan, 8999 vụ giả mạo nhãn hiệu, 67 vụ xâm phạm quyền nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp, 422 vụ sử dụng tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả mạo và 07 vụ vi phạm giống cây trồng. Tổng số tiền xử phạt 5,8 tỷ đồng, giá trị hàng hóa vi phạm bị phát hiện và xử lý là 3,8 tỷ đồng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Ba là, cơ quan Hải quan

Năm 2006 -2008, Cơ quan Hải quan đã tiếp nhận và xử lý trên 53 đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu, đơn gia hạn kiểm tra, giám sát có liên quan đến SHTT. Cơ quan Hải quan đã ra thông báo tạm thời dừng làm thủ tục hải quan và xử lý 31 trường hợp, trong đó hầu hết là các trường hợp được xác định là có giả mạo về SHTT (điện thoại và linh kiện điện thoại di động, thuốc lá điếu, linh kiện máy tính, túi xách…). Cơ quan Hải quan đã xử phạt vi phạm hành chính với số tiền khoảng 1,3 tỷ đồng.

Năm 2009, Cơ quan Hải quan trong tập trung nhiều vào công tác chống hàng giả, đã xử lý nhiều vụ xâm phạm nhãn hiệu, tịch thu và tiêu hủy số lượng lớn hàng giả[24], số tiền phạt hành chính gần 2 tỷ đồng. Tổng cục Hải quan đã tham gia với hải quan các nước trong khu vực (Thái Lan, Cambodia, Lào, Myanmar, Indonesia, Trung Quốc) triển khai chuyên án Storm (2009-2011) do Tổ chức Y tế thế giới kết hợp với Interpol chủ trì với mục đích là đấu tranh với các hành vi sản xuất, mua bán và vận chuyển các loại thuốc giả trong khu vực. Lực lượng hải quan đã tổ chức một số cuộc gặp gỡ với đại diện một số doanh nghiệp (Puma, Tyco…) để thảo luận xây dựng những biện pháp phối hợp đấu tranh chống hàng giả.

Năm 2012, Cơ quan Hải quan cũng đã tiếp nhận và xử lý gần 100 yêu cầu của các chủ thể quyền SHTT đề nghị kiểm tra, giám sát tại biên giới. Tính đến thời điểm năm 2012 ngành hải quan có tất cả 106 đơn yêu cầu bảo vệ quyền SHTT tại biên giới với khoảng gần 300 nhãn hiệu hàng hóa các loại. Cơ quan Hải quan đã xử lý 101 vụ, xử phạt với số tiền khoảng 300 triệu đồng, đồng thời đã tịch thu xử lý hàng chục ngàn sản phẩm vi phạm các loại (như: rượu, thuốc lá, mỹ phẩm, quần áo, điện thoại di động… xâm phạm các các nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam).

Bốn là, cơ quan Công an Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Năm 2006 -2009, Cơ quan cảnh sát điều tra về trật tự và quản lý kinh tế chức vụ thuộc Bộ Công an đã phát hiện và bắt giữ 76 vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với mặt hàng thực phẩm, quần áo, mỹ phẩm, thuốc tân dược, và chỉ đạo Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế địa phương tập trung đấu tranh các đối tượng chuyên sản xuất hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra lực lượng cảnh sát còn phối hợp với các cơ quan thực thi kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính, đối với các cơ sở xâm phạm kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, bản quyền phần mềm, tiêu hủy hàng hóa xâm phạm.

Lực lượng cảnh sát điều tra về tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ đã điều tra phát hiện và bắt giữ 156 vụ và khởi tố nhiều đối tượng có các hành vi sản xuất buôn bán các hàng hoá giả mạo SHTT như: thực phẩm, quần áo, mỹ phẩm, tân dược, rượu, linh kiện. Điển hình là vụ triệt phá đường dây buôn bán thuốc giả Viagra và Cialis từ Trung Quốc vào Việt Nam, với tang vật thu giữ là 13.600 viên thuốc giả, đã khởi tố 02 đối tượng; vụ thu giữ 85 tấn phân NPK giả do Công ty Tân Trường Sinh (Hoài Đức, Hà Nội) sản xuất, vụ việc đã được khởi tố và tiếp tục điều tra các đối tượng liên quan.

