Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Pù Mát dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1 Giới thiệu về Vườn quốc gia Pù Mát
Lịch sử hình thành
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát và sau này là VQG Pù Mát được thành lập theo quyết định số 194/CT ngày 9/8/1986 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng, từ quyết định thành lập hai khu rừng đặc dụng độc lập ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An là: Khu bảo tồn thiên nhiên Anh Sơn (huyện Anh Sơn) và khu bảo tồn thiên nhiên Thanh Thuỷ (huyện Thanh Chương). Hai khu bảo tồn này được kết hợp làm một để thành lập khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát.
Năm 1993, Viện điều tra và quy hoạch rừng đã xây dựng dự án rừng đã xây dựng dự án đầu tư Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát. Bản kế hoạch đầu tư này đã được bộ Lâm Nghiệp thẩm định và được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt theo quyết định số 3355/QĐ-UB ngày 28/12/1995.
Ngày 21/11/1996 Quyết định số 876/QĐ-TTg của thủ tướng Chính Phủ phê duyệt dự án Lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên Pù Mát do EU tài trợ.
Ngày 21/5/1997 Quyết định số 2150/QĐ-UB của UBND tỉnh Nghệ An về việc thành lập Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Mát, trực thuộc sự quản lý của chi cục kiểm lâm Nghệ An. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Năm 2001 khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát được chính thức chuyển hạng thành VQG Pù Mát theo quyết định số 174/QĐ-TTg về việc chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát thành Vườn quốc gia Pù Mát của thủ tướng Chính phủ ngày 8/11/2001.
Vườn quốc gia Pù Mát nằm trên sườn đông của dãy Trường Sơn, phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An, dọc theo biên giới Việt-Lào, có độ cao tuyệt đối dao động từ 200-1841m, trong đó đỉnh cao nhất của toàn khu vực là đỉnh Pù Mát với độ cao 1841m nằm trên dải núi chính và được lấy tên làm Vườn quốc gia. Tổng diện tích của Vườn quốc gia là 91113ha trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 89.517ha, phân khu phục hồi sinh thái là 1596ha. Toàn bộ khu vực VQG trải dài trên địa bàn của 16 xã thuộc 3 huyện Con Cuông, Anh Sơn, và Tương Dương.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác bảo tồn, nhằm làm nâng cao năng lực quản lý và khai thác tiềm năng du lịch sinh thái của VQG, ngày 12/7/2002 Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định 571/QĐ-TTg về việc phê duyệt dự án khả thi đầu tư xây dựng VQG Pù Mát, tỉnh Nghệ An.
Bộ máy tổ chức
Theo quyết định 43/QĐ-UB ngày 09/1/2003 của UBND tỉnh Nghệ An về việc thành lập Ban quản lý VQG Pù Mát, thì cơ cấu tổ chức của VQG được chia làm 6 phòng ban và các bộ phân trực thuộc:
- Ban giám đốc: gồm Giám đốc và phó giám đốc.
- Hạt kiểm lâm: gồm văn phòng hạt, đội kiểm lâm cơ động và 08 trạm quản lý bảo vệ rừng Tam Hợp, Tam Đình, Khe Khơi, Khe Bu, Khe Kèm, Phà Lài, Làng Yên, Cao Vều đóng trên địa bàn 3 huyện Tương Dương, Con Cuông, và Anh Sơn.
- Phòng khoa học và hợp tác quốc tế gồm các bộ phận: trung tâm cứu hộ động vật hoang dã, Bảo tàng gen, Vườn ươm, Vườn thực vật.
- Phòng giáo dục môi trường và du lịch sinh thái.
- Phòng tổ chức hành chính quản trị.
- Phòng kế hoạch tài vụ.
Vị trí Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Vườn Quốc Gia Pù Mát là đơn vị sự nghiệp trực thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh. Chịu sự quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Vườn Quốc Gia Pù Mát có đầy đủ tư cách pháp nhân, có con dấu, và tài khoản riêng.
Chức năng của Vườn Quốc Gia
Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và các giá trị, văn hoá, lịch sử, cảnh quan trong phạm vi của Vườn. Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế; giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái cho cộng đồng; duy trì tác dụng phòng hộ của rừng trong phạm vi địa giới của Vườn.
Nhiệm vụ của Vườn quốc gia
- Quản lý, bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, các loài sinh vật đặc hữu, phục hồi tài nguyên và cảnh quan thiên nhiên trên diện tích được giao;
- Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế;
- Tổ chức dịch vụ môi trường.;
- Trình UBND tỉnh các chương trình dự án đầu tư. Là chủ đầu tư các dự án theo quy định hiện hành của nhà nước và được UBND tỉnh giao;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý bảo vệ rừng, bảo tồn trong Vườn và vùng đệm;
- Lập, thẩm định, giám sát và thực hiện các dự án có liên quan tới quản lý bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; Vườn thực vật; cây xanh, cây cảnh, mô hình nông lâm khi được cơ quan hoặc cấp có thẩm quyền giao;
- Thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là Ban quản lý rừng đặc dụng theo Điều 61 của luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004;
- Quản lý tài chính, tài sản được giao; thực hiện các quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng; cải cách hành chính theo quy định của nhà nước;
- Quản lý bộ máy nhà nước, cán bộ công chức, viên chức; chế độ tiền lương, khen thưởng, kỷ luật theo phân cấp của UBND tỉnh và các quy định hiện hành của nhà nước;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Những mục tiêu chính của Vườn quốc gia Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Trong dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Pù Mát của UBND tỉnh Nghệ An đã đưa ra các mục tiêu chính như sau:
- Bảo tồn, giữ gìn khu rừng tự nhiên đặc trưng cho hệ sinh thái rừng còn mang tính nguyên sinh, thuộc rừng ẩm nhiệt đới vùng Bắc Trường Sơn Việt Nam.
- Bảo tồn đa dạng sinh học cho 1.792 loài thực vật, 938 loài động vật. Trong đó có nhiều loài động thực vật quí hiếm đang bị đe doạ bao gồm: Về thực vật có 37 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và 20 loài được ghi trong sách đỏ thế giới. Về động vật có 77 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và 62 loài được ghi trong sách đỏ thế giới.
- Tăng cường chức năng rừng phòng hộ đầu nguồn cho hệ thống sông Cả nhằm phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống của cộng đồng dân cư trong khu vực.
- Phát triển mở mang du lịch sinh thái, tạo điều kiện để người dân trong vùng có thêm việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, đồng thời nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
- Thu hút các nguồn tài trợ quốc tế phục vụ cho mục đích bảo tồn thiên nhiên.
Có thể bạn quan tâm:
2.2 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch tự nhiên
2.2.1 Vị trí địa lý
VQG Pù Mát nằm phía Tây Nam tỉnh Nghệ An cách thành phố Vinh khoảng 120km, trên địa bàn của 3 huyện là Con Cuông, Tuơng Dương, và Anh Sơn, trên toạ độ địa lý từ 18046′ đến 19012′ vĩ độ Bắc, từ 104024′ đến 104056′ kinh độ Đông.
Với ranh giới của VQG được xác định như sau:
- Phía Đông-Bắc giáp các xã lạng Khê, Châu Khê, Lục Dạ, Môn Sơn huyện Con Cuông;
- Phía Tây-Nam giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào;
- Phía Đông giáp các xã: Phúc Sơn, Hội Sơn huyện huyện Anh Sơn;
- Phía Tây- Bắc giáp các xã: Tam Hợp, Tam Quang, Tam Đình huyện Tương Dương.
Với vị trí địa lý trên, ranh giới của Vườn quốc gia đều tiếp giáp với địa bàn các xã dân sinh tuận lợi cho sự phát triển du lịch sinh thái bởi DLST gắn kết chặt chẽ với cộng đồng dân cư địa phương. Phía Tây-Nam giáp Lào cũng là điều kiện đi lại thuận lợi cho khách từ Lào qua cửa khẩu vào Nghệ An thăm Vườn quốc gia. Với những phân tích như trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng VQG Pù Mát có một vị trí hết sức thuận lợi và dễ dàng thu hút khách du lịch.
