Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Tiềm năng của làng nghề truyền thống bát tràng phục vụ phát triển du lịch dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1 Khái quát về xã Bát Tràng

Xã Bát Tràng hiện nay gồm hai làng Bát Tràng và Giang Cao gộp lại, là một trong 31 xã của huyện Gia Lâm, trước thuộc tỉnh Bắc Ninh, từ năm 1961 thuộc ngoại thành Hà Nội. Diện tích toàn xã Bát Tràng gồm 153 ha, trong đó chỉ có 46 ha đất canh tác.

2.1.1. Tên gọi

Gốm Bát Tràng là tên gọi chung cho các loại đồ gốm được sản xuất tại làng Bát Tràng(鉢場?), một làng gốm cổ truyền và nổi tiếng của Việt Nam. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát (鉢) là bát ăn của nhà sư (tiếng Phạn là Patra), chữ Tràng (場?,còn đọc là Trường) nghĩa là “cái sân lớn”, là mảnh đất dành riêng cho chuyên môn. Theo các cụ già trong làng kể lại, chữ Bát bên trái là bộ “Kim – 金ð” ví với sự giàu có, “Bản – 本?”có nghĩa là cội nguồn, nguồn gốc. Dựng chữ Bản như vậy là để khuyên con cháu “có nghề có nghiệp thì cũng không được quên gốc”. Hiện nay tại các đình, đền, chùa ở Bát Tràng đều vẫn còn các chữ Bát Tràng được viết bằng chữ Hán là 鉢場?.

Diễn tiến tên gọi Bát Tràng:

Làng Bát Tràng đã có gần 1000 năm lịch sử nếu tính từ mốc dòng họ Nguyễn Ninh Tràng ( Thanh Hoá) di cư ra đất Bát Tràng ngày nay. Với bề dày lịch sử đó, Bát Tràng đã trải qua rất nhiều tên gọi khác nhau:

Bạch Thổ Phường ( phường đất sét trắng) là tên gọi đầu tiên của Bát Tràng vào thời sơ khai khi những người thuộc dòng họ Nguyễn Ninh Tràng theo vua Lý Công Uẩn dời đô đi từ Trường Vĩnh Ninh (Thanh Hoá) ra đây khai hoang, làm gốm. Hiện nay ở đình Bát Tràng còn lưu giữ bức hoành phi “ Bạch thổ danh sơn” ghi dấu mốc son này.

Bát Tràng Phường là tên gọi của làng Bát Tràng vào đầu thời Trần Xã Bát – tên gọi này xuất hiện vào cuối thời Trần. “ Đại Việt sử kí toàn thư” bản kỷ quyển 7 kỷ nhà Trần có đoạn viết: “Nước sông lớn tràn lan, vỡ đê Bát – Khối, lúa má bị ngập…Châu Khoái, Châu Hồng…hại nhất”. Đê Bát – Khối ở đây chính là đê Bát Tràng – Cự Khối ( đoạn giữa tuyến đê Long Biên – Xuân Quan ngày nay. Vào tháng 12 năm Bính Thìn, năm thứ 4 niên hiệu Long Khánh (1376) sử chép việc vua Trần Nhân Tông mang 12 vạn quân có đi qua “bến sông xã Bát”. Đào Duy Anh chú giải “xã Bát” chính là xã Bát Tràng.

Xã Bát Tràng – tên gọi chính thức cho tới ngày hôm nay – xuất hiện vào thời Lê Sơ. Trong tác phẩm Dư địa chí của mình, Nguyễn Trãi có đoạn viết: “…làng Bát Tràng có nghề làm bát, Huê Cầu có nghề nhuộm vải…”

Cùng với biến thiên của lịch sử, Bát Tràng trải qua nhiều tên gọi khác nhau, duy có điều bất biến: nghề làm gốm của Bát Tràng không ngừng phát triển; chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã không ngừng được cải thiện, nâng cao.

Có thể bạn quan tâm:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2. Vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển du lịch

Làng nằm bên tả ngạn sông Hồng, theo truyền thuyết lập làng thì vị trí này vốn thuận lợi cho chuyên chở nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo đường sông. Nhưng hiện nay, ngoài bến sông thì giao thông đường bộ cũng rất thuận tiện. Có thể nói đường bộ là con đường giao thông chính của làng. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Năm 1958, Nhà nước thực hiện đào sông Bắc Hưng Hải – Đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải làm thuỷ lợi tưới tiêu cho một vùng đồng ruộng rộng lớn của ba tỉnh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, tạo ra thêm một con đường mới đi vào xã Bát Tràng. Vì vậy từ Hà Nội có thể theo đường thuỷ từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi sông Hồng đến bến Bát Tràng. Cũng có thể theo đường bộ qua cầu Chương Dương hoặc cầu Long Biên, rồi theo đê sông Hồng đến dốc Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng ( khoảng 15 km) hoặc theo quốc lộ 5 đến Trâu Quỳ rẽ về phía tay phải theo đương liên huyện đến xã Đa Tốn đến Bát Tràng ( khoảng hơn 20 km).

Hoặc từ trung tâm thành phố Hà Nội, nếu theo đường thuỷ có thể xuất phát từ bến Chương Dương dọc theo sông Hồng đến bến Đình Bát Tràng (cảng du lịch Bát Tràng), hoặc theo đường bộ qua cầu Chương Dương ( hoặc cầu Long Biên ) dọc theo tuyến đê Long Biên – Xuân Quan (đê Tả Hồng) tới cống Xuân Quan ( công trình Đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải) rồi rẽ tay phải đi khoảng 1 km sẽ tới trung tâm làng cổ Bát Tràng.

Hoặc từ quốc lộ 5 rẽ vào Trâu Quỳ qua xã Đa Tốn lên đê rẽ tay trái tới 1 km tới cống Xuân Quan rồi rẽ tay phải ( cách trường Đại học Nông nghiệp I – Trâu Quỳ chỉ khoảng 7 km)

Ngày nay việc đi đến Bát Tràng rất thuận lợi vì từ năm 2006, công ty vận tải Hà Nội đã mở tuyến xe buýt 47 về đến Chợ Gốm Làng cổ Bát Tràng là điểm cuối bến.

Nằm bên bờ sông Hồng, Bát Tràng được coi như là điểm dừng cho tour du lịch Thăng Long – Phố Hiến trên sông Hồng, làng có bến sông rất thuận tiện cho tàu cập bến và lên thẳng làng cổ Bát Tràng, vào các lò gốm tham quan.

2.1.3. Quá trình hình thành và phát triển của làng gốm Bát Tràng

2.1.3.1. Lịch sử hình thành của làng gốm Bát Tràng

Có rất nhiều giả thiết khác nhau về sự ra đời của làng gốm Bát Tràng:

Theo kí ức và tục lệ dân gian thì dòng họ Nguyễn Ninh Tràng là cư dân bản địa và lâu đời nhất, nên được giữ vị trí tôn trọng trong ngôi thứ cũng như trong lễ hội của làng. Có ý kiến cho rằng, năm 1010 khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) thì dòng họ Nguyễn Ninh Tràng ở trường Vĩnh Ninh ( Thanh Hoá) đã cùng theo về để sản xuất loại gạch Vĩnh Ninh Trường phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh thành mới.

Một giả thuyết khác cho rằng, vào thời Lý có ba vị Thái học sinh là Hứa Vĩnh Kiều (hay Cảo) – người Bát Tràng, Đào Trí Tiến – người làng Thổ Hà và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) – người làng Phù Lãng được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (nay là Thiều Châu – Quảng Đông – Trung Quốc) gặp bão phải nghỉ lại. Tại đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến học được một số kĩ thuật đem về truyền bá cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (Việt Yên – Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (Quế Võ – Bắc Ninh) nước men màu đỏ vàng thẫm. Câu chuyện này cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy thì nghề gốm ở Bát Tràng đã có từ thời Lý, ngang với thời Bắc Tống, nghĩa là trước năm 1127. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Tương truyền, gần sáu thế kỉ trước, có một nghệ nhân cao tuổi râu tóc đã bạc trắng, từ làng Bồ Bát (Thanh Hoá) đến Bát Tràng hành nghề rồi truyền lại nghề gốm bàn xoay cho dân làng. Gọi là gốm bàn xoay bởi cách nặn, chuốt đồ gốm trên một cái mâm luôn luôn được đạp cho quay tròn. Câu chuyện về nghệ nhân tóc bạc trắng này chỉ là truyền khẩu.

Đến nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử của ba nhân vật trên cũng như khẳng định sự hình thành của làng. Chỉ có điều chắc chắn là gốm Bát Tràng xuất hiện từ rất sớm, vào giai đoạn cuối của văn hoá Hoà Bình đầu văn hoá Bắc Sơn. Trong quá trình phát triển nghề gốm, đương nhiên có nhiều quan hệ giao lưu với gốm sứ Trung Quốc và có tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của gốm sứ Trung Quốc.

Theo sử biên niên có thể xem thể kỉ XIV – XV là thời gian hình thành làng gốm Bát Tràng:

Đại Việt sử kí toàn thư chép “ Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thứ 12 (1352) mùa thu tháng 7, nước lớn tràn ngập, vỡ đê xã Bát, Khối, lúa má chìm ngập. Khoái Châu, Hồng Châu và Thuận An bị hại nhất”. Xã Bát là xã Bát Tràng, xã Khối là xã Thổ Khối, hai xã ven đê bên tả ngạn sông Nhị – sông Hồng ngày nay.

Cũng theo Đại Việt sử kí toàn thư thì năm 1376, trong một cuộc nam chinh, đoàn chiến thuyền của vua Trần Duệ Tông xuất phát từ Thăng Long xuôi theo sông Nhị Hà đi qua bến sông xã Bát tức bến sông Hồng thuộc xã Bát Tràng.

Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép “làng Bát Tràng làm đồ bát chén” và còn có đoạn “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Cầu thuộc huyện Văn Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cúng cho Trung Quốc là 70 bộ bát đĩa, 200 tấm vải thâm…

Theo gia phả của một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Lê, Trịnh, Vương, Phạm, Nguyễn… ghi nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hoá. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành – Tam Điệp – Ninh Bình, vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm. Theo truyền thuyết và gia phả của một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi ở vùng này.

Cái tên Bát Tràng được xuất hiện lần đầu tiên đầy đủ và chính xác như ngày nay là trong tác phẩm “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV. Cái tên này là tên ghép của hai từ Ninh Tràng và Bồ Bát.

