Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Thực trạng quản lý công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Như đã phân tích trong Chương I, Quản lý công ty cổ phần trên cơ sở nghiên cứu LDNVN 2005 là phương thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong công ty bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, tổng giám đốc/GĐ, Ban Kiểm soát và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan này. đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông – chủ sở hữu của công ty và cuộc họp đại hội đồng cổ đông chính là nơi các cổ đông thực hiện quyền lực của mình nên các quy định của Luật doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi của cổ đông, cuộc họp đại hội đồng cổ đông đóng vai trò hết sức quan trọng trong quản lý công ty cổ phần. Bên cạnh đó, các quy định về quyền và nghĩa vụ của hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ, Ban Kiểm soát và cơ chế kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan cũng là những cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động quản lý công ty cổ phần hiện nay. Do vậy, khi xem xét thực trạng quản lý công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, khóa luận chủ yếu tập trung vào sáu vấn đề chủ yếu là: (i) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cổ đông; (ii) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cuộc họp đại hội đồng cổ đông; (iii) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về hội đồng quản trị; (iv) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về tổng giám đốc/GĐ; (v) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Ban Kiểm soát; (vi) Một số thực trạng khác trong quản lý công ty cổ phần hiện nay như vấn đề kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan, ảnh hưởng của chế độ quản lý nội bộ doanh nghiệp nhà nước tới vấn đề quản lý công ty cổ phần hiện nay, thực trạng điều chỉnh các thỏa thuận giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

Nội dung chính

I. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cổ đông

Khoản 11 điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Cổ đông là người sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của công ty cổ phần”. Cổ đông có các quyền và nghĩa vụ đối với công ty tương ứng với số cổ phần của mình. Khái niệm cổ đông có các nội hàm như sau:

  • Cổ đông là thành viên của công ty, là một trong những yếu tố cấu thành tư cách pháp nhân của công ty;
  • Sự nắm giữ cổ phần là cơ sở và điều kiện tất yếu để tư cách pháp nhân của cổ đông được duy trì và tồn tại;
  • Cổ đông được hưởng quyền cổ đông xuất phát từ sự góp vốn, và từ đó phát sinh mối quan hệ quyền và nghĩa vụ đối với công ty; Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.
  • Cổ đông là chủ sở hữu tài sản cổ phần, hình thức bề ngoài của cổ phần là cổ phiếu.

Cần lưu ý rằng, cổ đông là chủ sở hữu của công ty, song công ty sở hữu tài sản của công ty. Không thể suy luận rằng cổ đông là chủ sở hữu tài sản của công ty bởi vì công ty là một chủ thể độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài sản của chính mình, tách biệt với tài sản của bất kỳ một cổ đông nào. Cổ đông sở hữu công ty thông qua thực hiện quyền cổ đông. Đặc điểm của quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty được thể hiện như sau:

  • Một khi cổ đông đã đóng góp tài sản vào công ty, thì họ mất quyền sở hữu phần tài sản đó. Họ không được chi phối cũng như rút lại phần tài sản đó. Thay vào đó, họ sẽ được nhận và sở hữu số cổ phần tương ứng với giá trị tài sản mà họ đã bỏ vào công ty, mà hình thức tiêu biểu là cổ phiếu. Tức là, cổ đông đã từ chủ sở hữu tài sản riêng biệt trở thành chủ sở hữu cổ phần.
  • Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá trị, cũng như là một loại tài sản, nói cách khác, nó là một loại giấy tờ để thiết lập và chứng minh những quyền lợi về tài sản. Cổ phiếu gắn bó chặt chẽ với những quyền lợi về tài sản, biểu hiện bằng việc chủ sở hữu cổ phiếu (cổ đông) có quyền chiếm hữu, sử dụng (cầm cố hoặc thế chấp cổ phiếu để vay tiền ngân hàng, v.v.), thu lợi tức (cổ tức), định đoạt (chuyển nhương, tặng cho, thừa kế, v.v.) đối với số cổ phiếu của mình.
  • Chủ sở hữu cổ phiếu (cổ đông) có những quyền như thu nhận cổ tức, dự họp đại hội đồng cổ đông để quyết định những quyết sách trọng đại của công ty, bầu cử những người quản trị công ty, v.v.

Như vậy, quyền của cổ đông được thể hiện bằng hình thức giá trị là cổ phần, được thể hiện bề ngoài là số cổ phiếu. Quyền cổ đông là nội dung của cổ phiếu, cổ phiếu là hình thức bề ngoài của quyền cổ đông.

1. Cổ đông sáng lập

Cổ đông là chủ sở hữu cổ phần sau khi công ty được thành lập và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tức là tư cách cổ đông phụ thuộc vào sự thành lập của công ty. Khoản 11 điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Cổ đông sáng lập là cổ đông tham gia xây dựng, thông qua và ký tên vào bản Điều lệ đầu tiên của công ty cổ phần”. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng cổ phần phổ thông của Cổ đông sáng lập trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty (Khoản 5 điều 84).

Thực trạng điều chính pháp luật về quyền, nghĩa vụ của cổ đông sáng lập so với các cổ đông khác:

Cổ đông sáng lập Cổ đông khác
1

Được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết trong vòng 3 năm đầu kể từ ngày được cấp giấy CNĐKKD; không được chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết.

Không được nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết (trừ cổ đông nhà nước trong một số ngành nghề do chính phủ quy định).

 

2 Bị hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp GCN ĐKKD (chỉ được tự do chuyển nhượng giữa các cổ đông sáng lập, chuyển nhượng cho đối tượng khác phải được đại hội đồng cổ đông chấp thuận và người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập).  

Không bị bất kỳ hạn chế nào về chuyển nhượng cổ phần phổ thông

3 Phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong vòng 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh  

Không phải thực hiện nghĩa vụ này.

Việc quy định cổ đông sáng lập được hưởng quyền ưu đãi biểu quyết trong vòng 3 năm đầu kể từ khi công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có thể coi như là một loại thù lao giành cho cổ đông sáng lập vì sự cống hiến của họ trong việc thành lập công ty. Còn quy định hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhằm mục đích quy định các cổ đông đã có ý tưởng sáng lập ra công ty không được tùy ý từ bỏ công ty, phải có trách nhiệm đối với công ty. Việc một cổ đông sáng lập rời khỏi công ty phải được đại hội đồng cổ đông chấp thuận, tức là phải được sự đồng ý của các cổ đông khác. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Về nghĩa vụ của cổ đông sáng lập, trong thực tế việc cổ đông sáng lập không góp đủ và đúng số cổ phần đăng ký mua là khá phổ biến. Khoản 6 điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Vốn điều lệ là số vốn do các cổ đông đã góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào điều lệ công ty”. Quy định này chưa làm rõ khái niệm vốn điều lệ dẫn đến sự nhầm lẫn phổ biến giữa vốn điều lệ (số cổ phần tạo nên vốn điều lệ) và vốn được quyền phát hành (tổng giá trị số cổ phần được quyền phát hành) trong thực tế hiện nay. Vốn điều lệ là giá trị danh nghĩa của tổng số cổ phần được quyền phát hành của công ty (như là một pháp nhân) và là một trong những nội dung đăng ký kinh doanh của công ty. Tuy vậy, trên thực tế ở một số lớn các CTCP hiện nay, vốn điều lệ khai báo và đăng ký là giá trị danh nghĩa của tất cả số cổ phần đã bán và số cổ phần được quyền chào bán (nhưng chưa bán, hay tung ra bán – tức là chưa phát hành). Thậm chí ở một số công ty, số cổ phần đã phát hành chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 1/20) trong tổng số cổ phần đăng ký là vốn điều lệ của công ty[1].

Vi phạm nói trên đã tạo ra ba hệ quả không tốt đối với công ty, cổ đông của công ty và cả các bên có liên quan. Một là, nó tạo ra một sự nhầm lẫn về sở hữu và cơ cấu sở hữu công ty; có thể có sự chênh lệch lớn giữa cơ cấu sở hữu theo cổ phần đã góp và cơ cấu sở hữu theo số cổ phần đăng ký góp. Và đó là nguyên nhân của không ít các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ cổ đông của công ty. Hai là, về bản chất, có thể coi số cổ phần đã đăng ký nhưng chưa góp tiền là số cổ phần mà cổ đông đã mua chịu (theo mệnh giá hay với giá bằng giá trị danh nghĩa) của công ty. Hay nói ngược lại, công ty đã bán chịu số cổ phần đó cho cổ đông theo mệnh giá của cổ phần. Bằng cách đó, công ty đã mất đi cơ hội huy động vốn cổ phần để phát triển, bởi vì nếu giá cổ phần tăng lên, tất cả thặng dư vốn có được thuộc về sở hữu của cổ đông, chứ không phải của công ty, thậm chí công ty còn có thể không thu được số vốn bằng giá trị danh nghĩa của cổ phần đó. Điều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của công ty và cả lợi ích lâu dài của cổ đông. Ba là, nó có thể gây nhầm lẫn và dẫn tới việc lừa dối làm hại đến lợi ích của bên thứ ba ít nhất trên hai điểm: (i) điểm thứ nhất là, vốn điều lệ thực tế, đúng nghĩa và hợp pháp có thể thấp hơn nhiều so với vốn điều lệ đăng ký; điều này có thể gây nhầm lẫn đối với chủ nợ và các bên có quan tâm tìm hiểu về công ty; qua đó, có thể thiết lập giao dịch với công ty dựa trên thông tin không chính xác. (ii) điểm thứ hai là, cổ đông hiện hữu chuyển nhượng “cổ phần” của mình cho người khác có thể chỉ là chuyển nhượng “quyền mua” cổ phần. Hay nói cách khác, người nhận chuyển nhượng cổ phần có thể hiểu nhầm, coi “quyền mua” cổ phần là cổ phần và đã trả giá chuyển nhượng cho quyền mua ngang bằng với trị giá của cổ phần. Tất cả những điều nói trên là vi phạm quy định của Luật doanh nghiệp về việc yêu cầu cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty trong phạm vi giá trị số cổ phần đã thanh toán. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Thực trạng điều chỉnh pháp luật về số lượng cổ đông sáng lập và thực trạng xuất hiện công ty cổ phần một cổ đông tại Việt Nam trong thời gian qua

LDN 2005 quy định công ty cổ phần phải có cổ đông sáng lập và phải có ít nhất 3 cổ đông (điểm b khoản 1 điều 77), bị giải thể khi không còn đủ số lượng cổ đông tối thiểu trong thời hạn sáu tháng liên tục (điểm c khoản 1 điều 157) nhưng không quy định rõ công ty cổ phần cần có tối thiểu bao nhiêu cổ đông sáng lập. Cho đến nay, chưa có một sự giải thích chính thức nào về các quy định trên, nhưng có lẽ mục đích của việc quy định số lượng cổ đông tối thiểu là để vốn đầu tư vào công ty cổ phần sẽ nhiều hơn và đảm bảo an toàn trong giao dịch hơn. Tuy nhiên việc đưa ra quy định này có phần hạn chế quyền tự do kinh doanh, lựa chọn hình thức công ty của người dân, dẫn đến sự “lách luật” của nhiều nhà đầu tư và sự hình thành công ty cổ phần một cổ đông trong thực tiễn. Chẳng hạn như trường hợp một nhà đầu tư có chiến lược kinh doanh lâu dài với quy mô lớn nhưng không muốn chia sẻ ý tưởng kinh doanh cho người khác, họ sẽ tìm cách “lách luật” để thành lập một công ty cổ phần của riêng mình. Việc “lách luật” này được thực hiện bằng cách người này vẫn lập hồ sơ đăng ký kinh doanh với số lượng cổ đông đúng theo quy định của pháp luật hiện hành nhưng trên thực tế, ngoài người này các cổ đông khác chỉ mang danh nghĩa. Số cổ phần của những “cổ đông danh nghĩa” này trên giấy tờ là rất ít và không thể gây ra bất kỳ ảnh hưởng nào đến công ty. Do đó, việc dẫn dắt công ty có thể nói hoàn toàn do một người thực hiện. Trường hợp hai, khi một nhà đầu tư muốn vực dậy một công ty cổ phần đang hoạt động kém hiệu quả hoặc đang lâm vào tình trạng phá sản, họ có thể tự bỏ tiền để mua 100% cổ phần của công ty này nhằm tối đa hóa lợi ích từ đó một mình họ trở thành người sở hữu và vận hành công ty. Việc kiểm tra, giám sát vấn đề này hiện nay gần như bị bỏ ngỏ, trừ một số công ty niêm yết và các ngân hàng. Khi bị phát hiện, thì việc hợp pháp hóa cũng khá đơn giản bằng cách chuyển nhượng hay cho tặng một số cổ phần ít ỏi là đủ để bảo đảm đúng số lượng cổ đông tối thiểu theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cũng dẫn đến sự hình thành công ty cổ phần một cổ đông. Bởi sau khi có quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và hoàn thành việc chia vốn ra thành các cổ phần để chuyển nhượng, tại thời điểm này mặc dù công ty cổ phần hình thành do cổ phần hóa vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nhưng thực tế đang tồn tại một công ty với một cổ đông là Nhà nước[2].

