Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Điều tra và đánh giá Tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát về tỉnh Ninh Bình

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Ninh Bình là một tỉnh nhỏ ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế thì Ninh Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ, có diện tích 1.400km2 với đường bờ biển dài 15km. Hiện nay Ninh Bình có 6 huyện: Hoa Lư, Nho Quan, Kim Sơn, Gia Viễn, Yên khánh, Yên Mô; một thị xã làTam Điệp và một thành phố là Ninh Bình. Ninh Bình là một vùng đất sơn thủy hữu tình được thiên nhiên ban tặng nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng và nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời tạo sự hấp dẫn thu hút du khách.

Về vị trí địa lý: Ninh Bình có tọa độ địa lý từ 19024’ – 20027’ vĩ độ Bắc và từ 105032’ – 106027’ kinh độ Đông,phía Tây Nam giáp Thanh Hóa, phía Đông giáp Nam Định, phía Nam giáp biển. Với vị trí là nơi tiếp giáp giữa miền Bắc và miền Trung, giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng sông Mã là hai cái nôi của văn hóa, văn minh người Việt, là địa bàn chiến lược quan trọng của mọi triều đại và nhà nước trong lịch sử Việt Nam.

Về giao thông: Ninh Bình là điểm nút giao thông quan trọng, tất cả các huyện, thành phố, thị xã đều có đường quốc lộ đi qua. Quốc lộ 1A đi qua các huyện Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô, thành phố Ninh Bình và thị xã Tam Điệp với tổng chiều dài gần 40km; quốc lộ 10 nối từ Quảng Ninh qua các tỉnh duyên hải Bắc Bộ: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định tới thành phố Ninh Bình đi qua các huyện Yên Khánh, Kim Sơn; quốc lộ 12B nối thị xã Tam Điệp, Nho Quan với đường Hồ Chí Minh, tỉnh Hòa Bình và Vĩnh Phúc. Mạng lưới giao thông tỉnh lộ khá thuận tiện với những chuyến xe bus nội tỉnh, bến xe Ninh Bình nằm gần nút giao thông giữa quốc lộ 1A và quốc lộ 10 ở thành phố Ninh Bình. Hiện đang có dự án đường cao tốc đi qua Ninh Bình được triển khai là: đường cao tốc Ninh Bình – Cầu Giẽ, Ninh Bình – Thanh Hóa và Ninh Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh.

Về địa hình: Ninh Bình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía Nam. Dãy núi đá vôi ở phía Tây của tỉnh chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bắt nguồn từ vùng núi rừng Hoà Bình chạy ra biển tạo thành vùng phù sa cổ ven chân núi. Do quá trình tạo sơn hơn 200 triệu năm về trước đã tạo nên nhiều hang động đẹp như: Tam Cốc, Bích Động, Xuyên Thuỷ Động, Địch Lộng, hang động Tràng An,… Tiếp đó là vùng đồng chiêm trũng ở các huyện: Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô. Do phù sa bồi đắp hàng năm, đồng bằng tiến ra biển từ 80 – 100m, tạo nên vùng đất mới phì nhiêu, màu mỡ. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng, song ba vùng có thể bổ sung, hỗ trợ nhau để phát triển nền kinh tế hàng hoá toàn diện cả cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ, hải sản, công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.

Về khí hậu: Do đặc điểm về địa lý, địa hình đa dạng, nên khí hậu Ninh Bình cũng mang những nét đặc trưng của khí hậu đồng bằng Bắc bộ và có ảnh hưởng sắc thái khí hậu vùng Thanh Hoá và khu 4 cũ. Khí hậu của Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sông Hồng. Nhiệt độ trung bình năm là 23,10C. Tổng lượng mưa trung bình trong năm đạt 151,9mm, phân bố tương đối đồng đều trên toàn tỉnh. Trung bình một năm có 125 – 157 ngày mưa. Lượng mưa tập trung chủ yếu vào mùa hè, từ tháng 5 đến tháng 11, chiếm 80 – 90% lượng mưa cả năm.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2. Lịch sử phát triển của Ninh Bình

Ninh Bình là một tỉnh ven biển cực Nam của châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp Hà Nam, đông và đông bắc giáp Nam Định, đông nam giáp vịnh Bắc bộ, tây bắc giáp Hòa Bình và phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa.

Đất này đời Tần (255-207 trước công nguyên) thuộc Tượng quận. Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ hai (207TCN-542 TCN), đưới đời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ, đời Ngô (266-280) và đời Tấn (280- 420) thuộc Giao Châu, đến cuối đời Lương (502-542) là châu Trường Yên. Khi Lý Nam Đế đánh đuổi quân Lương, lập nên nhà Tiền Lý (542-602) thì vẫn là châu Trường Yên của nước Vạn Xuân. Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 3 (603-905) đưới đời nhà Tùy và nhà Đường đất này vẫn là châu Trường Yên.

Khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong 12 sứ quân thống nhất đất nước lập nên triều Đinh (968-980) đóng đô ở Hoa Lư thì đất này gọi là châu Đại Hoàng của nước Đại Cồ Việt. Đến đời Tiền Lê (981-1009) gọi là châu Trường Yên. Đời nhà Lý (1010-1225) gọi là phủ Trường Yên, sau gọi là châu Đại Hoàng nước Đại Cồ Việt. Đầu đời Trần gọi là lộ, sau đổi là trấn Trường Yên. Năm Quang Thái thứ 10 (1398) đời Trần Thuận Tông đổi thành trấn Thiên Quan.

Thời kỳ thuộc Minh (1407-1428) lại gọi là châu Trường Yên. Đến triều Lê vẫn theo như đời Trần trước. Đời Thiệu Bình (1434-1440) dưới triều Lê Thái Tông (1433-1442) chia làm 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan thuộc về trấn Thanh Hoa (Thanh Hoá ngày nay) gồm 6 huyện. Phủ Trường Yên có 3 huyện Gia Viễn, Yên Khang và Yên Mô; phủ Thiên Quan quản 3 huyện Phụng Hoá, Ninh Hoá và Lạc Thổ. Đời Hồng Đức (1470-1498), Lê Thánh Tông cho nhập 2 phủ ấy vào Sơn Nam thừa tuyên. Đời Nhà Mạc (1527-1592) gọi hai phủ này là Thanh Hoa ngoại trấn, ngăn cách với Thanh Hoa nội trấn bởi dãy núi Tam Điệp. Nhà Lê Trung Hưng đóng đô ở Thanh Hoa. Từ phủ Trường Yên trở ra ngoài bắc do nhà Mạc cai quản; từ Trường Yên trở vào, bắt đầu từ 1533 do nhà Lê Trung hưng quản. Hai địa danh Thanh Hoa nội trấn và Thanh Hoa ngoại trấn bắt đầu có từ đấy. Sau khi nhà Mạc bị diệt (1592), nhà Lê lại đem 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan nhập vào Thanh Hoa gọi là Thanh Hoa ngoại trấn. Thời Tây Sơn cũng gọi là Thanh Hoa ngoại trấn thuộc Bắc thành. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Dưới triều Nguyễn vẫn theo như cũ: Thanh Hoa ngoại trấn gồm 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan, có 6 huyện là Yên Mô, Yên Khang, Gia Viễn, Yên Hoá, Phụng Hoá và Lạc Thổ.

Năm Gia Long thứ 5 (1806) đổi thanh Hoa ngoại trấn gọi là đạo Thanh Bình vẫn thuộc trấn Thanh Hoa. Năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đổi tên phủ Trường Yên làm phủ Yên Khánh. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi tên đạo Thanh Bình làm đạo Ninh Bình. Địa danh Ninh Bình có từ đó, nhưng vẫn là một đạo thuộc trấn Thanh Hoa. Đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) mới chính thứ đổi làm trấn Ninh Bình, đặt các quan cai trị là Trấn thủ, Hiệp trấn Ninh Bình, đặt các quan cai trị là Trấn thủ, Hiệp trấn và Tham hiệp như các trấn khác năm trong Bắc Thành. Cũng trong năm 1829 thành lập huyện Kim Sơn, do Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ khai khẩn đất hoang, đất bồi ven biển lập nên.

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình và bỏ Tổng trấn Bắc thành theo chương trình cải cách hành chính của Minh Mệnh. Tỉnh Ninh Bình dưới triều Nguyễn có 2 phủ gồm 7 huyện. Phủ Yên Khánh gồm 4 huyện Yên Khánh, Yên Mô, Gia Viễn (khi ấy gồm cả 2 huyện Gia VIễn Hoa Lư ngày ngay và Kim Sơn. Phủ Thiên Quan (đến đời Tự Đức 15, tức năm 1862 đổi là phủ Nho Quan), Yên Hoà (đời Lê gọi là Ninh Hoá, gồm một phần huyên Nho Quan và một phần huyện Gia Viễn ngày nay) và huyện Yên Lạc (trước là Lạc Thổ, sau là Lạc Yên, ngày nay là huyện Lạc Sơn tỉnh Hoà Bình).

Trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), tỉnh Ninh Bình thuộc khu 3. Ngày 25.1.1948, hợp nhất các khu 2, khu 3 và khu 11 thành Liên khu thì Ninh Bình thuộc Liên khu 3.

Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976 Ninh Bình hợp với tỉnh Hà Nam (gồm Nam Định và Hà Nam) thành tỉnh Hà Nam Ninh và năm 1977 sau đó hợp nhất 2 huyện Nho Quan và Gia Viễn thành huyện Hoàng Long, hợp nhất huyện Yên Mô và 10 xã huyện Yên Khánh thành huyện Tam Điệp, hợp nhất huyện Kim Sơn và 9 xã huyện Yên Khánh thành huyện Kim Sơn, hợp nhất huyện Gia Khánh và thị xã Ninh Bình thành huyện Hoa Lư. Thời gian này đất Ninh Bình cũ chỉ còn 4 huyện năm trong tỉnh Hà Nam Ninh, thị xã Ninh Bình hạ xuống thành thị trấn thuộc Huyện Hoa Lư.