Theo báo cáo của Cục Cảnh sát kinh tế (Bộ Công an), riêng năm 2012 lực lượng cảnh sát kinh tế của 44 tỉnh/thành phố đã phát hiện 276 vụ xâm phạm quyền SHTT, sản xuất buôn bán hàng giả, trong đó đã khởi tố 66 vụ, 74 bị can (có 26 vụ xâm phạm nhãn hiệu), phạt tiền hơn 2,4 tỷ đồng. So với năm 2011, số vụ phát hiện đã tăng 107 vụ, số vụ khởi tố tăng 48 vụ (năm 2011, lực lượng cảnh sát kinh tế đã phạt hiện 169 vụ xâm phạm quyền SHTT, sản xuất, buôn bán hàng giả, 214 đối tượng, trong đó đã khởi tố 18 vụ, 30 bị can).

Thứ hai, các hành vi vi phạm ngày càng tinh vi. Không chỉ số lượng các vụ việc làm giả hay nhái nhãn hiệu ngày càng tăng mà thủ đoạn của hành vi xâm phạm đến nhãn hiệu của doanh còn trở nên ngày càng tinh vi hơn, sử dụng mọi cách thức nhằm đánh lừa người tiêu dùng. Các hành vi làm giả, nhái nhãn hiệu hàng hóa tinh vi đến mức mà chính doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa bị xâm phạm cũng không thể phát hiện được. Đến khi phát hiện ra, tuy có một số biện pháp khắc phục nhưng không đáng kể, nhiều doanh nghiệp đành sống chung với hàng giả. Nhiều nhãn hiệu được làm giả rất tinh vi, giống với nhãn hiệu hàng hóa chính hãng đến từng chi tiết, chỉ khi kiểm tra mã vạch trên nhãn hàng hóa mới có thể phân biệt được đâu là hàng thật, đâu là hàng giả. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Các doanh nghiệp vi phạm thường sử dụng các nguyên vật liệu sản xuất hàng hóa không rõ nguồn gốc để sản xuất ra sản phẩm, sau đó gắn nhãn hiệu được làm giả lên hàng hóa đó nhằm đánh lừa người tiêu dùng về nguồn gốc thực sự của hàng hóa. Hơn thế nữa, các thủ đoạn, mánh khóe nhằm đưa hàng hóa có nhãn hiệu vi phạm quyền sở hữu công nghiệp từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam cũng ngày càng tinh vi hơn. Chẳng hạn như các đối tượng vi phạm thường lợi dụng hành lý xách tay để nhập các mặt hàng có kích thước nhỏ, nhập qua nhiều cửa khẩu khác nhau khiến cho chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa không nắm được để kịp thời đề nghị cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục. Đáng ngại hơn, nhiều đối tượng có hành vi xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa lại là cán bộ của các doanh nghiệp Nhà nước có chức năng sản xuất kinh doanh hay các đại lý phân phối hàng, thậm chí cả các nhà sản xuất có thương hiệu.

Thứ ba, hành vi xâm phạm đến nhãn hiệu đang diễn ra trong tất cả các ngành kinh tế. xâm phạm đến nhãn hiệu liên đang ngày càng phát triển về chiều rộng, các hành vi đăng kí và sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ liên quan cũng như với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, đang xảy ra trong hầu hết các thị trường, từ thị trường hàng hóa bình dân đến hàng hóa cao cấp, từ hàng tiêu dùng cho đến hàng vật tư, nguyên liệu cho sản xuất… Nếu không được ngăn chặn ngay từ đầu, hậu quả mà các hành vi cạnh tranh này đem lại không chỉ làm thiệt hại đến lợi nhuận, uy tín của doanh nghiệp, mà nguy hiểm hơn còn làm thiệt hại sức khoẻ cũng như tính mạng người tiêu dùng do dùng hàng giả, hàng “nhái”, kém chất lượng, đặc biệt là trong thị trường dược phẩm, vật tư y tế,…

Ví dụ 1:

Công ty Dược phẩm N.V.ORGANON là một công ty dược phẩm chuyên nghiên cứu và phát triển các sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống. Năm 1995, công ty đã cho ra đời một loại thuốc trị tiêu chảy mang tên “ANTIBIO”. Sản phẩm này đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu số 21670 vào ngày 25/10/1995.

Tuy nhiên, sau đó trên thị trường dược phẩm bỗng nhiên xuất hiện một sản phẩm thuốc trị tiêu chảy mang nhãn hiệu tương tự, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “ANTIBIO” đã được cấp Giấy chứng nhận đăng kí. Đó là nhãn hiệu “UPHA – BIO” của Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25 – thành viên của Tổng công ty Dược, trực thuộc bộ Y tế Việt Nam.