Ngoài ra, việc quy định công ty cổ phần bị giải thể khi không còn đủ số lượng cổ đông tối thiểu trong thời hạn sáu tháng liên tục cũng có thể làm hạn chế quyền tự do kinh doanh hợp pháp của nhà đầu tư. Thật lãng phí khi chúng ta giải thể một công ty cổ phần do không đủ số lượng cổ đông tối thiểu trong lúc công ty đó đang đóng góp lớn cho xã hội về của cải vật chất, về tạo ra công ăn việc làm, v.v.

Tóm lại, khi chưa có lý do xác đáng để loại bỏ hình thức công ty cổ phần một cổ đông, lại chưa có lý giải pháp pháp lý đối với những “vi phạm” khi “lách luật” thành lập công ty cổ phần một cổ đông thì tại sao chúng ta lại không thừa nhận hình thức công ty này một cách chính thức?

2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về các quyền của cổ đông nói chung Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Quyền cổ đông là quyền mang tính tổng hợp của nhiều quyền lợi, về cơ bản bao gồm hai loại là quyền tinh thần (gồm quyền dự họp đại hội đồng cổ đông, quyền biểu quyết, quyền bổ, miễn nhiệm thành viên hội đồng quản trị và kiểm soát viên, quyền tiếp cận thông tin, quyền khởi kiện) và quyền tài sản (bao gồm quyền nhận cổ tức, quyền ưu tiên nhận mua cổ phần mới, quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông, quyền yêu cầu phân chia tài sản còn lại). Các quyền này được quy định trong Luật doanh nghiệp, Điều lệ công ty và các nghị quyết của đại hội đồng cổ đông. Việc một cổ đông mua loại cổ phần nào (cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại hay cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định) sẽ quyết định cổ đông đó thuộc loại cổ đông nào trong công ty và từ đó họ có quyền và nghĩa vụ tương ứng theo quy định cụ thể của Luật doanh nghiệp 2005. Cổ đông ưu đãi cổ tức là những cổ đông được ưu tiên trả cổ tức cao hơn hay được quyền hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định trước khi lợi nhuận được phân phối cho các cổ đông khác; Cổ đông ưu đãi hoàn lại là cổ đông được quyền ưu tiên nhận lại giá trị của cổ phần khi có yêu cầu. Đi kèm với quyền ưu tiên, hai loại cổ đông ưu đãi này bị hạn chế các quyền khác (như không có quyền biểu quyết, dự họp đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát). Cổ đông ưu đãi biểu quyết là cổ đông mặc dù có thể chỉ nắm một số lượng cổ phần rất nhỏ nhưng có quyền phủ quyết trong một số chính sách quan trọng (được quy định trong điều lệ), có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ đông phổ thông.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài là quản lý công ty cổ phần – phương thức tổ chức các cơ quan quyền lực của công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó thì nhóm quyền về tinh thần mới thể hiện rõ nhất quyền lực của cổ đông trong công ty. Vì vậy, khi xem xét thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền của cổ đông, khóa luận chỉ đề cập đến các quyền tinh thần của cổ đông.

2.1. Quyền dự họp đại hội đồng cổ đông

Quyền dự họp đại hội đồng cổ đông là quyền quan trọng nhất của cổ đông, là phương thức chủ yếu để thể hiện tư cách cổ đông. Cuộc họp đại hội đồng cổ đông là nơi quan trọng để cổ đông thực hiện các quyền của mình và là cơ hội để cổ đông phát biểu các ước nguyện của mình. Chính vì vậy, đại hội đồng cổ đông cần tìm mọi khả năng mở cửa cho tất cả các cổ đông.

Tuy nhiên, khoản 1 điều 96 Luật doanh nghiệp 2005 quy định đại hội đồng cổ đông chỉ gồm các cổ đông có quyền biểu quyết. Như vậy, tức là chỉ có cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi biểu quyết mới có quyền dự họp đại hội đồng cổ đông còn những cổ đông không có quyền biểu quyết (gồm các cổ đông ưu đãi cổ tức và các cổ đông ưu đãi hoàn lại) theo quy định tại khoản 3 của điều 82 và điều 83 thì không có quyền dự họp đại hội đồng cổ đông.

Việc Luật doanh nghiệp 2005 trực tiếp tước quyền dự họp đại hội đồng cổ đông của những cổ đông không có quyền biểu quyết như quy định này có phần không hợp lý, can thiệp vào quyền của các cổ đông.

2.2. Quyền biểu quyết Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Các cổ đông có quyền biểu quyết bỏ phiếu tán thành hoặc phản đối những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của đại hội đồng cổ đông. Quyền biểu quyết là sự đảm bảo địa vị chủ sở hữu công ty của cổ đông, tạo điều kiện cho cổ đông đưa ý chí, nguyện vọng của mình vào các quyết sách của công ty. Về mặt pháp lý, mọi quyết sách trọng đại của công ty đều được hình thành bằng biểu quyết của toàn thể cổ đông. Cơ chế biểu quyết quyết định mức độ thực hiện các quyền lợi của cổ đông. Theo Luật doanh nghiệp 2005, cơ chế biểu quyết có những nội dung chính sau:

Thứ nhất, phương thức biểu quyết: Khoản 1 điều 104 Luật doanh nghiệp 2005 quy định đại hội đồng cổ đông thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền bằng hình thức biểu quyết tại các cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Quy định này chưa nêu thật rõ phương thức biểu quyết, theo đó trong thực tế, phương thức biểu quyết có thể có ba loại là giơ tay, bỏ phiếu và lấy ý kiến bằng văn bản.

Thứ hai, vấn đề đại diện dự họp đại hội đồng cổ đông: So với Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 đã có quy định cụ thể cho phép cổ đông có quyền trực tiếp hoặc thông qua đại diện được ủy quyền để thực hiện quyền biểu quyết của mình trong các cuộc họp đại hội đồng cổ đông (khoản 1 điều 79). Theo đó, cổ đông là tổ chức có quyền cử một hoặc một số người đại diện theo ủy quyền thực hiện các quyền cổ đông của mình theo quy định của pháp luật; trường hợp có nhiều hơn một người đại diện theo ủy quyền được cử thì phải xác định cụ thể số cổ phần và số phiếu bầu của mỗi người đại diện. Việc cử, chấm dứt hoặc thay đổi người đại diện theo ủy quyền phải được thông báo bằng văn bản đến công ty trong thời hạn sớm nhất (khoản 3 điều 96).

Thứ ba, chế độ bãi bỏ quyền biểu quyết: Để phòng ngừa những cổ đông lớn, công ty mẹ hoặc những cổ đông có quan hệ liên kết sẽ lạm dụng quyền biểu quyết của mình để trục lợi bất chính, đồng thời bảo vệ lợi ích của các cổ đông thiểu số, Luật doanh nghiệp 2005 có quy định những trường hợp bãi bỏ quyền biểu quyết của những cổ đông có liên quan trong những hợp đồng, giao dịch phải được đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị chấp thuận. Khoản 2 và khoản 3 điều 120 Luật doanh nghiệp 2005 quy định những hợp đồng, giao dịch phải được đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị chấp thuận bao gồm:

  • “Giao dịch giữa công ty với cổ đông sở hữu trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên quan với họ.
  • Giao dịch giữa công ty với những người quản lý công ty mẹ, những người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ; Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.
  • Giao dịch giữa công ty với những người quản lý công ty (thành viên hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ), vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý công ty.
  • Giao dịch giữa công ty với vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, với anh, chị, em ruột, v.v của những cổ đông sở hữu cổ phần chi phối tại công ty.
  • Giao dịch giữa công ty với công ty con khác của cùng một công ty mẹ”.

ĐHĐCĐ hoặc hội đồng quản trị chấp thuận những giao dịch nêu trên và trong những trường hợp này, cổ đông có liên quan hoặc thành viên hội đồng quản trị có lợi ích liên quan không có quyền biểu quyết. Việc quy định chế độ bãi bỏ quyền biểu quyết như trên sẽ tạo điều kiện để lành mạnh hóa việc quản lý công ty và bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số.

Thứ tư, về ưu đãi quyền biểu quyết: Cổ đông ưu đãi biểu quyết là cổ đông mặc dù có thể chỉ nắm một số lượng cổ phần rất nhỏ nhưng có quyền phủ quyết trong một số chính sách quan trọng (được quy định trong điều lệ) của công ty cổ phần. Theo khoản 3 điều 78 Luật doanh nghiệp 2005 thì “chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời gian đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông”.

Theo quy định trên, chỉ có 2 loại cổ đông được quyền ưu đãi biểu quyết là cổ đông sáng lập và các tổ chức được Chính phủ ủy quyền. Việc cổ đông sáng lập được hưởng quyền ưu đãi biểu quyết có thể coi như là một loại thù lao giành cho cổ đông sáng lập vì sự cống hiến của họ trong việc thành lập công ty. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Chính phủ dựa trên cơ sở và lý do gì để ủy quyền cho một tổ chức được hưởng quyền ưu đãi biểu quyết? “Tổ chức được Chính phủ ủy quyền” có thể là những tổ chức gì? Mục đích của quy định như vậy là gì? Những câu hỏi này là những vấn đề rất quan trọng đối với việc quản lý công ty cổ phần bởi việc quy định như trên sẽ tạo nên sự bất bình đẳng giữa các cổ đông, tạo cơ hội cho cơ quan hành chính can thiệp vào sự tự chủ kinh doanh của công ty, trái với chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, gây trở ngại lớn cho việc xây dựng một cơ cấu quản lý công ty cổ phần lành mạnh và hiệu quả. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

2.3. Quyền bổ, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị và kiểm soát viên

HĐQT nắm quyền lực quản lý công ty còn các cổ đông thì thông qua đại hội đồng cổ đông bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên hội đồng quản trị để một cách gián tiếp thực hiện quyền khống chế công ty. Cho nên việc bổ, miễn nhiệm các thành viên hội đồng quản trị cũng là một quyền rất quan trọng của các cổ đông.

Về quy chế bầu cử: mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết (điểm a khoản 1 điều 79); số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định (khoản 1 điều 81); và quyết định bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát được thông qua khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. Dưới quy chế bầu cử như vậy, nếu một cổ đông nắm giữ 51% tổng số cổ phiếu của công ty thì họ sẽ có thể độc chiếm giữ quyền bầu cử toàn bộ các thành viên hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát còn các cổ đông khác thì không thể làm được gì cả. Cổ đông nắm giữ quyền khống chế việc bầu cử các thành viên của hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát được gọi là cổ đông chi phối. Nếu công ty không có một cơ chế giám sát thiết thực đối với cổ đông chi phối, thì sẽ không tránh khỏi tình trạng cổ đông chi phối đó sẽ lợi dụng địa vị khống chế công ty nhằm trục lợi, chiếm đoạt tài sản, gây thiệt hại cho các cổ đông khác.

Nhằm tránh tình trạng này và để bảo vệ lợi ích của các cổ đông thiểu số, tạo điều kiện pháp lý cho họ có cơ hội đưa người đại diện của mình vào hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát, Luật doanh nghiệp 2005 đã đưa ra quy định về phương thức bầu dồn phiếu tại điểm c khoản 3 điều 104 và phương thức bầu dồn phiếu này được chỉ dẫn thực hiện qua Nghị định 139/NĐ-CP/2007. Theo đó, khi biểu quyết bầu thành viên hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát, mỗi cổ đông có tổng số phiếu biểu quyết tương ứng với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số thành viên được bầu của hội đồng quản trị hoặc Ban Kiểm soát và điểm đặc biệt là cổ đông có quyền dồn hết tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử viên. Cụ thể, theo điều 17 Nghị định 139/NĐ-CP/2007, những cổ đông nắm giữ ít hơn 10% tổng số cổ phần phổ thông trong vòng 6 tháng liên tiếp trở lên có quyền gộp số quyền biểu quyết của từng người lại với nhau để đề cử thành viên vào hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát. Nếu như tổng số cổ phần phổ thông mà họ nắm giữ chiếm trong khoảng 10% đến dưới 20% thì họ có quyền biểu quyết và được đề cử một ứng cử viên, số ứng cử viên được đề cử sẽ tăng thêm một người tương ứng với mỗi lần tăng số cổ phần phổ thông nắm giữ trong khoảng 10%. Quy định này được áp dụng nhằm mục đích tạo điều kiện pháp lý để các cổ đông nhỏ đoàn kết lại với nhau và cùng nhau đưa được ít nhất một người mà họ ủng hộ vào hội đồng quản trị hay Ban Kiểm soát của công ty.

Tuy nhiên, việc bầu dồn phiếu theo quy định trên sẽ tạo ra hai khó khăn trong thực tế. Một là, khi làm sẽ mất nhiều thời gian để chia nhóm: Một đại hội đồng cổ đông có cả trăm người, khi đề cử, họ phải tìm nhau để gộp thành các nhóm sở hữu các tỷ lệ cổ phần phổ thông khác nhau 10%, 20%, 50%, v.v. Cuộc họp sẽ kéo dài hơn nếu phải bầu hai lần. Các công ty có cả nghìn cổ đông thì việc bầu dồn sẽ rất khó thực hiện. Hai là, thành viên đại diện cho các nhóm cổ đông khác nhau sẽ dễ có ý kiến trái ngược nhau khi họp. Chức năng của hội đồng quản trị đòi hỏi thành viên phải có khả năng chuyên môn về kinh doanh và hiểu biết rộng để dễ thỏa thuận khi đưa ra các chiến lược kinh doanh. Các vấn đề này thường do GĐ/TGĐ đề nghị, các thành viên hội đồng quản trị phải phân tích thảo luận để đi đến một quyết định chung dựa trên sự đồng thuận chứ không phải xung đột lợi ích.