Đến ngày nay, Ninh Bình là một tỉnh có diện tích 1387,5 km2 với dân số 93 vạn người, bao gồm 8 đơn vị hành chính ( 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện): Thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp, huyện Nho Quan, huyện Gia Viễn, huyện Hoa Lư, huyện Yên Mô, huyện Yên Khánh và huyện Kim Sơn.

2.1.3. Con người Ninh Bình Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Tỉnh Ninh Bình có trên 90 vạn dân sinh sống ở 8 huyện, thành phố, thị xã với 2 dân tộc Kinh và Mường. Mỗi dân tộc, mỗi địa phương trong tỉnh có một bản sắc văn hoá truyền thống, song đều hội tụ một phẩm chất chung đó là cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, đoàn kết, dũng cảm trong đấu tranh chống thiên tai, chống lại các thế lực thù địch, gắn bó và yêu thương quê hương tha thiết.

Mảnh đất Ninh Bình cũng là nơi đã sản sinh ra những người con tuấn kiệt như: Đinh Tiên Hoàng, Trương Hán Siêu, Thời Lê có Trịnh Lỗi theo Lê Thái Tổ dẹp loạn quân Minh

2.1.4. Văn hóa Ninh Bình

Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ đã tạo ra một nền văn hóa Ninh Bình tương đối năng động mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh sông Hồng.

Vùng đất Ninh Bình là kinh đô của nước Việt ở thế kỷ X với 3 triều đại Đinh, Lê, Lý với các dấu ấn lịch sử như: thống nhất giang sơn, đánh Tống-dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam vùng đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền miếu, từng ngọn núi con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược để bảo vệ Thăng Long của triều đại Tây Sơn, là căn cứ để nhà Trần hai lần đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Thế kỷ XVI-XVII đạo Thiên Chúa được truyền vào Ninh Bình dần dần hình thành trung tâm Thiên Chúa Giáo Phát Diệm.

Văn hoá Ninh Bình đa dạng và phong phú, đó là sự lưu lại dấu ấn văn hoá của các tao nhân mặc khách khi qua vùng sơn thanh thuỷ tú này. Các đế vương, công hầu, khanh tướng, danh nhân văn hoá lớn như Trương Hán Siêu, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Xuân Quỳnh về đây, xếp gương, đề bút, sông núi hoá thành thi ca. Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đó đã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thụ, sáng tạo, làm giàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình. Vùng đất này còn là quê hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như: Đinh Bộ Lĩnh; Trương Hán Siêu, Lý Quốc Sư, Vũ Duy Thanh, Lương Văn Tụy, Ninh Tốn, Nguyễn Bặc, Đinh Điền …

Với những đặc điểm văn hóa trên đã tạo cho Ninh Bình có một hệ thống các di tích lịch sử – văn hóa ở Ninh Bình gắn liền với tín ngưỡng của vùng đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần thông qua các đền thờ Vua (đặc biệt là các Vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Thái Tông, Quang Trung và Triệu Quang Phục với số lượng vài chục đền thờ mỗi vị); thờ Thánh (Nguyễn Minh Không và các tổ nghề); thờ Thần (phổ biến là các vị thần Thiên Tôn, thần Cao Sơn và thần Quý Minh trong không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn). Ninh Bình là vùng đất phong phú các lễ hội văn hóa đặc sắc như Lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ, lễ hội đền Thái Vi… Các lễ hội khác: lễ hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư, đền Thánh Nguyễn, đền Dâu, hội vật Yên Vệ, lễ hội đền Trần Ninh Bình… các công trình kiến trúc văn hóa như đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền vua Lê Đại Hành, nhà thờ Phát Diệm, chùa Bái Đính, đền Thánh Nguyễn, làng chèo Phúc Trì, Nam Dân, Thượng Kiệm, những trung tâm hát chầu văn ở đền Dâu, phủ Đồi… nhiều làng nghề truyền thống như nghề điêu khắc đá Ninh Vân – Hệ Dưỡng, Xuân Vũ, nghề mộc Phúc Lộc, nghề thêu ren Văn Lâm, nghề chiếu cói ở Kim Sơn…

2.2. Điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình

Do phạm vi giới hạn của đề tài nên tác giả chỉ tập trung điều tra đánh giá một số tài nguyên nhân văn tiêu biểu của tỉnh.

2.2.1. Di tích lịch sử văn hóa Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Ninh Bình là một tỉnh có nhiều di tích văn hóa gắn với các triều đại Đinh, Lê, Lý và nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị khác. Theo nguồn của Sở Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch Ninh Bình trên toàn tỉnh đã thống kê được trên 800 di tích trong đó có 78 di tích được xếp hạng và cấp bằng di tích quốc gia. Tiêu biểu có Cố Đô Hoa Lư, công trình chùa Bái Đính, quần thể nhà thờ đá Phát Diệm, đền vua Đinh, vua Lê trong quần thể Cố Đô Hoa Lư.

Bảng1: Mật độ các di tích trên địa bàn tỉnh

  • Cố Đô Hoa Lư
  • Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Toàn bộ khu di tích Cố đô Hoa Lư nằm trên địa bàn giáp ranh giữa 2 huyện Hoa Lư, Gia Viễn và thành phố Ninh Bình của tỉnh Ninh Bình. Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư hiện nay có diện tích tự nhiên 13.87 km² thuộc địa bàn tỉnh Ninh Bình.
  • Khoảng cách từ điểm du lịch tới trung tâm cung cấp nguồn khách: Khoảng cách từ khu di tích Cố đô Hoa Lư tới thủ đô Hà Nội – trung tâm cung cấp khách lớn nhất miền Bắc là 90 – 100km theo Quốc lộ 1A, có thể đi tới khu di tích bằng 2 – 3 loại phương tiện thông dụng như xe khách, taxi,xe máy.
  • Lịch sử hình thành: Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt và chọn Hoa Lư làm kinh đô. Kinh đô Hoa Lư tồn tại 41 năm ( từ năm 986 đến năm 1009 ) trong đó 12 năm là triều đại nhà Đinh và 29 năm kế tiếp là triều đại nhà Tiền Lê ( người đầu tiên lên ngôi hoàng đế là Lê Hoàn hiệu là Lê Đại Hành ). Trước khi rời đô về kinh thành Thăng Long, Lý Công Uẩn lên ngôi tại Hoa Lư và lấy đế hiệu là Lý Thái Tổ.

Quy mô, các giá trị kiến trúc: Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư có diện tích 13,87 km² gồm:

Vùng bảo vệ đặc biệt có diện tích 3 km² gồm toàn bộ khu vực bên trong thành Hoa Lư, trong vùng có các di tích lịch sử: đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Vua Lê Đại Hành, lăng vua Đinh, lăng vua Lê, đền thờ Công chúa Phất Kim, chùa Nhất Trụ, phủ Vườn Thiên, bia Câu Dền, chùa Kim Ngân, hang Bim, chùa Cổ Am, chùa Duyên Ninh, phủ Chợ, sông Sào Khê, một phần khu sinh thái Tràng An các đoạn tường thành, nền cung điện nằm dưới lòng đất

Vùng đệm có diện tích 10,87 km² gồm cảnh quan hai bên sông Sào Khê và quần thể Tràng An. Trong vùng có các di tích lịch sử: động Am Tiên, hang Quàn, hang Muối, đình Yên Trạch, chùa Bà Ngô, hang Luồn, hang Sinh Dược, hang Địa Linh, hang Nấu Rượu, hang Ba Giọt, động Liên Hoa, đền Trần, phủ Khống, phủ Đột, hang Bói…

Các di tích liên quan trực tiếp gồm các di tích không nằm trong 2 vùng trên nhưng có vai trò quan trọng đối với quê hương và sự nghiệp của triều đại nhà Đinh như chùa Bái Đính, cổng Đông, cổng Nam, động Thiên Tôn, động Hoa Lư, đền thờ Đinh Bộ Lĩnh.

Đền Vua Đinh Tiên Hoàng và đền Vua Lê Đại Hành được xây dựng từ thời nhà Lý và xây dựng lại từ thời Hậu Lê theo kiểu nội công ngoại quốc và mô phỏng kiến trúc kinh đô xưa. Là 2 di tích quan trọng của khu di tích. Trước mặt đền Đinh là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa. Trên núi có lăng mộ vua Đinh. Đền Đinh Tiên Hoàng là một công trình kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm khắc gỗ của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17 và là công trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều cổ vật quý hiếm được bảo tồn, như gạch xây cung điện có khắc chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên, cột kinh Phật khắc chữ Phạn, các bài bia ký… Đền thờ Đinh Tiên Hoàng và 3 hoàng tử: Đinh Liễn, Đinh Đế Toàn Đinh Hạng Lang.

Đền Vua Lê Đại Hành nằm cách đền vua Đinh Tiên Hoàng 300 mét. Đền vua Lê qui mô nhỏ hơn nên không gian trong đền khá gần gũi và huyền ảo. Nét độc đáo ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Tương truyền, bà mẹ mơ thấy hoa sen mà sinh ra Lê Hoàn, trong lúc đi cấy ở cạnh ao sen. Bà đã ủ Lê Hoàn trong khóm trúc và được con hổ chúa rừng xanh ấp ủ. Sau lời cầu xin của bà mẹ con hổ bỏ đi. Vì vậy mà nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam của các nghệ nhân ở đây cũng thống nhất với truyền thuyết về các đề tài ca ngợi Lê Hoàn. Đền thờ Lê Hoàn, Dương Vân Nga và Lê Long Đĩnh. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Những giá trị tài nguyên nhân văn phi vật thể gắn với di tích: Lễ hội Cố đô Hoa Lư là một lễ hội tiêu biểu của khu di tích cũng như của tỉnh Ninh Bình diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.

Giá trị xếp hạng: khu di tích Cố đô Hoa Lư được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Đánh giá chung: Khu di tích Cố đô Hoa Lư với vị trí địa lý thuận lợi, cảnh quan hấp dẫn và tập trung nhiều giá trị văn hóa của một kinh đô cổ là một điểm hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước tới tham quan tìm hiểu và chiêm ngưỡng.