Cùng với sự ra đời của làng là sự ra đời của nghề gốm sứ. Từ xưa dân Bát Tràng đã sống và phát triển bằng nghề gốm sứ với việc khai thác “72 gò đất trắng” của phường Bạch Thổ. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Đến cuối thời Lê, nguồn đất sét để làm đồ gốm đã cạn, người Bát Tràng phải mua đất từ làng Cổ Điền bên Vĩnh Phú hoặc mua từ làng Dâu bên Bắc Ninh. Hàng gốm Bát Tràng thời kì đầu là gốm trắng, mãi sau mới chuyển sang gốm đàn. Gốm đàn là loại gốm “xương” đỏ, miệng loe, mỏng và thấp. Nghĩa là người thợ làm “xương” gốm bằng đất đỏ, rồi mới lót một lượt đất trắng mỏng ra ngoài. Quy trình gia công này có công đoạn phải đàn cho “xương” và “da” gốm mỏng ra, do vậy mới gọi là đồ đàn.

Hiện nay Bát Tràng vẫn sử dụng đất của vùng Dâu Canh nhưng đồng thời họ cũng sử dụng cả đất cao lanh Lạc Tử, đất sét trắng Hồ Lao và Trúc Thôn (Đông Triều – Quảng Ninh) để sản xuất đồ sành trắng.

2.1.3.2. Quá trình phát triển của làng gốm

Thế kỉ XV – XVI: Chính sách của nhà Mạc trong thời kì này với công thương nghiệp rất cởi mở, không chủ trương ức thương như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi, nhờ đó mà sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như: công chúa Phúc Tràng, Phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mĩ quốc công phu nhân… Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.

Thế kỉ XVI – XVII: Sau các cuộc phát kiến địa lý vào thể kỉ XV, nhiều nước phát triển của Tây Âu tràn sang phương Đông. Hàng loạt các công ty được thành lập, hoạt động mậu dịch khu vực Đông Nam Á phát triển rất sôi động. Trong khi đó, ở Trung Quốc nhà Minh chủ trương bế quan toả cảng tạo điều kiện cho gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở vùng Đông Nam Á và Nhật Bản. Thế kỉ XV – XVII là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất khẩu Việt Nam với hai trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu (Nam Sách – Hải Dương). Với hai đô thị, hai trung tâm mậu dịch lớn ở đàng ngoài là Thăng Long và Phố Hiến (Hưng Yên), sản phẩm gốm Bát Tràng đã có mặt tại nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII: Việc buôn bán và xuất khẩu gốm sứ Việt Nam bị giảm sút nhanh chóng do lúc này triều Thanh (Trung Quốc) đã bãi bỏ chính sách bế quan toả cảng, buôn bán với nước ngoài, nên gốm sứ của ta nói chung và gốm sứ Bát Tràng nói riêng phải cạnh tranh khốc liệt với đồ gốm Trung Quốc. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Thế kỉ XVIII – XIX: Thời kì này chính quyền Trịnh, Nguyễn thực hiện chính sách hạn chế ngoại thương làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam bị giảm sút, trong đó có các mặt hàng gốm sứ. Điều này đã khiến cho một số làng nghề gốm bị gián đoạn sản xuất như làng gốm Chu Đậu, làng gốm Bát Tràng tuy cũng bị ảnh hưởng nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ một thị trường tiêu thụ trong nước rộng lớn với các đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí, gạch xây. Và làng gốm Bát Tràng vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước.

Từ thế kỉ XIX đến nay: Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường.

Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, tai Bát Tràng, một loạt xí nghiệp, các hợp tác xã gốm sứ được thành lập như: Xí nghiệp gốm sứ Bát Tràng, xí nghiệp X51, hợp tác xã Hợp Thành… Các cơ sở này cung cấp những mặt hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mĩ nghệ và một số hàng xuất khẩu. Với các nghệ nhân nổi tiếng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Tấn…

Sau năm 1986, làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển sang thành các công ty cổ phần, những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình. Và nơi đây trở thành một trung tâm gốm lớn của cả nước.

Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng ngày càng phong phú và đa dạng. Ngoài mặt hàng truyền thống, các lò gốm còn sản xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như các đơn đặt hàng xuất khẩu. Sản phẩm gốm Bát Tràng có mặt tại nhiều nước trên thế giới từ Á sang Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc…

2.2. Bản sắc làng nghề gốm sứ Bát Tràng Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

2.2.1. Đất hoá nên vàng

Theo quan niệm của người xưa, nói đến các vật phẩm bằng gốm là nói đến sự kết hợp hài hoà của ngũ hành ( Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả – Thổ). Kim loại ngâm trong xương và trong men gốm, tạo ra vẻ đẹp và sự huyền bí của màu sắc. Rơm, tre, củi, gỗ tạo ra ngọn lửa và tạo ra “hoả, biến”, tác nhân của sự bền chắc trong xương gốm, màu sáng bóng rực rỡ của áo gốm. Nước hoà với đất để tạo ra dáng gốm và minh hoạ các biểu tượng của tâm hồn. Lửa là cha tạo ra phẩm chất, sắc thái của gốm. Đất là mẹ tạo ra xương thịt của gốm. Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên giá trị của sản phẩm gốm. Để cầu mong sự thịnh vượng, người thợ gốm Bát Tràng thời xưa, mỗi khi phát hoả, nhóm lò lại thắp ba nén hương khẩn cầu cho ngũ hành hanh thông, nghề nghiệp tiến triển.

Lúc đầu, người thợ Bát Tràng khai thác đất sét trắng ngay tại làng. Chất liệu này đảm bảo tinh dẻo, ít bã và ít phải gia cố trước khi tạo hình. Cho đến cuối thời Lê, các gò đất sét trắng của phường Bạch Thổ đã cạn, người thợ Bát Tràng dùng đất lấy ở Rau (Sơn Tây), Cổ Điển (Phúc Yên) và đặc biệt là đất Dâu Canh ( Đông Anh). Từ cuối thời Lê trở đi, người Bát Tràng sử dụng đất sông Dâu làm nguyên liệu chính.

Cho đến cuối thế kỉ trước, một mặt người thợ Bát Tràng vẫn tiếp tục sử dụng đất Dâu Canh sản xuất đồ đạc, mặt khác họ còn sử dụng đất cao lanh Lạc Tử, đất sét trắng Hồ Lao và Trúc Thôn (Đông Triều). Đây là nguyên liệu để sản xuất đồ sành trắng.

Trong khâu tạo dáng đồ gốm, xưa kia ở Bát Tràng phổ biến là lối be chạch vuốt tay trên bàn xoay. Tuỳ theo vật dụng định làm mà người thợ dùng chân để xoay, dùng tay để vuốt. Kết quả họ đã tạo ra những sản phẩm đơn chiếc. Kiểu vuốt này ở Bát Tràng hiện còn rất ít người thợ gốm làm được. Gần đây, tính công nghiệp của sản phẩm gốm đã được đẩy mạnh hơn khi xuất hiện các loại khuôn gỗ và thạch cao. Người thợ sáng tác ra một mẫu nào đó gọi là cốt, sau đó người ta làm khuôn để sản xuất cho ra hàng loạt. Ưu điểm của loại kĩ thuật này là làm ra được những mặt hàng giống nhau và giá thành hạ.

Chế tạo men gốm là một bí quyết nhà nghề. Khoảng cuối thế kỉ XIV về trước, men ngọc đã được chế tạo từ hai thành phần chính là đất sét trắng phường Bạch Thổ và ôxit đồng dạng bột tán nhỏ. Từ thời Lê sơ trở đi (đầu thế kỉ XV), người thợ Bát Tràng đã chế tạo ra loại men gio, có màu trắng đục. Đây là loại men được chế từ ba thành phần chính là: Đất sét trắng phường Bạch Thổ, vôi sống để tởi, gio cây Lâu Cụt và gio Sung, cũng có khi họ dùng gio trấu của làng Quế, làng Lường. Ngoài men gio, người thợ Bát Tràng đã chế ra loại men nâu sôcôla. Men này bao gồm men gio cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp ôxit sắt – mangan) lấy từ Phù Lãng (Bắc Ninh). Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Cũng từ thế kỉ XV, người thợ Bát Tràng đã chế được loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ (ôxit coban), đá thối (ôxit mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men này phát màu ở nhiệt độ 125 độ C. Cho đến đầu thế kỉ XVII, một loại men mới đã được khám phá là men rạn. Đây là loại men được điều chế từ vôi sống, gio trấu và riêng thành phần cao lanh Lạc Tử trắng được thay thế bởi cao lanh màu hồng nhạt lấy tại chùa Hội (Bích Nhôi – Hải Dương). Tỷ lệ của ba thành phần này được thêm gia giảm để tạo ra các loại men rạn khác nhau.

Bao nung được coi là một trong những khâu quan trọng của kĩ thuật nung. Chính những viên gạch vuông – sản phẩm đặc biệt của lò gốm Bát Tràng, xuất hiện là do yêu cầu của cấu trúc lò, đồng thời cũng là những bao nung sản phẩm.

Bát Tràng còn truyền tụng đôi câu đối ca ngợi kĩ thuật nung gốm: “Bạch lĩnh chân truyền nê tác bảo Hồng lô đào chú thổ hành kim”

Nghĩa là:

Núi đất trắng truyền nghề, bùn thành vật quý

Lò rực hồng hun nặn, đất hoá nên vàng

Giải quyết xong vấn đề xương gốm, tạo dáng men, bao nung, người thợ quan tâm đến việc chế ngự lửa. Để tạo ra được ngọn lửa hữu ích, người thợ gốm Bát Tràng không những tiếp thu những điểm ưu việt của các lò gốm địa phương khác, mà còn không ngừng cải tiến, hoàn thiện và sử dụng nhiều loại lò khác nhau. Cho đến nay, ở Bát Tràng đã sử dụng các kiểu lò ếch, lò đàn, lò bầu và lò hộp. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Lò ếch là một kiểu lò gốm cổ nhất nước ta. Nó được hoàn thiện dần nhằm tăng nhiệt độ trong lò, dung tích chứa sản phẩm, và đặc biệt là hệ thống thông khói kết hợp với việc giữ nhiệt và điều hoà nhiệt trong bầu lò. Các công trình nghiên cứu qua tài liệu khai quật khảo cổ học ở Hà Bắc và Hải Hưng cho biết có thể phục hồi kiểu lò ếch cổ của Bát Tràng. Kiểu lò này có dáng như một con ếch nằm; dài khoảng 7m, bề ngang chỗ phình rộng nhất khoảng 3 – 4m, cửa lò rộng khoảng 1,2m và cao 1m. Đáy lò phẳng, nằm ngang. Vòm lò cao từ 2m đến 2,70m. Bên hông lò có một cửa ngách rộng khoảng 1m, cao 1,2m để người thợ gốm chồng và dỡ sản phẩm. Tiếp cận phía sau của gáy lò có ba ống khói thẳng đứng cao khoảng 3m đến 3,5m; lò được định hình bằng gạch dân dụng (trừ vòm lò). Sau đó mặt bên trong lò và sàn lò được gia cố bằng một lớp đất sét màu hồng lấy ở Dâu Canh hoặc Đáp Cầu, dày chừng 6cm. Trong một bầu lò được chia ra thành 5 khu vực xếp sản phẩm: hàng giàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt.