Sau đó, công ty Dược phẩm N.V.ORGANON đã có đơn yêu cầu thẩm định tới Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Sau quá trình thẩm định Cục Sở hữu trí tuệ đã xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa của Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25. Các dấu hiệu được đưa ra: Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

  • Về cách phát âm: khi phát âm theo tiếng Anh thì hai tên này na ná như nhau vì có hậu tố với âm “BI-ÂU”.
  • Nhóm sản phẩm: cả hai loại hàng hóa trên đều thuộc nhóm 5 (dược phẩm).
  • Màu sắc: hai nhãn hiệu đều là màu đen trắng.
  • Cách trình bày: Cả hai nhãn hiệu đều được đặt ở cùng một vị trí trên bao bì sản phẩm. Hơn nữa tên nhãn hiệu của cả hai sản phẩm đều được đặt trong một hình e-líp màu trắng, xung quanh là màu xanh nước biển.
  • Công dụng: cả hai loại thuốc đều có công dụng trị tiêu chảy.

Với những phân tích như trên, Cục Sở hữu trí tuệ có đầy đủ cơ sở để xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25 vì nhãn hiệu này sẽ gây ra sự nhầm lẫn về nơi đã sản xuất ra sản phẩm, tức là người tiêu dùng sẽ lầm tưởng rằng thuốc mang nhãn hiệu “UPHA-BIO” là của công ty N.V.ORGANON sản xuất. Đây chính là một dạng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu.

Ví dụ 2: 

Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên Rượu Hà Nội,nay là Công ty TNHH một thành viên thương mại rượu Hà Nội, địa chỉ tại 94 phố Lò Đúc, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng kí số 48922, bảo hộ tổng thể nhãn hiệu “HALICO, VODKA HANOI, hình” (bao gồm cả màu sắc) cho các sản phẩm “Các loại rượu” thuộc nhóm 33 vào ngày 20/06/2003.

Tuy nhiên, sau đó, trên thị trường đồ uống cũng xuất hiện nhãn hiệu  “VODKA” được sử dụng trên sản phẩm rượu của công ty TNHH Hải Hà, địa chỉ tại Phù Cừ, Hưng Yên. Nhãn hiệu này đặt trong sự so sánh với nhãn hiệu của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Rượu Hà Nội như sau:

Hai nhãn hiệu này tương tự với nhau ở các dấu hiệu sau:

  • Chữ cái, từ ngữ: hoàn toàn trùng nhau, cả hai đều mang tên “VODKA”, mặc dù vị trí đặt tên nhãn hiệu không giống nhau hoàn toàn;
  • Màu sắc: đều là màu xanh da trời đậm;
  • Hình ảnh: cả hai hình ảnh thể hiện trên sản phẩm tương tự nhau; – Nhóm sản phẩm: đều thuộc nhóm 33 (Các loại rượu).

Như vậy, đây cũng là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa. Hành vi này sẽ khiến người tiêu dùng không tránh khỏi sự nhầm lẫn trong việc lựa chọn sản phẩm trên thị trường.

