Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

I. Nhận xét chung về thực trạng quản lý công ty cổ phần tại Việt Nam hiện nay

1. Những thành công

Xét về khía cạnh quản lý doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp năm 2005 đã xác định nền tảng cho cơ chế quản lý công ty nhìn chung là thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế. So với Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định đầy đủ hơn, toàn diện hơn, có nhiều quy định tương đối rõ, phù hợp, góp phần tạo lập khung pháp lý để hình thành một cơ chế quản lý có hiệu quả cho các doanh nghiệp, nhất là công ty cổ phần. Cụ thể, trong Luật có các quy định bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền hạn chính đáng của các cổ đông; công khai thông tin và minh bạch hóa cơ chế quản lý công ty; các quyền của hội đồng quản trị và cơ chế giám sát hội đồng quản trị của chủ sở hữu trong cơ chế quản lý công ty. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động quản lý doanh nghiệp hiện nay, đồng thời quy định cụ thể về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên liên quan như cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc điều hành trong đó đã chú ý bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số hơn.

Đi đôi với quyền lợi thì Luật doanh nghiệp cũng xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần, nhất là đối với thành viên hội đồng quản trị và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng; thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; yêu cầu công khai và minh bạch hóa, nhất là đối với những người quản lý.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Những khó khăn

Tuy Luật doanh nghiệp 2005 đã có những bước tiến quan trọng trong việc quản lý công ty cổ phần nhưng do thiếu kiến thức về quản lý doanh nghiệp cũng như thực tế triển khai việc quản lý doanh nghiệp vẫn còn rất mới mẻ nên nhiều quy định của Luật doanh nghiệp 2005 như quy định về phương thức bầu dồn phiếu, quy định về trình tự và thủ tục họp đại hội đồng cổ đông,… vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Phân tích thực trạng trong Chương II cho thấy trong thời gian qua đã xảy ra không ít vụ vi phạm các quyền cơ bản của cổ đông đặc biệt là cổ đông thiểu số. Một số công ty không niêm yết, vì một số lý do thực tiễn, có xu hướng hạn chế việc các cổ đông nắm giữ một lượng nhỏ cổ phiếu tham gia vào đại hội đồng cổ đông thường niên, Việc phần lớn cổ đông không tiếp cận được với thông tin của công ty hoặc không tiếp cận được thông tin đầy đủ, chính xác và trung thực là hiện tượng phổ biến. Cổ đông thiểu số hầu như không nhận được thông báo về các quyết định của đại hội đồng cổ đông, không nhận được tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm, không nhận được cả thông báo về việc trả cổ tức, v.v. Bên cạnh các quyền cơ bản của cổ đông đang bị vi phạm, thì còn hiện tượng lạm dụng quyền cổ đông của các cổ đông lớn đặc biệt là cổ đông nhà nước. Một số cán bộ, cơ quan nhà nước có liên quan không phân biệt rạch ròi quyền cổ đông và quyền quản lý hành chính, đã can thiệp trực tiếp vào các công việc quản trị nội bộ của công ty như không cho phép triệu tập đại hội đồng cổ đông, hoặc chỉ đạo triệu tập đại hội đồng cổ đông vi phạm trình tự, thủ tục họp đại hội đồng cổ đông, chỉ định bổ nhiệm, thay thế thành viên hội đồng quản trị.

Thêm vào đó, hội đồng quản trị trong các công ty ở nước ta còn thiếu tầm nhìn chiến lược, chưa phải là thể chế giám sát và cân bằng quyền lực giữa các bên trong công ty, nhất là giữa chủ sở hữu và người điều hành. Trình độ năng lực của thành viên hội đồng quản trị còn hạn chế, đa số họ chưa phải là những người quản lý chuyên nghiệp (vừa là chủ sở hữu vừa là người quản lý), vẫn quen và thiên về cách làm việc trong chế độ quản lý “thuận tiện”. Ngoài ra, Ban Kiểm soát trong các công ty cổ phần ở nước ta còn mang tính hình thức chứ chưa phải là một thể chế giám sát nội bộ, độc lập, chuyên môn và chuyên nghiệp để cân bằng lại quyền lực của hội đồng quản trị và BGĐ, phục vụ cho lợi ích tối đa của công ty và cổ đông của công ty.