2.2.2 Đặc điểm địa hình Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Vườn quốc gia Pù Mát nằm trong dải Trường Sơn Bắc, với địa hình phức tạp và hiểm trở, bị chia cắt bởi 3 hệ thông suối chính là Khe Thơi, Khe Bu (Khe Choang) và Khe Khặng, các hệ thống suối này đều bắt nguồn từ biên giới Việt-Lào và đổ về sông Cả. Trong Vườn có 3 kiểu địa hình chủ yếu:
- Kiểu địa hình núi đất xen núi đá: phân bố ở độ cao 500-1000m, độ dốc 200-350;
- Kiêủ địa hình thung lũng: dọc 3 khu vực suối lớn là Khe Thơi, Khe Choăng và Khe Khặng, độ cao 200-450m, độ dốc trung bình 200-300;
- Kiểu địa hình núi đá vôi: độ cao trên 800m.
Vườn Quốc Gia nằm ở độ cao từ 100-1841m so với mặt nước biển, bình quân 800-1500m, trong đó 90% diện tích có độ cao dưới 1000m. Khu vực cao nhất của VQG nằm về phía Nam, đây là các dông núi của dãy Trường Sơn thuộc khu vực biên giới Việt-Lào. Càng về phía Tây-Nam các dông núi cao dần gồm những đỉnh cao trên 1000m kế tiếp nhau kéo dài như Cao Vều (1341m), Pù Huổi Ngoã (1762) và đỉnh cao nhất là đỉnh Pù Mát (1841m). Cũng từ các dông núi này có các thung lũng dốc chạy dài xuống tạo thành một hệ thống các dãy đồi vuông góc với các dông núi chính. Các dông này có độ dốc rất lớn, với các đỉnh cao từ 800-1500m.
Nói chung, phần lớn diện tích của Vườn là địa hình núi cao, độ dốc lớn, chia cắt mạnh tạo nên những phong cảnh rừng hùng vĩ. Nếu được đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật tốt sẽ là nguồn tài nguyên thuận lợi cho du lịch mạo hiểm, leo núi.
2.2.3 Đất đai, thổ nhưỡng
Đất đai Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Rừng quốc gia Pù Mát nằm trên dãy Trường Sơn Bắc, qua trình kiến tạo địa chất được hình thành qua các kỷ Palezoi, Đê Vôn, Cacbon, Pecmi, Tri at… đến Mioxen cho tới ngày nay. Trong suốt quá trình tạo núi của dãy Trường Sơn thì chu kỳ tạo núi Hecxinin, địa hình luôn bị ngoại lực tác động mạnh mẽ tạo nên 4 dạng địa mạo chủ yếu sau:
- Núi cao trung bình: nằm ngay biên giới Việt Lào, với vài đỉnh cao trên 2000m (Pulaileng cao 2711m, Rào Cỏ cao 2286m), địa hình loại này rất hiểm trở, đi lại cực kỳ khó khăn.
- Kiểu núi thấp và đồi cao: kiểu này chiếm phần lớn diện tích của miền và có độ cao dưới 1000m, cấu trúc tương đối phức tạp, được cấu tạo bởi các trầm tích, biến chất, địa hình có phần mềm mại và ít dốc hơn.
- Thung lũng kiến tạo, xâm thực: kiểu này tuy chiếm một diện tích nhỏ, nhưng lại thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, độ cao thấp hơn gồm thung lũng các suối Khe Thơi, Khe Choang, Khe Khặng và bờ phải Sông Cả.
- Các khối đá vôi nhỏ: kiểu này phân tán dạng khối, uốn nếp có quá trình Karst trẻ và phân bố hữu ngạn Sông Cả ở độ cao 200-300m, cấu tạo phân phiến dày, màu xám đồng nhất và tinh khiết.
Thổ nhưỡng
Các loại đất trong vùng đã xác định:
- Đất feralit mùn trên núi trung bình (PH), chiếm 17,7%, phân bố từ độ cao 800-1000m dọc biên giới Việt Lào.
- Đất feralit vùng đồi và vùng thấp (F), chiếm 77,6%, phân bố ở phía Bắc và Đông Bắc VQG.
- Đất dốc tụ và đất phù sa D, P chiếm 4,7% phân bố thành giải nhỏ xen kẽ nhau bên hữu ngạn Sông Cả.
- Núi đá vôi phân bố thành dải nhỏ xen kẽ nhau bên hữu ngạn Sông Cả.
2.2.4 Khí hậu thuỷ văn
Khí hậu
VQG Pù Mát nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa đông lạnh chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc lạnh và gió mùa Tây Nam khô nóng. Do chịu ảnh hưởng của dãy Trường Sơn đến hoàn lưu khí quyển nên khí hậu ở đây có sự phân hoá và khác biệt lớn trong khu vực.
Chế độ nhiệt Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
- Nhiệt độ trung bình trong năm là từ 23-240
- Các yếu tố khí hậu mang tính phân cực mạnh hình thành 2 mùa rõ rệt: Mùa đông từ tháng 12 cho đến tháng 2 năm sau, do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc cho nên nhiệt độ trung bình trong các tháng này xuống tới 200 C, và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống tới 180C (tháng giêng).
Muà hè do sự hoạt động của gió Tây nên thời tiết rất khô và nóng, kéo dài tới 6 tháng (từ tháng 4 đến tháng 10). Nhiệt độ trung bình mùa hè lên trên 250C, nóng nhất là vào tháng 6 và 7, nhiệt độ trung bình là 290C. Nhiệt độ tối cao lên tới 420C ở Con Cuông và 42,70C ở Tương Dương vào tháng 4 và tháng 5. Nhiệt độ trung bình năm của khu vực 23,60 C, cao nhất tuyệt đó là 42,70 C và thấp nhất tuyệt đối là 1,70C, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất 17,00 C (thường vào tháng 1), nhiệt độ trung bình tháng cao nhất 28,70 C (tháng 7). Số giờ nắng trong năm từ 1500 đến 1700 giờ, tổng nhiệt năng từ 8500 đến 87000 C /năm.
Chế độ mưa ẩm
Lượng mưa trung bình hàng năm 1791mm, năm cao nhất 2287mm, năm thấp nhất 1190mm, số ngày mưa trung bình là 140 ngày. Trên 70% lượng mưa tập trung vào các tháng 8, 9, 10 và tháng 5 có mưa tiểu mãn với số ngày mưa trung bình khoảng trên 90 ngày nên thường gây ra lũ lụt. Những tháng còn lại chỉ có 30% lượng mưa, nhưng lại không phân bố đều nên dễ dẫn đến hạn hán.
Độ ẩm không khí trong vùng đạt 85% – 86%, mùa mưa lên tới 90%.
Thuỷ văn
Khu vực Vườn quốc gia Pù Mát có ba lưu vực khe chính:
- Khe Choăng, Khe Bu (nhánh của Khe Choăng) nằm giữa VQG;
- Khe Thơi nằm ở phía Bắc VQG;
- Khe Khặng nằm ở phía Nam VQG là nhánh của sông Giăng.
Trong hệ thống sông suối của khu vực VQG thì sông Cả và sông Giăng là hai con sông chính. Tất cả các con sông, suối này đều có thể đi được bằng thuyền, bè trên một số đoạn nhất định. Tuy nhiên, vào mùa lũ thì việc đi lại khó khăn hơn. Nhiều sông nhánh thường bị cạn về mùa khô, các sông nhánh này thường bị cạn về mùa khô, các sông nhánh này thường có tốc độ dòng chảy lớn, lớn đáy và bờ là đá cuội và đá tảng lớn.
Bão và áp thấp nhiệt đới thường xuyên xuất hiện từ tháng 8-10 kéo theo mưa lũ gây ra nhiều đợt lũ lớn (đây là khoảng thời gian không thích hợp cho hoạt động du lịch tại khu vực).
2.2.5 Tài nguyên sinh vật Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
2.2.5.1 Các kiểu rừng
Đặc điểm khí hậu, địa hình của VQG Pù Mát đã tạo nên hệ thực vật khá phong phú, đa dạng. Trong tổng diện tích 91113 ha, diện tích đất có rừng là 84065 ha trong đó rừng giàu chiếm 20716 ha, rừng trung bình 24650 ha, rừng nghèo 24201 ha, rừng lùn, rêu và địa y là 1640 ha, rừng đang phục hồi chiếm 3715 ha, rừng hỗn giao gỗ, tre nứa chiếm 3734 ha. Trong tổng số 86000 ha của vùng đệm có 68540 ha là diện tích đất rừng che phủ.