  • Chùa Bái Đính

Vị trí, tên gọi, cảnh quan, diện tích: Tên gọi chùa Bái Đính mang ý nghĩa là hướng về núi Đính. Chùa nằm ở phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, thuộc xã Gia Sinh – Gia Viễn Ninh Bình. Quần thể chùa Bái Đính hiện có diện tích 539 ha bao gồm 27 ha khu chùa Bái Đính cổ, 80 ha khu chùa Bái Đính mới, khu công viên văn hoá và học viện phật giáo, khu đón tiếp và công viên cảnh quan, đường giao thông và bãi đố xe, khu hồ Đàm Thị, hồ phóng sinh. Khu chùa này nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh.

Khoảng cách từ khu chùa Bái Đính đến trung tâm cung cấp khách Hà Nội là 110km và cách thành phố Ninh Bình 15 Km, cách Cố đô Hoa Lư 10km.

Lịch sử hình thành và phát triển: Hơn 1000 năm về trước, tại Ninh Bình đã có ba triều đại Vua nối tiếp nhau ra đời: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý. Ba triều đại phong kiến này đều rất quan tâm đến đạo Phật và coi đạo Phật là Quốc giáo; cho nên tại Ninh Bình có rất nhiều chùa cổ, trong đó có chùa Bái Đính, trên núi Đính.

  • Quy mô, kiểu cách, giá trị kiến trúc, mỹ thuật, niên đại kiến trúc mỹ thuật:

Quy mô: Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư nên nó được xem là một phần của Cố đô. Kiến trúc hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt Nam thời nay. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Chùa Bái Đính được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

  • Giá trị kiến trúc, mỹ thuật, niên đại kiến trúc mỹ thuật:

Khu chùa cổ mặc dù có lịch sử hình thành từ thời Đinh với đền thờ Cao Sơn trấn tây Hoa Lư tứ trấn nhưng chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý.

Đặc điểm kiến trúc của khu chùa mới: về vật liệu, hệ thống cột và kèo ở cổng Tam Quan, hành lang La Hán và điện Quan Âm được làm bằng gỗ tứ thiết, các công trình lớn hơn làm bê tông giả gỗ. Tất cả các mái sử dụng ngói men Bát Tràng, kiến trúc ba tầng mái cong vút hình đuôi của chim phượng.Về bố cục các kiến trúc chính như cổng Tam Quan, tháp chuông, điện Quan Âm, điệp Pháp Chủ, điện Tam Thế.

Giá trị cổ vật, vật kỷ niệm và bảo vật quốc gia: Tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á: tượng Phật Tổ 100 tấn trong điện Pháp Chủ. Chuông đồng lớn nhất Việt Nam: Đại hồng chung nặng 36 tấn trong Tháp Chuông. Khu chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam: 500 vị bằng đá xanh cao khoảng 2m. Tượng phật quan âm bằng đồng nặng 90 tấn.

Nhân vật được tôn thờ và những người có công tôn tạo trùng tu: Chùa thờ phật với các nhân vật được suy tôn như: Cổng Tam Quan với hai tượng Hộ pháp (ông thiện và ông ác) bằng đồng. Hành lang La hán thờ 500 vị La Hán được tạc bằng đá xanh nguyên khối. Điện quan thế âm thờ Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay. Điện Pháp Chủ thò phật A di đà. Điện tam thế đặt ba pho tượng Tam thế Phật ( Quá khứ, hiện tại và tương lai ) tài nguyên nhân văn phi vật gắn với di tích: Lễ hội chùa Bái Đính diễn ra từ mùng 6 tháng giêng đến hết tháng 3 hàng năm.

Giá trị xếp hạng: Năm 1997 chùa được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa – cách mạng cấp quốc gia.

Thực trạng tổ chức, quản lý: Chùa Bái Đính thuộc sự quản lý của Sở văn hóa thể thao và du lịch Ninh Bình còn chủ đầu tư và xây dựng là Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường. Quần thể chùa Bái Đính mới này nằm trong tổng thể dự án xây dựng trung tâm du lịch văn hóa Tràng An rộng gần 2.000 ha do công ty TNHH Xuân Trường làm chủ đầu tư.

Đánh giá chung: Chùa Bái Đính là một quần thể chùa được biết đến với nhiều kỷ lục Việt Nam được xác lập như chùa có diện tích lớn nhất, tượng Phật bằng đồng lớn nhất, chùa có nhiều la hán nhất và nhiều cây bồ đề nhất… Chùa Bái Đính cũng là nơi tổ chức Đại lễ cung nghinh xá lợi Phật từ Ấn Độ về Việt Nam 2010. Các hạng mục xây dựng, mở rộng khu chùa mới được các đại biểu tham dự đại lễ Phật đản thế giới 2008 làm lễ khánh thành giai đoạn 1 và dự kiến khánh thành giai đoạn 2 vào năm 2011. Đây sẽ là một nơi tâm linh lớn để mọi người tới hành hương lễ phật trong những dịp đầu xuân.

  • Nhà thờ đá Phát Diệm Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

 Vị trí, tên gọi, diện tích, cảnh quan: Phát Diệm nghĩa là phát sinh ra cái đẹp, tên nhà thờ do Nguyễn Công Trứ đặt. Nhà thờ đá Phát Diệm tọa lạc ở xã Lưu Phương, thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, cách thành phố Ninh Bình 30km theo quốc lộ 10, cách Hà Nội 120km theo quốc lộ 1A và quốc lộ 10. Khu nhà thờ có diện tích 22 mẫu.

Lịch sử hình thành và phát triển: Nhà thờ Phát Diệm được khởi công vào năm 1875 và đến năm 1898 thì cơ bản hoàn thành.

Quy mô, kiểu cách, giá trị kiến trúc, mỹ thuật, niên đại kiến trúc: Nhà thờ được xây dựng với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ 19. Từ hướng Nam đi vào nhà thờ Phát Diệm gồm các phần: Ao hồ, Phương Ðình, Nhà thờ lớn, ba hang đá nhân tạo và nhà thờ đá. Nét độc đáo của công trình này ở chỗ: mặc dù là nhà thờ Công giáo nhưng được mô phỏng theo những nét kiến trúc đình chùa truyền thống của Việt Nam.

Nhân vật được tôn thờ và những người có công trùng tu, xây dựng: Nhân vật chính được thờ trong nhà thờ là Chúa Jesu và đức mẹ Maria. Quần thể kiến trúc này được xây dựng bởi Linh mục Phêrô Trần Lục (còn gọi là Cụ Sáu – Linh mục ở giáo phận Phát Diệm từ năm 1865) và các giáo dân Công giáo trong hơn năm.

  • Những giá trị tài nguyên nhân văn khác gắn với nhà thờ: Lễ hội Giáng

Đánh giá chung: Nhà thờ đá Phát Diệm được mọi người đánh giá là nhà thờ đẹp nhất Việt Nam với kiến trúc độc đáo và quy mô, cùng với sự kết hợp hài hòa với thiên nhiên và cảnh quan xung quanh đã là nơi thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng và nghiên cứu.

2.2.2. Lễ hội

Ninh Bình là một tỉnh nằm ở Nam đồng bằng Bắc Bộ. Ở từng khu vực địa lý dày đặc các dấu ấn văn hóa truyền thống được thể hiện ở các công trình kiến trúc như đình, đền, chùa, miếu, phủ, lăng mộ, từ đường, các làng nghề thủ công truyền thống và những phong tục tập quán, lễ hội dân gian. Có 795 di tích được phân bố trên khắp 146 xã, phường, thị trấn trong tỉnh, có 225 ngôi chùa, 242 đình, hơn 328 đền, miếu, phủ, ngoài ra còn có 285 nhà thờ công giáo trong đó có 73 nhà thờ giáo xứ, 212 nhà thờ họ. Các di tích và danh thắng gắn liền với lễ hội và du lịch, tiêu biểu là đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành ở Cố đô Hoa Lư, chùa Bích Động, đền Thái Vi, khu sinh thái hang động Tràng An (huyện Hoa Lư, chùa Bái Đính, đền thờ Thánh Nguyễn, Thung Lá(huyện Gia Viễn), đền thờ Nguyễn Công Trứ, nhà thờ đá Phát Diệm (huyện Kim Sơn), khu cách mạng Quỳnh Lưu, Phủ Đồi (huyện Nho Quan), Đền Dâu, Đền Quán Cháo (TX.Tam Điệp)…cùng với 35 làng nghề truyền thống, tiêu biểu là nghề mộc xã Ninh Phong, chiếu cói Kim Sơn, chế tác đá mỹ nghệ Ninh Vân, thêu ren Ninh Hải…đó là những yếu tố quan trọng góp phần làm nên sắc diện đa dạng các lễ hội văn hóa của tỉnh Ninh Bình.

Hiện nay tỉnh Ninh Bình có 76 lễ hội truyền thống, trong đó cấp tỉnh quản lý 2, cấp huyện quản lý 21, cấp xã quản lý 53, lễ hội tổ chức ở đền là 19, ở chùa 11, ở đình 12, ở phủ 4, ở các địa điểm khác (làng, xã) là 26. Theo phong tục truyền thống hàng năm cứ vào dịp đầu xuân năm mới, các lễ hội được diễn ra thu hút mọi tầng lớp nhân dân địa phương và khách thập phương tham gia.