2.4. Quyền tiếp cận thông tin Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Việc cổ đông phổ thông thực hiện các quyền như quyền biểu quyết, bổ miễn nhiệm thành viên hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát, kiểm soát hoạt động kinh doanh, quyết định mua bán cổ phiếu, v.v, đều phải dựa trên cơ sở nắm bắt đầy đủ các thông tin về tài chính và khả năng kinh doanh của công ty. Vì vậy, Luật Công ty của tất cả các nước đều quy định cổ đông có quyền tìm đọc tài liệu và được thông báo thông tin hữu quan của công ty. Tuy nhiên, pháp luật các nước cũng không phải quy định cho tất cả các cổ đông có quyền tìm đọc và được biết bất cứ một thông tin nào, mà thông thường có sự hạn chế về mức cổ phần tối thiểu mà một cổ đông cần phải nắm giữ. Đối tượng của quyền tìm đọc và được thông tin theo Luật doanh nghiệp 2005 là khá hạn chế, bị giới hạn trong phạm vi: “Xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết; xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, sổ biên bản họp đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của đại hội đồng cổ đông”. Chỉ có cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của hội đồng quản trị, Báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban Kiểm soát. Luật doanh nghiệp 2005 không quy định cổ đông được quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty.

Trong thực tế, mức độ công khai và minh bạch hóa thông tin ở các công ty cổ phần ở Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu. Kém công khai hóa là một trong số những vấn đề lớn của việc quản lý công ty cổ phần hiện nay. Chủ sở hữu, các cổ đông không nhận được các thông tin cơ bản về công ty một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời. Các thông tin cơ bản đó bao gồm từ tổng số tài sản đến đánh giá chính xác về thực trạng tài chính hiện tại và thông tin về lưu chuyển tiền tệ trong quá khứ. Đó là những thông tin “cứng”, thông tin chuẩn mực cho phép các nhà đầu tư đánh giá trị giá công ty theo đúng những gì đã diễn ra trong quá khứ; hoặc cho phép nhà đầu tư ước tính được trị giá giải thể công ty khi các tài sản của công ty được bán một cách đơn lẻ. Chủ sở hữu, các cổ đông nói chung cũng không nhận được thông tin “mềm”, hay thông tin dự tính tương lai. Thông tin loại này bao gồm những dự đoán của hội đồng quản trị hay những người quản lý khác về những biến đổi giá có thể xảy ra trên mỗi loại thị trường mà công ty đang hoạt động (thị trường sản phẩm, thị trường cung ứng nguyên liệu, thị trường vốn, thị trường lao động v.v…), và ước tính thay đổi về cầu đối với sản phẩm của công ty. Thông tin loại này là thứ không thể thiếu để đánh giá trị giá công ty trong dòng vận động, vì nó cho phép nhà đầu tư dự tính được những thay đổi có thể xảy ra ở tương lai trong lưu chuyển tiền tệ[3].

2.5. Quyền khởi kiện của cổ đông Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Trong trường hợp quyền lợi hợp pháp của cổ đông bị xâm hại, cổ đông có quyền khởi kiện ra Tòa và yêu cầu Tòa án buộc người xâm phạm bồi thường thiệt hại. Luật Công ty của các nước thường quy định quyền khởi kiện của cổ đông gồm có hai loại là tố tụng trực tiếp và tố tụng đại diện.

Tố tụng trực tiếp có nghĩa là bản thân cổ đông làm nguyên đơn khởi kiện công ty trước Tòa án để bảo vệ lợi ích của chính mình. Loại tố tụng này bao gồm: yêu cầu hủy bỏ hoặc tuyên bố vô hiệu các Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị, yêu cầu bồi thường thiệt hại; khởi kiện trực tiếp thành viên hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ nếu họ có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm Điều lệ công ty và các nghị quyết của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị, gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của cổ đông.

Tố tụng đại diện có nghĩa là trong trường hợp lợi ích của công ty bị xâm hại nhưng công ty không đứng ra khởi kiện thì cổ đông đứng ra thay công ty để kiện ra Tòa và kết quả tố tụng sẽ thuộc về công ty. Lợi ích của công ty cũng là lợi ích của cổ đông, vì vậy, việc cổ đông khởi kiện vì lợi ích của công ty về bản chất cũng là vì lợi ích của mình, tuy có quan hệ một cách gián tiếp.

LDNVN 2005 không quy định quyền cổ đông trực tiếp khởi kiện hội đồng quản trị hay yêu cầu toà án xem xét miễn nhiệm thành viên hội đồng quản trị hoặc Ban Kiểm soát trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, điều 107 Luật doanh nghiệp 2005 có thừa nhận quyền của cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ quyết định của đại hội đồng cổ đông trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được biên bản họp đại hội đồng cổ đông nếu trình tự và thủ tục triệu tập họp đại hội đồng cổ đông không thực hiện theo đúng quy định của Luật doanh nghiệp 2005 và điều lệ công ty hoặc trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty. Tuy nhiên, quy định về quyền tố tụng của cổ đông nêu trên còn sơ sài, chưa đủ mạnh để đảm bảo khả năng thực thi trong thực tiễn. Bên cạnh đó, quy định tại điều 107 này đặt ra một vấn đề đáng quan tâm là: nếu đại hội đồng cổ đông đã thông qua một nghị quyết vi phạm pháp luật nghiêm trọng và đã trải qua 90 ngày mà chưa có người khởi kiện để yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết này thì nên chăng nghị quyết đó có hiệu lực pháp luật hay không? Nếu theo quy định trên thì nghị quyết đó vẫn có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên về nguyên tắc một quyết định mà nội dung của nó trái với pháp luật không thể nào có hiệu lực pháp luật cho dù đã được thông qua trước một thời gian khá lâu.

Ngoài ra, trong thực tế, còn có một số biểu hiện khác trong việc thực hiện chưa đúng các quy định về quyền của cổ đông như: (i) Bỏ phiếu tại cuộc họp của đại hội đồng cổ đông theo đầu người, chứ không phải theo số cổ phần sở hữu; (ii) Điều lệ của một số công ty cổ phần đặc biệt là các công ty cổ phần không niêm yết đã quy định chỉ có những cổ đông sở hữu một mức cổ phần nhất định (ít nhất 1% hoặc có lượng giá trị tuyệt đối như 50 triệu, 100 triệu, hoặc 500 triệu đồng) mới được quyền trực tiếp tham dự họp và biểu quyết tại đại hội đồng cổ đông[4] (iii) Một số không nhỏ công ty cổ phần không lập Sổ đăng ký cổ đông và không cấp cổ phiếu cho cổ đông v.v. Về mặt luật, sổ đăng ký cổ đông là nơi xác nhận và theo dõi cổ đông. Nhưng trên thực tế, có nhiều công ty không lập sổ đăng ký cổ đông, không cấp cổ phiếu, nghi ngờ về hiệu lực pháp lý, chuyển nhượng cổ phần mà không đăng ký vào danh sách cổ đông, nên đa số mà vẫn là thiểu số hay ngược lại, và không biết về mặt pháp lý ai đang thực sự sở hữu công ty.

Đây là những khiếm khuyết lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của cổ đông và công ty[5].

3. Thực trạng bảo vệ các cổ đông thiểu số Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

LDN 2005 cũng như các văn bản pháp luật khác không có quy định cụ thể về cổ đông thiểu số (cổ đông nhỏ). Cổ đông thiểu số là thuật ngữ dùng để chỉ những người nắm giữ một lượng cổ phần trong công ty mà trong mối quan hệ giữa họ với các cổ đông khác thì họ không đủ sức mạnh để chi phối các hoạt động của công ty như thông qua quyết định hay bầu các chức danh quản lý của công ty.

Tỷ lệ nắm giữ cổ phần phổ thông để được coi là cổ đông lớn hay cổ đông nhỏ thường do Điều lệ công ty quy định trên cơ sở tuân thủ Luật doanh nghiệp 2005. Chẳng hạn, nếu điều lệ công ty quy định cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng là cổ đông lớn thì tức là cổ đông sở hữu ≤10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng là cổ đông nhỏ. Theo khoản 9 điều 6 Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2006 quy định: “Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”. Như vậy, có thể hiểu rằng, cổ đông nhỏ là cổ đông sở hữu dưới 5% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty.

  • Vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực trạng lạm dụng quyền của các cổ đông lớn

LDN 1999 quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền: (i) Đề cử người vào hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát (nếu có); (ii) Yêu cầu triệu tập đại hội đồng cổ đông; (iii) Xem và nhận bản sao hoặc trích lục danh sách cổ đông có quyền dự họp đại hội đồng cổ đông. So sánh với Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 đã có những quy định mở rộng hơn quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số như: (i) Cổ đông có quyền xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, sổ biên bản họp đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của đại hội đồng cổ đông (điểm e khoản 1 điều 79); (ii) Nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây: Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban Kiểm soát; yêu cầu triệu tập họp đại hội đồng cổ đông; yêu cầu Ban Kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết.

Ngoài ra, Luật doanh nghiệp 2005 đã thừa nhận một số cơ chế khá hiệu quả nhằm bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới như: (i) Quy định cho phép cổ đông ủy quyền bằng văn bản cho bên thứ ba để chủ thể này biểu quyết thay mình tại các cuộc họp đại hội đồng cổ đông; (ii) Quy định cho phép nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp đại hội đồng cổ đông. Người triệu tập họp đại hội đồng cổ đông phải chấp nhận và đưa kiến nghị này vào dự kiến chương trình và nội dung cuộc họp (trừ trường hợp kiến nghị được gửi đến không đúng thời hạn hoặc không đủ, không đúng nội dung; vấn đề kiến nghị không thuộc thẩm quyền quyết định của đại hội đồng cổ đông; và các trường hợp khác theo quy định của Điều lệ công ty). Kiến nghị được chính thức bổ sung vào chương trình và nội dung cuộc họp nếu được đại hội đồng cổ đông chấp thuận; (iii) Với trường hợp cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty, cổ đông có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình theo quy định tại khoản 1 điều 90 Luật doanh nghiệp 2005. Đây là một công cụ hữu hiệu mà tất cả các cổ đông đều có quyền sử dụng để bảo vệ lợi ích của mình theo các điều kiện quy định; (iv) Quy định việc biểu quyết bầu thành viên hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu (điểm c khoản 3 điều 104), điều này tạo điều kiện pháp lý cho các cổ đông thiểu số đoàn kết lại với nhau và cùng nhau đưa được ít nhất một người mà họ ủng hộ vào hội đồng quản trị hay Ban Kiểm soát của công ty. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

  • Thực trạng bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ trong thực tế và việc lạm dụng quyền của các cổ đông lớn

Thực tế những năm qua cho thấy, mặc dù quy định về bầu dồn phiếu để bảo vệ nhóm cổ đông thiểu số trong các kỳ đại hội đồng cổ đông được tuyên truyền khá nhiều song việc thực hiện dường như vẫn rất khó khăn. Việc cổ đông thiểu số có được các thông tin đầy đủ và kịp thời từ công ty mà mình được ghi danh là chủ sở hữu rất hiếm hoi. Vướng mắc không hẳn bởi trình độ của chính cổ đông thiểu số mà bởi xu hướng tập trung sở hữu của các công ty cổ phần. Thực tế là, cho dù việc tập trung sở hữu này thuộc về tư nhân hay Nhà nước thì với mô hình này, quyền lực sẽ rơi vào một nhóm người. Khả năng xảy ra tình huống các nhóm cổ đông lớn cấu kết, thâu tóm quyền hành để phục vụ lợi ích của họ, có nghĩa là sẽ gây nên những tác động bất lợi cho cổ đông thiểu số là rất lớn. Hàng loạt trường hợp khiếu kiện liên quan tới việc bán cổ phần cho đối tác chiến lược, cổ đông lớn hay thành lập các công ty con của nhiều công ty cổ phần trong thời gian vừa qua là những minh chứng rõ ràng. Và trong phần lớn trường hợp này, quyền lợi của cổ đông thiểu số bị loại ra ngoài. Dường như cổ đông lớn thường tìm cách khai thác một cách triệt để lợi nhuận cho mình, bất chấp thiệt hại thuộc về ai[6].

Theo khảo sát về một số kỳ đại hội đồng cổ đông trong một vài năm trở lại đây cho thấy, sự có mặt của các cổ đông nhỏ lẻ gần như chỉ để đủ cơ cấu, không thể hiện được quyền của mình trong mọi vấn đề hoạt động của doanh nghiệp mà mình góp vốn. Điều này thể hiện rõ ở những doanh nghiệp đã cổ phần hóa song vốn nhà nước chiếm quá bán. Hầu hết, tại các đại hội đồng cổ đông, Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông chủ yếu là thông qua những nội dung mà hội đồng quản trị đã chuẩn bị sẵn. Theo thống kê sơ bộ của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, chỉ có khoảng 8% công ty cổ phần có bổ sung nội dung mới vào Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông[7].