Trong quá trình vận hành người thợ đã phát hiện ra nhược điểm của lớp đất gia cố, thay vào đó bằng lớp gạch mộc và vữa ghép bằng chính loại đất làm gạch. Phát hiện ngẫu nhiên này đã tạo ra những viên gạch Bát Tràng nổi tiếng. Chất liệu chế tạo loại gạch này gồm có đất sét Đáp Cầu hoặc đất màu hồng nhạt khai thác tại Dâu Canh. Một trong hai loại đất trên trộn thêm với gạch chín vỡ đập nhỏ theo một tỉ lệ nhất định sau đó được xếp đống theo kích thước 30cm x 30cm x 3,5cm đến 5cm hoặc 30cm x 15cm x 3,5cm đến 5cm. Cho tới giữa thế kỉ XIX, ở Bát Tràng đã xuất hiện lò đàn cùng với kiểu lò gốm cổ Phù Lãng, nhưng được xây dựng với những cấu kiện hoàn chỉnh hơn và có hiệu suất nhiệt cao. Bầu lò sâu 9m, rộng 2,5m và cao 2,6m, được chia ra 10 bích bằng nhau. Các bích phân cách nhau bằng 2 nống (cột). Cửa lò rộng 0,9m cao 1,2m để người thợ vào chồng lò và dỡ lò. Kế tiếp gáy lò là những buồng thu khí, bích số 10 thông với buồng thu khí qua 3 cửa hẹp. Khói thoát ra từ bích đậu theo hai ống thu dẫn tới miệng để giữ nhiệt hông lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói. Lớp vách trong ghép bằng gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như phẳng, còn mặt trên khung vòng tựa như con thuyền úp. Cật lò được tạo bằng hỗn hợp đất sét Cổ Điển trộn với gạch chín vỡ hoặc gốm vỡ nghiền nhỏ, hai bên cật lò, từ bích 2 đến bích 9 ứng với khoảng giữa hai bích có hai cửa nhỏ hình tròn đường kính khoảng 0,2m gọi là các lỗ giời để ném nhiên liệu vào trong bích. Riêng bích đậu, lỗ giời rộng hơn nửa mét, gọi là lỗ đậu. Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được từ 12500C đến 13000C. Sản phẩm gốm men lò đàn rất phong phú và đó chính là nguồn gốc hình thành phố Bát Đàn ở Hà Nội.

Vào khoảng những năm 1930, ở Bát Tràng bắt đầu xuất hiện và đi vào hoạt động kiểu lò bầu (cũng gọi là lò rồng). Lò chia nhiều ngăn, thường có 5 đến 7 bầu. Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp với trục tiêu của lò, tựa như năm, bảy mảnh vỏ sò úp nối nhau. Vòm cuốn lò dùng loại gạch chịu lửa. Độ nghiêng của trục lò so với phương nằm ngang từ 12 – 15 độ. Lò bầu có thể tích khoảng 50 – 70 m3, nhiên liệu chi phí từ 330 – 350 kg (trên dưới 40% là củi, còn lại là than). Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 13000C. Tuỳ theo đặc điểm của từng loại sản phẩm và kinh nghiệm của từng người thợ mà có thể điều khiển nhiệt độ thích hợp theo yêu cầu của quá trình biến đổi hoá lý phức tạp của sản phẩm, do đó cho phép nung được những loại sản phẩm lớn có chất lượng cao.

Lò hộp mới xuất hiện ở Bát Tràng những năm 1970 trở lại đây. Lò có kết cấu đơn giản và chi phí ít, do vậy thuận lợi cho mọi gia đình sản xuất. Nhiên liệu dùng đốt lò chủ yếu là than cám, nên nhiệt độ trong lò khi đốt đạt tới 12500C. Hiện nay Bát Tràng đã bắt đầu sử dụng lò tuynel dùng gas để dần thay thế cho lò hộp vốn vẫn còn nhiều nhược điểm.

Những thế kỉ trước đây, quy trình sản xuất của lò gốm Bát Tràng ra sao thì nay không đủ tài liệu để tìm hiểu. Còn bây giờ, vào thăm một hợp tác xã hay một gia đình làm gốm quy mô, ta có thể hiểu được đầy đủ quy trình làm gốm.

2.2.2. Niềm tự hào của làng gốm Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh dưới ngọn cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Lê Lợi, đất nước ta bước vào thời kì xây dựng mới mà nay chính sử nước ta gọi là thời Lê sơ. Dưới thời Lê sơ (đầu thế kỉ XV), nghề gốm Bát Tràng ra sao? Đến nay đã có nhiều tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước chứng minh sự phát triển rực rỡ của nghề gốm Đại Việt trong thành phần tiêu biểu của nền văn hoá Thăng Long, với dòng gốm men ngọc và men hoa nâu đặc sắc. Như vậy có chậm đi chăng nữa thì sau hơn 20 năm dưới ách thống trị tàn bạo của giặc Minh, nghề gốm Bát Tràng đã khôi phục nhanh chóng trước khí thế mới của đất nước sau chiến thắng Bình Ngô. Hẳn là thế, cho nên trong cuốn Dư địa chí, bộ sách địa lý quý giá của nước ta còn lại đến nay do Nguyễn Trãi soạn, đã cho biết: Trong số đồ cống nạp phong kiến phương Bắc, “làng Bát Tràng phải cung ứng 70 bộ bát đĩa”. Kể cũng lạ, nước Tàu có nghề làm gốm men phát triển và nổi tiếng thế mà lại nhận đồ cống bằng gốm men của Bát Tràng?

Chính điều ghi chép của Nguyễn Trãi đã thôi thúc nhiều nhà nghiên cứu khảo cổ học đi tìm những gì còn lại của nghề gốm Bát Tràng xưa. Nhưng họ không thể tiến hành đào khảo cổ dưới sâu 10m đất phù sa để tìm ra thêm vết tích. Các vật phẩm tìm được công trường Bắc Hưng Hải hiện lưu trữ tại Viện Bảo tàng lịch sử cũng chỉ là bát đĩa, bình lọ trang trí vẽ men lam, men trắng phủ ngoài, và đều thuộc về thế kỉ XVI – XVII mà thôi. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay cũng chưa thể tiến hành tìm kiếm dưới lòng sông Hồng để mong gặp được những dấu tích về nghề gốm của Bát Tràng trong quá khứ. Tìm hiểu về Bát Tràng qua tài liệu khảo cổ học, vậy là bất lực rồi chăng? Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

May sao, ít năm gần đây, người ta đã tìm thấy một vài dấu hiệu đáng mừng ở Đa Tốn, cách Bát Tràng không đầy 2 cây số. Đó là những sưu tập gốm men cổ đáng quan tâm, có thể gián tiếp đóng góp vào việc tìm hiểu nghề gốm Bát Tràng. Đa Tốn vốn không phải là xã có nghề gốm truyền thống. Đây là một xã thuần nông nghiệp, có lịch sử lập làng cách ngày nay trên 2000 năm. Nhân dân Đa Tốn đã phát hiện sản phẩm gốm men của nhiều thời đã qua, đặc biệt là các sưu tập gốm men thời Trần và Lê sơ tìm thấy ở Đào Xuyên và Lê Xá. Sưu tập gốm thời Trần có nhiều kiểu dáng: bát, đĩa, âu, mảng bệ tượng… được trang trí nổi hoa cúc, hoa sen, hoa dây cách điệu và phủ men ngọc xanh, hay men vàng ngà thuộc cùng loại đồ gốm tìm thấy ở Hoa Lư (Ninh Bình), đền Hùng (Phú Thọ), Vân Đồn (Quảng Ninh). Lý thú hơn, lại thấy cả bát và đĩa “ngây” (nung chưa chín) và lại có chiếc nứt, rạn, cong vênh. Rõ ràng đây là những thứ phẩm của lò gốm. Cùng chỗ phát hiện đồ gốm này còn có nhiều lon sành các cỡ, rất có thể là mấy loại bao nung. Sưu tập gốm thời Lê sơ có hai chiếc chậu gốm hoa nâu và mấy chiếc đĩa hoa lam cỡ to. Chậu gốm hoa nâu vẽ hoa dây cách điệu hình sin khắc chìm rồi tô nâu. Đĩa hoa lam nền trắng ngà, hoa văn trang trí đơn giản, chỉ là một bông hoa, xung quanh có vài nhánh lá, xanh màu chì, vẽ bằng bút lông mềm mại. Có lẽ không còn phải nghi ngờ gì nữa về xuất xứ của những sưu tập gốm này là của lò gốm Bát Tràng cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV. Những nguồn thông tin khảo cổ học và bảo tàng còn cho biết, rất nhiều bảo tàng trên thế giới xây dựng sưu tập riêng về gốm Việt Nam như ở Nhật Bản, Pháp, Thổ Nhĩ Kì… Trong số đó chắc hẳn còn nhiều sản phẩm có xuất xứ nơi sản xuất là lò gốm Bát Tràng. Nhiều học giả nước ngoài ham muốn đi tìm mối quan hệ giao lưu văn hoá từ những đồ gốm men do dựa trên các dữ kiện về kiểu dáng và trang trí. Xem tài liệu giới thiệu cuộc triển lãm do Hội gốm sứ Đông Nam Á tổ chức tại bảo tàng quốc gia Singapo hồi tháng 6/1982, có thể thấy rõ những bức ảnh chụp bát đĩa chứng minh vấn đề quan hệ giao thương của đồ gốm Bát Tràng với đồ gốm Su Khô Thai (Thái Lan), Nam Trung Quốc và Nhật Bản. Tiêu biểu là loại đĩa cỡ to vẽ hoa lam của Bát Tràng thời Lê sơ.