II. Những yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý công ty cổ phần Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Hệ thống luật pháp Việt Nam đang phát triển theo hướng hoàn thiện thể chế thị trường, phù hợp với các cam kết và luật pháp, thông lệ quốc tế. Hệ thống này chỉ phát huy hiệu lực và hiệu quả khi thói quen hành xử của bộ máy nhà nước và doanh nghiệp dựa vào quan hệ phải được thay thế bằng thói quen hành xử và tuân thủ theo pháp luật. Về phương diện lý luận, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty phải được xác định là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi và giải pháp thích hợp. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần cần được thực hiện theo những định hướng sau:

  • Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần phải căn cứ vào những đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam, qua đó góp phần tạo ra một sân chơi chung bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế.
  • Các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần phải phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh doanh của người Việt Nam.
  • Các quy định về quản lý công ty công ty cổ phần phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý công ty, tăng cường tính cạnh tranh của công ty, nâng cao khả năng thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
  • Việc hoàn thiện các quy định về quản lý công ty cổ phần cần được đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế.

III. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam

1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về cổ đông

1.1. Về quyền thành lập công ty cổ phần một cổ đông Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Cần thiết phải xem xét lại quy định số lượng cổ đông tối thiểu để thành lập và duy trì hoạt động của công ty cổ phần. Để tránh tình trạng lách luật cũng như để quy định của pháp luật phù hợp với nhu cầu thực tế của nhiều nhà đầu tư, Luật doanh nghiệp nên có quy định cho phép thành lập công ty cổ phần một cổ đông bởi vì công ty cổ phần một cổ đông không có sự khác biệt với công ty cổ phần nhiều cổ đông về bản chất, mà chỉ có sự khác biệt về trình tự, thủ tục thành lập. Sự hình thành và hoạt động của loại hình công ty này không ảnh hưởng đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và lợi ích của bất kỳ người thứ ba nào khác. Điều này đã được kiểm chứng ở một số nước thừa nhận mô hình công ty một cổ đông kể cả công ty cổ phần như ở Anh và ở Đức.

Bên cạnh đó, mô hình công ty cổ phần một cổ đông có thể góp phần quan trọng thực hiện chính sách cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước. Cụ thể, khi tiến hành cổ phần hoá, cơ quan thẩm quyền ra quyết định cổ phần hoá, doanh nghiệp chốt thời điểm và tiến hành định giá bình thường, hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ảnh hưởng. Vấn đề quan trọng nhất của việc cổ phần hoá là bán cổ phần sẽ được tiến hành một cách chủ động hơn, linh hoạt hơn, và hiệu quả hơn sau khi công ty đã là công ty cổ phần. Số lượng cổ phần chào bán có thể được điều chỉnh theo thị trường, không nhất thiết phải đấu giá tất cả trong một đợt. Kinh nghiệm cho thấy, Bộ luật Thương mại của Cộng hoà Séc đã có tác dụng rất lớn trong việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần do việc tiếp nhận hình thức công ty cổ phần một cổ đông.

Thêm vào đó, chấp nhận hình thức công ty cổ phần một cổ đông sẽ giúp cho Luật doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng tạo lập ra hình thức công ty đa dạng và phong phú cho các nhà đầu tư lựa chọn và phù hợp các nhu cầu thực tế của xã hội. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế ở Việt Nam đã có sự đóng góp rất lớn từ chính sách mở rộng các hình thức công ty thể hiện qua Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Và tiếp nhận hình thức công ty cổ phần một cổ đông không chỉ là một hệ quả tất yếu của việc thực hiện nguyên tắc tự do ý chí và quyền tự do kinh doanh, mà còn tạo điều kiện dễ dàng cho nhà đầu tư trong việc chuyển đổi hình thức công ty do sức ép của thị trường, do năng lực kinh doanh, cũng như do các rủi ro của đời sống, đồng thời hợp tác, liên kết với những người khác.

1.2. Về quyền dự họp đại hội đồng cổ đông

Quyền dự họp đại hội đồng cổ đông là một trong những quyền quan trọng nhất của cổ đông, là phương thức chủ yếu để thể hiện tư cách cổ đông. Thêm vào đó, cuộc họp đại hội đồng cổ đông là nơi quan trọng nhất để tất cả các cổ đông thể hiện mong muốn của mình. Chính vì vậy, các quy định của Luật doanh nghiệp cần tạo mọi khả năng mở cửa cho tất cả các cổ đông, không nên có quy định hạn chế quyền dự họp đại hội đồng cổ đông như quy định những cổ đông không có quyền biểu quyết (gồm cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại) không có quyền dự họp đại hội đồng cổ đông tại khoản 3 điều 82 và điều 83 Luật doanh nghiệp 2005. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Để đảm bảo các cổ đông thực sự thực hiện quyền dự họp đại hội đồng cổ đông một cách hữu hiệu, bên cạnh việc quy định rõ ràng và kỹ lưỡng trình tự và thủ tục triệu tập và dự họp đại hội đồng cổ đông, Luật doanh nghiệp cần chú ý tới thời hạn gửi giấy mời họp đại hội đồng cổ đông. Khoản 1 điều 100, Luật doanh nghiệp 2005 quy định “Người triệu tập họp đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 7 ngày làm việc trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn”. Cần xem xét lại thời hạn 7 ngày có đầy đủ hay không? Thời gian này cần đủ để các cổ đông có thể xem xét chương trình họp, nghiên cứu những vấn đề sẽ đưa ra thảo luận và biểu quyết tại cuộc họp, suy nghĩ và chuẩn bị đề án đưa vào chương trình họp.