Bên cạnh đó, các cổ đông lớn (nhất là các cổ đông nhà nước) thường lạm dụng quyền và thực thi quyền của mình chưa đúng với quy định của pháp luật như: trực tiếp bổ nhiệm đại diện của mình làm thành viên hội đồng quản trị, trực tiếp quyết định tăng vốn điều lệ hoặc điều chuyển, sử dụng tài sản của công ty phục vụ cho lợi ích riêng của mình hoặc cho công ty con khác, hoặc đã sử dụng vị thế là cổ đông đa số để biểu quyết dành cho mình quyền mua nhiều hơn với giá ưu đãi khi công ty phát hành thêm cổ phần mới v.v. Việc lạm dụng quyền của các cổ đông lớn kéo dài một mặt vì nhiều cổ đông nhỏ lẻ do chưa hiểu hoặc ít quan tâm đến quyền lợi của mình nên đã phó thác phần vốn của mình cho hội đồng quản trị, miễn sao giá cổ phiếu tăng trưởng theo thời gian và cổ tức được chia hàng năm. Theo thống kê của Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, về phía các cổ đông nhỏ, không có cổ đông nào yêu cầu công ty cung cấp thông tin vê giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty v.v, hoặc cũng có thể là họ chưa biết mình có quyền đó. Dựa vào các điểm yếu này, không ít công ty cổ phần khi muốn thay đổi nội dung trong Điều lệ hoạt động hoặc kế hoạch kinh doanh, Chủ tịch hội đồng quản trị chỉ thăm dò thái độ đồng tình của các cổ đông lớn mà bỏ qua các cổ đông nhỏ[8]. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Ngoài ra, có một số vi phạm điển hình xung quanh việc tăng vốn điều lệ và công bố thông tin ở các công ty, gây thiệt hại lớn cho các cổ đông nhỏ. Chẳng hạn, ở CTCP Vận tải xăng dầu (VIPCO) trong kỳ Đại hội cổ đông thường niên ngày 26/3/2008 đã thông qua phương án tăng vốn điều lệ từ 421,2 lên 600 tỷ đồng, theo đó cho phép cổ đông lớn là Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam mua với giá 15.000 đồng/cổ phiếu, còn các cổ đông nhỏ lại phải mua với giá 40.000 đồng/cổ phiếu, cao gấp 2,67 lần so với cổ đông lớn[9]. Ngoài ra, về trách nhiệm công bố thông tin của cổ đông lớn, theo quy định tại Thông tư 09/2010/TT-BTC, các cổ đông lớn (nắm hơn 5% số cổ phiếu có quyền biểu quyết tại một công ty niêm yết) phải công bố thông tin ít nhất 3 ngày trước khi tiến hành giao dịch. Nhưng trong một báo cáo tổng kết năm 2009, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) cho biết, qua theo dõi 484 lượt giao dịch của 280 cổ đông lớn, HNX đã phát hiện 38 trường hợp vi phạm về công bố thông tin, hơn 155 trường hợp vi phạm về công bố thông tin khi giao dịch của cổ đông nội bộ. Sự bất cân xứng về công bố thông tin này có thể khiến những cổ đông nhỏ lẻ phải chịu thiệt hại nặng nề vì họ chỉ được tiếp nhận thông tin một chiều hoặc không chính xác so với cổ đông nội bộ, dẫn đến việc thời điểm các cổ đông nhỏ lẻ mua vào cổ phiếu hy vọng giá sẽ còn tăng trong tương lai cũng chính lại là lúc các cổ đông lớn bán ra. Điển hình gần đây là vụ bà Nguyễn Thị Kim Phượng, vào ngày 24/03/2010 khi giá cổ phiếu VTV bất ngờ tăng cao quá 30%, đã bán toàn bộ 557.800 cổ phiếu VTV đang nắm giữ (chiếm 8,5% khối lượng niêm yết của cổ phiếu này) với giá 55.000 mà không hề thông báo. Mặc dù ngay trước khi bán cổ phiếu bà Phượng vẫn còn chào mua công khai 1,3 triệu cổ phiếu VTV với giá 40.000 đồng vào ngày 3/2/2010. Theo quy định tại Thông tư 09/2010/TT-BTC, bà Phượng được coi là cổ đông lớn và phải công bố thông tin ít nhất 3 ngày trước khi tiến hành giao dịch[10].

Tóm lại, những trường hợp thiếu tôn trọng quyền của cổ đông thiểu số thường xảy ra là:

  • CTCP không mời nhà đầu tư nhỏ lẻ đến dự đại hội đồng cổ đông hoặc không cung cấp tài liệu cho nhà đầu tư trước khi họp đại hội đồng cổ đông;
  • Khi thông qua Nghị quyết đại hội đồng cổ đông, chỉ có lợi cho những cổ đông lớn và người quản lý, chẳng hạn: phát hành cổ phiếu thưởng vô nguyên tắc, chọn cổ đông chiến lược nhưng thực chất là bán rẻ cổ phiếu cho cổ đông “chiến lược” là những người thân quen, để dành quỹ khen thưởng, phúc lợi quá lớn cho người quản lý và nhân viên;
  • Công bố thông tin không chính xác hoặc không hết nội dung, có những nội dung mập mờ khiến nhà đầu tư đánh giá không đúng về công ty cổ phần;
  • Nhà quản lý có những tuyên bố không đúng thẩm quyền hoặc không đúng luật, không tôn trọng nhà đầu tư, khiến giá cổ phiếu có thể diễn biến bất lợi cho nhà đầu tư.

4. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về nghĩa vụ của các cổ đông Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Điều 80 Luật doanh nghiệp 2005 quy định cổ đông phổ thông có các nghĩa vụ cơ bản sau: (i) Thanh toán đủ số cổ phần cam kết mua; chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần; (ii) Tuân thủ điều lệ và quy chế quản lý nội bộ công ty; (iii) Chấp hành quyết định của đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị; (iv) Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 và Điều lệ công ty; (v) Cổ đông phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhân khi  nhân danh công ty dưới mọi hình thức để thực hiện một trong các hành vi: Vi phạm pháp luật, tiến hành kinh doanh và các giao dịch khác để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với công ty.

Mặc dù pháp luật đã quy định khá đầy đủ về nghĩa vụ của cổ đông nhưng trong thực tế, các cổ đông phổ thông (nhất là tại các công ty chưa niêm yết) thường vi phạm các nghĩa vụ như: (i) Không góp vốn cổ phần, khai khống vốn; (ii) Nhầm lẫn (vô tình hoặc cố ý) giữa vốn điều lệ là số cổ phần được quyền phát hành với số vốn phải góp. Họ đăng ký mua mà không trả tiền (góp vốn), tức là đăng ký để lấy quyền mua, sau đó, chuyển nhượng “quyền mua” như chuyển nhượng cổ phần; (iii) Không thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong số cổ phần công ty đã phát hành; (iv) Chia nhau vốn thặng dư của công ty, hay tước đoạt tài sản của công ty, làm hại chủ nợ, gây hại cho lợi ích của công ty và của những người có liên quan khác; (v) Mâu thuẫn nội bộ phát sinh, nhất là khi có dự án lớn và đã thu được một ít lợi nhuận; (vi) Không mua cổ phần mà đòi quyền biểu quyết như đã sở hữu cổ phần; (vii) Chưa quen với việc biểu quyết theo số cổ phần nắm giữ mà biểu quyết theo đầu người; (viii) Điều lệ công ty cấm cổ đông tự do chuyển nhượng cổ phần, phải thông qua hội đồng quản trị chấp thuận; (ix) Có bất đồng giữa các cổ đông hay giữa cổ đông với người quản lý thì hay khiếu nại hành chính; có thói quen “dựa vào nhà nước” mà không tự giải quyết các vấn đề nội bộ thuộc thẩm quyền.

Ngoài ra, các cổ đông trong các công ty, kể cả một số công ty niêm yết có xu hướng thiên về lợi ích ngắn hạn của riêng mình mà không chú ý đúng mức đến lợi ích phát triển lâu dài của công ty và của chính họ. Xu hướng nói trên thể hiện trong một số hình thức sau đây: Một là, chia cổ tức bằng cổ phiếu, tính theo mệnh giá, chứ không phải là thị giá của cổ phiếu khi giá cổ phiếu của công ty đang tăng lên. Bằng cách này, trên thực tế, các cổ đông đã lấy đi một phần thặng dư vốn của công ty, một nguồn vốn hết sức cần thiết để phát triển, làm giảm giá trị cổ phần của công ty do cung về cổ phiếu công ty tăng đồng thời tiềm năng phát triển của công ty trong tương lai bị suy giảm. Hai là, “cổ phần hóa” thặng dư vốn và phân phối số cổ phần đó cho cổ đông. Cách làm này về thực chất là công ty chia cổ phần cho các cổ đông; và thay vì phát hành cổ phần để huy động vốn, các cổ đông đã chia cổ phần đó cho nhau để chuyển nhượng cho người khác và không chỉ thu lại vốn đã đầu tư mà cả phần thặng dư đáng ra là thuộc sở hữu của công ty. Ba là, phát hành nội bộ theo mệnh giá, khi thị giá cổ phần của công ty cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều so với mệnh giá của nó. Hệ quả của cách làm này tương tự như cách làm thứ nhất nói trên. Tóm lại, cổ đông của không ít các công ty đang có xu hướng chạy theo lợi ích ngắn hạn, đầu cơ trước mắt hơn là chú ý tăng cường tiềm năng phát triển lâu dài của công ty để đảm bảo lợi ích lâu dài và bền vững của chính họ[11].

II. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cuộc họp đại hội đồng cổ đông Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

1. Về loại hình và thẩm quyền triệu tập họp đại hội đồng cổ đông

Điều 97 Luật doanh nghiệp 2005 phân loại đại hội đồng cổ đông thành hai loại là đại hội đồng cổ đông thường niên và đại hội đồng cổ đông bất thường.

ĐHĐCĐ phải họp thường niên trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính, thảo luận và thông qua các vấn đề: (i) Báo cáo tài chính hàng năm; (ii) Báo cáo của hội đồng quản trị đánh giá thực trạng công tác quản lý kinh doanh ở công ty; (iii) Báo cáo của Ban Kiểm soát về quản lý công ty của hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ; (iv) Mức cổ tức đối với mỗi cổ phần của từng loại; (v) Các vấn đề khác thuộc thẩm quyền.

ĐHĐCĐ họp bất thường do hội đồng quản trị triệu tập trong các trường hợp: (i) hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; (ii) Số thành viên hội đồng quản trị còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật; (iii) Theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; (iv) Theo yêu cầu của Ban Kiểm soát; (v) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Nếu hội đồng quản trị không triệu tập họp đại hội đồng cổ đông như quy định thì Chủ tịch hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh đối với công ty. Nếu hội đồng quản trị không triệu tập họp bất thường thì trong vòng 30 ngày tiếp theo, Ban Kiểm soát thay thế hội đồng quản trị triệu tập. Nếu Ban Kiểm soát không làm thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng (hoặc 1 tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty) đã yêu cầu có quyền thay thế hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát triệu tập họp đại hội đồng cổ đông và có thể đề nghị cơ quan đăng ký kinh doanh giám sát việc triệu tập và tiến hành họp nếu thấy cần thiết. Quy định này là một cách bảo vệ triệt để cổ đông ít vốn. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Như vậy, nói tóm lại, thẩm quyền triệu tập họp đại hội đồng cổ đông theo Luật doanh nghiệp 2005 được xếp theo thứ tự như sau: hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Cổ đông. Cụ thể, trong trường hợp hội đồng quản trị không triệu tập họp thì Ban Kiểm soát có quyền triệu tập họp và cổ đông có quyền yêu cầu Ban Kiểm soát triệu tập họp; trường hợp Ban Kiểm soát lại không triệu tập họp thì những cổ đông hoặc nhóm cổ đông đáp ứng đủ điều kiện có quyền triệu tập họp.

Theo điều tra thực tế về quản trị công ty cổ phần do TS. Nguyễn Đình Cung thực hiện cho thấy đại hội đồng cổ đông của đại bộ phận các công ty cổ phần (khoảng 96%) tại Việt Nam hiện nay thường họp thường niên mỗi năm một lần. Một số khá lớn (khoảng từ 30 đến 40% số công ty cổ phần) tổ chức họp đại hội đồng cổ đông mỗi quý một lần[12].

2. Về việc triệu tập họp đại hội đồng cổ đông

 Khoản 1 điều 100 Luật doanh nghiệp 2005 quy định “Người triệu tập họp đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 7 ngày làm việc trước ngày khai mạc…”. Khoảng thời gian 7 ngày này có vẻ quá ngắn bởi các cổ đông cần nhiều thời gian để xem xét chương trình họp, nghiên cứu những vấn đề sẽ đưa ra thảo luận và biểu quyết tại cuộc họp, suy nghĩ và chuẩn bị đề án để đưa vào chương trình họp. Theo Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, chỉ có khoảng 60% các công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay là tuân thủ đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp đại hội đồng cổ đông; khoảng 40% các công ty cổ phần còn lại vẫn chưa tuân thủ đúng trình tự và thủ tục triệu tập đại hội đồng cổ đông. Nguyên nhân khá phổ biến của thực trạng nói trên là do hội đồng quản trị đã lúng túng, chưa hiểu rõ phải “làm gì”, “làm như thế nào” và “khi nào làm” để triệu tập họp đại hội đồng cổ đông theo đúng quy định pháp luật. Và phần lớn các tranh chấp trong nội bộ cổ đông công ty cổ phần xuất phát từ việc không thực hiện đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp đại hội đồng cổ đông.