Bảng 2: Số lượng các lễ hội trên địa bàn tỉnh Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Bảng 3: một số lễ hội tiêu biểu và cấp xếp hạng

  • Lễ hội Cố đô Hoa Lư
  • Thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội: Hội được tổ chức vào ngày mồng 10 đến 13 tháng 3 âm lịch hàng năm tại xã Trường Yên, Huyện Hoa Lư.
  • Lịch sử hình thành và phát triển: Lễ hội Cố đô Hoa Lư đã được bắt đầu ngay khi nhà Lý dời đô về Thăng Long – Và trên nền móng của cung điện Hoa Lư, hai ngôi đền thờ vua Đinh và vua Lê được tạo dựng. Để có được một lễ hội như hiện nay là cả một quá trình mà trong đó hoà quyện những sự kiện lịch sử và truyền thuyết dân gian. Hình thức của lễ hội gồm có: Lễ rước nước, Lễ dâng hương, Lễ rước lửa, Tập trận cờ lau, Tế nữ quan, Kéo chữ, múa rồng lân, thổi cơm thi và những tiết mục biểu diễn, thi đấu quen thuộc đối với nhiều lễ hội truyền thống dân gian khác.
  • Quy mô lễ hội: Quy mô tổ chức lễ hội cấp tỉnh, với sự tham gia của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội và nhân dân trong tỉnh.
  • Nhân vật được tôn vinh trong lễ hội: Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ công đức vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.
  • Giá trị với hoạt động du lịch: Lễ hội là nơi mọi người tưởng nhớ về cội nguồn, có giá trị rất lớn với hoạt động du lịch của tỉnh cũng như của cả nước.
  • Thực trạng: Lễ hội được tổ chức hàng năm dưới sự quản lý của tỉnh Ninh Bình đã đóng góp vào doanh thu của tỉnh đáng kể góp phần nâng cao đời sống của nhân dân địa phương cũng như đã làm thay đổi bộ mặt của tỉnh rất nhiều trong những năm qua.
  • Đánh giá chung: Đây là một lễ hội lớn của huyện Hoa Lư cũng như của toàn tỉnh Ninh Bình. Lễ hội diễn ra thu hút được rất nhiều du khách thập phương tới tham dự đồng thời tham quan khu di tích Cố đô Hoa Lư – Kinh đô xưa của nước Đại Việt.

Lễ hội chùa Bái Đính

  • Thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội: Hội được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng giêng hàng năm tại thôn Sinh Dược xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn.
  • Lịch sử hình thành: Trước đây lễ hội được tổ chức ở chùa cổ chưa có nhiều người biết đến chủ yếu là người dân quanh khu vực đó tham dự. Từ năm 2003 chùa mới được xây dựng đến năm 2008 hoàn thành giai đoạn 1 từ đó lễ hội được tổ chức tại chùa mới thu hút được nhiều người thập phương tới tham dự.
  • Quy mô: Lễ hội được tổ chức ở quy mô huyện
  • Nhân vật được tôn vinh: Phật, Thần, Mẫu
  • Giá trị với hoạt động du lịch: Tuy là một lễ hội mới nhưng từ khi diễn ra lễ hội đã hấp dẫn được nhiều người hành hương tới lễ phật và tham dự lễ hội góp phần vào việc phát triển du lịch của tỉnh.
  • Thực trạng: Lễ hội vẫn được tổ chức hàng năm dưới sự quản lý của huyện Gia Viễn.
  • Phần lễ thường tổ chức dâng hương, tưởng nhớ các vị anh hùng có công với nước với dân.
  • Phần hội kéo dài từ 3 đến 5 ngày, tổ chức các trò chơi dân gian như: đánh cờ, đấu vật…
  • Đánh giá chung: Lễ hội là một trong những lễ hội có thời gian khá dài, diễn ra trong suốt mùa xuân thu hút nhiều du khách tới tham dự không chỉ là hành hương lễ phật mà còn chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng của ngôi chùa lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Lễ hội đền Thái Vi

  • Thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội: Hội được tổ chức hàng năm từ ngày 14 đến ngày 17 tháng 3 âm lịch tại thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư.
  • Lịch sử hình thành: Đây là một lễ hội dân gian có từ xa xưa, cũng không ai rõ lễ hội được tổ chức lần đầu tiên vào khi nào.
  • Nhân vật được tôn vinh trong lễ hội: Đây là dịp để nhân dân Ninh Bình và nhân dân cả nước tưởng nhớ công lao các vua Trần – những người có công lớn với dân với nước.
  • Quy mô: Lễ hội được tổ chức hàng năm dưới sự quản lý của huyện Hoa Lư, với sự tham gia của người dân địa phương và khách thập phương nhiều nơi. – Giá trị đối với hoạt động du lịch: Lễ hội chưa thực sự góp phần vào hoạt động du lịch của địa phương cũng như của toàn tỉnh, chưa thu hút được du khách ở nhiều nơi về tham dự
  • Đánh giá chung: Lễ hội Đền Thái Vi cũng là một trong những lễ hội tiêu biểu của tỉnh Ninh Bình, là lễ hội tưởng nhớ công ơn của các vua Trần được nhiều người quan tâm và tham dự.

2.2.3. Nghệ thuật ẩm thực

Ninh Bình là một trong những tỉnh nằm ở vùng duyên hải thuộc châu thổ sông Hồng, có những nét đặc thù riêng của nền văn minh lúa nước, của văn hóa sông Hồng. Là vùng đất kinh đô trước đây – hiện còn tồn tại những di tích văn hóa lịch sử của dân tộc và đặc biệt, những nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực vẫn còn được lưu truyền đến nay. Sự gắn kết giữa quá khứ và hiện tại đã tạo nên một nét văn hóa mang vẻ đẹp của vùng đất đồng chiêm trũng, nơi cuối cùng của vùng châu thổ sông Hồng.Về thăm Ninh Bình – một chuyến du lịch thật lý thú cho những người thích khám phá những cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và nhất là được thưởng thức những món ăn dân dã và cả những món “cao sang” của người Ninh Bình.

Ninh Bình được mọi người biết đến với sự nổi tiếng của Thịt dê – Cơm cháy. Đây là những đặc sản về ẩm thực của người Ninh Bình, ngoài ra còn có những món ăn mang đậm văn hóa lối sống của từng địa phương cũng được rất nhiều người biết đến như rượu Kim Sơn, cá rô Tổng Trường, mắm tép Gia Viễn, gỏi cá Nhệch Kim Sơn…Tất cả tạo nên một nét văn hóa ẩm thực riêng của người Ninh Bình hấp dẫn được du khách trong nước và quốc tế tìm hiểu và thưởng thức.

  • Thịt dê – đặc sản Ninh Bình
  • Nơi xuất xứ: Huyện Hoa Lư có nhiều những dãy đá vôi nên nghề nuôi dê
  • Hoa Lư rất phát triển.
  • Cách chế biến: Người ta bắt dê núi về làm long , thui vàng, mổ ra ướp với lá hương nhu hoặc lá cúc tần hơn 10 phút, rồi lọc lấy thịt dê ( để cả da ) đem nhúng vào nước sôi cho chin tái, sau đó thái nhỏ, mỏng đều. Lấy vừng đã rang giã dập, sả thái nhỏ, lá chanh, gừng, ớt tươi thái nhỏ, nước chanh, bột ngọt đổ vào thịt dê đã thái, tất cả trộn đều.
  • Cách thưởng thức: Tái dê phải ăn kèm với lá sung, chuối xanh, khế, lá mơ và không thể thiếu tương gừng để chấm.

Cơm cháy Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Cơm cháy Ninh Bình là một trong những món ăn đặc sản ẩm thực nổi tiếng của Ninh Bình. Địa bàn phát triển loại hình ẩm thực này chủ yếu là ở ven đường quốc lộ 1, thành phố Ninh Bình, huyện Hoa Lư thị xã Tam Điệp

Các yếu tố hình thành: Một trong những nguyên nhân quan trọng kích thích món cơm cháy Ninh Bình cũng như rượu Kim Sơn phát triển phải nói đến sức cung dồi dào của vựa lúa khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, nơi có đất đai màu mỡ phì nhiêu hàng năm cho một sản lượng lớn các loại lúa gạo ngon như: gạo tám Hải Hậu, dự, nếp hương… Từ khi Ninh Bình phát triển mạnh các khu du lịch, món đặc sản thịt dê núi cũng góp phần trợ giúp cơm cháy Ninh Bình phát triển vì nước sốt chan cơm cũng sử dụng thịt dê, hơn nữa thịt dê ít béo nên có thể ăn với cơm cháy mà không bị ngán. Hầu như các nhà hàng ăn ở đây đều cung cấp thịt dê núi đi kèm với cơm cháy.

Ngày nay, ở Ninh Bình có nhiều nơi kinh doanh món cơm cháy, nhưng món cơm cháy gia truyền của ông Hoàng Thăng thường được dân gian coi là nổi tiếng nhất. Nét độc đáo của cơm cháy Ninh Bình là từ nguyên liệu sở tại. Khác với các vùng khác từ cách chiên cho đến nước sốt đi kèm.

Cách chế biến: Cơm cháy bao gồm cơm, thịt bò hoặc tim, cật lợn sào với rau như hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua. Để cơm được ngon thì người ta dùng gạo nếp Hương, hạt gạo tròn và trong. Nấu than củi là tốt nhất. Phải để lửa thế nào đó cho thật đều, tạo cháy ở khắp đáy nồi, không chỗ nào dày chỗ nào mỏng. Nhất thiết phải nấu bằng nồi Cơm cháy lấy ra xong phải phơi nắng tự nhiên hai, ba nắng thì mới đạt. Khi bảo quản phải vệ sinh, để chỗ thoáng, tuyệt đối tránh ẩm mốc, lúc gần ăn mới chiên giòn. Nếu chiên để qua buổi, qua ngày, cơm sẽ bị hôi dầu và bã, không ngon.

Cách thưởng thức: Thịt bò thăn thái lát đem ướp gia vị và đem sào đều với các loại rau, sau đó đổ lên cơm cháy. Cơm cháy ngon có màu vàng nhạt, đều hạt, giòn mà vẫn dẻo, vị thơm cốm mới.

  • Rượu Kim Sơn

Nơi xuất xứ: Rượu Kim Sơn là tên gọi một loại rượu có thương hiệu được sản xuất từ huyện miền biển Kim Sơn, thuộc tỉnh Ninh Bình.