Kết quả điều tra đa dạng sinh học của dự án chuyển hạng khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát thành Vườn Quốc Gia Pù Mát năm 2001 cùng với các kết quả nghiên cứu, khảo sát trước đó của các nhà khoa học khái quát một số kiểu rừng chính và kiểu phụ của thảm thực vật trong VQG Pù Mát như sau:
Kiểu rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới. Kiểu rừng này phân bố ở độ cao trên 900 m phía Bắc và trên 800 m ở phía Nam VQG. Loại rừng này chiếm diện tích khoảng 27364 ha (29.5% tổng diện tích) và vẫn còn giữ được tính nguyên sinh cao. Các loại thực vật hạt trần quý hiếm quan trọng được tìm thấy ở đây có thể kể đến như: Pơ mu, Xa mộc, Hoàng đàn giả (Darcyium elatum), Thông lông gà (Dacrycarpus imbricatut),… Hầu hết ở đây là những loài đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam cho mục đích bảo tồn.
Cấu trúc của loại rừng này có 3 tầng rõ rệt:
- Tầng ưu thế sinh thái: với các loại Pơ mu, Thích, Sến, Mật, Trâm, Sa mộc… cao từ 18-20m.
- Tầng dưới tán: các cây nhỏ của các loài kể trên và các loài khác như Re gong, Ngũ gia bì chân chim và một số loài trong họ cà phê, chè… cao dưới 5m.
- Tầng thảm tươi: Dương xỉ, Trọng đũa, các loài mua núi… nhưng không thành thảm liên tục.
- Kiểu rừng lùn
Rừng lùn ở VQG Pù Mát xuất hiện ở đai cao trên 1500m, trên các dông và các chỏm núi dốc. Diện tích rừng lùn chiếm khoảng 1,6% diện tích tự nhiên. Thành phần thực vật rừng lùn có các loài Đỗ Quyên, Sồi Lào, Hồi, Re lá nhỏ và các loại Phong lan.
Cấu trúc rừng lùn có 2 tầng: Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
- Tầng ưu thế là các loài kể trên có đường kính từ 13-15cm cao bình quân 8-9m thân cong, có rêu và địa y dày bọc thân và cành.
- Tầng dưới tán: có các loài trong họ Mua, Rêu, Dương xỉ.
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới nằm ở đai cao 800m về phía Nam và 900m về phía Bắc, chiếm 47,3% diện tích VQG và có khoảng hơn 1000 loài.
Cấu trúc rừng và tổ thành thực vật của kiểu rừng xanh mưa ẩm nhiệt đới gồm các ưu hợp và chia ra các tầng rõ rệt:
Các ưu hợp:
Ưu hợp Sao mặt quỷ (Hopeo mollissima): Giổi, Trám trắng, Nhọc, Re hương, chiếm 25-30% trong tổ thành loài phân bố ở độ cao từ 300-400m.
Ưu hợp Sao hải nam-Giổi-Re-Sâng phân bố ở đai 400-600m;
Ưu hợp Thích (Acer laruinum)-Giẻ lá tre-Kim giao-Sấu-Giổi, phân bố ở độ cao 400-600m;
Ưu hợp Chò Chỉ-Re gong-Trâm-Máu chó phân bố ở độ cao 600-800m; + Các tầng cấu trúc:
Tầng vượt tán với các loài: Chò chỉ, Sao mặt quỷ, Sao hải nam… tạo thành tán rừng không liên tục cao từ 35-40m;
Tầng ưu thế sinh thái gồm rất nhiều loài tham gia và tạo thành tán rừng liên tục như các loài Sao mặt quỷ, Trám trắng, Re, các loài thuộc họ Giẻ, Bời lời,…
Tầng dưới tán bao gồm những loài thuộc họ Bứa như Tai chua, Bứa, họ Du, họ Na như Thâu lĩnh, họ Mùng quân như Nang trứng….
Tầng cây bụi thảm tươi bao gồm các loài Dương xỉ, Song mây, Trọng đũa… những loài thân cỏ trong họ Ráy họ Gừng…
- Tràng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác
Là diện tích trước đây đã canh tác nương rẫy, song thời gian bỏ hoá chưa đủ để diễn thế trở thành rừng. Loài hình này chiếm diện tích nhỏ khoảng 1,4% diện tích VQG phân bố chủ yếu ở hai lưu vực suối chính Khe Thơi và Khe Khặng bao gồm những trảng cỏ tranh, Lau, Sở y, Sim, Mua… Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
- Đất canh tác nông nghiệp và nương rẫy
Chiếm diện tích không đáng kể khoảng 0,4% diện tích VQG tập trung ven Khe Khặng, diện tích khoảng 15ha đất thổ cư, 30ha đất màu ven suối và ruộng nước, 300 ha diện tích đất nương thuộc 3 bản người Đan Lai ở lưu vực Khe Khặng, diện tích đất nương rẫy này chủ yếu trồng sắn và ngô cung cấp tại chỗ cho người dân địa phương.
2.2.5.2 Hệ thực vật
VQG Pù Mát có hệ thực vật rất phong phú và đa dạng. Kết quả điều tra cho thấy VQG Pù Mát có 1.297 loài thuộc 607 chi và 160 họ của 6 ngành thực vật bậc cao trong đó ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) là ngành chiếm số đông với 1051 loài chiếm 92,91% tổng số loài. Sự phong phú về thành phần loài của hệ thực vật tại VQG Pù Mát được hình thành bên cạnh yếu tố bản địa, vị trí địa lý thuận lợi đã tạo nên sự du nhập dễ dàng của nhiều luồng thực vật từ các vùng khác nhau: luồng thực vật Hymalaya-Vân Nam-Quý Châu di cư xuống với các loài đại diện trong ngành Thông (Pinophyta) và các loài lá rộng rụng lá. Luồng thực vật Malaysia-Indonesia từ phía Nam lên với các đại diện thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae). Luồng thực vật India-Myanmar từ phía Tây di cư sang với các đại diện thuộc họ Tử vi (Lythranceae), Bàng (Combretaceae). Đặc biệt ở VQG Pù Mát khu hệ thực vật bản địa Bắc Việt Nam-Nam Trung Hoa chiếm một tỷ trọng rất lớn. 40 trong số 160 họ, trong đó họ Cà Phê phong phú hơn cả chiếm khoảng 92 loài, có các họ khác như họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) 67 loài, Họ Re (Lauraceae) 58 loài, họ Dẻ (Fagaceae), họ Dâu Tằm (Moraceae) 42 loài, họ Cam, họ Lan 31 loài, họ Đậu 30 loài… Đặc biệt có tới 22 họ chỉ có một chi với một loài duy nhất.
Các loài thực vật quý hiếm đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Trong số 1297 loài được ghi nhận thì có 37 loài được nằm trong danh sách đỏ Việt Nam, trong đó có 1 loài cấp (E), 12 loài sắp nguy hiểm (V), 9 loài hiếm (R), 3 loại bị đe doạ (T) và 12 loài không biết chính xác. Có 20 loài được liệt kê trong danh sách đỏ của IUCN (2002) gồm 1 loài cấp E, 3 loài cấp V và 16 loài cấp R.