Tại hải cảng Hacata, một cảng sầm uất từ thế kỉ XII – XIV thuộc đảo Kyushyu (Nhật Bản), người ta đã tìm thấy trong lòng đất một số mảnh gốm men Việt Nam mà nay, một nữ sinh Nhật Bản ở trường Đại học Tổng hợp Kyushyu chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp. Lịch sử quan hệ giao thương hẳn là còn nhiều bí ẩn chưa được khám phá, và chắc chắn có ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề làm gốm, nhất là từ thế kỉ XVI trở đi con đường mậu dịch Đông – Tây được thiết lập. Vậy thì trung tâm Bát Tràng nổi tiếng lại không đóng góp phần đáng kể nào chăng? Trong catalogue của các cuộc triển lãm về gốm men Việt Nam được trưng bày và giới thiệu ở Nhật Bản, ở Gia cac ta, … đã giới thiệu nhiều sản phẩm gốm men của Bát Tràng mà phần lớn thuộc các thế kỉ XV, XVI, XVII. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Sản phẩm gốm Bát Tràng là mặt hàng được nhiều nước ưa chuộng vì vẻ đẹp hài hoà, độc đáo của hình dáng, màu men và nét vẽ. Chính nhờ những bàn tay tài hoa của người thợ gốm Bát Tràng mà biết bao sản phẩm đã trở thành món lợi lớn của các thương nhân Nhật Bản, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh và Trung Quốc.

Sách “Lịch sử về công ty Đông Ấn” có ghi: tại Đàng Ngoài, năm 1653, ông Sjatule đứng đầu Thủ Liêu bị kết án tử hình và công ty Đông Ấn – Hà Lan mất món nợ 14.499 đồng Hà Lan… Nhưng cũng không phải vì thế mà tàu Hà Lan đã không tiếp tục ăn hàng.

Đồ gốm men Bát Tràng đã có được một sự lôi cuốn như thế phải chăng là sự “bắt chước gốm Tàu” hay vì “do thợ Trung Hoa truyền bảo”? Ngay các học giả nước ngoài trước đây khi nghiên cứu đồ gốm trong khung cảnh văn hoá Việt Nam, cũng đã bác bỏ những điều mặc cảm đó. Sự thực là dù xuất hiện ở đâu, gốm Bát Tràng vẫn toát lên vẻ đẹp riêng với cốt gốm dày dặn bởi lối tạo hình be chạch, vuốt tay trên bàn xoay, với nét vẽ phóng khoáng mà tự nhiên cộng với vẻ sâu lắng của lớp men phủ…

Tuy nay không còn rõ dấu tích về một chiếc lò nung nào của Bát Tràng ở ba thế kỉ (XV, XVI, XVII) dưới triều Lê – Tây Sơn và Nguyễn, nhưng lại nhiều gia đình, nhiều đình chùa trong nước hay ở các bảo tàng quốc gia còn lưu giữ nhiều đồ gốm men mà chắc chắn được chế tạo tại Bát Tràng. Chứng cứ là, trên một số vật phẩm còn thấy rõ họ tên, quê quán của người thợ cùng với niên hiệu triều vua đương thời trị vì viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam còn lưu giữ những cây đèn và lư hương thuộc dòng gốm men lam và men rạn của nhiều tác giả làm gốm ở Bát Tràng: cây đèn chế tạo vào khoảng niên hiệu Diên Thành (đời Mạc Mậu Hợp) mục 1578 – 1585 của Nguyễn Phong Lai và Bùi Nghĩa; cây đèn chế ngày 24 tháng 6 năm thứ 3 niên hiệu Diên Thành (1580) của Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu; cây đèn chế ngày 25 tháng 10 năm thứ 3 niên hiệu Diên Thành (1580) của Bùi Huệ và Bùi Thị Đỗ bảo tàng Hà Nam Ninh có đủ bộ cây đèn và lư hương do Đỗ Xuân Vi chế tạo ngày 20 tháng 8 năm thứ 3 niên hiệu Hưng Trị (đời Mạc Mậu Hợp). Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Sang thế kỉ XVII, ở lò gốm Bát Tràng vẫn phổ biến chế tạo các vật phẩm cây đèn, lư hương cùng nhiều loại hình khác. Trong số đó cũng có nhiều chiếc đáng chú ý. Ở viện Bảo tàng lịch sử, có trường hợp như phần dưới của một cây đèn ghi rõ: tác giả sáng tác và làm ra là xã trưởng xã Bát Tràng, họ tên là Bùi Đào, thời gian chế tạo vào năm thứ 2 niên hiệu Hoàng Định, đời vua Lê Kính Tông (1602). Lại có cây đèn khác ghi rõ là do sinh đồ Vũ Xuân tạo tác năm 1613, cây đèn chế tạo năm thứ 19 niên hiệu Hoàng Định (1619) của tác giả Bùi Hác. Lại có chiếc lư hương miệng tròn được làm vào ngày rằm tháng 8 năm Tân Hợi, năm thứ 9 niên hiệu Cảnh Trị (1671) của đời vua Lê Hiền Tông…

Ngoài dòng gốm men vẽ lam phủ men trắng, từ những năm đầu thế kỉ XVII ở Bát Tràng đã chế tạo được đồ gốm men rạn rất đẹp. Cây đèn mang niên hiệu Hoàng Định (1601 – 1619) là một điển hình. Cây đèn cũng được tạo hai phần rồi khớp lại, cao 75cm. Đèn được trang trí nổi nhiều loại hoa văn: hoa dây, lá lật, lông công, lá đề “ trong mỗi lá đề lại có một vạn” và đủ bộ tứ linh “long – ly – quy – phượng”. Ở một góc của phần dưới cây đèn có khắc hai dòng chữ Hán cho biết: người sáng tác và làm ra là Đỗ Phủ xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm. Nhưng điều có ý nghĩa hơn là với cây đèn này, chúng ta có cơ sở khẳng định rằng làng Bát Tràng đã chế tạo được đồ gốm men rạn từ đầu thế kỉ XVII. Đó cũng là chứng cứ vật chất xua đuổi mặc cảm sai lầm về sự du nhập men rạn, được quy công cho Đường Anh, vị quản thủ lò gốm ở Trấn Cảnh Đức, lại xảy ra vào thời vua Càn Long nhà Thanh ở nửa đầu thế kỉ XVIII.

Theo tài liệu thông báo về sưu tập đồ gốm men Việt Nam có niên đại ở Viện Bảo tàng lịch sử thì vật phẩm gốm men rạn còn thấy nhiều loại hình khác nhau như lộc bình, cây nến hình gốc tre, lư hương. đỉnh, choé, tượng nghê và tượng hổ nằm… mang niên hiệu của các triều vua Lê kế tiếp như Cảnh Trị của Lê Huyền Tông, Vĩnh Trị, Chính Hoà Lê Huy Tông, Cảnh Hưng Lê Hiến Tông… Điều đó cũng chứng minh rằng đồ gốm men rạn ở Bát Tràng có quá trình phát triển qua hàng thế kỉ.

Vào cuối thế kỉ XVIII, dưới triều Tây Sơn, nghề gốm Bát Tràng còn phồn thịnh lắm. Viện Bảo tàng lịch sử còn giữ một đôi bát đế rộng, chân thấp, lòng doãng, thành khum và miệng hơi loe. Thành bên trong và ngoài bát phủ men rạn màu ngà vàng, xương gốm thô có màu xám đen (thực chất là đất Dâu Canh). Bên thành ngoài bát, một phía có vẽ khóm trúc bằng men lam và phía đối diện viết hai hàng chữ Hán trích một câu thơ cổ: “ Vị xuất địa đầu tiên hữu tiết”. Câu này như một triết lý mượn ý nghĩa thực tế rằng: Giống tre trúc rất phổ biến và gần gũi với người Việt Nam ta ấy, cái màng non chưa nhô lên khỏi mặt đất thì cái tiết (đốt) của nó đã sinh ra rồi. Thật là một triết lý thâm thuý, ngầm ngợi ca khí tiết con người.

Nhiều đồ gốm men ghi niên hiệu Gia Long (1802 – 1819) được lưu giữ tại viện Bảo tàng lịch sử cũng là những bằng chứng sinh động về nghề gốm men Bát Tràng ở thời đầu nhà Nguyễn. Trên những vật phẩm lộc bình, choé, ấm, đồ thờ, đồ gia dụng khác, còn khá phổ biến trong nước, chúng ta vẫn thấy sự tiếp nối với kĩ thuật tạo dáng và trang trí của thời cuối Lê – Tây Sơn. Trên nhiều bình, choé phủ men rạn hay choé men da lươn màu nâu đen, ta vẫn thấy sử dụng màu xanh (côban) vẽ bằng bút lông theo các chủ đề phong cảnh, chim bên hoa cúc, chim đậu cành trúc, bướm và hoa hồng, chim với hoa sen. Cũng có tiêu bản đáng chú ý như chiếc bình (có lẽ là ống để cắm tranh cuộn) tạo dáng như một ống bương.

Nghề gốm Bát Tràng đã trải qua trên năm thế kỉ với nhiều thành tựu rất đáng tự hào. Đó là bệ đỡ vững chắc để Bát Tràng hôm nay càng tiến nhanh hơn cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

2.2.3. Quy trình sản xuất của gốm Bát Tràng Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Xã Bát Tràng gồm hai làng nhỏ là làng Giang Cao và làng Bát Tràng. Cả hai làng đều sản xuất đồ gốm sứ nhưng phần lớn sản phẩm bán ra vẫn do làng Bát Tràng sản xuất. Nói đến Bát Tràng ta không thể không nhắc đến làng cổ Bát Tràng. Hiện tại, làng cổ Bát Tràng chỉ có diện tích 5,6 ha và chỉ còn 20 lò gốm mang tính chất dòng họ (cả làng hiện có 26 họ) nhưng nơi đây lại có nhiều di tích mang đậm nét văn hoá truyền thống của làng.

Khu vực sản xuất chủ yếu của làng Bát Tràng hiện nay là khu đất mới, khu sản xuất này phát triển từ sau năm 1990 và có diện tích lớn gấp hai lần so với khu làng cổ trước kia.

Từ đời này sang đời khác, những người thợ gốm cứ lặp đi lặp lại quy trình kĩ thuật sản xuất: chọn, xử lý, pha chế đất; tạo dáng, tạo hoa văn trang trí; phủ men (tráng men) và cuối cùng là nung sản phẩm. Ở Bát Tràng cũng như các làng nghề gốm khác, quy trình này đã được đúc kết thành phong cách truyền thống riêng. Người Bát Tràng lưu truyền một quan niệm quý báu được đúc kết thành câu:

Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò

Nghĩa là đất làm gốm phải được nén chặt, để đảm bảo độ rắn chắc cho sản phẩm.