Đặc điểm: Rượu Kim Sơn thường có nồng độ cao, trong suốt, bọt tăm rượu càng to thì độ rượu càng cao. Ngày trước rượu được đựng trong các vò đất và nút lá chuối khô, rượu Kim Sơn khi uống vào cảm thấy rất thơm và êm dịu. Một đặc trưng của rượu là càng để lâu càng ngon. Đặc biệt rượu Kim Sơn có tác dụng rất tốt cho sức khỏe khi được ngâm với rắn, tắc kè, sao biển, bìm bịp .v.v. Cùng với những người Kim Sơn di cư, rượu Kim Sơn đã đi đến nhiều vùng của Việt Nam. Ngày nay rượu Kim Sơn đã được đóng chai và bán trên thị trường. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Kim Sơn là một huyện miền biển duy nhất của tỉnh Ninh Bình, đây là một trong những địa phương đầu tiên của cả nước đạt năng xuất lúa 5 tấn/ha (Cùng với Hải Hậu của Nam Định và Tiền Hải của Thái Bình). Các địa danh trên cùng nằm trong khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng nên rất giàu tài nguyên thiên nhiên như thủy hải sản và lương thực. Chính đặc điểm đó đã sản sinh và kích thích phát triển nghề nấu rượu trở thành các làng nghề truyền thống. Hiện nay có nhiều làng nghề chuyên về nấu rượu ở Kim Sơn như: Hòa Lạc, Ứng Luật .v.v. nhưng nhiều nhất và nổi tiếng hơn cả vẫn là nghề nấu rượu ở xã Lai Thành.

Cách chế biến: Lúa nếp gặt về phơi khô, hong sạch cho vào chum bảo quản để nấu rượu. Nếu rượu được nấu từ nếp chiêm gọi là rượu chiêm và rượu được nấu từ gạo nếp vụ mùa thì gọi là rượu mùa. Men rượu được làm từ những gia đình có kinh nghiệm lâu đời tại địa phương nên rất thơm và khô. Để có men quý người ta cho vào đó một số dược liệu có tác dụng thông khí huyết, diệt khuẩn. Để có được rượu ngon người nấu phải có kinh nghiệm lâu năm, nhất là việc bảo quản ủ rượu trong các điều kiện thời tiết và môi trường khác nhau. Đặc điểm nguồn nước ủ rượu và nấu rượu cũng là nhân tố quan trọng quyết định độ ngon của rượu. Một nồi rượu tùy thuộc vào quy mô lớn hay nhỏ có thể cho từ 5 – lít rượu.

Rượu Cần Nho Quan

  • Nơi xuất xứ: Huyện miền núi Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
  • Đặc điểm: Rượu cần Nho Quan là loại rượu không qua chưng cất lửa.
  • Cách nấu: Người ta dùng gạo nếp xay (gạo nứt) nấu thành cơm trộn đều với men đem ủ vào trong ang hoặc vò sành từ 3 tháng trở lên mới đem ra uống.
  • Cách thưởng thức: Khi sắp uống, đem đổ nước vào ang. Nước đầu bao giờ cũng ngon và ngọt, đổ nước tiếp, rượu sẽ nhạt dần. Uống rượu cần không dùng chén, mà phải có các cần rượu làm bằng thân các cây trúc được thông rỗng bên trong cắm vào ang rượu.

Rượu cần ngon hay không là do men làm có chất lượng không. Men rượu phải là vỏ cây mun cùng với củ giềng, củ gừng, lá ổi xanh theo tỷ lệ nhất định, đem giã vắt lấy nước rồi trộn với bột gạo nếp. Sau đó nặn thành bánh tròn bằng quả ổi nhỏ ủ vào trấu cho phồng lên, để khô khoảng 10 ngày mới dùng được.

  • Mắm tép Gia Viễn
  • Nơi xuất xứ: Gia Viễn là nơi có nhiều diện tích đồng chiêm trũng, nhiều người làm nghề riu tép và làm mắm tép ngon thứ mắm mặn mòi, dân dã.
  • Cách chế biến:

Để làm được mắm tép ngon người ta chọn loại tép diu. Tép diu phải là tép già, thân tròn, nhỏ con, màu xanh lam. Điều quan trọng nữa là tép phải tươi, đem rửa sạch, để khô. Sau đó lấy thính gạo rang vàng, giã nhỏ, cùng với muối trộn đều với tép theo tỷ lệ, bỏ vào hũ, có thể đổ thêm ít nước đã đun sôi để nguội, rồi bịt kín, để một tháng trở lên mới đem nấu chín ăn. Bát mắm tép được múc ra mầu đỏ tươi, có mùi thơm ngọt, rất hấp dẫn.

  • Cách thưởng thức: Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Người ta có thể rang mắm tép với thịt ba chỉ. Ăn mắm tép Gia Viễn không cần cho thêm bột ngọt, vẫn có vị ngon, ngọt, đậm đà. Ngày nay mắm tép Gia Viễn đã trở thành món ăn đặc sản của các bữa tiệc khi có thêm đĩa rau ngon.

Thường thì để thưởng thức bát mắm tép theo cách đơn giản nhất chỉ cần ít rau luộc chấm cùng mắm nguyên chất là đã thấy ngon. Công phu hơn chút là thêm đĩa thịt ba chỉ luộc chín, thái mỏng cùng ít rau thơm, dăm quả ớt.

  • Canh chua cá rô Tổng Trường

Nơi xuất xứ: Tổng Trường nay là xã Trường Yên, trước kia thuộc huyện Gia Viễn (Ninh Bình). Cá rô ở đây sẵn cái ăn quanh năm nên to và béo vàng, thịt rắn và ngọt. Loại cá này có thể chế biến thành nhiều món ăn như: rang, rán, nấu canh hoặc kho khô… Nếu uống rượu, người ta thích dùng món rang hoặc rán giòn, còn ăn cơm thường dùng món canh và kho.

  • Cách chế biến:

Người ta luộc cá rồi gỡ lấy xương giã (nghiền) lọc lấy nước ngọt nấu canh còn thịt cá rô xào lên cùng các gia vị gừng giã nhỏ, nước mắm ngon, nấu cùng rau cải xanh là thích hợp nhất. Canh chua nhưng không hẳn là chua. Nó có cái chua chua, ngọt ngọt, chua chua của cải chua, của nước dưa, ngọt mát của cà chua, đậu phụ, ngậy, bùi, giòn và thơm của cá rô, tất cả cùng hoà quyện vào nhau làm thành cái hấp dẫn của món đặc sản này.

  • Cách thưởng thức: Canh chua cá rô ăn với cơm trong bữa ăn hàng ngày

2.2.4. Nghề và làng nghề thủ công truyền thống

Ninh Bình hiện có trên 40 nghề thủ công. Những nghề được bảo tồn và phát triển bền vững, ngày càng phát huy được tiềm năng, thế mạnh tiêu biểu là: nghề chế tác đá (ở xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư), nghề thêu ren (tập trung ở xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư và một số địa phương), nghề chế tác cói (ở địa bàn huyện Kim Sơn), nghề mộc (tập trung nhiều ở xã Ninh Phong, nay thuộc thành phố Ninh Bình), nghề sành gốm ở Long Thịnh (Nho Quan), nghề mây tre đan ở nhiều địa phương.

Mỗi nghề cổ truyền thường có nguồn gốc gắn liền với một vị Thành hoàng, một vị tổ nghề là người có công lao truyền dạy kỹ năng hoặc khẩn hoang lập ấp thời xưa. Cội nguồn mỗi nghề nghiệp, dù đã được huyền thoại hoá thì đó vẫn là những dấu ấn, sắc thái văn hoá đáng tự hào của nhân dân địa phương. Các nghề truyền thống tiêu biểu ở Ninh Bình đều trải qua những thăng trầm, biến cải. Quá trình bảo tồn, phát triển về quy mô các làng, vùng nghề, nâng cao giá trị của sản phẩm đều phải dựa vào những điều kiện cơ bản: truyền thống nghề nghiệp, số nghệ nhân và thợ lành nghề, nguồn nguyên vật liệu, và đặc biệt là nhu cầu tiêu thụ sản phẩm. Từ lâu đời, các nghề truyền thống ở Ninh Bình, cũng như trong cả nước được hình thành và lưu truyền theo lối gia truyền, “tộc truyền” lâu bền qua bao thế hệ, triều đại, song nhìn chung là nhỏ lẻ, chế tác hoàn toàn bằng thủ công. Ngày nay, quy trình chế tác sản phẩm đã qua nhiều tiến bộ. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Hiện tại và trong tương lai, nghề truyền thống ở Ninh Bình, đặc biệt là những nghề tiêu biểu chắc chắn sẽ không ngừng vươn dậy và phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh trong điều kiện, vận hội mới.

  • Chạm khắc đá Ninh Vân (Hoa Lư )
  • Vị trí địa lý: Làng nghề Chạm khắc đá Ninh Vân thuộc Xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
  • Lịch sử hình thành: Làng nghề này đã có từ rất lâu đời, qua đôi bàn tay của biết bao thế hệ, cùng với những biến cải thăng trầm của lịch sử vẫn được lưu truyền tới ngày nay.
  • Nghệ thuật sản xuất và sản phẩm:
  • Xưa kia, nghề đá chủ yếu chế tác ra những sản phẩm thông dụng như chậu cảnh, cối đá, tảng đá cổ bồng, những con giống làm cảnh. Những sản phẩm nghệ thuật cao cấp bằng đá thường chỉ tập trung ở những công trình văn hoá – tín ngưỡng như nhà thờ, đền, chùa mà các nghệ nhân địa phương được mời đến chế tác.
  • Ngày nay, nghệ nhân đá Ninh Vân có thể vừa sản xuất tại chỗ, kể cả sản phẩm có quy mô lớn, nặng tới nhiều tấn, vừa có thể chế tác lưu động tại bất kỳ nơi nào trong cả nước, với nhiều loại sản phẩm đá như: tượng thờ, tượng đài, tượng nghệ thuật, bể cảnh, thống đá, các con giống, tứ linh, lư hương, cây đèn, cột trụ…

Với ưu thế về nguồn nguyên vật liệu đá tại địa phương, kỹ năng, bí quyết, và truyền thống nghề nghiệp, nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân có thể đáp ứng hầu như bất kể yêu cầu nào của khách hàng từ khắp mọi miền đất nước.

Thực trạng khai thác phục vụ du lịch: Làng nghề cũng được nhiều du khách biết đến với nhiều sản phẩm độc đáo. Tuy nhiên làng nghề vẫn chưa thực sự đi vào hoạt động du lịch phục vụ cho du lịch.