1.3. Về quyền ưu đãi  biểu quyết

Việc quy định chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết tại khoản 3, điều 78, Luật doanh nghiệp 2005 như ở Chương II đã phân tích là có thể tạo nên sự bất bình đẳng giữa các cổ đông (đặc biệt là sự bất bình đẳng giữa cổ đông nhà nước và các cổ đông khác trong công ty), tạo cơ hội cho cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp vào sự tự chủ kinh doanh của công ty, trái với mục đích cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Hậu quả của quy định như trên là những trở ngại lớn trong việc xây dựng một cơ cấu quản lý công ty lành mạnh và hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải xem xét lại quy định này trong Luật doanh nghiệp 2005 để xây dựng một quy định mới tạo sự bình đẳng hơn giữa các cổ đông, góp phần xây dựng một cơ cấu quản lý công ty cổ phần lành mạnh và hiệu quả hơn.

1.4. Về quyền tiếp cận thông tin Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Như đã phân tích ở Chương II, đối với một số loại thông tin, Luật doanh nghiệp VN 2005 có sự hạn chế cả về tỷ lệ số cổ phần tối thiểu và thời hạn nắm giữ cổ phần của cổ đông có quyền được thông tin (cổ đông phải nắm >10% tổng số cổ phần phổ thông hoặc 1 tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty, thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng – tức là các cổ đông lớn). Đối tượng của quyền tìm đọc và được thông tin của các cổ đông lớn trên nằm trong phạm vi “xem xét và trích lục số biên bản và các nghị quyết của hội đồng quản trị, Báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban Kiểm soát”. Như vậy, những cổ đông nhỏ nắm giữ ≤10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty không được quyền tiếp cận những thông tin trên mà chỉ được tiếp cận thông tin trong phạm vi danh sách cổ đông có quyền biểu quyết; Điều lệ công ty, sổ biên bản họp đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của đại hội đồng cổ đông. Rõ ràng quyền tiếp cận thông tin của tất cả các cổ đông theo Luật doanh nghiệp 2005 còn rất hạn chế, Luật doanh nghiệp nên có quy định mở rộng hơn nữa các đối tượng thông tin mà tất cả các cổ đông được quyền tiếp cận để đảm bảo sự minh bạch và công khai thông tin, tạo điều kiện cho tất cả các nhà đầu tư có thể đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, ngoài các đối tượng thông tin theo Luật doanh nghiệp 2005 quy định như trên nên mở rộng thêm quyền tiếp cận Báo cáo tài chính, quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty cho các cổ đông đặc biệt là các cổ đông nhỏ để họ có thể đánh giá được hoạt động của doanh nghiệp một cách hữu hiệu và kịp thời hơn.

1.5. Về quyền khởi kiện của cổ đông

Theo phân tích thực trạng ở Chương II, Luật doanh nghiệp VN 2005 không có quy định về quyền của cổ đông trực tiếp khởi kiện hội đồng quản trị, quyền của cổ đông yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc tòa án hủy bỏ quyết định của hội đồng quản trị trong trường hợp khẩn cấp để bảo vệ lợi ích của công ty, của cổ đông và của các bên có liên quan khác, cũng không quy định quyền của cổ đông yêu cầu toàn án xem xét miễn nhiệm thành viên hội đồng quản trị hoặc Ban Kiểm soát trong trường hợp cần thiết. Vì vậy, cần thiết phải xem xét bổ sung quyền khởi kiện của cổ đông vào Luật doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông đặc biệt là các cổ đông nhỏ, tránh sự lạm dụng của các các cổ đông nắm quyền kiểm soát một cách trực tiếp.