3. Về chương trình và nội dung họp đại hội đồng cổ đông:

Về chương trình và nội dung họp đại hội đồng cổ đông, khoản 1 điều 99 Luật doanh nghiệp 2005 quy định người triệu tập họp phải lập danh sách cổ đông có quyền dự họp và biểu quyết; chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu cuộc họp và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp; xác định thời gian, địa điểm họp và gửi thông báo mời họp đến các cổ đông có quyền dự họp. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Qua điều tra thực tế về quản trị công ty cổ phần do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung thực hiện, các cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên thường thảo luận và quyết định về ba vấn đề: (i) báo cáo hàng năm tổng kết tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; (ii) báo cáo kế hoạch sản xuất kinh doanh của năm tiếp theo; và (iii) mức cổ tức được chia. Ngoài ra, một số công ty còn bầu hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên. Như vậy trong thực tế, đại hội đồng cổ đông rất ít hoặc không bàn thảo và quyết định về định hướng chiến lược phát triển công ty.

Trong phần lớn các công ty cổ phần (khoảng 85%), Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Giám Đốc chuẩn bị chương trình, nội dung họp và tài liệu họp đại hội đồng cổ đông thường niên; và ở các công ty còn lại, Chủ tịch hội đồng quản trị, hoặc thành viên thường trực hoặc GĐ/TGĐ chuẩn bị. Các cuộc họp thường niên của đại hội đồng cổ đông thường kéo dài nửa ngày (hơn 52%), hoặc một ngày (khoảng 47%), số còn lại kéo dài hơn 1 ngày.

Diễn biến cuộc họp thường theo công thức định sẵn là: (1) Chủ tịch hội đồng quản trị hoặc GĐ trình bày báo cáo đã chuẩn bị sẵn; (2) Ban Kiểm soát đọc báo cáo đánh giá “thẩm tra” đã chuẩn bị sẵn từ trước; (3) thảo luận và chất vấn. Tại hầu hết các cuộc họp thường niên đều có chất vấn của cổ đông đối với hội đồng quản trị. Tuy vậy, cũng tại các cuộc họp đó, chỉ có tại một số công ty cổ phần (gần 8%), quyết định của đại hội đồng cổ đông có bổ sung thêm nội dung mới, số còn lại, thông qua đúng những gì do hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát báo cáo. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng của các cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số, là không đáng kể đối với những quyết định đã chuẩn bị trước của hội đồng quản trị[13]. Đa số các tranh chấp xảy ra trong thực tế hiện nay về quản lý công ty cổ phần là do không tuân thủ đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp đại hội đồng cổ đông. Điều này chứng tỏ các quy định về cuộc họp đại hội đồng cổ đông của Luật doanh nghiệp 2005 vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Vụ Ông Huỳnh Văn Quảng kiện công ty cổ phần Sản xuất Dịch vụ Xuất nhập khẩu Từ Liêm được trình bày trong phần phụ lục sẽ minh họa một phần cho thực trạng họp đại hội đồng cổ đông không đúng trình tự diễn ra trong thực tế[14].

4. Về điều kiện tiến hành họp Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Điều 102, Luật doanh nghiệp 2005 quy định đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có: (i) số cổ đông đại diện ít nhất 65% cổ phần có quyền biểu quyết đối với Triệu tập lần 1; (ii) số cổ đông đại diện ít nhất 51% cổ phần có quyền biểu quyết đối với Triệu tập lần 2; hoặc (iii) các cổ đông có mặt tại cuộc họp (tức là cuộc họp sẽ được tiến hành không phụ thuộc số cổ đông dự họp và tỷ lệ cổ phần biểu quyết của họ) đối với Triệu tập lần 3. Nếu cuộc họp lần thứ nhất không thành thì công ty sẽ triệu tập cuộc họp lần hai trong vòng 30 ngày, kể từ ngày họp lần thứ nhất. Nếu cuộc họp lần hai lại không thành thì công ty được triệu tập lần thứ ba trong vòng 20 ngày, kể từ ngày họp thứ hai.

Tuy nhiên quy định trên lại có phần không nhất quán với quy định trong Nghị Quyết 71/2006/QH11 của Quốc hội ngày 29/11/2006 về việc phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của Việt Nam (Nghị quyết 71). Nghị quyết 71 quy định cho phép các công ty cổ phần được quyền quy định trong Điều lệ số đại diện cần thiết để tiến hành họp đại hội đồng cổ đông.

Trong thực tế, rất nhiều công ty niêm yết triệu tập đại hội đồng cổ đông lần đầu thường không đạt tỷ lệ tối thiểu 65% số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ mẫu để tiến hành Đại hội cổ đông, nên buộc phải triệu tập Đại hội cổ đông lần 2. Chính điều này đã gây lãng phí của cải xã hội và một lần nữa khẳng định sự cần thiết và hợp lý của việc cho phép các công ty cổ phần được quyền quy định trong Điều lệ số đại diện cần thiết để tiến hành họp đại hội đồng cổ đông như quy định tại Nghị Quyết 71[15].

5. Về việc thông qua quyết định của đại hội đồng cổ đông

Về hình thức thông qua quyết định: đại hội đồng cổ đông thông qua các quyết định bằng cách biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Trường hợp điều lệ công ty không quy định thì quyết định của đại hội đồng cổ đông về các vấn đề sau đây phải được thông qua bằng biểu quyết tại cuộc họp: (i) Sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; (ii) Thông qua định hướng phát triển công ty; (iii) Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; (iv) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát; (v) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác; (vi) Thông qua báo cáo tài chính hàng năm; (vii) Tổ chức lại, giải thể công ty.

Về điều kiện thông qua quyết định: 

Trường hợp 1: Quyết định của đại hội đồng cổ đông sẽ được thông qua tại cuộc họp nếu:

  • Được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận đối với các quyết định – về: (i) loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; (ii) sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; (iii) tổ chức lại hoặc giải thể công ty; (iv) đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty (trừ khi Điều lệ công ty có quy định một tỷ lệ khác).
  • Được số cổ đông đại ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp nhận đối với các quyết định ngoài quyết định nêu tại điểm (a) nêu trên. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Khi biểu quyết bầu thành viên hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu. Ngoài ra, các quyết định được thông qua tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông với số cổ đông trực tiếp và ủy quyền tham dự đại diện 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự và thủ tục triệu tập, nội dung chương trình họp và thể thức tiến hành họp không được thực hiện đúng như quy định. Điều này nghĩa là sự có mặt để biểu quyết quan trọng hơn thủ tục.

Trường hợp 2: Thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản:

Quyết định của đại hội đồng cổ đông được thông qua qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định.

Theo thống kê từ thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp 2005, có khá nhiều vụ tranh chấp phát sinh từ quyết định của đại hội đồng cổ đông đã xảy ra chủ yếu vì những lý do sau: (i) Sự tranh chấp về tư cách cổ đông dẫn tới hệ quả là tất cả các quyết định của đại hội đồng cổ đông sẽ trở thành đối tượng tranh chấp; (ii) Quyết định không công bằng: Quyết định ưu đãi cho thành viên hội đồng quản trị trong việc mua cổ phần mới phát hành (số lượng, giá); Quyết định ưu đãi cho cổ đông lớn dưới danh nghĩa là cổ đông chiến lược; Quyết định ưu đãi cho “người lao động”; (iii) Quyết định không hợp pháp (cổ đông nắm đa số vốn tự ý quyết định); (iv) Không chấp nhận quyết định của đại hội đồng cổ đông, vì: Quyền lợi của mình không được như mong đợi; Cơ quan chủ quản không đồng ý với biểu quyết tán thành của người đại diện mình nắm phần vốn nhà nước[16]. Những nguyên nhân này cho thấy Luật doanh nghiệp 2005 điều chỉnh về việc thông qua quyết định của đại hội đồng cổ đông vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống.  

III. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về hội đồng quản trị

1. Sự xác lập địa vị trung tâm của hội đồng quản trị trong cơ cấu quản lý công ty cổ phần Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Do sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường nói chung và sự phát triển của công ty cổ phần nói riêng, hội đồng quản trị có quyền lực ngày càng to lớn với vai trò trọng yếu và giữ vị trí trung tâm, then chốt trong cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần. Đi đôi với sự xác lập địa vị trung tâm của hội đồng quản trị trong cơ cấu quản lý là sự bành trướng quyền lực của nó, tăng nguy cơ ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi của đại hội đồng cổ đông. Trước thực trạng này, pháp luật của các nước đã không ngừng tìm kiếm cách thức tăng cường cơ chế giám sát đối với hội đồng quản trị. Tại Việt Nam, cụ thể trong điều 108 Luật doanh nghiệp 2005, đã quy định rất kỹ và chi tiết vai trò, quyền và nghĩa vụ của hội đồng quản trị, trong khi ở các nước khác pháp luật quy định vấn đề này tương đối khái quát. Theo đó, hội đồng quản trị trong các công ty cổ phần ở Việt Nam là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền. Tuy nhiên trong thực tế, công việc thường nhật của công ty cổ phần không hoàn toàn do hội đồng quản trị gánh chịu và giải quyết theo tập thể. Thông qua cách ủy quyền, hội đồng quản trị đã bàn giao quyền lực không nhỏ xuống cho ban giám đốc.

Tổng kết thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp 2005 cho thấy hội đồng quản trị trong các công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay tập trung quyền lực vào những vai trò chưa tương xứng. Chức năng và quyền hạn của hội đồng quản trị theo Luật doanh nghiệp là tập trung vào các vấn đề chiến lược và định hướng chiến lược, vốn và cơ cấu vốn, nhân sự chủ chốt, giám sát quản lý điều hành và đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động. Tuy vậy, hiệu lực của hội đồng quản trị trên thực tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Ở Việt Nam hiện nay, hội đồng quản trị đang ở giai đoạn tập quyền chứ chưa tiến tới đến “phân quyền”, các công ty cổ phần thường chịu ảnh hưởng nặng nề bởi một nhân vật là Chủ tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc[17].

2. Tiêu chuẩn, số lượng thành viên hội đồng quản trị

Về tiêu chuẩn thành viên hội đồng quản trị: Khác với Luật doanh nghiệp 1999 không quy định tiêu chuẩn của thành viên hội đồng quản trị, Luật doanh nghiệp năm 2005 đã quy định tiêu chuẩn của các thành viên hội đồng quản trị áp dụng thống nhất cho bốn loại hình cơ bản của doanh nghiệp gồm CTTNHH, công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Theo đó, tiêu chuẩn của thành viên hội đồng quản trị bao gồm: (i) Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp; (ii) Là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc người khác có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty; (iii) Đối với công ty con là công ty mà Nhà nước sở hữu cổ phần trên 50% vốn điều lệ thì thành viên hội đồng quản trị không được là người liên quan của người quản lý, người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ (điều 110 Luật doanh nghiệp 2005). Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Về số lượng thành viên hội đồng quản trị: Khoản 1 điều 109 Luật doanh nghiệp 2005 quy định hội đồng quản trị có không ít hơn ba thành viên và không quá mười một thành viên. Trong thực tế, số lượng thành viên hội đồng quản trị ở nước ta phụ thuộc nhiều vào quy mô của công ty, thường gồm ba (chiếm 21% số doanh nghiệp điều tra) hay năm thành viên (khoảng 62%), và bảy người (khoảng 12%); số còn lại có số thành viên từ chín đến mười người. Như vậy, số thành viên hội đồng quản trị trung bình là năm người. Đại đa số thành viên hội đồng quản trị trực tiếp làm việc tại công ty và đồng thời kiêm một hoặc một số chức danh quản lý tại công ty. Do đó, trong phần lớn các trường hợp, Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm cả GĐ/TGĐ. Đa số thành viên hội đồng quản trị ở nước ta là các cổ đông lớn, hoặc đại diện các cổ đông lớn; và người “lớn nhất” trong số họ thường kiêm luôn chức tổng giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày tại công ty[18].

3. Về quyền và nghĩa vụ của thành viên hội đồng quản trị

3.1. Về quyền của các thành viên hội đồng quản trị

  • Quyền của chủ tịch hội đồng quản trị

Khoản 2 điều 111 Luật doanh nghiệp 2005 quy định Chủ tịch hội đồng quản trị có các quyền và nhiệm vụ sau đây: (i) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng quản trị; (ii) Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp; triệu tập và chủ tọa cuộc họp hội đồng quản trị; (iii) Tổ chức việc thông qua quyết định của hội đồng quản trị; (iv) Giám sát quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị; (v) Chủ tọa họp ĐHĐCĐ; (vi) Các quyền và nhiệm vụ khác quy định tại Luật này và Điều lệ công ty.