Nghề thêu ren Văn Lâm ( Ninh Hải – Hoa lư )

Vị trí địa lý: Làng nghề thêu ren Văn Lâm thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. lịch sử hình thành và phát triển: Tương truyền, năm 1258, khi vua Trần Thái Tông tròn 40 tuổi, nhường ngôi cho con, lên làm Thái Thượng Hoàng đã về vùng núi Vũ Lâm (xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư) tu hành và lập căn cứ địa chỉ đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 (1285). Bà Trần Thị Dung là vợ Thái sư Trần Thủ Độ theo triều đình nhà Trần về đây đã truyền dạy cho nhân dân thôn Văn Lâm nghề thêu ren, từ đó nghề được lưu truyền và ngày càng phát triển.

Nghệ thuật sản xuất và sản phẩm: Bằng những sợi chỉ mong manh, đủ màu sắc, với đôi bàn tay khéo léo, bộ óc giàu trí sáng tạo, người Văn Lâm đã thả hồn vào chỉ, vào vải để tạo nên những sản phẩm độc đáo và đa dạng như: tranh phong cảnh, ga trải giường, rèm cửa, gối, khăn trải bàn,… Đây sẽ là những món quà lưu niệm ấn tượng dành cho du khách mỗi khi tới tham quan Ninh Bình.

Làng nghề mỹ nghệ cói Kim Sơn Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Vị trí địa lý: Làng nghề Chiếu cói Kim Sơn thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

Những yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội nuôi dưỡng làng nghề: Qua hàng trăm năm quai đê lấn biển, Kim Sơn có những bãi sa bồi mênh mông, là xứ sở của cây cói, cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào để nghề chế tác sản phẩm cói không ngừng phát triển.

Những năm gần đây, kinh tế thị trường phát triển, đời sống không ngừng được nâng cao thì nhu cầu về các sản phẩm phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân cũng gia tăng, trong đó có nhu cầu về các sản phẩm bằng cói. Chính vì thế, nghề chế tác sản phẩm cói đã đem lại nguồn thu nhập chiếm tỷ trọng đáng kể cho nhân dân địa phương.

Sản phẩm: Trước đây, sản phẩm bằng cói ở Kim Sơn chủ yếu là Chiếu cói (chiếu cói Kim Sơn rất bền và đẹp, khó có nơi nào sánh nổi). Ngày nay, các sản phẩm được chế tác từ cói rất phong phú, đa dạng. Ngoài chiếu cói còn có thảm, làn, khay, hộp, đĩa, cốc, tách, mũ, túi xách,… cũng đều được làm từ cây cói.

Giá trị đối với hoạt động du lịch: Sau khi tham quan Quần thể kiến trúc Nhà thờ đá Phát Diệm, du khách không quên tìm mua một vài sản phẩm làm từ cói ở các cửa hàng lưu niệm ngay cạnh Nhà thờ đá hay dọc theo thị trấn Phát Diệm, để lưu giữ kỷ niệm của chuyến du lịch và làm quà tặng cho bạn bè, người thân.

2.2.5. Nghệ thuật dân gian truyền thống

Ninh bình là một tỉnh năm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ nên nơi đây cũng có nhiều loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống như hát xẩm ,hát chầu văn, đặc biệt nơi đây được coi là cái nôi của nghệ thuật hát chèo.

  • Chèo

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.

  • Lịch sử hình thành:

Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ – Tĩnh trở ra. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

  • Các đặc trưng của chèo: + Nội dung:

Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên.

Chèo luôn gắn với chất “trữ tình”, thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.

  • Nhân vật trong chèo:

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v…Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò…”Hề” là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

  • Kỹ thuật kịch:

Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.

Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200.

  • Nhạc cụ:

Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói ” phi trống bất thành chèo” chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v…

  • Chầu văn

Lịch sử hình thành: Về nguồn gốc hình thành, căn cứ vào một số nguồn sử sách thì sớm nhất nghệ thuật hát chầu văn, “hát trước mặt đế vương” đã hình thành từ thời Trần (thế kỷ XIII) ở nước ta.

Hình thức biểu diễn: Chầu văn cổ truyền là một loại hình nghệ thuật đàn hát, có kết hợp với lên đồng (biểu diễn trong vai các chư vị thần linh). “Chầu văn” nghĩa là: Văn chầu Thánh. Hát chầu văn nghĩa là hát những bài văn để chầu Thánh. Đây vốn là một thể thức diễn xướng tổng hợp, gồm có đàn, hát, múa…, một thể thức biểu hiện có dung nạp trong đó các yếu tố nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian.

Địa điểm biểu diễn: Chầu văn xưa kia được lưu hành chủ yếu trong không gian các đền, miếu, phủ và tập trung phổ biến tại các lễ hội truyền thống, khắp các địa phương trong nước. Với hát và diễn xướng (múa), chầu văn chính là một dạng thức nghệ thuật dân gian (folklore) tổng hợp. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Các làn điệu dân ca: Sự hình thành, lưu truyền, bổ sung, giao thoa, biến hoá của các dạng thức nghệ thuật dân gian của dân tộc nói chung, trong đó có nghệ thuật hát chầu văn (bao gồm cả đàn, hát và diễn xướng) là cả quá trình lâu dài, phức tạp.

Về âm nhạc, đến nay nghệ thuật hát chầu văn đã trải qua nhiều sự biến đổi, thêm bớt về tiết tấu, điệu thức.

Không gian của chầu văn cổ truyền: Là nơi trước điện thờ. Hát chầu văn trong các đền, phủ, miếu thường có kết hợp với hầu bóng (nhập vai mẫu hay một chư vị thần thánh nào đó). Người xưa quan niệm đó là một phương cách hữu hiệu để mọi người có thể giao tiếp với các mẫu, với các chư vị nhân thần để bày tỏ nguyện vọng và nỗi niềm thầm kín. Đặc biệt, các mẫu trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam là biểu tượng có cội nguồn từ sâu thẳm nơi ký ức của cả cộng đồng dân tộc…

Trong mỗi dịp lễ hội, ngày xuân, dịp “Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ”, các cung văn (người đàn, hát chầu văn) được dịp trổ tài những ngón đàn, điệu hát đặc sắc và trao đổi, học hỏi lẫn nhau.

Trong cuộc đời “tác nghiệp” của mình, mỗi cung văn thường đi đây đó nhiều nơi để vừa hành nghề, vừa học hỏi đồng nghiệp. Có những cung văn đã nhập tâm được hầu hết các giá văn chầu mẫu, chầu các ông hoàng, bà chúa. Song có lẽ hơn ai hết, các cung văn người địa phương (nơi có đền, phủ thường có hát chầu văn) có điều kiện thuận lợi để tiếp thu được tinh hoa sáng tạo đặc sắc về đàn và hát được quy tụ về đây từ bốn phương.

Từ trong các đền, phủ, miếu với vai trò là một phương tiện nghệ thuật phục vụ tín ngưỡng, nghệ thuật hát chầu văn đã “chuyển mình”, được đưa lên sân khấu, truyền lên làn sóng điện vào khoảng đầu thập kỷ sáu mươi của thế kỷ trước để đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hoá nghệ thuật của đông đảo nhân dân. Đó dường như là một quy luật. Đã có người nhận xét: “Người đương thời hát dân ca theo tâm trạng và nhạc điệu của thời đại mình. Tới giai đoạn lịch sử chín muồi, bản thân nó sẽ bùng lên và trở thành một “cái khác” mới hơn, mạnh hơn, tiến bộ hơn. Sự chuyển mình của một vùng dân ca nào đó lên sân khấu là một nhu cầu chính đáng và cấp bách trong đời sống văn hoá”.

Nói một cách khác, nghệ thuật hát chầu văn vốn từ nơi thờ cúng, từ không gian tâm linh xưa kia, được phổ biến rộng rãi trong đời thường, chính là từ cõi thiêng bước ra cõi tục.

Đến nay đã có nhiều bài hát quen thuộc có tên gọi mới là hát văn. Về cơ bản, các bài hát văn đều có nội dung ca ngợi đất nước, quê hương, ngợi ca đời sống, nhịp sống mới, với những chất liệu âm nhạc đặc sắc, tươi vui, sống động được chắt lọc từ âm nhạc chầu văn cổ truyền.

2.3. Thực trạng hoạt động du lịch

Các tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh Ninh Bình hiện cũng đang trong tình trạng khai thác thiếu cân đối, thiếu hiệu quả. Ngoài khu vực Cố đô Hoa Lư, chùa Bích Động, đền Thái Vi là những địa bàn thường tập trung đông khách du lịch, tuy nhiên các khu vực này đã được quy hoạch nên việc tổ chức phân luồng giao thông đi lại tương đối thuận lợi. Một số điểm khác như Chùa Dâu, đền Quán Cháo, núi chùa Non Nước là những điểm du lịch tín ngưỡng tâm linh lớn, khách hành hương đến đây không chỉ là người dân trong tỉnh mà ở khắp cả nước, trong khi 2 điểm này lại nằm sát đường quốc lộ 1A nhưng chưa được quan tâm khai thác phục vụ du lịch. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong những năm gần đây đã được xây dựng tương đối hợp lý, rộng khắp toàn tỉnh ô tô đi được tới tất cả các xã trong tỉnh, việc đi lại thuận tiện, nhanh chóng. Toàn tỉnh hiện có 2.278,2km đường bộ và 496km đường sông với các tuyến quan trọng nối liền thành phố với các huyện lỵ và tỏa đi các xã. Các tuyến đường từ tỉnh xuống huyện được nâng cấp rải nhựa ô tô đi đến 100% số xã phường.

Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch được chú trọng, nhiều hạng mục công trình được đôn đốc thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng như khu du lịch sinh thái Tràng An, dự án nạo vét tuyến giao thông thuỷ Bích Động – Hang Bụt – Thạch Bích – Thung Nắng… Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch được đẩy mạnh. Công tác vệ sinh môi trường, an ninh trật tự được đảm bảo. Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng Quy chế quản lý hoạt động bán hàng, xe ôm, chụp ảnh, trông giữ xe tại Khu chùa Bái Đính, xây dựng bài thuyết minh về Khu du lịch tâm linh núi chùa Bái Đính; phối hợp với Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường, UBND xã Gia Sinh mở lớp đào tạo, cấp thẻ chụp ảnh, xe ôm, người bán hàng.