Quy trình sản xuất gốm ở Bát Tràng trải qua 3 khâu chính: tạo cốt gốm, trang trí và tráng men, nung gốm. Trong từng khâu lại có nhiều công đoạn nhỏ khác nhau. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Khâu tạo cốt gốm (hay còn gọi là tạo xương gốm) bao gồm các công đoạn chọn đất, xử lý và pha chế đất, tạo dáng, phơi sấy và sửa cốt gốm mộc. Trong khâu này thì kĩ thuật và phương pháp của các công đoạn hầu như không có gì thay đổi trừ công đoạn tạo dáng sản phẩm. Trước đây để tạo hình sản phẩm, các nghệ nhân gốm thường dùng bàn xoay đẩy bằng tay hoặc đạp bằng chân để vuốt ra sản phẩm, do vậy đòi hỏi người làm gốm phải có độ tinh xảo rât cao. Hiện nay, trong làng Bát Tràng những người còn có khả năng thực hiện kiểu tạo hình đó chỉ còn khoảng ba, bốn người. Những sản phẩm của làng bây giờ đa phần được làm theo phương pháp đổ khuôn, làm theo cách này thì thời gian chi phí cho một sản phẩm ngắn hơn, tuy vậy nhưng giá trị thẩm mĩ của sản phẩm không bị giảm đi. Phương pháp sản xuất này còn gọi là in. Sản phẩm sau khi dỡ khuôn chỉ cần sửa sang lại một chút như bỏ bavia hay vê lại những đường miệng sản phẩm là đã xong được phần cốt. Đối với những sản phẩm cầu kì như yêu cầu phải đắp nổi, khắc tạo hình… hay sản phẩm có kiểu dáng không thể tạo được khuôn thì người thợ gốm vẫn phải dùng tay để vê, nặn và uốn trực tiếp trên sản phẩm còn chưa se mặt. Những sản phẩm sửa lại như vậy mà không dùng bàn xoay gọi là hàng làm bộ, nếu dùng đến bàn xoay gọi là hàng làm bàn. Tóm lại, hiện nay việc sản xuất của làng Bát Tràng vừa kế thừa được truyền thống, vừa kết hợp được phương pháp sản xuất mới có hiệu quả hơn.

Khi phần cốt gốm được tạo xong thì công việc tiếp theo là phủ men và vẽ hoa văn lên sản phẩm. Đây là công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo tay của người thợ, men phủ lên sản phẩm đối với mỗi lò gốm là một bí quyết riêng không thể phổ biến và chỉ được truyền cho con cháu hoặc những người tin cậy. Việc phủ men nhìn chung được tiến hành như sau: nếu là men chảy (men rươi) người thợ thường chỉ bôi men lên miệng sản phẩm để khi nung men sẽ chảy toả xuống tạo ra những đường nét tự nhiên. Còn đối với hầu hết các loại men khác như men ngọc, men rạn, men khô thì người thợ phải đúc men, kìm men hay quay men đối với sản phẩm vừa và nhỏ, còn đối với sản phẩm lớn thì người thợ phải dội men và phun men. Đối với những sản phẩm mà xương đất có màu trước khi tráng men, trang trí hoạ tiết, người thợ làm gốm phải bôi thêm lên sản phẩm một lớp lót bằng đất sét trắng để che bớt màu của xương gốm. Công việc trang trí hoa văn lên sản phẩm được người thợ thực hiện bằng tay, thông qua các mẫu hoa văn đã có và sự sáng tạo của riêng những người thợ có trình độ cao. Chính vì vậy, các sản phẩm hiện nay của làng có rất nhiều kiểu trang trí hoạ tiết khác nhau và rất đặc sắc.

Sau khi sản phẩm đã khô men, người thợ tiếp tục tiến hành sửa men: bôi thêm men vào chỗ khuyết, cạo men ở chân sản phẩm và ở những chỗ không cần thiết. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Khâu cuối cùng để cho ra sản phẩm là nung gốm: để nung gốm thợ Bát Tràng phải tiến hành các công việc cần thiết như làm bao nung, chuẩn bị chất đốt (chuẩn bị nguyên liệu), chồng lò và cuối cùng là đốt lò. Việc nung sản phẩm cần tuân thủ những yêu cầu nghiêm ngặt về thời gian và nhiệt độ nung đối với từng loại sản phẩm khác nhau. Đối với những nghệ nhân làm gốm có trình độ cao, họ còn có thể sử dụng nhiệt độ nung để tạo ra những sản phẩm rất độc đáo.

Có thể nói về Bát Tràng bây giờ, du khách sẽ thấy một Bát Tràng – làng cổ tồn tại song song với một Bát Tràng – đô thị. Truyền thống và hiện đại đan xen cả trong tư duy sản xuất, kinh doanh của người làm gốm cũng như trong diện mạo của làng gốm Bát Tràng.

2.2.4. Các sản phẩm chính của làng gốm Bát Tràng

Những thành tựu sáng chế đặc sắc nhất trong lịch sử nghề gốm sứ Việt Nam phần lớn đều xuất hiện từ Bát Tràng, hoặc được thợ gốm Bát Tràng thử nghiệm rồi sản xuất hàng loạt. Những loại gốm quý và độc đáo nhất của nước ta, nổi tiếng trong và ngoài nước, đó là: Gốm men ngọc (thời Lý – Trần), gốm hoa nâu hay gốm men hoa nâu (cuối thời Trần đầu thời Lê), gốm men rạn (thời Lê – Trịnh), gốm men trắng ngà (thế kỉ XVII – XIX). Có thể xác nhận đều được sản xuất ở Bát Tràng, trừ gốm men hoa nâu do làng gốm Thổ Hà (Bắc Ninh) làm là chính.

Nhiều sản phẩm gốm men ngọc, men rạn, men hoa lam của thợ gốm Bát Tràng rất hoàn mĩ được coi là đỉnh cao của nghệ thuật và kĩ thuật gốm Việt Nam. Nhưng đáng tiếc một thời gian khá dài gốm men ngọc của ta bị thất truyền, mãi đến những năm gần đây cố hoạ sĩ lão thành Nguyễn Văn Y và một số thợ gốm Bát Tràng đã khôi phục được công nghệ làm men ngọc cổ. Ngoài men trắng ngà cổ truyền, thợ gốm Bát Tràng cũng biết dùng men màu và vẽ màu dưới men, giữa men, trên men nhằm tạo hiệu quả huyền ảo cho người thưởng thức sản phẩm.

Các sản phẩm gốm Bát Tràng gồm có: Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Đồ gốm gia dụng: gồm các loại bát, đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, khay trà, ấm, điếu, bình vôi, nậm rượu, bình, lọ, choé, hũ.

Đồ gốm dùng làm đồ thờ: gồm các loại chân đèn, chân nến, lư hương, đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm.

Đồ gốm trang trí: gồm mô hình nhà, long đỉnh, các tranh gốm, các loại tượng như tượng nghê, ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng voi, tượng hổ…

Đồ gốm xây dựng: nổi tiếng với gạch Bát Tràng cổ, gạch hoa kính hiện đại, các loại ngói như ngói lưu ly, ngói mũi hài, ngói ống…

Bát Tràng hiện nay song song phát triển sản xuất hai chủng loại gốm lớn: Gốm giả cổ và gốm bằng chất liệu, phương pháp cổ truyền; gốm hiện đại gân gũi với kĩ thuật đồ sứ.

Gốm Bát Tràng có 5 dòng men đặc trưng thể hiện qua mỗi thời kì khác nhau để tạo nên những dòng sản phẩm đặc trưng khác nhau. Trên sản phẩm, người thợ không chỉ tạo dáng uyển chuyển mà còn trang trí rồng uốn khúc,đắp nổi những hoa lá tinh tế, những đồ án hoa văn khắc chìm trổ thủng rất sinh động tế nhị như đồ ren bằng tơ sợi muôn màu.

2.3. Các tài nguyên du lịch

2.3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên

Sông Hồng là dòng sông mẹ đã bồi đắp nên nền văn minh sông Hồng – một trong 36 nền văn minh của thế giới. Dòng sông được bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn thuộc tỉnh Vân Nam – Trung Quốc. Đây là hệ thống sông lớn nhất miền Bắc nước ta, đoạn chảy qua Hà Nội dài 91 km, thuộc phần hạ lưu nên có lẽ là nơi hội tụ được những gì trù phú nhất. Đồng thời, đây cũng là dòng sông gắn liền với sự hình thành và phát triển của đất nước ta. Nó đã từng chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử quan trọng, bao sự đổi thay của đất nước. Hiện nay, dòng sông không chỉ được khai thác để phát triển kinh tế, giao thông mà nó còn mới được khai thác để phát triển du lịch.

Bát Tràng nằm ở tả ngạn sông Hồng. Xưa kia dòng sông này được người dân khai thác phát triển giao thông thuỷ nội địa, xây dựng các cảng bốc dỡ hàng hoá thì hiện nay nó lại đem lại cho Bát Tràng một tiềm năng mới: Tiềm năng phát triển du lịch. Khi các tour du lịch Bát Tràng bằng đường thuỷ được lập ra, du khách sẽ được ngắm nhìn dòng sông Hồng, các làng ven sông, nghe thuyết minh về dòng sông cùng các dấu tích lịch sử mà nó mang trong mình, sau đó ghé thăm làng gốm Bát Tràng. Đây chính là một tiềm năng góp phần thúc đẩy du lịch tại làng gốm Bát Tràng phát triển, đặc biệt khi cảng du lịch ở Bát Tràng được hoàn thành vào năm 2009.