Ví dụ 3:  Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Một vụ việc xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa khác xảy ra gần đây đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người tiêu dùng cũng như của các doanh nghiệp Việt Nam, đó là vụ việc Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt My và Công ty trách nhiệm hữu hạn Quang Minh sản xuất hai loại trà xanh mang nhãn hiệu O2 và trà xanh Ω có các dấu hiệu trùng, tương tự với nhãn hiệu trà xanh 0 độ của Công ty Tân Hiệp Phát.  Trà xanh 0 độ của Công ty Tân Hiệp Phát đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu và kiểu dáng, mẫu mã bao bì. Nhãn hiệu trà xanh 0 độ với bao gồm: logo Number One và chữ 0 độ thật to trên nhãn hàng. Hiện dòng sản phẩm này có sức tiêu thụ rất mạnh trên thị trường nước giải khát, chiếm trên 40% thị phần nước giải khát của doanh nghiệp. Lợi dụng uy tín sẵn có trên thị trường của sản phẩm trà xanh 0 độ , Công ty Việt My đã sản xuất loại trà xanh mang nhãn hiệu O2 có các dấu hiệu màu sắc, bao bì, cách trình bày nhãn hiệu hàng hóa trên bao bì sản phẩm giống hệt với nhãn hiệu trà xanh 0 độ của Công ty Tân Hiệp Phát. Tiếp đó, trên thị trường tiếp tục xuất hiện sản phẩm trà xanh mang nhãn hiệu Ω của Công ty Quang Minh với các dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu trà xanh 0 độ của Tân Hiệp Phát. Trước vụ việc như trên, Công ty Tân Hiệp Phát đã có ý định khởi kiện hai Công ty Việt My và Công ty Quang Minh ra toà án vì tội nhái nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, trước hành động xin lỗi công khai của hai đơn vị vi phạm, Công ty Tân Hiệp Phát đã huỷ bỏ quyết định khởi kiện hai Công ty trên, đổi lại hai Công ty này buộc phải cam kết thu hồi các sản phẩm nhái mang nhãn hiệu O2 và Ω đang lưu thông trên thị trường cho đến ngày 04/08/2007. Tổng cộng có hơn 30.000 chai trà xanh O2 đã bị thu hồi và tiêu huỷ. Các sản phẩm trà xanh chưa được tung ra thị trường, tuy nhiên Công ty Quang Minh cũng cam kết tiêu hủy toàn bộ vỏ chai và nhãn mác dự tính đưa ra thị trường.

Ví dụ 4: 

Red Bull là một thương hiệu lớn, nổi tiếng. Nhưng cũng chính vì nổi tiếng và được nhiều người biết đến nên nhãn hiệu này càng là miếng mồi ngon cho các đối tượng xấu xâm phạm nó để trục lợi.

Tóm tắt vụ án Red Bull:

  • Tháng 2/2004, ông Bùi Trung Hòa – Giám đốc công ty TNHH Nam Bình đã đưa vào sản xuất 34.000 lon nước tăng lực giống hệt với nhãn hiệu Red Bull.
  • Tháng 6/2006, công ty TNHH công nghiệp dược phẩm TC (Thái Lan) sở hữu nhãn hiệu Red Bull (đã được bảo hộ độc quyền tại Việt Nam) đề nghị cơ quan công an xử lý hình sự đối với ông Hòa về tội xam phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu Red Bull của mình.
  • Chiều 21/01/2008, TAND Tp. Hồ Chí Minh đã tuyên phạt Bùi Trung Hòa 3 năm cải tạo không giam giữ về 2 tội “Xâm phạm quyền SHCN” và  “trốn thuế”. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Nguyên nhân của hiện tượng diễn ra một cách phổ biến việc xâm phạm các quyền liên quan tới nhãn hiệu là bởi do hành vi sản xuất và kinh doanh hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu luôn đem lại cho các chủ thể mức lợi nhuận cao hơn gấp nhiều lần so với việc phải đầu tư vào xây dựng một nhãn hiệu mới cho các sản phẩm lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường của doanh nghiệp. Chính vì thế, hiện nay, các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu được thực hiện bởi nhiều đối tượng, kể cả những người lao động thuần tuý, trên nhiều địa bàn và lĩnh vực khác nhau; trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, thu nhập bình quân của người tiêu dùng còn thấp, trong khi đó giá cả các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt khá cao. Chính sự mất cân đối này đã khiến người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những hàng hóa có mẫu mã giống các sản phẩm có uy tín nhưng giá bán lại rất thấp và các chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chưa ý thức đầy đủ về việc bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách đăng kí bảo hộ nhãn hiệu. Hơn thế nữa, trình độ nhận thức về tác hại của xâm phạm các quyền đối với nhãn hiệu đến lợi ích cộng đồng còn hạn chế.