Ngoài ra, cần phải chỉnh sửa và bổ sung cụ thể hơn quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định của đại hội đồng cổ đông của cổ đông trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được biên bản họp đại hội đồng cổ đông như quy định tại điều 107 Luật doanh nghiệp 2005 để đảm bảo khả năng thực thi của pháp luật. Ngoài ra, cần phải lưu ý xem xét một vấn đề đáng quan tâm là: nếu đại hội đồng cổ đông đã thông qua một nghị quyết vi phạm pháp luật nghiêm trọng và đã trải qua 90 ngày theo quy định tại điều 107 Luật doanh nghiệp 2005 mà chưa có người khởi kiện để yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết này thì nên chăng nghị quyết đó có hiệu lực pháp luật hay không? Nếu theo quy định trên thì nghị quyết đó vẫn có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên về nguyên tắc, một quyết định mà nội dung của nó trái với pháp luật không thể nào có hiệu lực pháp luật, cho dù đã được thông qua trước một thời gian khá lâu. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

1.6. Về cơ cấu cổ đông trong công ty cổ phần

Cần thiết phải xem xét lại quy định về cơ cấu cổ đông trong một công ty cổ phần. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, cơ cấu cổ đông của công ty cổ phần có sự tham gia của cô đông nhà nước. Cổ đông nhà nước có thể sở hữu đa số cổ phần để giữ vai trò cổ đông chi phối trong công ty cổ phần. Tuy nhiên, như phân tích thực trạng ở Chương II, trong các công ty cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước, cổ đông nhà nước (thường là các đại diện của họ) hay lạm dụng quyền lực cũng như thực hiện quyền của công ty theo tư duy và phương thức cũ, trái với quy định của pháp luật về quyền của cổ đông. Cho nên, vấn đề đặt ra là liệu nhà nước có cần phải nắm giữ cổ phần chi phối trong một công ty cổ phần hay không? Thực trạng trên cho thấy việc quy định cơ quan nhà nước phải rút ra khỏi thị trường và hạn chế phạm vi hoạt động của các cơ quan nhà nước (như chỉ quản lý công cộng và cung cấp dịch vụ công cộng) là một điều kiện tiên quyết trong công cuộc lành mạnh hóa quản lý công ty cổ phần. Chính quyền nhà nước cần phải rút lui khỏi việc trực tiếp tham gia quản lý nội bộ của các công ty cổ phần. Tuy nhiên, ở Việt Nam mục tiêu này không dễ đạt được trong thời gian ngắn.

1.7. Về việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số

Việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số là một bài toán hết sức quan trọng trong việc quản lý công ty cổ phần. Như đã phân tích ở Chương II, so với Luật doanh nghiệp 1999, mặc dù Luật doanh nghiệp 2005 đã bảo vệ mạnh hơn quyền và lợi ích của các cổ đông thiểu số nhưng vẫn còn một số khiếm khuyết vì Luật chưa có những quy định cụ thể để bảo vệ cổ đông thiểu số, dẫn đến thực trạng quyền và lợi ích của họ không thực sự được bảo vệ trong thực tế. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện các chế độ pháp lý để các cổ đông thiểu số có thể thực hiện thiết thực các quyền quản lý công ty và bảo vệ lợi ích của mình hơn nữa. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Để bảo vệ được lợi ích của các cổ đông thiểu số, trước hết phải dựa vào số lượng thông tin mà họ tiếp cận được, chất lượng của các thông tin, thời điểm, tính kịp thời của thông tin. Về quyền tiếp cận thông tin, như đã phân tích ở trên, Luật doanh nghiệp 2005 không quy định cổ đông nhỏ được quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty, báo cáo tài chính của công ty. Ngoài ra, xem xét những thông tin phải công bố theo quy định, Luật doanh nghiệp 2005 mới chủ yếu đề cập đến thông tin quá khứ, những thông tin công bố định kỳ về báo cáo tài chính hàng quý, những thông tin đột xuất mà công ty phải công bố. Riêng những thông tin đánh giá về tương lai của công ty như nhóm thông tin về hội đồng quản trị và nhóm thông tin về đánh giá của hội đồng quản trị về tương lai quản lý của công ty, thì hiện nay còn thiếu và các quy định của pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhóm thông tin đánh giá của hội đồng quản trị bao gồm thông tin về thay đổi thị trường sản phẩm, thị trường đầu ra của công ty, những tác động của thị trường vốn và những yếu tố khác. Nhóm thông tin về hội đồng quản trị gồm các thông tin như: thành viên hội đồng quản trị sở hữu bao nhiêu phần trăm cổ phần trong công ty, năng lực kinh nghiệm của hội đồng quản trị, ai giới thiệu họ vào hội đồng quản trị. Những thông tin này rất quan trọng, không những giúp nhà đầu tư đánh giá được năng lực của đội ngũ hội đồng quản trị, mà còn đánh giá được tính khách quan, công bằng, vô tư không thiên vị trong hoạt động kinh doanh. Đối với các nhà đầu tư thiểu số, hai nhóm thông tin về tương lai rất quan trọng. Bởi có những thông tin như vậy thì mọi giao dịch của công ty kể cả giao dịch chuyển nhượng cổ phần của thành viên hội đồng quản trị mới có thể được đánh giá một cách minh bạch và công bằng. Trong khi đó trong giới đầu tư hiện nay năng lực phân tích chưa đáp ứng được nhu cầu như kỳ vọng. Họ có thể còn thiếu hiểu biết về cách thức, công cụ cơ chế để có thể tự bảo vệ lấy lợi ích của mình.