2.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Nằm ở cửa ngõ Đông Bắc của Hà Nội, trong vùng giao thoa của văn hoá Thăng Long và văn hoá Kinh Bắc nên nơi đây có nhiều di tích lịch sử – văn hoá có giá trị như:

2.3.2.1. Đình làng:

Đình Bát Tràng là một trong số những ngôi đình lớn của xứ Kinh Bắc xưa. Đình nằm trong quần thể di tích của làng gốm Bát Tràng, được xây dựng vào năm 1720 dưới đời vua Lê Dụ Tông, với kiến trúc nguy nga, bề thế. Đình quay về hướng Tây nhìn ra dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa. Đình có kiến trúc kiểu chữ Nhị: Phía sau là hậu cung – nơi thờ sáu vị thần được suy tôn là Lục Vị Thành Hoàng; phía trước là toà Đại Bái gồm 5 gian 2 chái. Chính giữa toà Đại Bái là hương án thờ Công đồng, bên trên treo 2 bức đại tự sơn son thếp vàng: “Thiên địa kì hợp đức” – trong cuộc sống luôn lấy chữ Đức làm đầu. Đây cũng chính là tôn chỉ của làng bao đời nay. Và bức đại tự: “Hiếu nghĩa cấp công” – đây là tấm biển vua Tự Đức ban cho dân làng Bát Tràng khi nhà Nguyễn xây thành Hà Nội, vì nghĩa lớn, dân làng Bát Tràng đã cạy gạch sân đình đem nộp cho triều đình. Hai bên hương án có đôi câu đối ghi dấu tích con dân làng Bát: “Bồ di thủ nghệ khai đình vũ / Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần ( Đem nghề từ làng Bồ ra khởi dựng đền miếu / Lòng thành như hương lan dâng cúng thánh thần).

Hai bên chái đình là ban thờ Vách Tả, Vách Hữu. Theo các cụ trong làng kể lại, hai bên vách đình thờ những người trong làng không có con cái. Đây cũng chính là một nét văn hoá đẹp thể hiện đức hiếu sinh của người dân làng Bát.

Bục thấp nhất và sân đình được lát bằng gạch Bát – thứ gạch đã đi vào thơ ca, huyền thoại của dân tộc, thứ gạch xe duyên xây bể, thứ gạch bền chắc không một loại rêu nào bám được vào và đã được ưa dùng từ cung đình đến làng xã.

Bốn mái đình cong vút, lượn sóng, phía trên đắp hình nghê vừa mềm mại, vừa khoẻ khoắn, uy nghiêm. Trên cửa chính bước vào toà Đại Bái treo bức Hoành phi với bốn chữ “Bạch Thổ danh sơn” gợi nhớ lại cái khung cảnh sơ khai của vùng đất sét trắng – Bạch Thổ phường (Bát Tràng ngày nay) khi dòng họ Nguyễn Ninh Tràng mới theo vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư.

Cột đồng trụ uy nghiêm như những cây bút lớn viết thẳng lên trời xanh mang khí thế truyền thống khoa bảng của làng. Trên cột đồng trụ gắn đôi câu đối sứ: “Ngũ hành tú khí chung anh kiệt / Vạn trượng văn quang biếu cát tường” (Nơi hội tụ khí thiêng hun đúc nên các bậc anh hùng hào kiệt / Ánh sáng văn hoá toả xa vạn dặm biểu thị sự cát tường”

Cửa tả, cửa hữu lần lượt gắn hai hàng chữ “ Thổ thành kim” – Đất biến thành vàng, “Nê tác bảo” – Bùn làm ra của báu (Bùn đất qua đôi bàn tay người nghệ nhân làng Bát trở thành những vật phẩm quý giá, đồ cống tế ngoại giao)

Trải qua các triều đại lịch sử, Đình Bát Tràng hiện còn lưu giữ được hơn 50 đạo sắc phong. Chính bởi những giá trị về kiến trúc và văn hoá như vậy, năm 2005 Bộ Văn hoá thông tin đã cấp bằng Di tích Văn hoá Kiến trúc Nghệ thuật cho đình Bát Tràng. Sau gần 300 năm tuổi cộng với chiến tranh địch họa, đình bị hư hỏng nặng. Từ năm 2005 dân làng đã cùng nhau đóng góp, đại Trùng tu đình. Nay công trình trùng tu đã hoàn tất, đình Bát Tràng đã trở lại đúng dáng dấp xưa.

2.3.2.2. Chùa Kim Trúc: Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Chùa còn có tên gọi khác là chùa Bát. Đây là ngôi chùa chính của làng Bát Tràng, là một ngôi chùa nằm bên cửa sông Bắc Hưng Hải. Chùa có kiến trúc “ Nội công ngoại quốc” với 74 chiếc cột đá, trong chùa có bức tượng hộ pháp cao hơn 5m. Năm 1958, hưởng ứng lời kêu gọi của nhà nước vì nghĩa lớn cả làng Bát Tràng đã di dời chùa đến một vị trí khác để nhường đất cho công trình đại thủy nông lớn nhất thời bấy giờ để tưới tiêu cho ba tỉnh – công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải.

Ngoài ra, trên đất làng cổ Bát Tràng còn có hai ngôi chùa lớn nữa là chùa Am và chùa Bảo Minh. Nơi đây còn lưu giữ được quả chuông quý “ chuông Bảo Minh tự” đúc năm Ất Mão (1795), một di vật thời Tây Sơn. Hiện nay, chùa Am và chùa Bát được sáp nhập vào làm một tại vị trí của chùa Am ngày nay.

2.3.2.3. Đền làng ( hay còn gọi là đền Mẫu):

Đền ra đời muộn hơn so với đình và chùa, được xây dựng vào cuối thế kỉ XVIII. Đền thờ Mẫu Bản Hương – Mẫu nghi của làng. Theo truyền thuyết dân gian hiện còn lưu giữ tại làng “ Mẫu là người con gái họ Trần Đồng Tâm – Bát Tràng, dung nhan xấu xí. Bà mất khi còn rất trẻ, sau khi mất thường hiển linh hiện lên giúp đỡ dân làng. Xác bà được thiêu thành tro rồi thả giữa dòng sông Hồng. Tro trôi dạt vào đâu người dân ở đấy hớt tro đem về đắp thành tượng để thờ. Mẫu được vua Quang Trung sắc phong công chúa, tên thụy Trần Mỹ Tín”. Hiện, làng Bát Tràng còn lưu giữ được sắc phong vào đời vua Khải Định (1921). Đền được dựng ở đầu làng, quay về phía Tây Nam, nhìn ra sông Hồng. Đền được chia làm hai khu: khu Nhà Mẫu và khu Phủ Chúa.

Nhà Mẫu: chính giữa là ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, phía sau là ban thờ Mẫu Bản Hương ( Đệ Tứ Khâm Sai), bên trái là Tam toà Thánh Mẫu, bên phải là thờ Vương Phụ, Vương Mẫu – những bậc có công sinh thành ra Mẫu Bản Hương. Hậu cung là nơi đặt long đình và võng thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng cổ và đẹp.

Phủ Chúa: chính giữa là ban thờ chúa Sơn Trang, hai bên trái, phải lần lượt là ban thờ Chầu Đệ Nhị, Chầu Đệ Tam.

Trước năm 1942 làng có hai ngôi đền tục gọi là đền trên và đền dưới nhưng sau vụ lở đất năm 1942, hiện nay làng chỉ còn ngôi đền trên. Hàng năm làng tổ chức hội vào ngày 22, 23, 24 tháng 9 âm lịch. Tại lễ hội có tục rước nước và thả đèn hoa đăng.

2.3.2.4. Văn chỉ làng Bát Tràng: Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Được dựng ở phía sau đình làng. Trên tam quan có ba chữ lớn bằng đá “Ngưỡng di cao” ( trông cao vời vợi), giáo dục răn dạy các thế hệ dân làng phải luôn luôn biết khiêm tốn, không ngừng học hỏi. Văn chỉ có kiến trúc theo kiểu chữ Nhị đều 5 gian. Trong văn chỉ có bệ thờ Đức Khổng Tử và 72 học trò xuất sắc nhất của ông. Bên trên bệ là bức Hoành phi sơn son thếp vàng “ Thiên địa đồng lưu” (đất trời cùng luân chuyển).

Xưa kia, mỗi năm văn chỉ mở hội một lần. Các quan viên coi việc văn chỉ thường đem hai bức trướng vóc ghi đầy đủ tên họ 364 vị khoa bảng của làng treo lên trang trọng để mọi người chiêm ngưỡng, động viên, khuyến khích các thế hệ con cháu đời đời chuyên tâm học hành tấn tới.

Hiện nay, văn chỉ chính là nơi làng tổ chức phát phần thưởng cho những con em trong làng có thành tích học tập, rèn luyện xuất sắc trong năm học, hoặc những con em gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng đã cố gắng vươn lên trong học tập, rèn luyện. Buổi lễ thường được tổ chức vào ngày 4/9 hàng năm – trước ngày khai giảng một ngày nhằm tạo khí thế phấn khởi để con em trong làng cố gắng học tập vươn lên.

2.3.2.5. Lễ hội của làng:

Hàng năm, làng gốm Bát Tràng tổ chức lễ hội làng từ ngày 14 đến 16 tháng 2 Âm lịch. Lễ hội làng gốm Bát Tràng có sự tham gia của ba làng xung quanh: Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ, Thủy Lĩnh. Lễ hội gồm có phần lễ và phần hội với rất nhiều các nghi lễ và trò chơi dân gian độc đáo.

Phần Lễ gồm các nghi thức tế lễ theo phong tục truyền thống như lễ rước nước, tắm bài vị, rước bài vị ra đình. Theo nghi thức này thì nước được rước từ giữa sông Hồng về đền Mẫu ở ven sông để làm lễ Mộc Dục cho các bài vị đặt tại đền, sau đó mới rước bài vị về sân đình tế lễ. Đây là một nghi thức nông nghiệp cổ truyền của rất nhiều làng nghề khác nhau ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra còn có nghi lễ dâng cúng thành hoàng một con trâu tơ béo, thui vàng, đặt cả con lên chiếc bàn lớn, kèm theo sáu mâm cỗ và bốn mâm xôi. Sau khi lễ xong, các quan viên chức sắc đại diện 20 dòng họ cùng thụ lộc.

Sau khi phần lễ kết thúc là đến phần hội. Làng sẽ tổ chức đua tài bằng những sản phẩm tinh xảo do các thợ trong làng chế tác ra. Giải thưởng tuy không lớn nhưng đã động viên mọi người khiến ai cũng cố gắng hết mình để tạo ra những sản phẩm có giá trị vĩnh hằng. Ai cũng háo hức tham gia và họ có niềm tin rằng người được giải chính là đã được Tổ nghề ban lộc, làm ăn sẽ khá giả, nghề nghiệp tiến triển suốt năm. Đây cũng là một vinh dự vô giá, là cơ hội để mỗi người thợ tự nâng cao tay nghề hơn đến năm sau lại có dịp đua tài. Sau đó là các trò chơi dân gian vô cùng vui nhộn và đầy ý nghĩa như cờ người, chọi gà… Đặc biệt là trong đêm 15/2 có phần thả đèn hoa đăng trên sông rất đông vui và náo nhiệt.