Các chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đóng vai trò chủ chốt trong việc xử lý các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu. Song, hiện nay, phần lớn các chủ sở hữu quyền SHCN đối với nhãn hiệu chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Trong khi đó, trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với sức khỏe, lợi ích cộng đồng còn rất hạn chế. Hiện nay, rất ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về SHTT, hầu như chưa có doanh nghiệp nào có chiến lược về SHTT, coi vấn đề SHTT là một bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối tượng quản lý như quản lý tài sản thông thường. Hơn nữa, trong thời gian qua, các doanh nghiệp đã chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa nhưng lại chưa quan tâm đến  khâu đăng kí bảo hộ nhãn hiệu của mình ở những khu vực thị trường đã và sẽ phát triển. Chẳng hạn như, hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh còn chưa nhận thức được rằng: hiệu lực bảo hộ nhãn hiệu chỉ được xác lập sau khi được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu. Do đó, ngay sau khi nộp đơn yêu cầu đăng kí nhãn hiệu, rất nhiều doanh nghiệp đã tiến hành quảng cáo, in ấn, sử dụng nhãn hiệu đó cho các hàng hóa, dịch vụ của mình, mà không lường hết được hậu quả pháp lý của hành vi đó là đơn không được chấp thuận, có thể do Cục SHTT từ chối do không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ, hoặc do bên thứ ba phản đối với lý do xâm phạm đến quyền của họ. Đây chính là hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra rất phổ biến trong quá trình đăng kí nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam. Hậu quả là các doanh nghiệp này phải chịu các thiệt hại về vật chất cũng như uy tín của mình. Một ví dụ cụ thể cho tình trạng này đó là trường hợp một doanh nghiệp ở Việt Nam nộp đơn đăng kí bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa “Kando và Hình” cho sản phẩm áo đi mưa. Sau khi nộp đơn đăng kí nhãn hiệu, chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu, chủ doanh nghiệp đã tiến hành việc quảng cáo, in ấn nhãn hiệu, sử dụng nhãn hiệu cho các sản phẩm của mình mà không biết rằng dấu hiệu đăng kí “Kando và Hình” có các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh với nhãn hiệu “Rando và Hình” đã được cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm cùng loại trước đó. Chủ sở hữu nhãn hiệu “Rando và Hình” đã yêu cầu chủ doanh nghiệp sử dụng dấu hiệu “Kando và Hình” phải ngừng ngay việc sử dụng, loại bỏ dấu hiệu trên các sản phẩm, biển hiệu, tiêu huỷ các giấy tờ, tài liệu có gắn dấu hiệu “Kando và Hình”. Hậu quả là doanh nghiệp này phải chịu mất mát về tài sản và phải thay đổi toàn bộ kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh Việt Nam khi bị xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình vẫn còn có tâm lý ngại tiếp xúc với Tòa án, ngại đưa việc tranh chấp ra Tòa án vì sợ mang tiếng bị coi là phải ra hầu tòa, không muốn đưa vấn đề ra công khai trước công chúng, sợ ảnh hưởng đến uy tín cũng như doanh số và mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy việc xử lý các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu từ phía các chủ thể cũng vẫn còn rất hạn chế.

Như đã đề cập ở phần trên, các quy định về việc xử lý các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu được đề cập tới trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Chính vì vậy, hiện nay hệ thống chủ thể thực thi pháp luật về xử lý các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu bao gồm nhiều cơ quan chức năng khác nhau. Hệ thống chủ thể thực thi pháp luật về xử lý các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu bào gồm: cơ quan thực thi pháp luật và cơ quan hỗ trợ. Cơ quan thực thi pháp luật có thể kể đến như: Cục Quản lý cạnh tranh, Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Quản lý thị trường, Cơ quan Hải quan, Tòa án, Cảnh sát kinh tế, các cơ quan chuyên ngành Thanh tra Khoa học và Công nghệ. Hoạt động xử lý vi phạm của các cơ quan này ngày càng được diễn ra nhanh chóng, đúng pháp luật, góp phần không nhỏ vào việc quản lý thị trường kinh doanh lành mạnh. Cơ quan hỗ trợ thực thi (Hội SHTT) đã đóng góp rất nhiều trong việc nâng cao nhận thức về SHTT nói chung và liên quan đến nhãn hiệu nói riêng thông qua các buổi sinh hoạt của chi hội, các lớp tập huấn về SHTT. Tuy nhiên, Hội SHTT chưa thực sự chú trọng đến việc tự bảo vệ cho quyền lợi của hội viên theo quy định của pháp luật mà vẫn còn trông chờ vào cơ quan quản lý nhà nước. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

2.2.2. Nhận xét về tình trạng thực thi pháp luật bảo vệ doanh nghiệp khỏi các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu

Các thành tựu có thể kể tới như:

Thứ nhất, bộ máy thực thi pháp luật về xử lý xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu đã được hình thành từ hệ thống quản lý hành chính cho đến hệ thống tư pháp.

Thứ hai, hệ thống quản lý hành chính đã phản ánh được thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng được phân định cũng khá rõ ràng giữa các bộ ngành thuộc Trung ương và các tỉnh thành.