Tài nguyên trong Vườn cũng rất phong phú, đa dạng bước đầu đã thống kê được 920 loài thực vật với 7 nhóm công dụng:
- Nhóm cây gỗ có 330 loài cho gỗ thuộc ngành Ngọc lan và ngành Thông chiếm khoảng trên 24% số loài được ghi nhận, đặc biệt ở đây có nhiều loại gỗ quý như Pơ mu, Sa mộc quế phong, Giáng hương quả to, Gụ lau, Lát hoa, nhóm gỗ tứ thiết như Đinh, Sến mật,… dùng làm ván sàn, bệ máy, tàu thuyền. Nhiều loài cây cung cấp gỗ xây dựng, làm đồ gia dụng rất tốt như họ Ngọc lan, họ Xoan, họ Dẻ, họ Dầu. Các nhóm công dụng khác như cung cấp vật liệu điêu khắc, làm đệm, sản xuất văn phòng phẩm cũng có nhiều loại. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
- Nhóm cây thuốc theo thống kê có khoảng 197 loài thuộc 83 hệ thực vật khác nhau. Các họ có nhiều là: cà phê 17 loài, họ cúc 13 loài, họ thầu dầu 10 loài, họ Cam 9 loài, họ Đơn nem 7 loài. Tuy số lượng họ có nhiều loài lớn nhưng trữ lượng loài lại không cao. Một số loài có triển vọng là Chân chim, Hà thủ ô trắng, củ mài, thổ phục linh…. Một số loại cây thuốc quý hiếm nhưng tiếc rằng hiện rất hiếm như Hoàng Đàn, Hoàng Đằng, Ba Kích.
- Nhóm cây cảnh có 74 loài chiếm khoảng 5,4% tổng số loài trong vùng, phần lớn đây là những loài thuộc dạng thân thảo hoặc cây bụi. Cùng với sự phát triển về kinh tế là nhu cầu về cây cảnh để trang trí nội thất, đường sá, công viên ngày càng cao. Vì vậy việc quản lý bảo vệ nguồn cây cảnh này, nhất là những loài quý như: Phong lan, cau dừa, tuế…
- Nhóm cây làm thực phẩm có khoảng 118 loài thuộc 57 họ chiếm 9,1% tổng số loài.Trong đó có nhiều loài cho quả, hạt, rau ăn rất ngon như Cà ổi, Đại hái, Bứa, Vả, Củ mài, Rau bò khai,… và các loài măng tre, nứa. Tuy thành phần loài cây thực phẩm khá phong phú nhưng hiện chúng đang phải đối mặt với áp lực khai thác quá mức của cộng đồng dân địa phương. Ngoài ra thực vật ở VQG Pù Mát còn cung cấp nhiều nguyên liệu khác như song mây, lá nón, lá cọ, sợi tre… để làm hàng gia dụng và xuất khẩu.
2.2.4.3 Động vật và các loài đặc hữu
Pù Mát được đánh giá là vùng có đa dạng loài động vật cao bao gồm khoảng 939 loài thuộc các nhóm phân loại khác nhau: Thú, Chim, Bò sát, Lưỡng cư, Cá, Bướm ngày và Bướm đêm.
- Thú
Thú lớn: theo kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu thực hiện năm 1998,1999 hiện tại có khoảng 42 loài thú lớn được xác định là có xuất hiện trong khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Mát. Trong đó có 21 loài được xem là loài chính, 20 loài được xếp vào cấp độ bị đe doạ hoặc dữ liệu thiếu hụt của IUCL (1996).
Một số loài thú lớn chính trong VQG Pù Mát với số lượng loài đặc hữu phong phú như Khỉ đuôi lợn, Khỉ mốc, Khỉ vàng, Khỉ đuôi dài, Khỉ cộc. Các loài Voọc như Voọc như Voọc xám, Voọc vá; loài vượn đen má trắng và Vượn đen má vàng.
Khỉ đuôi lợn: phát hiện khoảng 5 cá thể tại khu vực điều tra (Khe Thơi), đây là loài thường tập trung sống môi trường đất thấp, phạm vi sống chủ yếu ở khu vực phía Nam VQG. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Khỉ Mốc: đây là loại hiếm khi được nhìn thấy trong khu vực VQG, qua các đợt khảo sát điều tra chỉ xác định một nhóm (không rõ số lượng cá thể) tại khu vực điều tra Khe Thơi (1998), và thung lũng Khe Vàn (1999). Loài này phân bố rải rác dọc khu vực biên giới Việt-Lào.
Khỉ Vàng: đã phát hiện nhóm 6 cá thể (1998), đợt điều tra năm 1999 lại phát hiện thêm khoảng 20 cá thể.
Khỉ Cộc: đây là loài hoạt động rộng và thường xuyên xuất hiện tại tất cả các khu vực điều tra. Khả năng quan sát và tiếp cận loài này thuận lợi.
Voọc Xám: đợt điều tra năm 1998 phát hiện 6 cá thể, năm 1999 phát hiện thêm 4 cá thể.
Voọc Vá: đợt khảo sát năm 1995 phát hiện 3 nhóm với khoảng 25-35 cá thể, qua đợt khảo sát gần đây cho thấy loài thú này rất hiếm khi xuất hiện và có nguy cơ tuyệt chủng cao.
Vượn đen má trắng và má vàng: loài này phân bố rộng khắp trong các khu vực của VQG với số lượng cá thể lớn, khả năng quan sát thuận lợi.
Sói đỏ: đây là loài hiếm khi xuất hiện tại những khu vực rộng, số lượng cá thể ít, khả năng quan sát không thuận lợi.
Gấu ngựa và Gấu chó: bị suy giảm dần do việc thương mại gấu làm thuốc, săn bán gia tăng.
Cầy vằn và Cầy mực: qua kết quả điều tra ít nhất đã phát hiện khoảng gầm 10 cá thể phân bố trên độ cao 400-1000m. Loài này cũng không thuận lợi cho việc quan sát.
Báo lửa: phân bố ở độ cao khoảng 400m, số lượng cá thể hạn chế, khó quan sát.
Hổ: qua khảo sát thì chỉ phát hiện được 2 cá thể (1998), hoạt đông săn bắn mạnh mẽ làm hạn chế số lượng cá thể.
Bò tót: phát hiện nhiều dấu vết như phân, dấu chân ở các khu vực có độ cao từ 800-trên 1000m. Đây là loài hiếm và số lượng cá thể chỉ từ 1-2 cá thể.
Sơn dương: phát hiện dấu chân ở độ cao trên 400m, số lượng cá thể hiếm phân bố ở độ cao từ 400m-1300m.
Sao la: xuất hiện ở các khu vực có dòng chảy khoáng chất ở Huồi Chát và Khe Bống trong khu vực VQG đã chụp được ảnh 2 cá thể tại khu vực này.
Sóc đen: đây là loài ít gặp, đây là loài bị săn bắn nhiều, số lượng cá thể ít dần.
- Chim Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Theo kết quả khảo sát điều tra và đánh giá của các nhà nghiên cứu cho thấy khu vực VQG Pù Mát có một hệ chim giàu có và đa dạng. Tổng cộng có khoảng 295 loài chim được liệt kê trong 2 năm nghiên cứu 1998 và 1999, trong số đó có 10 loài mới chỉ xác định tạm thời. Có 6 loài trong số này được xem là những loài đang gặp nguy hiểm cấp toàn cầu và có 16 loài đang có nguy cơ bị đe doạ. Trong tổng số hơn 200 loài chim có 46 loài được đánh giá là những loài chính trong khu vục VQG Pù Mát.
Một số loài chim chính:
- Gà So Họng Hung: thường xuyên xuất hiện ở khu vực rừng lùn với độ cao trên 1000m.
- Gà Lôi Trắng: thường xuất hiện tại thượng nguồn thung lũng Khe Bu, độ cao trên 1000m.
- Trĩ Sao: xuất hiện trên những đỉnh dông khu vực Cao Vều, độ cao từ 1400m trở lên.
- Gõ Kiến xanh cổ đỏ: đây là loài hiếm của VQG, phân bố tại các khu vực thấp khoảng từ 700m trở xuống.
Niệc Nâu: là loài chim mỏ sừng được tìm thấy nhiều nhất trong khu vực VQG, phân bố ở các khu vực dọc thung lũng cho tới độ cao 1100m, số lượng khoảng trên 20 cá thể.
Bói cá lớn: phân bố ở những nơi rậm rạp gần suối có các cây gỗ lớn trong khắp VQG, chủ yếu ở Khe Khặng, Khe Súc và Khe Bu.
Vẹt ngực đỏ đuôi dài: xuất hiện với khoảng 10 cá thể giữa Bãi Xa và Con Cuông.
Diều Cá Bé: loài này rất dễ thấy và quan sát thuận lợi nhưng do tình trạng săn bắn nên số lượng giảm nhiều, xuất hiện ở khu vực Khe Khặng và Khe Bu.