Từ thực trạng trên, Luật doanh nghiệp cần thiết phải bổ sung cụ thể quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán, báo cáo tài chính của công ty cho các cổ đông nhằm đảm bảo các thông tin trong quá khứ được cung cấp đầy đủ. Đồng thời, các quy định trong Luật doanh nghiệp nên hướng theo những thông lệ quốc tế tốt nhất nhằm cung cấp cho các cổ đông nhỏ những thông tin trong tương lai về hội đồng quản trị và các đánh giá của hội đồng quản trị. Tuy nhiên việc sửa đổi luật như vậy chắc chắn sẽ mất một thời gian dài, nên để sớm bảo vệ các cổ đông thiểu số, cần thiết phải tập hợp họ lại thành Câu lạc bộ của nhà đầu tư thiểu số. Các câu lạc bộ này sẽ giúp họ có cơ hội trao đổi, học hỏi kinh nhiệm lẫn nhau, cùng nhau góp tiếng nói chung, nâng cao sức mạnh của mình. Hiện ý tưởng thành lập Câu lạc bộ các cổ đông thiểu số đang được Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI) nghiên cứu và xây dựng. Theo định hướng thì Câu lạc bộ sẽ là nơi tập hợp các cổ đông thiểu số, cùng nhau trao đổi thông tin, kiến thức, cùng nhau khởi kiện nếu bị vi phạm quyền lợi. Ý tưởng này có thể dần dần tìm kiếm thêm nhiều người, tăng thêm lực lượng, nhưng cách làm này vẫn mang tính chất tự phát, tự nguyện không chính thức. Để hoạt động của các câu lạc bộ này có hiệu quả hơn, cần phải có sự hỗ trợ, giúp sức của các cơ quan chức năng, thông qua xây dựng các chế tài phù hợp, khuyến khích các thành viên liên kết để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình

Ngoài vấn đề cung cấp thông tin, để bảo đảm hơn nữa quyền lợi của các cổ đông thiểu số, Luật doanh nghiệp cần thiết phải bổ sung quyền của cổ đông yêu cầu tòa án xem xét, miễn nhiệm thành viên hội đồng quản trị hoặc Ban Kiểm soát trong trường hợp cần thiết; quyền của cổ đông yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc tòa án hủy bỏ quyết định của hội đồng quản trị trong trường hợp khẩn cấp để bảo vệ lợi ích của công ty, của cổ đông và của các bên liên quan khác; tăng cường chế độ giám sát chặt chẽ các giao dịch liên kết giữa cổ đông chi phối với công ty; v.v.

2. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về cuộc họp đại hội đồng cổ đông Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Để đại hội đồng cổ đông thực sự là công cụ quyền lực của cổ đông trong công ty đồng thời đóng góp vào sự vận hành chung của công ty, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến cuộc họp đại hội đồng cổ đông. Chẳng hạn như cần sửa đổi, làm rõ để thống nhất quy định về điều kiện tỷ lệ triệu tập họp đại hội đồng cổ đông giữa Luật doanh nghiệp năm 2005 và Nghị Quyết 71/2006/QH11 của Quốc Hội ngày 29/11/2006 về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của Việt Nam (Nghị quyết 71). Như Chương II đã phân tích, trong thực tế hiện nay, rất nhiều công ty niêm yết triệu tập đại hội đồng cổ đông lần đầu thường không đạt tỷ lệ tối thiểu 65% số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ mẫu để tiến hành đại hội đồng cổ đông nên buộc phải triệu tập đại hội đồng cổ đông lần hai. Chính điều này đã gây lãng phí của cải xã hội và một lần nữa khẳng định sự cần thiết và hợp lý của việc cho phép các công ty cổ phần được quyền quy định trong Điều lệ số đại diện cần thiết để tiến hành họp đại hội đồng cổ đông như quy định tại Nghị Quyết 71. Như vậy, cần thống nhất lại một số quy định trong Luật doanh nghiệp 2005 (cụ thể là điều 102, điều 104) với Nghị Quyết 71 nhằm tránh sự không nhất quán trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời để việc quản lý các cuộc họp đại hội đồng cổ đông của các công ty cổ phần được thống nhất hơn.

3. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về hội đồng quản trị

Để tăng cường chức năng giám sát của hội đồng quản trị, đảm bảo sự cân bằng về quyền lực, nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cá nhân trong quản lý, điều hành công ty cần thiết phải phân tách rõ ràng vai trò, nhiệm vụ của Chủ tịch hội đồng quản trị và GĐ/TGĐ để không một ai trong hai người trên bị hạn chế quyền ra quyết định. Cần nắm rõ rằng tổng giám đốc là người có quyền và nhiệm vụ điều hành nghiệp vụ kinh doanh hàng ngày của công ty, và là cán bộ cao cấp do hội đồng quản trị bổ nhiệm và ủy quyền nên GĐ/TGĐ phải chịu sự lãnh đạo và kiểm soát của hội đồng quản trị. Vì vậy, địa vị và quyền hạn của GĐ/TGĐ chủ yếu phải do điều lệ công ty và hội đồng quản trị quyết định. Việc Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm nhiệm luôn chức vụ GĐ/TGĐ có phần không hợp lý. Bởi nhiệm vụ của hội đồng quản trị chủ yếu là thực hiện giám sát và khống chế một cách vĩ mô các hoạt động quản lý điều hành của những người quản lý kinh doanh, trong khi phạm vi quyền lực của GĐ/TGĐ được quy định một cách rõ ràng trong điều lệ công ty và trong nội bộ hội đồng quản trị. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển của công ty cổ phần hiện nay, vai trò và quyền hạn của tổng giám đốc có xu hướng gia tăng, vấn đề làm sao để hạn chế và kiểm soát quyền lực của tổng giám đốc là điều trọng yếu của công việc quản lý công ty. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

4. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về GĐ/TGĐ

LDN cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa chế độ tuyển dụng và đánh giá tổng giám đốc của công ty cổ phần, thực hiện dân chủ để đảm bảo có thể lựa chọn những người có tài năng, giỏi về kinh doanh lên cương vị tổng giám đốc. Có thể ủy thác tổ chức chuyên nghiệp tìm người thực sự giỏi chuyên môn để tuyển dụng làm tổng giám đốc. Đồng thời, thực hiện mức tiền lương cho tổng giám đốc có tính hấp dẫn và có sự liên kết với thành quả kinh doanh của họ.

5. Giải pháp hoàn thiện các quy định về việc minh bạch hóa các thỏa thuận giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty

Như thực trạng phân tích ở Chương II, Luật doanh nghiệp 2005 chưa có quy định điều chỉnh vấn đề khi có sự khác biệt giữa thỏa thuận cổ đông và Điều lệ công ty hoặc Luật doanh nghiệp. Trên thế giới, một điều chắc chắn là, không có đáp án chung cho câu hỏi về tính hiệu lực và có thể thi hành của thỏa thuận cổ đông khi nó trái với điều lệ hoặc pháp luật về doanh nghiệp. Nói cách khác, đây là vấn đề khó khăn khi các nhà lập pháp và tòa án mỗi nước phải quyết định xem pháp luật hợp đồng/luật dân sự (điều chỉnh thỏa thuận cổ đông) và pháp luật công ty (quy định về quyền hạn của công ty, các cổ đông, cơ quan quyền lực khác của công ty), cái nào sẽ chi phối /phủ quyết cái nào. Thỏa thuận cổ đông vốn được điều chỉnh bởi luật hợp đồng có thể có hiệu lực cao hơn các quy định của pháp luật công ty hay không?

Vì vậy, Luật doanh nghiệp VN nên có quy định tăng cường tính minh bạch trong các thỏa thuận giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty thông qua Điều lệ công ty.

6. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về Ban Kiểm soát Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Cần thiết phải sắp xếp lại quyền hạn của Ban Kiểm soát, tăng cường quyền lực thiết thực để nó có thể thực hiện chức năng kiểm soát có hiệu quả. Cụ thể, hiện nay cần phải tăng cường tính độc lập của các kiểm soát viên đối với hội đồng quản trị và đối với các cổ đông chi phối, làm cho các kiểm soát viên chủ yếu là những người đại diện cho các cổ đông thiểu số. Đồng thời tăng cường trách nhiệm của các kiểm soát viên, buộc họ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong trường hợp hội đồng quản trị, tổng giám đốc/GĐ vi phạm pháp luật và làm thiệt hại cho công ty.

7. Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý công ty cổ phần qua tham khảo mô hình quản lý công ty cổ phần của Nhật Bản

Với định hướng phát triển kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, Việt Nam cũng có thể tham khảo các mô hình quản lý công ty khác nhau trên thế giới chẳng hạn như “Mô hình công ty có thiết lập ủy ban” ở Nhật Bản nhằm giải quyết thực trạng hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát bị hình thức hóa, không phát huy được vai trò giám sát công ty như hiện nay. Việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm xây dựng mô hình tổ chức nội bộ của công ty cổ phần phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.