Với những quyền trên đây thì thực sự quyền của Chủ tịch hội đồng quản trị không mạnh, vì hội đồng quản trị biểu quyết theo số người hiện diện, trong đó Chủ tịch cũng chỉ là một người, trừ khi số phiếu (chấp thuận hay bác bỏ) của hai bên ngang nhau thì Chủ tịch sẽ quyết định và việc này phải có ghi trong Điều lệ công ty. Nói đúng ra, quyền hạn của hội đồng quản trị thì mạnh, nhưng quyền của Chủ tịch hội đồng quản trị thì không mạnh. Chủ tịch chỉ mạnh khi nắm đa số thành viên trong hội đồng. Đấy là nói theo luật, còn trong thực tế ở các công ty cổ phần hóa thì Chủ tịch do cơ quan chủ quản cử. Nếu chủ tịch là người đã làm tổng giám đốc trước kia thì quyền của Chủ tịch này mạnh (do phe cánh); còn nếu là người mới cử xuống, trong khi tổng giám đốc không đổi thì Chủ tịch mới này chỉ có quyền trên danh nghĩa. Khi người này muốn giành quyền thì công ty sẽ có tranh chấp giữa Chủ tịch mới và tổng giám đốc cũ. Ở nhiều công ty cổ phần tại Việt Nam, chủ tịch hội đồng quản trị chỉ đóng vai trò là người triệu tập và chủ tọa hội nghị. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 điều 116 “trường hợp Điều lệ công ty không quy Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật, thì Giám đốc hoặc tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty”. Quy định này thể hiện rằng luật pháp thiên về cho tổng giám đốc làm người đại diện theo pháp luật cho công ty. Quan niệm như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổng giám đốc thực hiện quyền điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày và xử lý các vấn đề đối ngoại kịp thời. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

  • Quyền của các thành viên hội đồng quản trị khác:

LDNVN 2005 cũng giống như Luật Công ty của nhiều nước khác không tập trung quy định các quyền của các thành viên hội đồng quản trị mà quy định trong nhiều điều khoản, bao gồm: (i) Quyền dự họp hội đồng quản trị và thực hiện quyền biểu quyết; (ii) Quyền thực hiện nghiệp vụ quản lý điều hành; (iii) Quyền đại diện công ty một cách hữu hạn. Trong phạm vi quyền hành của mình, thành viên điều hành của hội đồng quản trị có quyền đại diện công ty trong công việc đối ngoại; (iv) Quyền tìm đọc và được thông tin. Để thực hiện thẩm quyền của mình, các thành viên hội đồng quản trị có quyền tìm đọc các tài liệu về tài chính, sổ biên bản hội nghị, v.v, có quyền được thông báo các thông tin về quản lý kinh doanh của công ty.

3.2. Nghĩa vụ của các thành viên hội đồng quản trị

Nghĩa vụ của các thành viên hội đồng quản trị cũng như của GĐ/TGĐ và những người quản lý khác của công ty được quy định cụ thể trong Điều 119 Luật doanh nghiệp 2005. Theo đó, các thành viên hội đồng quản trị cần phải có 2 nghĩa vụ cơ bản là: (i) Nghĩa vụ cẩn trọng – nghĩa vụ này đòi hỏi các thành viên hội đồng quản trị cần phải giữ thái độ cẩn thận, mẫn cán trong việc quản lý công việc của công ty; (ii) Nghĩa vụ trung thành – Nghĩa vụ này yêu cầu các thành viên hội đồng quản trị phải toàn tâm, toàn ý phục vụ công ty, không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.

4. Trách nhiệm pháp lý của các thành viên hội đồng quản trị

Xét về mối quan hệ giữa quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm, bản chất của trách nhiệm pháp lý là những biện pháp hay chế tài để thúc đẩy người có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, và để quyền lợi được đảm bảo. Đối tượng của nghĩa vụ là những hành vi “cần phải làm” hoặc “không được làm”, trong khi trách nhiệm là những hậu quả mà người có nghĩa vụ không làm tròn nghĩa vụ đó.  Trách nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị có nghĩa là những hậu quả pháp định mà các thành viên đó bắt buộc phải nhận khi họ đã vi phạm các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.

Về đối tượng: Các thành viên hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm đối với cổ đông, trái chủ, người thứ ba, và thậm chí đối với công chúng xã hội. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Về chủ thể gánh chịu trách nhiệm: Trách nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị bao gồm trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới. Trách nhiệm cá nhân xuất phát từ trường hợp một thành viên hội đồng quản trị thực hiện nghĩa vụ và có lỗi cá nhân, gây thiệt hại cho công ty và cho người khác. Trách nhiệm liên đới xuất phát từ trường hợp một số hoặc toàn thể các thành viên hội đồng quản trị thông qua một quyết định trái phép và gây thiệt hại cho công ty, cổ đông hoặc người khác.

Về hình thức của trách nhiệm: Gồm trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hành chính bao gồm kỷ luật hành chính và xử phạt hành chính. Trách nhiệm hình sự thể hiện sự ảnh hưởng tiêu cực của trách nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị không những đã gây thiệt hại cho công ty, người thứ ba, đồng thời đã mang lại hậu quả bất lợi cho trật tự kinh tế xã hội. Trách nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị chủ yếu là trách nhiệm dân sự, còn trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự chỉ là phụ. Trách nhiệm dân sự chủ yếu là trách nhiệm về tài sản, mà biện pháp của nó chủ yếu là bồi thường thiệt hại. Sở dĩ như vậy là vì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều được đánh giá và thể hiện bằng lợi ích kinh tế.

Trách nhiệm pháp lý của thành viên hội đồng quản trị theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 được thể hiện trong các trường hợp sau:

Một là, Khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, hội đồng quản trị phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và quyết định của đại hội đồng cổ đông; nếu làm trái gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên chấp thuận thông qua quyết định đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối được miễn trừ trách nhiệm. Trong trường hợp này, cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất một năm có quyền yêu cầu hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện quyết định nói trên (khoản 4, điều 108)

Hai là, Xử lý các cổ phần được mua lại: Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại phải được tiêu hủy ngay sau khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ. Chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc không tiêu hủy hoặc chậm tiêu hủy cổ phiếu gây ra đối với công ty (khoản 3, điều 92, Luật doanh nghiệp 2005);

Ba là, Thu hồi tiền thanh toán cổ phần mua lại hoặc cổ tức: Khi thanh toán cổ phần mua lại trái với khoản 1 điều 92 (tức là ngay sau khi thanh toán hết số cổ phần được mua lại, công ty không bảo đảm thanh toán được đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác) hoặc trả cổ tức trái với quy định tại điều 93 Luật doanh nghiệp 2005 thì các cổ đông phải hoàn trả cho công ty số tiền hay tài sản đã nhận; trường hợp cổ đông không hoàn trả được cho công ty thì cổ đông đó và tất cả thành viên hội đồng quản trị phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị số tiền, tài sản chưa được hoàn lại (điều 94). Việc liên đới này sẽ khó thực hiện trong thực tế, có thể bên đã nhận phải trả lại, còn bên kia sẽ nhắc nhở. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Bốn là, Triệu tập họp đại hội đồng cổ đông: Nếu Điều lệ không quy định thời hạn, thì hội đồng quản trị phải triệu tập họp đại hội đồng cổ đông trong vòng 30 ngày, kể từ ngày số thành viên hội đồng quản trị còn lại ít hơn số quy định; theo yêu cầu của Ban Kiểm soát và của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp hội đồng quản trị không triệu tập họp như quy định thì Chủ tịch phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh đối với công ty (điều 97);

Năm là, Triệu tập họp hội đồng quản trị: Chủ tịch hội đồng quản trị phải triệu tập họp hội đồng quản trị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Ban Kiểm soát, GĐ/TGĐ, hay ít nhất năm người điều hành khác, hoặc ít nhất 2 thành viên hội đồng quản trị. Trường hợp Chủ tịch không triệu tập họp hội đồng quản trị theo đề nghị thì Chủ tịch phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại xảy ra đối với công ty và người đề nghị có quyền thay thế hội đồng quản trị triệu tập họp hội đồng quản trị (khoản 5, điều 112.)

Sáu là, Về biên bản họp đại hội đồng cổ đông và biên bản họp hội đồng quản trị: Điểm b và đ, khoản 2 điều 111 Luật doanh nghiệp 2005 quy định Chủ tịch hội đồng quản trị là chủ tọa cuộc họp hội đồng quản trị và chủ tọa cuộc họp đại hội đồng cổ đông. Chủ tọa và thư ký cuộc họp phải liên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung biên bản họp đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị (khoản 3 điều 106 và điểm i khoản 1 điều 113).

5. Cuộc họp hội đồng quản trị Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

HĐQT họp mỗi tháng một lần (khoảng 34% số công ty được điều tra), mỗi quý một lần (khoảng 34%) và hai tháng một lần (khoảng 12%). Có hội đồng quản trị ở một số ít công ty họp hai tuần/lần. Tại đa số các công ty, thời gian mỗi lần họp kéo dài khoảng 4 giờ (trên 80%); và khoảng 11% các công ty họp hội đồng quản trị kéo dài 8 giờ; cá biệt có trường hợp kéo dài đến 2 ngày. Thời gian họp trung bình của hội đồng quản trị là khoảng 4 đến 5 tiếng[19].

Vấn đề thường thảo luận tại các cuộc họp hội đồng quản trị khá đa dạng, nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào các vấn đề như báo cáo kết quả kinh doanh (tháng, quý, nửa năm và hàng năm) cũng như kế hoạch kinh doanh của giai đoạn tiếp theo, thảo luận quyết định về dự án đầu tư cụ thể, giải pháp phát triển kinh doanh cụ thể, thảo luận và quyết định về giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc trong thực hiện kế hoạch kinh doanh, thảo luận và quyết định về vấn đề nhân sự của công ty, v.v. Rất ít trường hợp bàn thảo và quyết định về chiến lược phát triển dài hạn của công ty.

Chủ tịch hội đồng quản trị thường là người chuẩn bị nội dung và chương trình họp đúng như quy định của Luật doanh nghiệp (80% số công ty được điều tra); số còn lại do thành viên HĐQT, GĐ, thư ký công ty hoặc thậm chí trưởng phòng Tổ chức hành chính chuẩn bị. Trong đại đa số các cuộc họp (khoảng 95%) đều có thông qua quyết định bằng văn bản.

Từ thực tế vận hành hội đồng quản trị của công ty cổ phần như trình bày trên đây có thể rút ra một số kết luận sau:

  • Thứ nhất, Số lượng thành viên hội đồng quản trị của các công ty cổ phần ở nước ta là không lớn, có trình độ chuyên môn không cao, đa số chưa phải là những người quản lý chuyên nghiệp (phần lớn vừa là chủ sở hữu vừa là người quản lý công ty).
  • Thứ hai, Đại đa số thành viên hội đồng quản trị đều là cổ đông lớn, hoặc đại diện của cổ đông lớn, trực tiếp nắm giữ các chức danh quản lý khác nhau trong công ty; gần 75% Chủ tịch hội đồng quản trị đồng thời kiêm tổng giám đốc, chưa có sự tách biệt giữa thành viên hội đồng quản trị và người quản lý điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày[20].
  • Thứ ba, Quyền lực của hội đồng quản trị tập trung chủ yếu vào Chủ tịch hội đồng quản trị đồng thời kiêm tổng giám đốc công ty.
  • Thứ tư, cơ cấu, số lượng và thành phần của hội đồng quản trị như đã trình bày ở trên có thể dẫn đến một số hệ quả sau: (i) hội đồng quản trị trong các công ty cổ phần ở nước ta rất “tập quyền”; nắm giữ và chi phối quyền của đại hội đồng cổ đông, quyền của bản thân hội đồng quản trị, và quyền điều hành của tổng giám đốc; (ii) Hoạt động thực tế của hội đồng quản trị thiên về điều hành hơn là hoạch định chiến lược và giám sát thực thi chiến lược phát triển công ty; (iii) Sự giám sát của cổ đông đối với hội đồng quản trị còn yếu do cơ cấu sở hữu tập trung; (iv) Nguy cơ lạm dụng quyền lực của hội đồng quản trị nói chung và của Chủ tịch hội đồng quản trị nói riêng để thu lợi riêng cho mình và cho người khác là rất lớn. Các hình thức lạm dụng thường thấy trong thực tế là: kiến nghị phát hành cổ phiếu ưu đãi cho thành viên hội đồng quản trị (và chính họ cũng là cổ đông bỏ phiếu cho kiến nghị đó); kiến nghị ưu đãi riêng cho người lao động, trong đó, hội đồng quản trị được hưởng phần nhiều hơn so với người lao động bình thường khác; thực hiện giao dịch nội gián và giao dịch của công ty với các bên có liên quan của chính họ; sử dụng thông tin, bí quyết và cơ hội kinh doanh của chính công ty để phục vụ lợi ích riêng cho mình và các bên có liên quan.

IV. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về GĐ/TGĐ Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

1. Khái niệm, địa vị và trách nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ trong công ty cổ phần

TGĐ là một chức danh có quyền và nhiệm vụ điều hành công việc quản lý kinh doanh thường nhật của công ty, là cán bộ quản lý cao cấp của công ty do hội đồng quản trị bổ nhiệm để trợ giúp hội đồng quản trị điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Nhìn chung, đa số các nước trên thế giới đều nhận định rằng, GĐ/TGĐ công ty không phải là người chủ, cũng không phải là người làm thuê thông thường, mà là người có quyền chỉ huy điều hành công việc hàng ngày và có địa vị cấp cao ở công ty.