Diều Hoa Miến Điện: xuất hiện tại các dốc và dưới thung lũng khu vực Khe Thơi, Khe Súc, Khe Vàn, Khe Bu và các vùng lân cận Khe Kèm.
Đại Bàng Mã Lai: đây là loại không phổ biến và rất hiếm trong khu vực VQG, phân bố trên các đỉnh núi đá vôi và các đỉnh dông.
Sáo Vàng: phân bố ở vùng thấp, trong khu vực VQG Pù Mát có đàn lớn với số lượng khoảng 60 con.
- Lưỡng cư và bò sát Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Kết quả khảo sát (1998, 1999) của các nhà khoa học trong khu vực VQG Pù Mát bước đầu đã xác định được 72 loài lưỡng cư, bò sát. Trong đó bao gồm: ếch nhái 23 loài, rùa 13 loài, tắc kè và kì đà là 12 loài và 25 loài rắn các loại. Các loài lưỡng cư và bò sát có mặt tại VQG Pù Mát được đánh giá là có nhiều loài quý hiếm, được đặc biệt chú ý trong công tác bảo tồn ở Việt Nam cũng như cấp độ bảo tồn quốc tế như Kỳ đà Banglal Varanus Bengalensis, Kỳ đà nước V.salvator, Rắn hổ mang chúa Ophiophagus hannah, Trăn Miến Điện Python molutus. Một số loài rùa có giá trị kinh tế cao như Rùa hộp vằn Cuora trifasciata, Rùa viền núi Manouria impressa được coi là loài rùa duy nhất chỉ có mặt tại VQG Pù Mát.
- Bướm
Bướm ngày: trong khu vực VQG Pù Mát bước đầu phát hiện 305 loài bướm ngày thuộc 11 họ, đây là những loài bướm đặc hữu phân bố ở các khu vực lục địa Indo-Malay, loài đặc hữu ở Himalayas, Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương. Một số loài bướm lần đầu tiên được biết đến ở Việt Nam và chỉ có ở khu vực VQG Pù Mát như Delias agoraiis, Tpithima affectata, Laringa horsfieldi.
Bướm đêm: VQG Pù Mát có một quần xã đa dạng về bướm đêm, tuy nhiên hiện ở VQG Pù Mát chưa xác định được chính xác số lượng loài bướm đêm, bước đầu chỉ xác định được hai họ bướm đó là bướm sừng và bướm hoàng đế là những họ bướm đêm phổ biến nhất. Trong số các loài bướm đêm được phát hiện tại VQG Pù Mát có 4 loài được coi là những loài mới lần đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam đó là các loài Dolbina inexacta, Callambulyx poecilus, Macroglossum fizeti, Phylophinggia dissimilis.
- Cá
VQG Pù Mát có ba hệ thống sông suối chính tạo nên các thung lũng hình chữ V, được chia cắt bởi 3 phụ lưu chính đổ vào Bắc sông Lam. Môi trường sống của cá ở các sông suối trong VQG chủ yếu là suối trong lòng có đá và hai bên bờ là rừng. Khu hệ cá của các con suối ở thượng nguồn bao gồm chủ yếu là các loài thường có ở các con suối dưới chân đồi và những nơi nước chảy xiết. Kết quả chưa đầy đủ của đợt điều tra trên bốn khu vực sông suối của VQG năm 1998 đã thống kê có 51 loài cá thuộc 37 chi và 14 họ.
2.3 Đặc điểm kinh tế – xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn
2.3.1 Đặc điểm về kinh tế Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Do dân số tập trung không đều cho nên lực lượng lao động cũng phân bố không đồng đều và tập trung ở các xã vùng thấp của huyện Anh Sơn. Lực lượng lao động ở địa phương rất lớn, nhưng cơ cấu các ngành nghề trong khu vực lại rất đơn điệu. Phần lớn là các hoạt động sản xuất: Lâm nghiệp, Nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, một số ít người làm trong các lĩnh vực khác như: Y tế, giáo dục, dịch vụ. Việc dư thừa lao động, đời sống khó khăn nên khiến người dân đã vào VQG Pù Mát để khai thác lâm sản.
2.3.1.1 Sản xuất lâm nghiệp
Các chương trình Lâm nghiệp đã được thực hiện như chương trình 327,661.
Hiện nay huyện Anh Sơn đã giao cho các hộ, các tập thể khoanh nuôi tu bổ, chăm sóc bảo vệ, và trồng được 2217ha rừng, huyện Tương Dương có 8305ha, huyện Con Cuông được 30280ha.
Công tác trồng rừng cũng được đặc biệt chú trọng cho đến thời điểm hiện nay. Diện tích trồng rừng của huyện Anh Sơn là 2853ha, của huyện Tương Dương là 206ha, của huyện Con Cuông là 3350ha. Ngoài diện tích rừng trồng tập trung các huyện còn trồng được hàng triệu cây phân tán.
Trong phạm vi VQG có 3 lâm trường quốc doanh (Lâm trường Con Cuông, Lâm trường Tương Dương, Lâm trường Anh Sơn), hoạt động chủ yếu của các lâm trường này là bảo vệ, tu bổ, làm giàu rừng và khai thác. Bên cạnh các hoạt động truyền thống các Lâm trường trong khu vực còn là trung tâm dịch vụ về kỹ thuật, cây giống cho người dân địa phương.
2.3.1.2 Các dự án phát triển kinh tế trong vùng Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Đối với xã vùng đệm thì chương trình lớn nhất về Lâm nghiệp (của chính phủ) là dự án 327, 661. Dự án 327 định canh, định cư được thực hiện ở 3 bản đó là: Cò Phạt, Khe Cồn, Bản Búng thuộc xã Môn Sơn.
Nhằm ổn định dân cư, quy hoạc nương rẫy, xoá bỏ cây thuốc phiện. Ngoài ra còn có các dự án khác nữa như: Dự án về giao khoán đất rừng, quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, giãn dân, dự án đầu nguồn Sông Cả, Sông Giăng do chính phủ Thuỷ điện tài trợ; dự án bảo vệ khai thác nguyên vật liệu giấy sợi; dự án trồng cây ăn quả như (cây cam, nhãn, vải); dự án bảo vệ rừng đầu nguồn, hỗ trợ lương thực; dự án hỗ trợ vốn chăn nuôi, cây trồng (lúa, ngô); dự án trồng cây công nghiệp (tiêu) của huyện Anh Sơn; dự án LNXH và BTTN của tỉnh Nghệ An; dự án khả thi đầu tư xây dựng của VQG Pù Mát.
2.3.1.3 Các hoạt động ảnh hưởng đến VQG Pù Mát
Từ lâu đời cuộc sống đồng bào dân tộc ở đây chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Rừng là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu, cây thuốc… cho nhân dân trong vùng từ khi KBT được thành lập, các hoạt động phát rẫy không còn. Nhưng khai thác lâm sản, săn bắt thú rừng vẫn còn phổ biến, các hoạt động của người dân ảnh hưởng tới tài nguyên rừng và cảnh quan như:
- Phát rẫy làm nương gây cháy rừng.
- Khai thác củi, gỗ trái phép.
- Săn bắt cá bằng Mìn, Điện, chất độc trên sông suối phá huỷ môi trường, huỷ diệt hệ thống động vật thuỷ sinh.
- Chăn thả gia súc quá mức dưới tán rừng.
- Các hoạt động khai thác lâm sản như: lấy trầm hương, Măng, cây thuốc, mật ong, lấy nứa, cây cảnh.
2.3.2 Đặc điểm về xã hội
2.3.2.1 Dân cư – dân tộc
VQG Pù Mát nằm trên địa giới hành chính của 16 xã thuộc 3 huyện là Con Cuông, Anh Sơn và Tương Dương. Theo thống kê mới nhất (2004) của Cục thống kê Nghệ An tổng hợp về những số liệu về diện tích đất tự nhiên và mật độ dân cư của các xã trong huyện có địa giới với VQG Pù Mát như sau: Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Vườn Quốc Gia Pù Mát là nơi cư trú của nhiều dân tộc thiểu số trong đó dân tộc Thái có số lượng đông nhất (chiếm khoảng 67%) và ít nhất là dân tộc Ơ Đu chiếm khoảng 0,6%.