Ngoài hội làng tại làng Bát Tràng còn có hội đền Mẫu diễn ra từ 22 đến 24 tháng 9 Âm lịch, cũng với những nghi lễ và trò chơi như trong hội làng. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Đây là dịp để những người con xa quê về thăm lại quê hương, họ hàng, làng xóm, thể hiện tình cảm của mình với mảnh đất quê hương. Đồng thời đây cũng là một dịp để du khách thập phương, đặc biệt là những du khách quốc tế có dịp được tham dự, hoà mình vào không khí buổi lễ hội để phần nào hiểu được những nét độc đáo, đặc sắc trong lễ hội truyền thống Việt Nam nói chung và trong lễ hội làng nghề Việt Nam nói riêng.

2.3.2.6. Trung tâm trưng bày giới thiệu sản phẩm gốm sứ Bát Tràng (còn gọi là Chợ Gốm):

Chợ gốm được xây dựng và đưa vào khai trương vào tháng 10 năm 2004 với hơn 100 gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm của các hộ kinh doanh trên khuôn viên rộng khoảng 5000m2.. Với sản phẩm hàng hoá vô cùng phong phú và đa dạng đủ các mặt hàng kích cỡ kiểu dáng khác nhau từ những đồ gia dụng hàng ngày như ấm chén, bát đĩa, lọ hoa… đến những sản phẩm dùng để trang trí nội thất như tranh, phù điêu, các chậu hoa, những tượng trang trí bằng gốm ( Bộ Tam Đa, tượng Quan Công, tượng Phật Di Lặc…)

Ngoài ra, chợ gốm còn có toà nhà hội trường hai tầng, trong đó không gian tầng hai là dành riêng cho những du khách muốn thử tài làm một thợ gốm với một số khâu đơn giản trong quá trình sản xuất gốm như đắp, nặn, tô, vẽ.

2.3.2.7. Bảo tàng gốm Vạn Vân

Địa chỉ: số 4 Giang Cao – Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội

Đây là bảo tàng tư nhân đầu tiên tại Hà Nội do ông Trần Ngọc Lâm – hội viên hội sưu tầm gốm và cổ vật Thăng Long – lập ra vào tháng 2 năm 2006. Hiện nay, bảo tàng trưng bày và giới thiệu khoảng 400 hiện vật gốm cổ Bát Tràng thế kỉ XV – XIX trong một ngôi nhà gỗ 200 tuổi mua từ Thái Bình chuyển lên.

Bảo tàng mở cửa từ 8h sáng tới 5h chiều, khách tới tham quan bảo tàng không mất tiền vé. Bên cạnh việc được chiêm ngưỡng, nghe hướng dẫn, thuyết minh về các sản phẩm gốm cổ, khách còn được nghỉ ngơi thư giãn trong khung cảnh yên bình của làng quê, thưởng thức các món đặc sản của một vùng quê nông thôn Việt Nam.

2.4. Điều kiện về kinh tế – xã hội Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

2.4.1. Điều kiện về kinh tế

Từ năm 1990 trở lại đây, nghề gốm Bát Tràng đã thực sự khởi sắc và mang lại hiệu qủa kinh tế cao. Từ khi chuyển hướng kinh tế, lấy hộ gia đình làm nòng cốt trong sản xuất – kinh doanh. Chấp nhận cạnh tranh, mở rộng sản xuất và thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Do vậy, sản xuât của Bát Tràng tăng lên nhanh chóng, thu nhập được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.

Bát Tràng ngày nay trải dài gần 3 km ven sông Hồng với 1700 hộ và gần 6700 nhân khẩu, quần cư tại hai thôn cổ: Giang Cao và Bát Tràng. Khác với các xã trong huyện, xã Bát Tràng không còn sản xuất nông nghiệp mà chuyên sản xuất tiêu thụ gốm sứ truyền thống. Theo điều tra của xã, hiện nay tại xã có 83,7% hộ trực tiếp sản xuất gốm sứ; 10,6% hộ dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Quy mô hộ gia đình là những đơn vị sản xuất kinh doanh.

Xã có hơn 1100 lò gốm, mỗi năm sản xuất 100 – 120 tỷ đồng hàng hoá.

Bát Tràng có 40 tổ chức kinh tế đủ loại từ: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và hợp tác xã chuyên sản xuất, kinh doanh gốm sứ. Doanh thu, có nhiều lô hàng xuất khẩu, đặc biệt được đặt trước từ Hàn Quốc, Nhật Bản. Gốm Bát Tràng cũng chiếm lĩnh được thị phần tại các nước: Đài Loan, Nhật Bản, Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Đức… và được khách nước ngoài rất mến mộ. Ngày nay trong các cửa hàng trưng bày sản phẩm tại Bát Tràng cũng có đủ các mẫu gốm sứ từ cổ truyền đến hiện đại của nhiều nước.

2.4.2. Điều kiện xã hội Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Làng có 100% số hộ gia đình sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ từ lâu đời (vì làng hoàn toàn không có diện tích đất nông nghiệp), nên có thể nói người dân trong làng có cuộc sống sung túc hơn các làng khác rất nhiều (nhất là các làng thuần nông bên cạnh). Từ xa xưa, số hộ giàu đã chiếm một tỷ lệ tương đối trong làng. Toàn xã đã có trên 100 gia đình sắm máy vi tính, nối mạng Internet, mở trang thông tin giới thiệu sản phẩm, giao dịch buôn bán với nước ngoài. Phát triển nghề gốm sứ, không chỉ Bát Tràng giàu, mà nơi đây cũng đã tạo việc làm cho 4000 – 5000 lao động từ các địa phương khác đến.

Nói đến làng nghề Bát Tràng không thể không nêu những linh hồn của làng, đó là các nghệ nhân. Thời nay, Bát Tràng có những nghệ nhân xứng đáng với truyền thống của mình , như các ông Trần Văn Giàng, Nguyễn Văn Cốn, Lê Văn Cam, hoặc nghệ nhân rất trẻ như Lê Xuân Phổ… Các nghệ nhân, có người chú trọng về men, nói cách khác là giỏi độc đáo về men; có nghệ nhân chuyên sâu về tạo dáng, có nghệ nhân tài về vẽ… Nói đến gốm sứ, giá trị của nó đã được gói gọn trong câu nhất dáng, nhì men, sau đó mới đến nét khắc, vẽ. Giờ đây gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng đã và đang tiếp tục chinh phục người tiêu dùng, bởi các nghệ nhân Bát Tràng chú ý đến tất cả các mặt tạo nên cái đẹp của đồ gốm sứ. Bởi vậy thị trường ăn hàng Bát Tràng đã rộng khắp cả nước, và có một lượng không nhỏ được đưa ra khắp 5 châu.

2.5. Cơ sở vật chất kĩ thuật hạ tầng xã hội

Xã Bát Tràng được quy hoạch tổng thể từ năm 2001 nên có thể nói nơi đây có hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối khá. Con đường đến với Bát Tràng ngày nay cũng đã thuận tiện hơn trước, có thể bằng đường bộ ( qua chân cầu Chương Dương hoặc cầu Long Biên). Hoặc bằng đường sông, xuôi dòng sông Hồng, cập bến tại cảng du lịch Bát Tràng. Năm 2008 cảng đường sông tại làng gốm Bát Tràng đã được nâng cấp thành cảng du lịch, hoàn thành và được đưa vào sử dụng từ năm 2009. Đây là cảng du lịch cấp 2 với bến tàu dài 30m có kè bảo vệ và các công trình phụ trợ đủ khả năng đón tàu chứa 150 khách, ước tính cảng sẽ đón khoảng 200.000 lượt khách mỗi năm. Cảng Bát Tràng sẽ là một trong những bến đỗ của tour du lịch sinh thái, văn hoá di chuyển bằng tàu thuỷ trên sông Hồng. Từ trung tâm Hà Nội, nếu theo đường thuỷ có thể xuất phát từ bến Chương Dương dọc theo sông Hồng đến bến Đình Bát Tràng (ngày nay là cảng du lịch Bát Tràng).

Đường làng ngõ xóm đã được 100% bê tông hoá. Điều này đã tạo nên một diện mạo mới cho làng nghề. Giờ đây, đến với Bát Tràng du khách sẽ không còn phải lo về đường xá khó đi hay những con đường làng bằng đất như trước kia. Thay vào đó là những con đường bê tông thẳng tắp, đưa du khách đến tận các cơ sở sản xuất, các gian hàng trưng bày sản phẩm, hay đến thăm các di tích lịch sử của làng nghề. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Từ năm 2004, Bát Tràng đã xây dựng một trung tâm trưng bày giới thiệu sản phẩm gốm sứ, còn gọi là Chợ Gốm để giới thiệu một cách có hệ thống và khoa học các sản phẩm của làng. Du khách có thể dễ dàng đến đây tìm hiểu, tham quan, chiêm ngưỡng và chọn cho mình những sản phẩm ưng ý làm đồ lưu niệm.

Bát Tràng cũng đã xây dựng một bãi đỗ xe ở ngay đối diện chợ gốm để các đoàn tham quan, du lịch có thể đỗ xe trong quá trình tham quan tại làng.

Hệ thống thông tin liên lạc của làng nghề cũng tương đối phát triển. Hầu hết các gia đình đều có điện thoại cố định để liên lạc, một số hộ cũng đã có máy tính nối mạng. Làng nghề cũng đã có trang web www.battrang.info là trang thông tin chung giới thiệu về các sản phẩm gốm của làng nghề. Truy cập vào đây, du khách sẽ có cái nhìn tổng quan và đầy đủ nhất về làng gốm, từ lịch sử hình thành, các di tích lịch sử đến quy trình làm gốm và các sản phẩm đặc trưng của làng nghề.

Tại Bát Tràng cũng đã có trạm y tế xã, dù còn nhỏ và chưa có các thiết bị y tế hiện đại, nhưng trạm y tế này đã có những trang thiết bị cơ bản nhất, phần nào giải quyết được những nhu cầu của du khách và người dân trong những trường hợp khẩn cấp.

Mặc dù cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ trực tiếp cho du lịch tại làng nghề còn chưa phát triển, nhưng nơi đây cũng đã có một số nhà hàng phục vụ nhu cầu ăn uống của du khách với các món ăn đặc sản của Bát Tràng như: xôi vò, chè đường (món ăn truyền thống thường có mặt trong các mâm cỗ tại làng cổ Bát Tràng), bún mọc , măng mực (món canh truyền thống và cầu kì với một hương vị đặc trưng mà không nơi nào có), đặc biệt là có món thịt chó Bát Tràng nổi tiếng với món nước chấm Óc mật… với chỗ ăn uống sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh.