Ở các nước, tổng giám đốc nhìn chung là một chức danh do Điều lệ công ty quy định mang tính tùy nghi, có vai trò trợ giúp điều hành nghiệp vụ cho hội đồng quản trị và không phải là một cơ quan của công ty. Địa vị pháp lý và quyền hạn của tổng giám đốc do Điều lệ công ty và hội đồng quản trị quyết định chứ pháp luật không quy định quyền hạn của tổng giám đốc.

Ở Việt Nam, Luật doanh nghiệp 2005 vừa quy định GĐ/TGĐ là một chức danh do hội đồng quản trị bổ nhiệm để điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty lại vừa quy định rất kỹ lưỡng về quyền hạn của GĐ/TGĐ tại khoản 3 điều 116. Cách quy định như vậy xuất phát từ thực trạng vận hành của các doanh nghiệp nhà nước từ xưa cho tới nay, GĐ/TGĐ luôn luôn là một quan chức nắm giữ quyền lực toàn diện và thường không chịu sự kiểm soát bởi bất kỳ một cơ quan nào trong doanh nghiệp. Khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, tình trạng này vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Vì là một chức danh pháp định lại có quyền hạn rõ ràng theo Luật doanh nghiệp dẫn đến không ít trường hợp tổng giám đốc trong các công ty cổ phần hiện nay nắm quyền tự quyết và có xu hướng chống đối sự kiểm soát của hội đồng quản trị. Với cách pháp định hóa chức quyền của GĐ/TGĐ như trên, giới luật gia Việt Nam về cơ bản nhận định rằng GĐ/TGĐ là một cơ quan của công ty hay ít nhất nó cũng là một nửa cơ quan của công ty.

Về trách nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ: Cũng giống như trách nhiệm pháp lý của các thành viên hội đồng quản trị, trách nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ chủ yếu là trách nhiệm dân sự mà nội dung cơ bản là bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm này bao gồm trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới. Trách nhiệm cá nhân của GĐ/TGĐ được quy định tại khoản 4 điều 116 Luật doanh nghiệp 2005, theo đó GĐ/TGĐ phải điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của hội đồng quản trị. Nếu làm trái mà gây thiệt hại cho công ty thì GĐ/TGĐ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty. Ngoài ra, GĐ/TGĐ còn phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc xử lý các cổ phần mua lại, theo đó: “Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại ngay sau khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ. Chủ tịch hội đồng quản trị và GĐ/TGĐ phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do không tiêu hủy hoặc chậm tiêu hủy cổ phiếu gây ra đối với công ty” (khoản 3 điều 92 Luật doanh nghiệp 2005).

2. Quyền và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Quyền hạn của GĐ/TGĐ xuất phát từ sự ủy quyền của hội đồng quản trị, cho nên bản chất pháp lý của quyền hạn GĐ/TGĐ là quyền đại diện. Tuy nhiên, không nên đồng nhất sự ủy quyền này với quyền đại diện theo pháp luật của công ty.

LDN 2005 quy định trong trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì GĐ/TGĐ là người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 1 điều 116). Quy định này cho thấy luật pháp Việt Nam có xu hướng thiên về cho tổng giám đốc làm người đại diện theo pháp luật cho công ty. Quan niệm như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổng giám đốc thực hiện quyền điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày và xử lý các vấn đề đối ngoại kịp thời. Tuy nhiên, nếu tổng giám đốc vừa là người đại diện theo pháp luật của công ty vừa là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty sẽ dẫn đến thực trạng là tổng giám đốc có địa vị pháp lý cao hơn so với hội đồng quản trị. Điều này có phần mâu thuẫn với chính quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 116 là “HĐQT bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm GĐ/TGĐ” và “GĐ/TGĐ chịu sự giám sát của hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao”. Nếu tổng giám đốc đã là chức danh do hội đồng quản trị bổ nhiệm thì quyền hạn và nhiệm vụ của tổng giám đốc cần phải do Điều lệ công ty và hội đồng quản trị xác định chứ không nên do pháp luật quy định một cách trực tiếp. GĐ/TGĐ không phải là một cơ quan của công ty, mối quan hệ giữa họ với công ty là mối quan hệ ủy thác đại diện. Việc GĐ/TGĐ  thực hiện các công việc giữa công ty với bên ngoài là căn cứ vào quyền đại diện của họ. Mọi quyền hạn của GĐ/TGĐ là xuất phát từ quyền hạn của hội đồng quản trị, là phụ thuộc vào hội đồng quản trị chứ không phải độc lập với hội đồng quản trị.

Khoản 3 điều 116 Luật doanh nghiệp 2005 quy định quyền hạn và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ bao gồm: (i) Quyền kiến nghị: kiến nghị lên hội đồng quản trị về phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh và phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty; (ii) Quyền quyết định: quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của hội đồng quản trị, tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị, kế hoạch kinh doanh, phương án đầu tư của công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của hội đồng quản trị, quyết định mức lương và phụ cấp (nếu có) đối với người lao động trong công ty, kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của GĐ/TGĐ, tuyển dụng lao động.

Không thể phủ nhận rằng các quyền nêu trên đáng lẽ thuộc về thẩm quyền của hội đồng quản trị vì hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông (khoản 1 điều 108). Tuy nhiên, việc Luật doanh nghiệp VN 2005 phân định các quyền nêu trên đó cho GĐ/TGĐ sẽ không tránh khỏi tình trạng GĐ/TGĐ lấn chiếm thẩm quyền của hội đồng quản trị xảy ra trong thực tế. Ngoài ra, theo quy định ở khoản 1 điều 116 như đã phân tích ở trên có thể thấy rằng Luật doanh nghiệp VN có xu hướng coi trọng GĐ/TGĐ, có thể chính là một phần nguyên nhân của tình trạng tranh chấp quyền lực thường xuyên xảy ra giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc hiện nay. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

3. Sự phân nhiệm giữa tổng giám đốc và Chủ tịch hội đồng quản trị

Quyền hạn chủ yếu trong nội bộ công ty là quyền quyết định xuất tiền, ký văn bản và đối xử với nhân viên. Điều lệ công ty cho phép hội đồng quản trị mà đại diện là chủ tịch hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông hay tổng giám đốc xuất tiền theo từng mức độ; và phải chính những người này ký quyết định thì công ty mới xuất tiền. Quy định này tạo nên quyền hành giữa tổng giám đốc và Chủ tịch hội đồng quản trị. tổng giám đốc hành động với tư cách cá nhân, Chủ tịch hội đồng quản trị hành động với tư cách tập thể, đại diện cho hội đồng quản trị. Chủ tịch có quyền quyết định chi một số tiền lớn hơn tổng giám đốc, nên có quyền cao hơn tổng giám đốc; nhưng quyền nhiều hơn ở đây chỉ là quyền được quyết định chi tiền nhiều hơn chứ không phải là quyền ràng buộc công ty với bên ngoài – quyền ràng buộc công ty với bên ngoài phụ thuộc vào người đại diện theo pháp luật của công ty. Để biết Chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc trong một công ty ai có quyền cao hơn ai thì ta phải phân biệt tư cách của mình đối với họ, và sự việc nằm trong nội bộ hay ngoại vi của công ty. Nếu mình là người nằm trong nội bộ công ty thì Chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc là hai người có quyền và nghĩa vụ khác nhau, lúc này để biết ai có quyền cao hơn thì xem quyền của mỗi người trong Điều lệ công ty, hay các quy định về quản lý và điều hành của công ty. Mặt khác, nếu mình là người ngoài công ty, về mặt pháp lý, Chủ tịch hội đồng quản trị hay tổng giám đốc đều như nhau, ai là đại diện theo pháp luật của công ty thì cao hơn hiểu theo ý nghĩa của sự ràng buộc trách nhiệm.

Ở Việt Nam, quyền hành và trách nhiệm của tổng giám đốc và Chủ tịch, sự ràng buộc với công ty do việc làm của họ chưa được hiểu đúng và chưa được thực hiện theo tập tục của định chế công ty; vẫn còn có sự lầm lẫn giữa quyền hành bên trong công ty và giữa công ty với người bên ngoài công ty. Có những văn bản gửi cho các cơ quan công quyền do chủ tịch hội đồng quản trị ký, bất kể người ấy có là đại diện pháp lý của công ty hay không, hay chữ ký của họ có ràng buộc công ty hay không. Làm đúng bài bản, để tránh tranh chấp, một Chủ tịch không làm đại diện pháp lý thì không được ký tên trên những văn kiện của công ty gửi ra ngoài; trừ khi họ có một quyết nghị riêng của hội đồng quản trị cho phép làm để sau này không phát sinh tranh chấp[21].

V. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Ban Kiểm Soát Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

1. Địa vị pháp lý của Ban Kiểm soát

LDN 2005 quy định Ban Kiểm soát là cơ quan giám sát, do đại hội đồng cổ đông bầu ra để giám sát và kiểm soát nội bộ, trực tiếp giám sát hội đồng quản trị và BGĐ trong việc quản lý, điều hành công ty. Ban Kiểm soát có vai trò và địa vị ngang bằng với hội đồng quản trị, cùng chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông trong việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình.

2. Cơ chế bổ nhiệm thành viên Ban Kiểm soát

Điểm c khoản 2 điều 96 Luật doanh nghiệp 2005 quy định thành viên Ban Kiểm soát do đại hội đồng cổ đông bổ, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Ngoài ra, quy định tại điểm c khoản 3 điều 104 Luật doanh nghiệp 2005 còn cho phép những cổ đông nhỏ nắm giữ ít hơn 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ có thể tập hợp phiếu bầu vào với nhau để đề cử các ứng cử viên vào Ban Kiểm soát. Quy định như vậy nhằm bảo vệ lợi ích của cổ đông thiểu số và có ý nghĩa tiến bộ. Tuy nhiên theo số liệu Điều tra thực tế về quản trị công ty cổ phần do TS. Nguyễn Đình Cung thực hiện cho thấy số thành viên Ban Kiểm soát thường do chính các thành viên hội đồng quản trị chỉ định. Như trên đã nói, thành viên hội đồng quản trị thường cũng chính là các cổ đông lớn; họ tự bầu cho mình làm thành viên hội đồng quản trị và đồng thời có ảnh hưởng quyết định đến việc lựa chọn và bầu thành viên Ban Kiểm soát. Kiểu quản lý theo thuận tiện nói trên có lẽ cũng ảnh hưởng lớn đến cách lựa chọn và bổ nhiệm thành viên Ban Kiểm soát.

Số lượng thành viên Ban Kiểm soát: Khoản 1 điều 121 Luật doanh nghiệp quy định, Ban Kiểm soát có từ ba đến năm thành viên.Trên thực tế, 95% số công ty cổ phần được điều tra có Ban Kiểm soát gồm 3 thành viên; số còn lại có từ một đến năm người. Cũng tương tự như hội đồng quản trị, khoảng 72% thành viên Ban Kiểm soát là người trực tiếp làm việc tại công ty, và số còn lại có thể là cổ đông, đại diện của cổ đông, không phải là người lao động trong công ty. Xét cho cùng, các thành viên thường làm việc theo chế độ “kiêm nhiệm”; và thường có trình độ chuyên môn thấp hơn so với hội đồng quản trị. Cụ thể là, hơn 35% số thành viên có trình độ đại học hoặc tương đương về kế toán, tài chính, kinh tế và pháp lý; khoảng 32% là kỹ sư chuyên ngành; khoảng 33% có trình độ trung cấp, cao đẳng hoặc tương đương[22].

Theo Điều tra thực tế của Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, thành viên Ban Kiểm soát đều là người lao động trong công ty nên chỉ đóng vai trò là kiểm soát viên kiêm nhiệm, và nhiệm vụ chính của họ có lẽ không phải là thực hiện giám sát quản lý nội bộ công ty mà là thực hiện các công việc với vai trò là người lao động trong công ty. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Như vậy, các thành viên Ban Kiểm soát không độc lập, họ chỉ là những người cấp dưới và hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên hội đồng quản trị và tổng giám đốc. Họ cũng không phải là người chuyên trách, có chuyên môn cao và giàu kinh nghiệm nghề nghiệp, không chuyên trách kiểm soát nội bộ công ty. Có thể nói, trong nội bộ công ty, các thành viên Ban Kiểm soát có vị thế, trình độ chuyên môn và có thể cả uy tín thấp hơn so với các thành viên hội đồng quản trị và tổng giám đốc.

Về nhiệm kỳ của Ban Kiểm soát: Khoản 1 điều 121 Luật doanh nghiệp 2005 quy định nhiệm kỳ của Ban Kiểm soát không quá năm năm; thành viên Ban Kiểm soát có thể được bầu lại với nhiệm kỳ không hạn chế. Quy định này tạo điều kiện cho các giám sự tìm hiểu, theo dõi và giám sát chi tiết hoạt động quản lý kinh doanh của hội đồng quản trị một cách thiết thực và lâu dài hơn.

Về trưởng ban kiểm soát: Khoản 2 điều 121 Luật doanh nghiệp 2005 quy định các thành viên Ban Kiểm soát bầu một người trong số họ làm Trưởng Ban Kiểm soát. Quyền và nhiệm vụ của Trưởng Ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Tuy nhiên, căn cứ theo quyết định số 15/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 19/03/2007 về việc ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết thì Trưởng Ban Kiểm soát có các quyền và trách nhiệm sau: (i) Triệu tập cuộc họp Ban Kiểm soát và hoạt động với tư cách là Trưởng Ban Kiểm soát; (ii) Yêu cầu Công ty cung cấp các thông tin liên quan để báo cáo các thành viên của Ban Kiểm soát; (iii) Lập và ký báo cáo của Ban Kiểm soát sau khi đã tham khảo ý kiến của hội đồng quản trị để trình lên đại hội đồng cổ đông.