Cụ thể tỷ lệ các dân tộc cư trú trên địa bàn và khu vực lân cận VQG Pù Mát như sau:
- Văn hoá dân tộc
Địa bàn miền Tây Nghệ An và khu vực VQG Pù Mát là nơi cư trú chủ yếu của người Thái và các nhóm địa phương của dân tộc này. Nét văn hoá Thái có thể được xem là nét văn hoà bao trùm cả khu vực. Bên cạnh đó không thể không nhắc tới những nét văn hoá đặc sắc của các dân tộc thiểu số khác cùng sinh sống trên địa bàn như người Khơ Mú với lễ ăn cơm mới (Ma Ngo Kăm Mệ) rất đặc sắc. Các dân tộc H’Mông, Tày, Ơ Đu… đều có những giá trị văn hoá bản địa rất độc đáo có thể khai thác cho hoạt động du lịch.
- Di tích lịch sử cách mạng
Bên cạnh những yếu tố mang đậm nét văn hoá của các dân tộc thiểu số, khu vực VQG Pù Mát còn có nhiều điểm di tích lịch sử có giá trị tham quan du lịch như:
Hang ốc (Thằm Oi) với nhiều khảo vật mang đậm dấu tích của người tiền sử, các dấu tích liên quan đến sự hình thành và phát triển của loài người.
Bia Mã Nhai: gắn với chiến tích anh hùng của thời Lý.
T hành Trà Lân: mang đậm dấu ấn lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Cây Đa Cồn Chùa: nơi chứng kiến sự ra đời của chi bộ Đảng Miền Tây Nghệ An và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) vùng Lục Dạ-Môn Sơn.
2.3.3. Phong tục của một số dân tộc sinh sống trong khu vực VQG Pù Mát
2.3.3.1 Văn hoá phong tục người Thái Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Người Thái tập trung tại các huyện có ranh giới hành chính với VQG như Tương Dương, Anh Sơn và huyện Con Cuông nói riêng và khu vực miền Tây Nghệ An nói chung. Người Thái có tên gọi khác là Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tay Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ. Ngành Thái có 2 nhóm địa phương chính đó là ngành Thái Đen (Táy Đăm) và ngành Thái Trắng (Táy Đón). Văn hoá phong tục giữa hai nhóm địa phương này không có sự khác nhau nhiều, chủ yếu là qua trang phục hàng ngày của người phụ nữ (ngành Thái Trắng phụ nữ ưa mặc váy áo trắng và ngược lại trang phục cuả phụ nữ ngành Thái Đen là màu đen). Tiếng nói của dân tộc Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái.
- Kiến trúc nhà và nếp ở của người Thái
Người Thái quần cư thành từng bản, các bản của người Thái thường ở chân sườn núi trông xuống cánh đồng. Người Thái ở nhà sàn, cấu trúc mái nhà hình mai rùa với hai kèo đầu nhà nhô lên cao một đoạn được gọi là khau cút. Nhà sàn của người Thái không có phòng riêng mà chỉ chia ngăn ô. Sơ đồ bố trí nhà của người Thái: trong nhà thường mở 2 cửa sổ ra vào hai đầu hồi, hai bên sườn nhà mở nhiều cửa sổ. Lên xuống nhà sàn bằng hai cầu thang 9 hay 11 bậc theo quan niệm về các số lẻ thiêng liêng của đồng bào. Cầu thang đầu nhà bên trái gọi là cầu thang xia, dành cho phụ nữ lên xuống. Từ cầu thang khách lên sàn đầu hồi qua cửa vào gian đầu hồi gọi là gian quản-chủ nhà, phía trong vách gian thứ hai bên phải có một ngăn nhỏ dành cho rể hoặc dành cho con trai khi chưa có rể, phía vách ngoài là giường cho khách. Vào gian tiếp gọi là gian hỏng hóng, phía trong trên vách gắn bàn thờ tổ tiên, dưới bàn thờ là giường của vợ chồng chủ nhà, phía ngoài gian hỏng hóng đặt bàn ghế tiếp khách, liền kề giường vợ chồng chủ nhà là cột xạn hẹ: trên cột thường treo gói hạt giống, một mai rùa và một dương vật bằng gỗ thể hiện sự sinh sôi nảy nở và sự phát triển của chủ nhà. Qua gian hỏng hóng ta sẽ bước vào gian cang hướn-đây là gian dành cho con gái nằm. Kế đến là gian hỏng lánh ngài: gian này phía sau cũng dành cho con gái nằm, phía trước đặt bếp nấu ăn hàng ngày. Gian cuối cùng trong căn nhà là gian hỏng chan: phía trong là nơi đặt khung cửi và nơi thay váy áo của phụ nữ và nơi để lương thực hàng ngày, phía ngoài là chỗ đặt nước sinh hoạt.
- Bữa ăn của người Thái
Cơ cấu bữa ăn của người Thái chủ yếu vẫn là chất bột cùng rau, cá thịt. Gạo nếp là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm đồ trên chõ, dỡ ra mủng, nắm tay ăn bốc là thói quen trong mỗi bữa ăn hàng ngày. Mâm cơm trong bữa ăn hàng ngày của người Thái không thể thiếu món chéo (mắm ớt dằm thêm tỏi, rau thơm, hành, mùi, có thể thêm gan gà luộc, ruột cá nướng).
- Trang phục của người Thái Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Trang phục phụ thể hiện hết những tinh hoa của đồng bào. Bao gồm:
Váy: được tạo thành từ 4 tấm vải khổ 0,4m, dài từ ngang thắt lưng tới chấm gót. Phía trên có cạp váy hay đầu váy (hua hịu) cao khoảng 10cm bằng vải xanh hoặc đỏ đôi khi cũng dệt cạp váy riêng thêu hoa văn giống cạp váy Mường. Gấu váy khâu nẹp cao khoảng 3cm thường là bằng màu đỏ. Váy Thái có lót bên trong màu trắng may ngắn hơn váy ngoài độ 15cm. Váy Thái chủ yếu là màu đen hoặc chàm, khi mặc váy có thể gấp vào trước bụng hay bên sườn.
Thắt lưng (xai ẻo): thường bằng lụa tơ tằm nhuộm màu xanh lá cây, hai đầu can thêm hai mảnh vải đỏ thêu thùa có rua ba phía. Thắt lưng cuốn vào giữ chặt cạp váy, hai miếng vải để hai đầu được giắt vào trước bụng hoặc lệch sang bên hông.
Aó (xửa): gồm Xửa hổm nô là loại áo lót bên trong và Xửa cỏm là loại áo ngắn được may dài tay hẹp, thân hẹp, bó sát người. Aó ngắn đến thắt lưng, khi mặc gấu áo dấu trong thắt lưng và nổi bật với hàng khuy bằng bạc hình con bướm, ve sầu, cánh hoa dọc trước bụng gọi là măk pẻm và bao giờ cũng bằng số lẻ theo tín ngưỡng của đồng bào.
Khăn piêu: phụ nữ chưa chồng thì búi tóc thả xuống sau gáy, khi lấy chồng thì búi tóc chổng ngược đỉnh đầu và đội lên trên bằng chiếc khăn piêu. Khăn piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió và làm ấm đầu khi mùa đông lạnh giá.
Trang phục cua nam giới người Thái gồm: khăn, áo và quần.
Khăn: là một miếng vải chàm đen có hai loại là pau dài hơn 1m và trọc ngắn hơn pau khăn cuốn hình chữ nhân trên trán.
Aó may cổ đứng, xẻ tà, mở bụng cài khuy, ống tay rộng. Aó được may bó sát ngực và đôi vai, các vạt trước sau bên dưới xoè ra trùm kín quần.
Quần may rộng đũng bằng cách xếp chồng các miếng vải cắt ống lượn xoè rộng chỗ đũng. Quần may cạp gấp thu ở bụng, thắt dây lưng ra ngoài. Quần chỉ được may bằng vải chàm.