Để đảm bảo an ninh trật tự khu vực núi chùa Bái Đính, Giám đốc công an tỉnh đã ra quyết định thành lập cụm an ninh khu vực Bái Đính, gồm 5 – 6 cán bộ chiến sĩ công an chính quy, phụ trách cụm 4 xã Gia Minh, Gia Phong, Gia Lạc, Gia Sinh. Ngay sau khi thành lập, Cụm an ninh này đã tích cực phối hợp với công an các xã trong khu vực, nhất là công an xã Gia Sinh duy trì thường xuyên chế độ trực, bảo vệ tại địa bàn khu vực quanh núi chùa Bái Đính.

Tổng doanh thu thuần túy du lịch của tỉnh Ninh Bình trong những năm qua có sự tăng trưởng đáng kể. Nếu như năm 1995 tổng doanh thu của toàn ngành du lịch mới đạt 8,55 tỷ đồng thì đến năm 2000 đã tăng lên gấp 3,27 lần để đạt mức 28 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 1995 – 2000 là 26,78%/năm.

Đến năm 2005 ( tức là sau 10 năm thực hiện quy hoạch ), doanh thu du lịch thuần đã đạt 63,18 tỷ đồng tăng gấp 7,39 lần so với khi bắt đầu thực hiện quy hoạch, năm 2006 toàn ngành du lịch Ninh Bình thu được 87,98 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng trung bình về doanh thu du lịch giai đoạn 2001 – 2006 đạt 23,6%/năm. Chính do điểm xuất phát của du lịch Ninh Bình thấp, nên trong giai đoạn đầu của sự phát triển tốc độ tăng trưởng ở mức cao, những năm tiếp theo du lịch Ninh Bình mặc dù đã tăng chậm lại nhưng vẫn duy trì được mức tăng trưởng đáng khích lệ.

Với mức tăng trưởng về doanh thu du lịch nói trên, ngành du lịch Ninh Bình cũng góp phần đáng kể trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

2.4. Đánh giá chung về tài nguyên du lịch tỉnh Ninh Bình

Trên cơ sở kế thừa những tài liệu điều tra, nghiên cứu của về tài nguyên du lịch tự nhiên của Sở văn hóa thể thao và du lịch Ninh Bình cùng với kết quả điều tra của bản thân tác giả về tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình, tôi đưa ra những đánh giá tổng hợp chung nhất về tài nguyên du lịch của tỉnh Ninh Bình như sau:

Ninh Bình với vị trí địa lý thuận lợi, lịa nằm trong vùng tiếp giáp giữa đồng bằng và miền núi, lại nằm trong một khu vực trũng tiếp giáp Biển Đông, tạo cho tỉnh có một dạng địa hình đa dạng, có nhiều tiềm năng để phát triển các loại hình du lịch: Du lịch tham quan nghỉ dưỡng, du lịch thể thao mạo hiểm, du lịch vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa – tín ngưỡng tâm linh… Các di tích danh thắng như Vườn Quốc Gia Cúc Phương, Cố đô Hoa Lư, chùa Bái Đính, Tam Cốc – Bích động, khu bảo tồn thiên nhiên ngập nước Vân Long…đều có sức hấp dẫn đối với du khách. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Với lịch sử hình thành lâu đời, lại có truyền thống đấu tranh anh dũng, cần cù,lao động chất phác, thật thà đã tạo nên một sắc thái văn hóa đặc trưng riêng có của Ninh Bình. Các lễ hội như lễ hội Trường Yên, lễ hội đền Thái Vi, lễ hội chùa Bái Đính…Các làng nghề thủ công truyền thống như làng thêu ren Ninh Hải, làng nghề chiếu cói Kim Sơn, làng chạm khắc đá Ninh Vân…góp phần tạo nên một hệ thống tài nguyên văn hóa hấp dẫn, có giá trị để phát triển du lịch.

Với vị trí thuận lợi trong giao thông, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có cả đường sắt và đường bộ chảy qua thuộc hệ thống đường giao thông huyết mạch xuyên suốt Bắc – Nam, có đường Hồ Chí Minh chạy qua…nếu biết liên kết với các tỉnh, thành phố lớn thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh miền núi Tây Bắc và Trung Bộ thì sẽ tạo được những tuyến du lịch hấp dẫn, có khả năng đón tiếp cả khách du lịch nội địa và quốc tế.

Đánh gia chung theo tác giả Đặng Duy Lợi căn cứ vào ý nghĩa thực tiễn đặt ra trước yêu cầu đánh giá cần dựa vào 5 yếu tố chính để đánh giá sau đây:

  • Độ hấp dẫn

Độ hấp dẫn là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu để thu hút khách du lịch. Nó có tính chất tổng hợp và thường được xác định bằng vẻ đẹp của phong cảnh, sự đa dạng của địa hình, sự thích hợp của khí hậu, sự đặc sắc và độc đáo của các hiện tượng và di tích tự nhiên.

Độ hấp dẫn của khu vực đánh giá có thể được đánh giá theo 4 bậc tương ứng với mức độ thuận lợi với các chỉ tiêu cụ thể như sau:

  1. Rất hấp dẫn: Có trên 5 phong cảnh đẹp, đa dạng. Có 6 hiện tượng di tích đặc sắc, độc đáo đáp ứng được trên 5 loại hình du lịch.
  2. Khá hấp dẫn: Có 3 – 5 phong cảnh đẹp, đa dạng. Có 2 hiện tượng di tích đặc sắc, đáp ứng 3 – 5 loại hình du lịch.
  3. Trung bình: Có 1 – 2 phong cảnh đẹp. Có 1 hiện tượng di tích đáp ứng 1-2 loại hình du lịch.
  4. Kém: Phong cảnh dơn điệu đáp ứng 1 loại hình du lịch.

Xác định độ hấp dẫn tại các huyện, thị trong tỉnh Ninh Bình, căn cứ vào những hiện tượng di tích đặc sắc, những cảnh quan nhân văn tiêu biểu, có chất lượng cao, đồng thời kết hợp với khả năng số loại hình du lịch đối với mục đích đi du lịch của khách du lịch. Cụ thể được biểu hiện qua bảng sau:

Bảng 6: Độ hấp dẫn khách du lịch

Đánh giá độ hấp dẫn của 8 huyện, thị trong tỉnh Ninh Bình, tính trung bình cộng để đưa ra được đánh giá chung nhất cho toàn tỉnh là ở mức độ khá hấp dẫn tương ứng với mức điểm là 9 điểm.

Căn cứ vào bảng trên có thể thấy Hoa Lư là điểm rất hấp dẫn khách du lịch với nhiều tài nguyên nhân văn và đa dạng loại hình du lịch, có 6 điểm có sức hút khá hấp dẫn khách du lịch là: Kim Sơn, TP Ninh Bình, Yên Khánh, Yên Mô, Nho Quan, Gia Viễn và có 2 điểm có sức háp dẫn khách du lịch trung bình là TX Tam Điệp và huyện Yên Khánh.

2. Thời gian hoạt động du lịch Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Thời gian hoạt động du lịch được xác định bởi số thời gian thích hợp nhất của các điều kiện khí hậu đối với sức khỏe của khách du lịch và số thời gian thuận lợi nhất cho việc triển khai các hoạt động du lịch.

Thời gian hoạt động du lịch quyết định tính chất thường xuyên hay mùa vụ của hoạt động du lịch, từ đó liên quan trực tiếp đến phương hướng khai thác, đầu tư, kinh doanh phục vụ tịa điểm du lịch.

Thời gian hoạt động du lịch ở của khu vực đánh giá có thể được đánh giá theo 4 bậc tương ứng với mức độ thuận lợi với các chỉ tiêu cụ thể như sau:

  1. Rất dài: Có trên 200 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch và trên 180 ngày trong năm, có điều kiện khí hậu thích hợp nhất với sức khỏe con người.
  2. Khá dài: có 150 – 200 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch và 120 – 180 ngày có điều kiện khí hậu thích hợp nhất với sức khỏe con người.
  3. Trung bình: có 100 – 150 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch và 90 – 120 ngày có điều kiện khí hậu thích hợp nhất với sức khỏe con người.
  4. Ngắn:có dưới 100 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch và 90 ngày có điều kiện khí hậu thích hợp nhất với sức khỏe con người.

Số ngày có thể triển khai tốt hoạt động du lịch và số ngày có điều kiện khí hậu thích hợp nhất với sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Ninh Bình được thể hiện trong bảng sau:

Bảng 7: Thời gian hoạt động du lịch

Đánh giá thời gian hoạt động của 8 huyện, thị trong tỉnh Ninh Bình, tính trung bình cộng để đưa ra được đánh giá chung nhất cho toàn tỉnh là ở mức độ khá thuận lợi tương ứng với mức điểm là 9,3 điểm.

Quan sát bảng ta thấy những huyện có thời gian hoạt động du lịch rất dài là huyện Hoa Lư, và Kim Sơn. Những huyện có thời gian hoạt động du lịch khá dài là Tp Ninh Bình, Gia Viễn, Nho Quan, Yên Mô, Yên Khánh. Thị xã Tam Điệp là nơi có số ngày hoạt động du lịch ngắn nhất trên địa bàn tỉnh.