Mô hình công ty có thiết lập ủy ban được du nhập vào Nhật Bản năm 2002 trong hoàn cảnh hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát trong mô hình quản lý công ty cổ phần truyền thống của Nhật bị hình thức hóa, không phát huy được vai trò giám sát phát hiện ra những gian lận về tài chính trong công ty. Vì vậy, việc du nhập mô hình này là nhằm giải quyết những bất cập phát sinh, đảm bảo hoạt động giám sát nội bộ có hiệu quả. Khác với công ty cổ phần có thiết lập Ban Kiểm soát, mô hình công ty cổ phần có thiết lập ủy ban bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, các ủy ban, bên cạnh đó có người điều hành, giám sát viên kế toán.

Về cơ bản, quyền hạn của đại hội đồng cổ đông trong công ty cổ phần có thiết lập ủy ban giống như trong công ty cổ phần có thiết lập Ban Kiểm soát. hội đồng quản trị bao gồm các thành viên hội đồng quản trị, các thành viên này được đại hội đồng cổ đông bầu ra, các thành viên đều có chức danh điều hành nhưng mỗi người có chức trách khác nhau. Trong công ty có thiết lập ủy ban còn có chức danh thành viên hội đồng quản trị bên ngoài. Vai trò của thành viên này không chỉ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh an toàn mà còn tiếp nhận tư vấn từ bên ngoài để nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Mục đích của việc du nhập chế độ thành viên hội đồng quản trị bên ngoài là nhằm tăng cường sự giám sát đối với người điều hành công ty cổ phần. Trong hội đồng quản trị có các ủy ban bao gồm: Ủy ban bổ nhiệm, Ủy ban quyết định thù lao và Ủy ban giám sát.

Ủy ban bổ nhiệm đề xuất việc bổ nhiệm và bãi miễn thành viên hội đồng quản trị cho đại hội đồng cổ đông. Trong Ủy ban này, số thành viên hội đồng quản trị bên ngoài chiếm một nửa nên người có quyền lực cao nhất của công ty cho dù có định lạm dụng quyền hạn lựa chọn người có lợi cho họ chăng nữa thì cũng không thể độc đoán quyết định. Ủy ban bổ nhiệm có quyền đề nghị còn hội đồng quản trị là cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm người điều hành và người đại diện điều hành.

Ủy ban quyết định thù lao quyết định nội dung thù lao cho thành viên hội đồng quản trị, ở đây, một nửa số thành viên là thành viên hội đồng quản trị bên ngoài. Với cơ chế này, các thành viên hội đồng quản trị có thể quyết định thù lao của người quản lý điều hành một cách khách quan. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Ủy ban giám sát chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ hoạt động quản lý điều hành của các thành viên hội đồng quản trị, người điều hành, chịu trách nhiệm soạn thảo báo cáo giám sát, đề xuất bổ nhiệm và bãi miễn người quản lý điều hành được thuê. Ngoài ra, Ủy ban có quyền yêu cầu đình chỉ hành vi vi phạm đối với người điều hành, có quyền khởi kiện thành viên hội đồng quản trị ra trước pháp luật. Luật công ty Nhật Bản cấm thành viên của Ủy ban giám sát kiêm nhiệm chức danh người sử dụng lao động.

Trong công ty cổ phần có thiết lập ủy ban, người điều hành và người đại diện điều hành được đảm nhận công việc theo yêu cầu và độc lập với hội đồng quản trị. Những người điều hành do hội đồng quản trị bầu ra, có thể là thành viên hội đồng quản trị nhưng không thể là thành viên của Ủy ban giám sát. Khi lựa chọn mô hình công ty có ủy ban, quyền quản lý điều hành công ty được chuyển từ đại diện hội đồng quản trị sang cho người điều hành. Tuy nhiên, có những trường hợp do người điều hành kiêm nhiệm chức danh thành viên hội đồng quản trị nên thực chất không hẳn quyền điều hành được chuyển giao cho người điều hành.

Với mô hình thiết lập ủy ban như trên, cổ đông có thể tin tưởng hơn vào sự minh bạch trong hoạt động quản lý điều hành của công ty cổ phần thông qua thực hiện các quyền năng riêng biệt của các ủy ban. Việc giám sát có hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành Ủy ban giám sát có ý nghĩa quan trọng để cổ đông tin tưởng vào sự phát hiện và khởi kiện kịp thời các hành vi vi phạm của các thành viên hội đồng quản trị và người điều hành gây thiệt hại cho công ty và cổ đông.