Thứ ba, giữa các cơ quan xử lý, cơ quan chuyên ngành cũng như cơ quan hỗ trợ đã có sự phối hợp với nhau trong xử lý vi phạm. Có thể nói đến trong thời gian 5 năm đến năm 2013, Cục Sở hữu trí tuệ đã có 31 văn bản cung cấp ý kiến chuyên môn liên quan đến hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp cho các chủ thể sau: Thanh tra Khoa học và Công nghệ: 18 văn bản;  Quản lý thị trường: 02 văn bản; Hải quan: 01 văn bản;  Cảnh sát kinh tế: 02 văn bản;  Cục Cạnh tranh: 02 văn bản;  Doanh nghiệp: 04 văn bản;  Bộ Y tế (Cục Quản lý Dược): 02 văn bản.

Bên cạnh những thành tựu kể trên thì cũng trong tránh khỏi một số hạn chế:

Thứ nhất, việc thực thi pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu nói chung chủ yếu là hệ thống hành chính. Tuy nhiên hệ thống này lại bộc lộ rất nhiều bất cập sau: một là, thiếu sự hợp tác chặt chẽ mang tính chất ổn định giữa các chủ thể quyền SHCN đối với nhãn hiệu và các cơ quan thực thi. Các doanh nghiệp vẫn còn e ngại trong việc tiếp xúc với các cơ quan thực thi pháp luật. Hai là, việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan là không rõ ràng, có sự chồng chéo. Hiện nay, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm các quyền trong đăng kí nhãn hiệu thuộc về nhiều cơ quan khác nhau, từ đó làm nảy sinh tình trạng chồng chéo, đùn đẩy lẫn nhau và làm cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trở nên rắc rối, phức tạp. Mặt khác bản thân từng cơ quan thực thi vẫn chưa thể thực hiện đầy đủ các biện pháp nhằm xử lý triệt để các hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu doanh nghiệp này, dẫn đến người bị vi phạm không biết khiếu nại tại đâu. Chẳng hạn, khi bị xâm phạm do hành vi xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chọn lựa giữa Toà án và Cục QLCT. Nếu doanh nghiệp gửi hồ sơ khiếu nại lên Cục QLCT thì Cục sẽ xử lý bằng cách phạt vi phạm hành chính đối với bên vi phạm và khắc phục hậu quả do hành vi xâm phạm gây ra. Còn nếu muốn được bồi thường, doanh nghiệp bị thiệt hại phải sử dụng quyết định của Cục để khởi kiện ra Toà án dân sự. Ba là, vai trò của Toà án trong việc xử lý các hành vi xâm phạm các quyền SHCN còn rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Thủ tục xét xử các vụ vi phạm còn rườm rà, phức tạp. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

Thứ hai, trình độ và chất lượng hoạt động của các cơ quan nhà nước chưa theo kịp thực tiễn cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế. Quyền SHTT nói chung cũng như liên quan đến nhãn hiệu nói tiêng là một khái niệm mới mẻ tại Việt Nam. Do vậy, số lượng đội ngũ cán bộ trong cơ quan thực thi còn thiếu, chất lượng còn hạn chế. Cán bộ chuyên trách trong hệ thống thực thi pháp luật chống xâm phạm các quyền liên quan đến nhãn hiệu có trình độ cao lại càng ít.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi và hỗ trợ thực thi là điểm mạnh như cũng có những hạn chế. Bởi sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi sẽ làm thủ tục thêm rườm rà, mất nhiều thời gian công sức.

Kết luận chương 2:

Thực trạng pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu của nước ta đã có nhiều thành tích đáng kể. Từ nhận thức của chủ sở hữu cho đến hệ thống pháp luật đều đãng trên đà hoàn thiện để có thể hội nhật với khu vực và quốc tế.

Việc thực thi pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã đạt được nhiều thành tích hơn so với thời kỳ trước, việc này chứng tỏ nhận thức về việc bảo vệ tài sản của doanh nghiệp đã được nâng cao lên rất nhiều, các doanh nghiệp đang cố gắng hoàn thiện nhận thức để có thể nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Về phía các cơ quan chức năng thực thi pháp luật, có sự sát sao hơn trong việc giám sát.

Tuy nhiên cũng không trách khỏi vẫn còn những điểm chưa phù hợp với kinh tế hiện nay, đặt ra yêu cầu cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật. Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993