  1. Sức chứa của khách du lịch

Sức chứa của khách du lịch đối với mỗi khu vực là tổng sức chứa tại mỗi địa điểm du lịch. Sức chứa khách du lịch phản ánh khả năng và quy mô triển khai hoạt động du lịch tai mỗi điểm du lịch và được xác định bằng các chỉ tiêu đã được xác lập qua khảo sát, thiết kế, thực nghiệm và kinh nghiệm thực tế:

  1. Rất lớn: Có sức chứa trên 1000 người/ngày
  2. Khá lớn: Có sức chứa 500 – 1000 người/ngày
  3. Trung bình: Có sức chứa 100 – 500 người/ngày
  4. Nhỏ: Có sức chứa dưới 100 người/ngày

Sức chứa khách du lịch tại các huyện và thị trên địa bàn tỉnh Nình Bình thể hiện trong bảng sau:

Bảng 8: Sức chứa khách du lịch Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Đánh giá sức chứa khách du lịch của 8 huyện, thị trong tỉnh Ninh Bình, tính trung bình cộng để đưa ra được đánh giá chung nhất cho toàn tỉnh là ở mức độ khá lớn tương ứng với mức điểm là 5,2 điểm.

Như vậy chỉ có các điểm du lịch ở Hoa Lư là có sức chứa khách du lịch rất lớn so với các huyện, thị khác trong tỉnh. Những huyện có sức chứa khá lớn là TP Ninh Bình, Gia Viễn, Nho Quan, Kim Sơn. Những huyện có sức chứa trung bình là Yên Mô, Yên Khánh.Tam Điệp là nơi có sức chứa khách du lịch nhỏ nhất.

  1. Vị trí của điểm du lịch

Vị trí của điểm du lịch đối với nơi cung cấp nguồn khách du lịch chủ yếu có ý nghĩa rất quan trọng trong công việc triển khai hoạt động du lịch ở đó.

  1. Rất thích hợp: Khoảng cách 10 – 100km, thời gian đi đường nhỏ hơn 3h, có thể đi bằng 2 – 3 loại phương tiện thông dụng.
  2. Khá thích hợp: Khoảng cách 100 – 200km, thời gian đi đường 3 – 4h, có thể đi bằng 2 – 3 loại phương tiện thông dụng.
  3. Trung bình: Khoảng cách trên 200 – 500km, thời gian đi 5h, có thể đi bằng 1 – 2 loại phương tiện thông dụng.
  4. Kém thích hợp: Khoảng cách trên 500km, thời gian đi đường lớn hơn 5h, có thể đi bằng 1 – 2 loại phương tiện thông dụng.

Vị trí của điểm du lịch được xác định dựa trên cơ sở khoảng cách từ nơi cung cấp nguồn khách du lịch đến điểm du lịch và loại phương tiện giao thông có thể tới được điểm du lịch cũng như thời gian đến điểm du lich. Xác định địa bàn du lịch Ninh Bình lấy thủ đô Hà Nội làm trung tâm đến các điểm du lịch trong tỉnh. Như vậy TP Ninh Bình là điểm cơ bản thuận lợi nhất. Cụ thể được xác định như sau:

Bảng 9: Vị trí của điểm du lịch

Đánh giá vị trí điểm du lịch của 8 huyện, thị trong tỉnh Ninh Bình, tính trung bình cộng để đưa ra được đánh giá chung nhất cho toàn tỉnh là ở mức độ khá thích hợp tương ứng với mức điểm là 5,5 điểm.

Nhìn trên bảng tổng hợp thấy được hầu hết các huyện, thị trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có vị trí khá thuận lợi cho hoạt động du lịch xuất phát từ trung tâm TP.Ninh Bình. Những huyện có vị trí rất thích hợp là huyện Hoa Lư, TX.Tam Điệp, những huyện còn lại đều có vị trí khá thuận lợi cho việc di chuyển với khoảng cách gần và có thể di bằng 2 – loại phương tiện thông dụng.

  1. Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật du lịch Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật du lịch có ý nghĩa quyết định đến hoạt động du lịch, nếu thiếu nó thì hoạt động du lịch không có điều kiện thuận lợi để tiến hành, thậm chí có khi phải hoãn hoặc nếu có triển khai thì sẽ có những tác động tiêu cực làm phương hại tới độ bền vững của môi trường tự nhiên. Nơi nào chưa xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch dù có điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thuận lợi thì cũng chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng.

  1. Rất tốt: Có cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ, đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
  2. Khá tốt: Có cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch tương đối đồng bộ, đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn quốc gia.
  3. Trung bình: Có được một số cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch nhưng chưa đồng bộ, chưa đủ đủ tiện nghi.
  4. Kém: còn thiếu nhiều cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch, số đã có thì có chất lượng thấp và có tính chất tạm thời.

Đối chiếu với những mức độ thích hợp theo tiêu chuẩn đặt ra cho việc xác định điểm – tuyến du lịch và dựa trên cơ sở đánh giá thực trạng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật. Hệ số điểm ở các huyện, thị được xác định như sau:

Bảng 10: Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật

Đánh giá cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch của 8 huyện, thị trong tỉnh Ninh Bình, tính trung bình cộng để đưa ra được đánh giá chung nhất cho toàn tỉnh là ở mức độ trung bình tương ứng với mức điểm là 6 điểm.

Theo đánh giá tổng hợp trên có TP Ninh Bình và huyện Hoa Lư có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật khá tốt. Những huyện có mức độ trung bình là Gia Viễn, Nho Quan, TX Tam Điệp, Kim Sơn. Còn lại hai huyện Yên Mô Và Yên Khánh có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật kém.

Thông qua năm chỉ tiêu để phân định mức độ tầm quan trọng của các điểm du lịch có trên lãnh thổ. Từ đó xác định những tuyến du lịch cơ bản và đề ra định hướng khai thác cho từng thời kỳ trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch theo lãnh thổ.

Mặt khác đối với việc xác định điểm – tuyến du lịch, vai trò của mỗi chỉ tiêu có ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tầm quan trọng của các chỉ tiêu đặt ra một hệ số thích hợp bao gồm: Chỉ tiêu có ý nghĩa rất quan trọng: Hệ số 3; Chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng: Hệ số 2 và chỉ tiêu có ý nghĩa hệ số 1. Như vậy theo mức độ quan trọng của chỉ tiêu có 3 mức điểm:

  • Những chỉ tiêu rất quan trọng có thang điểm là: 12, 9, 6, 3
  • Những chỉ tiêu quan trọng: 8,6,4,2
  • Những chỉ tiêu có ý nghĩa: 4, 3, 2,1
  • Những chỉ tiêu được xác định có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định điểm tuyến du lịch có hệ số 3 bao gồm: Độ hấp dẫn; thời gian hoạt động du lịch; cơ sở hạ tầng; vật chất kỹ thuật du lịch.
  • Những chỉ tiêu được xác định có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định điểm – tuyến du lịch có hệ số 2 bao gồm: sức chứa của khách du lịch và vị trí điểm du lịch.
  • Chỉ tiêu có ý nghĩa đối với việc xác định điểm – tuyến du lịch là mức độ phá hủy của các thành phần tự nhiên.

Điểm đánh giá tổng hợp của các chỉ tiêu theo 4 mức độ và hệ số của nó thể hiện như sau:

Bảng 4: Điểm đánh giá tổng hợp các chỉ tiêu Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

Điểm đánh giá bao gồm số điểm đánh giá riêng của từng yếu tố và số điểm đánh giá tổng hợp.

Điểm đánh giá riêng của từng yếu tố là số điểm của các bậc đánh giá nhân với hệ số của yếu tố. Như vậy, điểm đánh giá riêng cao nhất của yếu tố có hệ số cao nhất là 12 điểm và điểm đánh giá riêng thấp nhất của yếu tố có hệ số thấp nhất là 1 điểm.

Điểm đánh giá tổng hợp là tổng số các điểm đánh giá riêng của từng yếu tố. Điểm đánh giá tổng hợp cao nhất là tổng số các điểm đánh giá riêng cao nhất là 52 điểm.

Điểm đánh giá tổng hợp thấp nhất là tổng số các điểm đánh giá riêng thấp nhất là 13 điểm.

Trên cơ sở đánh giá tổng hợp của mỗi khu vực đánh giá có thể xác định mức độ thuận lợi của các điều kiện tự nhiên và tài nguyên nhân văn phục vụ mục đích du lịch như sau:

Bảng 5: Sự phân hóa các mức điểm khác nhau

Đối với việc xác định các điểm du lịch ở trong địa bàn một tỉnh, người ta dựa vào đơn vị hành chính là cấp huyện để tính toán. Vì trên mỗi huyện phản ánh đầy đủ các yếu tố của các chỉ tiêu. Mặt khác mỗi điểm du lịch cũng là biểu hiện đặc trưng cho phát triển du lịch trên từng huyện, thị, thành phố mà cụ thể là trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Kết quả của việc xác định các chỉ tiêu được thể hiện như sau:

Tổng hợp kết quả các chỉ tiêu sau khi phân tích các chỉ tiêu thành phần ta có bảng sau:

Bảng 11: Tổng hợp các chỉ tiêu

Sau khi tổng hợp được số điểm của các yếu tố, tính trung bình cộng của các yếu tố và tổng số các điểm đánh giá riêng cao nhất tính được mức độ thuận lợi cho hoạt động du lịch của tỉnh Ninh Bình là khá thuận lợi tương ứng với 67,3% nằm trong khoảng đánh giá tổng hợp từ 69% – 74%

Từ kết quả trên cho thấy điều kiện tự nhiên cũng như xã hội trên địa bàn tỉnh Ninh Bình tại những nơi có nguồn tài nguyên nhân văn khá thuận lợi cho phát triển hoạt động du lịch.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Chương 2 đi sâu vào việc phân tích nguồn tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh Ninh Bình. Qua những phân tích này có thể đánh giá sơ bộ về khả năng phát triển du lịch văn hóa của tỉnh. Ninh Bình là tỉnh tập trung nhiều tài nguyên nhân văn lại là kinh đô xưa của nước Đại Việt nên có nhiều di tích lịch sử tiêu biểu như: Cố đô Hoa Lư, Chùa Bái Đính, Nhà thờ đá Phát Diệm…nhiều lễ hội đặc sắc tiêu biểu như lễ hội Cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính…Các làng nghề thủ công truyền thống với những sản phẩm độc đáo, đặc trưng của Ninh Bình cùng với văn hóa ẩm thực nổi bật của từng địa phương đã thu hút được rất nhiều du khách tới tham quan và thưởng thức. Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Giải pháp tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Thực trạng tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Ninh Bình […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993