- Lễ hội Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Lễ cúng ma lúa: người Thái theo quan niệm đa thần, bất cứ làm việc gì người Thái cũng đều phải cúng ma. Đối với ma lúa, khi lúa ra đòng phải cúng ma ruộng lúa; khi lúa bắt đầu chín chủ nhà hái vài gié lúa treo trên vách chỗ bàn thờ ma nhà để ma nhà chứng giám. Khi gặt lúa xong có tục cảm ơn hồn lúa, họ làm bù nhìn bằng rơm tượng trưng cho hồn lúa đưa về nhà đặt trên nắm thóc, mời hồn lúa ở lại đến ngày sấm đầu mùa, chủ nhà đánh thức hồn lúa dậy phù hộ cho gia đình được mùa vụ lúa mới. Món ăn truyền thống trong lễ cúng cơm mới là xôi nhiều màu và cá muối từng khúc tẩm bột gói lá đồ lên.
Người Thái có lễ hội xên bản xên mường (chúc bản chúc mường) được tổ chức vào đầu mùa xuân trên cánh đồng rộng, mời mo lương đến cúng xua đuổi tà ma, cầu cho bản mường yên vui, mùa màng tươi tốt. Sau đó nam nữ thanh niên vui chơi ném còn, múa xoè…
- Văn nghệ dân gian
Người Thái có đời sống văn nghệ phong phú, có truyện thần thoại về việc sáng tạo trời đất, con người. Đồng bào Thái cũng có nhiều loại thơ ca được gọi là các loại khắp gồm khắp báo xa là điệu hát trai gái giao duyên; khắp lồng lộng là điệu hát ngoài đồng ruộng; khắp cạ là hát khi chèo thuyền; khắp ủ lục nòn khi ru em; khắp xứ đếch nọi là hát đồng dao…
Người Thái nổi tiếng với các điệu múa hay còn gọi là xoè, xoè quạt, xoè nón, xoè đèn… bên cạnh đó còn có múa sạp lôi cuốn cả người diễn lẫn người xem cùng hoà vào điệu múa.
2.3.3.2 Văn hoá phong tục người Khơ Mú
Người Khơ Mú có các tên gọi khác là Kmụ, Kúm Mụ. Các nhóm địa phương gồm Xá Cẩu, Khạ Khẩu, Mãng Cấu, Tày Hạy, Mửn Xen, Pu Thênh, Tềnh. Tiếng nói Khơ Mú thuộc Môn-Khơ Me.
- Nhà ở của người Khơ Mú
Loại hình nhà ở chính của người Khơ Mú là nhà sàn và kiểu nửa sàn nửa đất. Nhà ở của người Khơ Mú thường có một gian hai chái hay hai gian-hai chái, ba gian-hai chái. Vách nhà thường làm bằng vách nứa đan, mặt sàn lát bằng luồng, vầu bổ banh nguyên cây, đập dập. Nhà rất ít hay không có cửa sổ. Mỗi nhà chỉ có một cầu thang lên xuống dành cho thành viên trong gia đình. Vật liệu dùng làm gồm gỗ, tre, nứa, song mây, gianh, lá cọ hoặc lá mây dùng để lợp. Kết cấu khung nhà cũng khá đơn giản gồm: cột, kèo, dầm, xà, đòn tay chủ yếu dùng gỗ nguyên cây không bóc vỏ. Bố trí mặt bằng sinh hoạt trong nhà người Khơ Mú với một gian hai chái thì chái bên phải là nơi đặt bếp thiêng, bếp này chỉ dùng để thổi cơm không nấu nướng thức ăn. Chái có vách ngăn với gian giữa. Vách đầu hồi có “cửa ma” chỉ mở khi chủ nhà qua đời. Gian giữa là nơi ngủ của chủ nhà và con nhỏ trong gia đình. Chái bên trái có cầu thang đi xuống, nơi đặt bếp nấu hàng ngày. Phần chái này cũng còn là nơi gia chủ tiếp khách. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
- Ăn uống
Người Khơ Mú có tập quán ăn bằng cách đồ: đồ xôi, đồ cơm, ngô độn thêm khoai sắn và đỗ. Người Khơ Mú ít ăn cơm tẻ mà chủ yếu là ăn xôi nếp trong khẩu phần ăn hàng ngày. Họ thường thích ăn đồ nướng và các món xào nấu có vị cay. Một số món đặc trưng của đồng bào là thịt lam nhoọc, thịt chua có mùi, thịt vùi tro bếp, thị nướng, cá chua (pa đẹec), cá khô gác bếp, món ruột cá vùi tro dùng đẻ chấm với xôi. Các loại măng, rau ngoài cách đồ, luộc nướng còn được làm nộm (gỏi) trộn gia vị như nộm măng, nộm hoa đu đủ, hoa chuối.
Ngày lễ tết làm các loại bánh nếp có nhân thịt từ bột nếp, tẻ, ngô. Thường ngày vợ chồng con cái thường ngồi ăn chung một mâm nhưng khi có khách thì phụ nữ và trẻ em không ngồi ăn chung với khách. Trước khi ăn bao giờ chủ nhà cũng khấn mời tổ tiên, sau mỗi bữa ăn họ thường uống nước chè. Người Khơ Mú cúng làm rượu cần và uống rượu cần đặc biệt là vào những ngày lễ tết. Vào những dịp cưới xin người Khơ Mú còn mua rượu cất về để uống.
- Trang phục
Phụ nữ Khơ Mú mặc giống người Thái, tuy vậy cũng có một số điểm khác biệt. Bộ trắng phục của người phụ nữ người Khơ Mú bao gồm có váy, áo, yếm, dây lưng, khăn đội đầu, xà cạp. Điểm khác biệt rõ nhất so với trang phục của người phụ nữ Thái là ở tấm áo. Aó nữ Khơ Mú là loại áo cánh ngắn màu đen chàm, cổ hình trái tim, xẻ ngực, có hàng khuy cài bằng bạc (nhôm) hình chữ nhật gọi là quả pám. Hai bên vạt áo thường được nẹp thêm dải vải khác màu trên đó lại được đính thêm cúc bạc hay cúc nhôm hình tròn chạy từ trên xuống dưới khác hẳn với hàng cúc bạc hình con bướm hay con ve của người Thái.
Váy của phụ nữ Khơ Mú có kiểu dáng giống váy của phụ nữ Thái. Đây là loại váy ống, màu đen chàm, mặc theo kiểu xỏ chân hoặc chui đầu. Ở miền tây Nghệ An phụ nữ Khơ Mú ngoài cách mặc váy giống như váy của người Thái, họ còn mua váy của người Lào làm trang phục cho mình.
Yếm là kiểu áo lót mặc bên trong áo cánh. Đầu yếm được thêu hoa văn và đính hai dây để buộc sau cổ. Thân yếm được đính hai dây vải đen buộc vòng ra sau lưng.
- Lễ hội
Lễ tra hạt Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Sau khi đốt nương, người Khơ Mú để ba ngày cho đất nguội rồi mới chọc lỗ ra hạt. Chủ nhà cắm một chiếc the le cao ở giữa nương để đánh dấu sở hữu mảnh đất đã có chủ và làm một mảnh nương tượng trưng bằng cách cắm 4 que nứa làm thành hình cầu vồng tạo nên ô vuông khoảng 2m2, trong ô vuông đó dựng một cái cọc, trên đỉnh đặt một hòn đá. Dưới chân cọc đặt một máng nước bằng nứa, cài lên đó vài ồng nước nhỏ, bốn góc ô vuông này được trồng bốn khóm sả, bố gốc khoai sọ. Sau đó chủ nhà mổ một con gà trống luộc chín làm lễ vật cúng, cúng xong chủ nhà chọc lỗ gieo hạt trong phạm vi nương vừa khai phá.
Lễ cúng hồn lúa
Thường được diễn ra vào khoảng tháng 9, 10 chọn lấy ngày tốt nhất, trước đó nam giới ra nương dựng kho thóc mới. Đến ngày đã định, gia chủ chuẩn bị hai vò rượu cần, một con lợn mang lên nương. Bên cạnh kho thóc, người ta dựng một ngôi lều nhỏ để làm nơi cúng hồn lúa. Dựng lều xong, người ta đặt hai vò rượu cần vào trong, con lợn được buộc vào cột lều. Thầy cúng đứng trước lều khấn trời đất, ma rừng, ma suối đến chứng giám và nhận lễ vật. Cúng xong, con lợn được mổ thịt ngay tại chỗ, mẹ lúa bê ếp xôi nếp và con gà luộc chín bước vào kho lúa, đặt lễ vật xuống và cất lời cúng mời vía lúa về kho. Chiều tối trước khi ra về chủ gia đình khấn vài lời để ngày hôm sau bắt đầu vào vụ thu hoạch chính thức. Sáng hôm sau cả nhà mang gùi, nhíp, dao cùng lên nương.