2.6. Các cơ chế chính sách

Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tạo ra một bước ngoặt mới trong công cuộc phát triển của cả nước. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo một sức sống mới cho các làng nghề nói chung và cho Bát Tràng nói riêng. Cơ chế mới đã mở rộng khả năng huy động mọi nguồn vốn, lao động, vật tư trong các hộ gia đình vào phát triển sản xuất và xuất khẩu sản phẩm. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Nằm trong hệ thống các làng nghề truyền thống tại Hà Nội, trong năm 2008, làng gốm Bát Tràng cũng đã được thành phố ưu tiên đầu tư để xây dựng và phát triển thương hiệu.Theo lời của ông Phí Thái Bình – phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố, chính quyền thành phố đã ban hành quyết định số 22 nhằm bảo tồn và phát triển làng nghề thủ công truyền thống. Theo quyết định này, sự trợ giúp của thành phố sẽ bao gồm: đưa ra tên thương hiệu cho làng nghề, thiết kế logo, đăng kí thương hiệu độc quyền, tư vấn về việc xây dựng và quản lý thương hiệu, xây dựng quy định sử dụng thương hiệu, và thiết lập tiêu chuẩn quản lý chất lượng. Sự trợ giúp này áp dụng cho tất cả các quy mô sản xuất trong làng nghề: các tổ chức lớn, cơ sở kinh doanh với quy mô vừa và nhỏ, và đặc biệt là cơ sở kinh doanh mặt hàng thủ công truyền thống.

Để khuyến khích làng nghề mở rộng thị trường tiêu thụ, thành phố sẽ giúp các cơ sở kinh doanh tiếp cận tốt hơn thông tin thị trường và giới thiệu sản phẩm thông qua phát triển website dựa trên website chính của thành phố.

Hoạt động khác nhằm quảng bá rộng rãi hình ảnh của làng nghề, thành phố sẽ chi 100% chi phí để thuê và trang bị gian hàng tại các triển lãm trong nước và 50% chi phí cho việc triển lãm gian hàng tại nước ngoài.

Hơn nữa, để quảng bá rộng rãi thương hiệu, chính quyền thành phố sẽ cho phép làng nghề quảng cáo miễn phí trên website Sở công thương thành phố, tại trung tâm thương mại thành phố.

Môi trường luôn là một vấn đề đáng quan tâm đối với các điểm du lịch nói chung và với các làng nghề mà hoạt động sản xuất và du lịch cùng đồng thời diễn ra nói riêng. Theo kế hoạch phát triển, đến hết năm 2010 sẽ thực hiện chuyển đổi cơ bản gần 200 lò than đang hoạt động tại xã, thay thế bằng lò gas tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong những năm gần đây người dân Bát Tràng ngộp trong bầu không khí ô nhiễm bởi khí than nồng nặc đến tức thở. Trước thực trạng đó, năm 2006, Ban quản lý dự án nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa phối hợp cùng uỷ ban nhân dân xã Bát Tràng, Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng triển khai dự án “Thúc đẩy ứng dụng lò gas nung gốm tiết kiệm năng lượng” tại làng nghề. Lò gas nung gốm chi phí nhiên liệu để nung một mẻ lò với khối lượng tương đương thì không có sự chênh lệch nhiều. Tuy nhiên, do tỉ lệ thành phẩm cao cộng với khả năng nung được các mặt hàng cao cấp có giá trị kinh tế lớn, khả năng tận dụng nhiệt để sấy và chu kì đốt ngắn nên lò gas nung gốm có ưu thế hơn hẳn về mặt kinh tế. Mặt khác việc sử dụng lò gas nung gốm giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đây là một yếu tố góp phần không nhỏ trong mục tiêu phát triển du lịch tại làng nghề. Một hình ảnh làng nghề đẹp với các sản phẩm độc đáo, thái độ niềm nở, mến khách của người dân và đặc biệt là với một khung cảnh làng nghề trong lành chắc chắn sẽ để lại ấn tượng sâu sắc và khó quên trong lòng mỗi du khách. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

2.7. Các dự án đầu tư để nâng cao tiềm năng của làng gốm Bát Tràng

Năm 2001 – 2002, làng gốm cổ Bát Tràng đã được Uỷ ban Nhân dân thành phố phê duyệt quy hoạch chi tiết, được chọn làm điểm đầu tư phát triển làng nghề, bảo tồn làng gốm cổ. Thành phố đã quyết định đầu tư cải tạo đường, vỉa hè, thoát nước, điện chiếu sáng (giai đoạn 1) với số vốn 8.345 triệu đồng, trong đó ngân sách cấp 6.820 triệu đồng. Giữa tháng 12/2001, dự án chính thức khởi công và hoàn thành cuối tháng 6/2002. Đây cũng là dự án làng nghề du lịch quy mô lớn của cả nước. Đồng thời xã cũng đã triển khai lập dự án cấp nước sạch khoảng 6,6 tỷ đồng; dự án cải tạo nâng cấp điện hạ thế trên 2 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật (giai đoạn 2) khoảng 4 tỷ đồng. Tổng số các dự án đầu tư vào Bát Tràng trên 20 tỷ đồng sẽ tạo cho làng nghề này bộ mặt mới, cải thiện điều kiện môi trường phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế – văn hoá và tham quan du lịch của làng gốm sứ cổ.

Dự án Cảng du lịch Bát Tràng với tổng số vốn đầu tư lên tới 15,7 tỷ đồng với mục tiêu là phục vụ du lịch bằng đường thuỷ trên sông Hồng đến với làng nghề truyền thống Bát Tràng cũng đã được triển khai và đưa vào khai thác. Đây là một cảng du lịch cấp 2 với bến tàu dài 30m, có kè bảo vệ và các công trình phụ trợ đủ khả năng đón tàu chứa 150 khách.

Để du lịch Bát Tràng không còn là tiềm năng, trong những năm qua, một hành trình văn hoá kết nối các làng gốm cổ truyền tại vùng Đông Bắc châu thổ sông Hồng đã được thiết lập, nhằm giới thiệu những nét văn hoá đặc sắc thông qua du lịch. Đây là nỗ lực của Cục Di Sản văn hóa nước ta và cơ quan di sản của cộng đồng Bỉ nói tiếng Pháp (Wallonie – Bruxelles) trong khuôn khổ chương trình “ Hành trình văn hoá qua các làng nghề truyền thống”.

Nghề gốm sứ được chọn để mở đầu cho gần 2000 làng nghề trên khắp cả nước. Các chuyên gia của dự án đã nghiên cứu và quyết định chọn các điểm trong hành trình di sản này, gồm: Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Giang), Phù Lãng (Bắc Ninh), Chu Đậu (Hải Dương), Đông Triều (Quảng Ninh). Giai đoạn tiếp theo của dự án (2007 – 2010) tập trung vào việc bảo tồn các di sản văn hoá cả vật thể và phi vật thể tại các làng nghể, nỗ lực đưa chúng trở thành các điểm thực sự hấp dẫn đối với các tour du lịch văn hoá. Nghĩa là chúng vừa có sản phẩm thương mại phục vụ nhu cầu mua sắm của du khách, vừa có những hình thức để thể hiện rõ nét chiều sâu văn hoá của làng nghề, quá trình làm ra sản phẩm và sự tài hoa của người thợ thủ công.

Bên cạnh đó, dự án xây dựng thương hiệu “Bát Tràng Việt Nam – 1000 năm truyền thống” do Hội gốm sứ Bát Tràng phối hợp với chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF), thuộc công ty tài chính quốc tế (IFC) tổ chức cũng đã được chính thức ra mắt vào ngày 17/11/2008 tại Văn miếu – Quốc Tử Giám. Cùng với việc ra mắt thương hiệu Bát Tràng, Trung tâm xúc tiến xuất khẩu Bát Tràng cũng được thành lập trước đó và cho ra mắt website www.battrang-ceramics.org. Đây sẽ là nơi trao đổi những thông tin kinh doanh giữa các doanh nghiệp và giới thiệu ra thị trường thế giới những sản phẩm truyền thống và hiện đại mang thương hiệu Bát Tràng.

Những dự án đầu tư trên đây sẽ góp phần mang đến hình ảnh một Bát Tràng mới mẻ, hấp dẫn nhưng vẫn đậm nét truyền thống văn hoá Việt.

Tiểu kết chương 2: Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

Như vậy, có thể thấy Bát Tràng có tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch. Xã Bát Tràng cũng được quy hoạch từ năm 2001 nên cơ sở hạ tầng khá tốt. Bên cạnh đó, Bát Tràng với sự phát triển của nghề gốm sứ cổ truyền, địa lý thuận tiện, và nguồn tài nguyên du lịch phong phú, nên trong những năm gần đây Bát Tràng đã trở thành một điểm đến hấp dẫn cho những ai quan tâm đến nét văn hóa cổ truyền của dân tộc. Không chỉ được Nhà nước quan tâm chú trọng, Bát Tràng cũng đã thu hút các tổ chức tư nhân và quốc tế trong các dự án đầu tư để du lịch làng nghề Bát Tràng không chỉ là một tiềm năng. Nhiều dự án đã được đề ra và triển khai thực hiện nhằm mục đích giới thiệu với bạn bè quốc tế về hình ảnh một làng gốm chân phương, mộc mạc, bình dị và đậm nét tâm hồn Việt.

Tuy nhiên, để khai thác những tiềm năng đó như thế nào cho phù hợp, hiện nay vẫn đang là một câu hỏi lớn buộc các cấp có thẩm quyền, các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và các nhà đầu tư phải giải đáp. Liệu rằng phát triển du lịch gắn với làng nghề tại Bát Tràng đã thực sự trở thành một thế mạnh cho du lịch của Hà Nội? Điều đó cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, các tổ chức đầu tư và người dân nơi đây, để làng nghề Bát Tràng không chỉ nổi tiếng với sản phẩm gốm sứ độc đáo mà còn là một điểm tham quan thú vị cho du khách mỗi khi đến với thủ đô ngàn năm văn hiến. Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Khóa luận: Thực trạng tiềm năng du lịch tại làng gốm Bát Tràng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>>> Khóa luận: Tiềm năng làng nghề bát tràng để phát triển du lịch […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993