Nhìn chung, Nhật Bản du nhập mô hình công ty cổ phần có thiết lập ủy ban nhằm giải quyết được những hạn chế liên quan đến giám sát không đầy đủ của hội đồng quản trị đối với đại diện hội đồng quản trị theo mô hình truyền thống và chuyển giao nhiệm vụ giám sát của hội đồng quản trị cho Ủy ban giám sát, với kỳ vọng hoạt động giám sát trong công ty cổ phần sẽ có hiệu quả hơn. Tuy còn tồn tại những bất cập nhất định về vị trí của các thành viên hội đồng quản trị bên ngoài do những nghi ngờ về khả năng giám sát của họ liên quan đến những hiểu biết về nội bộ công ty nhưng nhìn chung việc du nhập mô hình trên là cần thiết đối với Nhật Bản để tạo ra sự lựa chọn xây dựng mô hình tổ chức nội bộ hợp lý và phù hợp với mục đích làm tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông. Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Như đã phân tích ở Chương I, Luật doanh nghiệp Việt Nam và Luật công ty Nhật Bản có nhiều điểm tương đồng trong quy định về quyền của cổ đông và tổ chức nội bộ theo mô hình truyền thống. Bên cạnh đó, hệ thống Luật của cả hai nước cùng có mục đích chung là điều chỉnh lợi ích giữa các chủ thể trong công ty cổ phần và duy trì sự tồn tại của nó. Vì vậy, việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của Nhật Bản có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm xây dựng mô hình tổ chức nội bộ của công ty cổ phần phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.

8. Một số giải pháp khác

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về quản lý doanh nghiệp, cụ thể là quản lý công ty cổ phần để tăng cường nhận thức của người dân, góp phần giảm thiểu những vi phạm và tranh chấp trong thực tiễn.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới công tác quản lý tại các công ty cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn cho những người quản lý. Đồng thời, cần thiết phải nhìn nhận rõ ràng rằng quá trình chuyển đối doanh nghiệp nhà nước không phải là chuyển đổi cơ học, hình thức mà phải chuyển đổi về chất tức là phải thực hiện đúng quy định của Luật doanh nghiệp về quyền của chủ sở hữu, minh bạch hóa thông tin, vai trò hội đồng quản trị, giám sát các giao dịch với các bên có liên quan.

KẾT LUẬN Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, công ty cổ phần là một loại hình công ty phổ biến, đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, từ thực trạng các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn về quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay cho thấy, vấn đề quản lý công ty cổ phần ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập cần sửa đổi, bổ sung và sớm hoàn thiện. Mặc dù trong nội bộ công ty cổ phần, người quản lý, người lao động và các cổ đông đều mong muốn công ty kinh doanh có hiệu quả và phát triển bền vững, nhưng do có sự khác biệt về lợi ích giữa các cổ đông, sự tách biệt giữa người quản lý và người sở hữu nên đã tạo nên những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích trong nội bộ công ty như xung đột về lợi ích giữa cổ đông nhỏ và những cổ đông lớn (cổ đông chi phối), xung đột giữa cổ đông với những người quản lý doanh nghiệp.

Để giải quyết những xung đột này, một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà lập pháp Việt Nam hiện nay đó là làm sao để thiết lập một cơ cấu quản lý công ty cổ phần một mặt giao phó đủ quyền lực cho người quản lý điều hành, đảm bảo những ưu đãi về lợi ích nhằm thúc đẩy và nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ, mặt khác có cơ chế giám sát tích cực, hiệu quả để tránh việc họ gây thiệt hại cho công ty và các cổ đông vì lợi ích cá nhân.

Một cơ cấu quản lý công ty cổ phần hoàn thiện và hợp lý có thể sẽ mang lại những mối quan hệ xã hội tốt đẹp, một đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc và một nền quốc phòng hùng mạnh. Khi đất nước Việt Nam chúng ta đang trên đà phát triển, xây dựng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay, thì vấn đề làm sao để xây dựng một cơ cấu quản lý công ty cổ phần có hiệu quả cao ngày càng có ý nghĩa then chốt và có tính cấp bách. Vấn đề này đòi hỏi phải có sự nỗ lực và phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các Bộ, ban, ngành, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp từ Trung Ương đến địa phương.

Trên đây là trình bày toàn bộ khóa luận tốt nghiệp của em. Qua đây, Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Minh Hằng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình. Đồng thời, em xin cảm ơn toàn bộ các giảng viên bộ môn Luật của lớp Luật Kinh doanh quốc tế – K45 đã truyền tải cho em không chỉ những kiến thức quý báu mà còn cả tình yêu về lĩnh vực này. Em xin chân thành cảm ơn! Khóa luận: Giải pháp pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993