Quy định như trên đặt ra một số vấn đề: (i) Thứ nhất, quy chế biểu quyết là quyết định theo đa số hay không, Trưởng Ban Kiểm soát có quyền bỏ phiếu thêm một lần để quyết định cuối cùng hay không là chưa rõ ràng; (ii) Thứ hai, nếu như thông qua trưởng Ban Kiểm soát yêu cầu công ty cung cấp các thông tin liên quan để sau đó báo cáo cho các kiểm soát viên biết thì chức năng giám sát của các kiểm soát viên sẽ bị hạn chế lớn. Bởi lẽ nó đồng nghĩa với việc mọi hoạt động của các kiểm soát viên sẽ phải trình trưởng ban kiểm soát phê chuẩn mới được thực hiện. Nhưng đáng lẽ mỗi kiểm soát viên có quyền hoạt động trong phạm vi quyền hạn giám sát của mình mà ko bị hạn chế bởi một người khác nào, tức là, các kiểm soát viên đều có quyền hoạt động độc lập trong quyền hạn giám sát của mình chứ ko cần phải hỏi ý kiến của bất kỳ một kiểm soát viên khác nào; (iii) Thứ ba, tại sao trưởng ban kiểm soát lập và ký báo cáo trước hết phải tham khảo ý kiến của hội đồng quản trị? Nếu ý kiến của Ban Kiểm soát trái với hội đồng quản trị thì sẽ giải quyết như thế nào? Điều này sẽ khiến cho người ta hiểu rằng công việc của Ban Kiểm soát phải phụ thuộc vào hội đồng quản trị.

3. Quyền và nhiệm vụ của Ban Kiểm soát Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Điều 123 Luật doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể quyền và nhiệm vụ của Ban Kiểm soát. Theo đó, ngoài quyền và nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, xem xét các công việc quản lý, điều hành; các báo cáo,  Ban Kiểm soát có nhiệm vụ phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến hội đồng quản trị, đồng thời việc Ban Kiểm soát tiến hành kiểm tra không được cản trở hoạt động bình thường của hội đồng quản trị, không gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty; khi phát hiện có thành viên hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty phải thông báo ngay bằng văn bản với hội đồng quản trị; có thể tham khảo ý kiến của hội đồng quản trị trước khi trình bày báo cáo, kết luận và kiến nghị lên đại hội đồng cổ đông.

Như vậy, xem xét các quy định trên có thể thấy, ở Việt Nam, Ban Kiểm soát không có quyền lực thực chất, mà chỉ có nghĩa vụ “báo cáo giải trình” và “tham khảo ý kiến” của hội đồng quản trị. Thêm vào đó, nếu một kiểm soát viên thực hiện nhiệm vụ thật nghiêm, rất có thể họ sẽ bị quy trách nhiệm do “cản trở hoạt động bình thường” hoặc “gây gián đoạn” điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Cách quy định như trên có khuynh hướng làm cho Ban Kiểm soát giữ vị trí trợ giúp thậm chí có vẻ phụ thuộc vào hội đồng quản trị. Ban Kiểm soát không có quyền lực thiết thực để kiềm chế hội đồng quản trị và bắt buộc họ phải hoạt động hợp pháp và hợp lý. Với quan niệm lập pháp như vậy, Luật doanh nghiệp 2005 cũng khó có thể quy định trách nhiệm của các thành viên Ban Kiểm soát khi họ không làm tròn nhiệm vụ của mình.

Theo Điều tra thực tế do TS Nguyễn Đình Cung thực hiện, Ban Kiểm soát làm việc chủ yếu theo sáng kiến của các thành viên, theo các nghĩa vụ thường xuyên của họ, rất ít trường hợp Ban Kiểm soát kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý theo yêu cầu của các cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số. Thông tin mà Ban Kiểm soát nhận được chủ yếu bao gồm: (i) các báo cáo tài chính thường kỳ hàng năm; (ii) báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm; (iii) biên bản họp và quyết định của đại hội đồng cổ đông; (iv) biên bản họp và quyết định của hội đồng quản trị; và (v) quyết định của GĐ. Như vậy, thành viên Ban Kiểm soát nhận được các thông tin tương tự như các cổ đông bình thường.

Với các đặc điểm nói trên, Ban Kiểm soát trên thực tế khó có thể hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ như luật định và trở nên hình thức, chỉ đóng vai trò là “người giám sát bị kiểm duyệt” chứ chưa phải là một thể chế giám sát nội bộ, độc lập, chuyên môn và chuyên nghiệp để cân bằng lại quyền lực của hội đồng quản trị và BGĐ, phục vụ cho lợi ích tối đa của công ty và cổ đông của công ty. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

VI. Một số thực trạng khác trong quản lý công ty cổ phần hiện nay

1. Nhìn lại chế độ quản lý nội bộ của doanh nghiệp nhà nước và ảnh hưởng của nó tới thực trạng quản lý các công ty cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước.

Việt Nam đã trải qua một thời gian tương đối dài dưới chế độ tập trung kinh tế. . Trong thời kỳ đó, các doanh nghiệp nhà nước chiếm đại đa số tổng số các doanh nghiệp tại Việt Nam. Cho nên, cải cách kinh tế ở Việt Nam, phần lớn đồng nghĩa với cải cách các doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề khó khăn ở chỗ, xét về thực chất, các doanh nghiệp nhà nước không có chủ sở hữu thực sự mà bị khống chế bởi các cơ quan chủ quản hành chính. Các cơ quan chủ quản này nắm bắt quyền lực khống chế việc bổ miễn nhân sự, sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp và cố gắng tăng cường phúc lợi của chính mình. Giám đốc của các doanh nghiệp nhà nước giữ địa vị là cán bộ hành chính và hưởng cấp bậc hành chính, tức là, họ cũng là thành viên của chính quyền – bộ máy quan liêu lớn nhất. Dưới cơ chế quản lý nội bộ như vậy, địa vị và vai trò của giám đốc không phải do công nhân viên chức của doanh nghiệp quyết định hoặc do bàn tay vô hình là cơ chế thị trường kinh tế quyết định, mà hoàn toàn do cơ quan chủ quản quyết định. Giám đốc không có trách nhiệm tài sản đối với hậu quả quản lý điều hành, họ bắt buộc phải nghe lời cấp trên, thiết lập quan hệ với lãnh đạo cấp trên để giữ gìn và củng cố địa vị của mình. Trong các doanh nghiệp nhà nước, nói chung, cơ cấu quản lý nội bộ thiếu tính dân chủ, những người lãnh đạo chuyên quyền, độc đoán, tham nhũng, làm cho doanh nghiệp thiết sức sống và sức cạnh tranh. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý các công ty cổ phần cổ phần hóa từ các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.

Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp, dưới 50% ở 37% số doanh nghiệp và không giữ tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp. Trong đó, số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%) Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” nhà nước.

Về cơ cấu cổ đông: Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần, cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần. Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)[23].

Nhằm không làm dao động địa vị chủ đạo của sở hữu công cộng, khi cổ phần hóa nhà nước vẫn nắm giữ số cổ phần chi phối  khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (thường là các doanh nghiệp làm ăn giỏi). Thực trạng nêu trên đã quyết định cơ chế quản lý của các công ty cổ phần là “bình mới, rượu cũ”, dẫn đến việc nhiều công ty niêm yết được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước lại bị khống chế bởi chính quyền các cấp, quan chức hội tụ với tư bản, móc nối với nhau, tham nhũng hoành hành mà không sợ bị bắt và bị phạt hình sự. Còn không kể đến nhiều vụ việc là những người đó tùy ý xâm hại lợi ích của các cổ đông thiểu số.

2. Thực trạng kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

Các giao dịch của công ty với các bên có liên quan được xét ở đây gồm 2 nhóm giao dịch: (i) nhóm giao dịch của người quản lý có khả năng xung đột với lợi ích của cổ đông công ty, và (ii) nhóm giao dịch giữa công ty với những người liên quan của cổ đông chi phối có nguy cơ làm hại đến lợi ích của cổ đông thiểu số. Đây là vấn đề ủy quyền giữa cổ đông và người quản lý, cũng như giữa các cổ đông với nhau. Các giao dịch của công ty với các bên có liên quan được quy định trong Điều 120 Luật doanh nghiệp, thí dụ như: Giao dịch với cổ đông có hơn 35% cổ phần, nhất là với công ty mẹ; Giao dịch với những người quản lý công ty mẹ, những người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ; Giao dịch với những người quản lý công ty, vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý công ty,…

Các loại giao dịch nêu trên cho thấy Luật doanh nghiệp nước ta ngay từ đầu đã không cấm các giao dịch giữa công ty với các bên có liên quan . Điều đó xuất phát từ những lý do rất thực dụng. Đó là thành viên hội đồng quản trị, những người quản lý cao cấp và các cổ đông lớn thường là những bạn hàng mà các công ty nhỏ phải giao dịch. Những khách hàng bên ngoài thường không đánh giá được triển vọng của họ hoặc các công ty này buộc phải cung cấp các bí mật kinh doanh hoặc kế hoạch bí mật để đổi lấy niềm tin của bạn hàng. Thông thường, các giao dịch loại này có thể sinh lợi cao hơn cho công ty so với các giao dịch với những bạn hàng có ít thông tin từ bên ngoài.

LDN đã quy định khá chi tiết và cụ thể các bên có liên quan của công ty và cả chế độ, cách thức kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan. Tuy vậy, trên thực tế, việc kiểm soát các giao dịch loại trên ở nước ta còn hết sức yếu kém, thậm chí có thể nói chưa hiện diện trong quy chế chỉ đạo các công ty ở nước ta. Trước hết, các cổ đông, các thành viên hội đồng quản trị, các cơ quan thực thi pháp luật và xã hội nói chung chưa thực sự ý thức được sự tồn tại và tác hại đối với lợi ích của công ty, của cổ đông và những người khác, nếu giao dịch của công ty với các bên có liên quan bị lạm dụng. Trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, các công ty chưa xác định cụ thể các đối tượng thuộc diện các bên có liên quan của công ty; chưa có cơ chế và cách thức thu thập, tập hợp, lưu trữ và quản lý “hồ sơ” về các bên có liên quan; chưa xác định danh tính cụ thể của từng bên có liên quan của công ty; v.v. Vì vậy, chưa xác định được cụ thể các giao dịch cần kiểm soát với các bên có liên quan. Như vậy, có thể nói, yêu cầu công khai hóa và kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan hầu như chưa thực hiện được. Đây thực sự đang là một lỗ hổng lớn trong khung chỉ đạo công ty hiện nay ở nước ta. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

3. Thực trạng điều chỉnh các quy định pháp luật về thỏa thuận giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty

Về cơ bản, quan hệ giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty được điều chỉnh bởi các văn kiện hay tài liệu công ty như Điều lệ, hợp đồng liên doanh, v.v. Tuy nhiên, trong trường hợp một công ty có số cổ đông tương đối nhỏ thì ngoài các văn kiện công ty kể trên, các cổ đông của công ty có thể tự xây dựng cho mình những thỏa thuận riêng với nhau và tồn tại song song với các văn kiện công ty. Các thỏa thuận này được gọi là thỏa thuận cổ đông, chúng có thể bổ sung vào các điều khoản của văn kiện công ty hoặc thậm chí quy định khác đi (trái với) văn kiện công ty và khác (trái) với các quy định của pháp luật doanh nghiệp. Chẳng hạn một thỏa thuận cổ đông có thể như sau: Vì giá cổ phiếu của doanh nghiệp liên tục đi xuống, các thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) của một công ty niêm yết (Công ty A) thỏa thuận với nhau rằng, để hạn chế tình trạng xả hàng khiến giá cổ phiếu càng xuống thấp, họ sẽ cùng nhau không bán số cổ phiếu mà mình nắm giữ trong thời hạn, ví dụ, 06 tháng. Thỏa thuận cổ đông nêu tại tình huống này có thể vi phạm các quy định tại điểm d khoản 1 Điều 77 và khoản 5 Điều 77 của Luật doanh nghiệp năm 2005.

Rõ ràng, pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam chưa sẵn sàng cho những tình huống thế này. Không có điều luật nào của Luật doanh nghiệp và các văn bản dưới luật điều chỉnh vấn đề khi có sự khác biệt giữa thỏa thuận cổ đông và điều lệ/LDN thì cái nào sẽ chi phối. Trên thực tế, cũng chưa thấy có phán quyết nào của tòa án đối với các vụ việc loại này. Vì vậy, câu trả lời cho câu hỏi về tính hợp pháp và có thể thi hành của thỏa thuận cổ đông tại Việt Nam là chưa có. Nói cách khác, nếu một trong các loại tranh chấp nêu trên được đem ra phân xử trước tòa án, không ai có thể biết phán quyết của tòa sẽ bảo vệ thỏa thuận cổ đông hay điều lệ /quy định của Luật doanh nghiệp VN. Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993