2.4 Điều kiện phục vụ và thu hút khách tham quan du lịch
2.4.1 Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch
Trong những năm gần đây, VQG Pù Mát đã đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, một số công trình phục vụ công tác bảo tồn, bảo vệ.
Giao thông nội bộ Vườn cũng khá phát triển, ngoài trục đường chính là quốc lộ 7 dẫn từ miền xuôi lên các huyện miền núi và thông sang Lào còn có tỉnh lộ và các đường liên thôn, liên xã đã được đầu tư nâng cấp. Tuy nhiên do địa hình hiểm trở nên các phương tiện giao thông còn hạn chế. Sông Cả và Sông Giăng là hai con sông chính cùng các nhánh sông suối nhỏ chạy dọc theo thung lũng tạo nên hệ thống giao thông đường thuỷ trong Vườn. Nhưng do địa hình phức tạp, độ dốc lớn, dòng chảy mạnh nên việc vận chuyển bằng đường thuỷ cũng gặp khó khăn, đặc biệt là vào mùa lũ.
Các xã trong Vườn đã được sử dụng nguồn điện từ mạng lưới Quốc gia. Khu vực đặt trụ sở chính của Vườn và người dân sinh sống lân cận đã được dùng nước máy. Tuy nhiên để phát triển du lịch cần nâng cấp hơn nữa hệ thống cung cấp điện nước.
Nhìn chung cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch của Vườn còn nhiều hạn chế về cả số lượng và chất lượng. Ở khu điều hành chính của VQG tại thị trấn Con Cuông có tổng số phòng là 35 phòng với sức chứa là 70 khách. Ngoài một vài khu nhà cao cấp được thiết kế theo kiểu nhà sàn dân tộc Thái còn đảm bảo chất lượng và đủ tiêu chuẩn phục vụ, còn lại phần lớn đã bị xuống cấp, không đủ để đáp ứng yêu cầu của khách. Các dịch vụ khác như ăn uống, vui chơi, giải trí còn nhiều thiếu thốn.
2.4.2 Vị trí và khả năng tiếp cận Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Cách thành phố Vinh khoảng 120km theo quốc lộ 7, VQG Pù Mát nằm trong vùng trọng điểm du lịch của tỉnh Nghệ An gồm: Thành phố Vinh-Cửa Lò-Nam Đàn-VQG Pù Mát-Quỳ Châu-Quế Phong. Với quốc lộ 7 chạy qua, VQG Pù Mát nằm trên chuyến du lịch xuyên á, nối giữa cụm du lịch Bắc Trung Bộ với Lào và Đông Bắc Thái Lan.
Trải dài trên 3 huyện, có nhiều đường phụ, đường dân sinh dẫn vào khu vực VQG vì vậy khả năng tiếp cận có thể nói là dễ dàng. Tuy nhiên, hầu hết vẫn là đường mòn tự nhiên, đường đá, vào những ngày mưa thường trơn trượt, không thuận tiện cho hoạt động du lịch.
2.4.3 Tính đa dạng sinh học cao
Kết quả điều tra hệ động thực vật của VQG Pù Mát cho thấy tính đa dạng sinh học cao. Về hệ thực vật có khoảng 2500 loài, thuộc 202 họ và 931 chi. Riêng thực vật có mạch đã lên tới 1.297 loài thuộc 607 chi và 160 họ, trong đó có 37 loài được ghi vào sách đỏ Việt Nam.
Hệ động vật Pù Mát cũng có tính đa dạng sinh học cao với khoảng 939 loài, trong đó 131 loài thú, 295 loài chim, 70 loài bò sát và lưỡng cư, 84 loài cá, 39 loài dơi và rất nhiều loài bướm ngày và bướm đêm. Số loài quý hiếm được ghi vào trong sách đỏ Việt Nam lên tới 68 loài. Các loài thú mới lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam có Sao La, Mang Lớn, Mang Trường Sơn, Thỏ Vằn Trường Sơn đã gây sửng sốt cho các nhà khoa học Thế giới. Trong các loài thú điển hình là Khỉ đuôi lợn, khỉ mốc, khỉ vàng, khỉ đuôi dài, khỉ cộc; vọoc xám, voọc vá; vượn đen má trắng và vượn đen má vàng. Có 6 loài chim được xem là những loài nguy hiểm cấp toàn cầu và 16 loài đang có nguy cơ bị đe doạ. Điển hình là các loại như gà so, gà lôi, trĩ sao, gõ kiến, việc, bói cá, vẹt, phiến đất, gầm ghì vằn, cu xanh, diều, đại bàng Mã Lai, giẻ cùi vàng, sáo vàng, khướu. Trong các loài lưỡng cư và bò sát có mặt tại VQG Pù Mát được đánh giá là có nhiều loài quý hiếm được đặc biệt chú ý trong công tác bảo tồn ở Việt Nam cũng như cấp độ bảo tồn quốc tế như kỳ đà, hổ mang chúa, trăn Miến Điện, trăn vằn, rùa hộp vằn, rùa viền núi. Bướm cũng có một số loài được xác định là lần đầu tiên phát hiện ở Việt Nam và cũng chỉ có ở khu vực VQG Pù Mát. Như vậy, về đa dạng sinh học Pù Mát không những được đánh giá là có tầm cỡ quốc gia mà còn có giá trị cao cho cả khu vực.
2.4.4 Cảnh quan hấp dẫn Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
Pù Mát nổi tiếng với những cảnh quan đẹp, hấp dẫn như Thác Kèm, cao 150m, như một dải lụa trắng, vừa hùng vĩ, vừa tráng lệ nổi bật lên giữa rừng núi xanh thẳm; rừng Săng lẻ rộng tới 70ha, một khu rừng cổ thụ, thuần loài cao trung bình 50m, được coi như thung lũng xanh của núi rừng miền Tây Nghệ An; suối Nước Mọc thần bí mọc lên từ vùng đất, nước suối mát mẻ về mùa hè, ấm áp vào mùa đông. Thật là những điểm tham quan lý tưởng.
2.4.5 Nền văn hoá bản địa
Vườn quốc gia Pù Mát là nơi cư trú của nhiều dân tộc như: Thái, Khơ Mú, Kinh, H’Mông, Đan Lai, Tày, Ơ Đu…, trong đó dân tộc Thái chiếm tỉ lệ cao nhất (khoảng 67%), ít nhất là dân tộc Ơ Đu (khoảng 0.6%). Văn hoá Thái được coi là nét văn hoá bao trùm của khu vực. Ở hầu hết các thôn bản, người Thái sinh sống trong nhà sàn làm bằng gỗ, trồng lúa nước hoặc làm nương rẫy, nuôi trâu bò và gia cầm; làm sản phẩm từ tre và dệt vải truyền thống. Vải thổ cẩm của người Thái nổi tiếng về hoa văn độc đáo, màu sắc sặc sỡ và bền đẹp. Văn hoá của dân tộc Thái còn nổi tiếng với các điệu múa xoè, múa khăn và dàn cồng chiêng. Nhảy sạp, uống rượu cần là những nét đặc sắc không thể trộn lẫn trong sinh hoạt hàng ngày của người Thái. Bên cạnh đó không thể không kể đến những nét văn hoá của các dân tộc thiểu số khác cùng sinh sống trên địa bàn như người Khơ Mú với lễ cơm mới (Ma Ngo Kăm Mệ) rất đặc sắc. Các dân tộc H’Mông, Tày, Ơ Đu… đều có những đặc điểm văn hoá bản địa rất độc đáo có thể khai thác cho hoạt động du lịch.
Kết luận chương 2
Trên cơ sở nghiên cưu các điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội ở khu vực VQG Pù Mát, dựa vào các tiêu chí đánh giá tiềm năng DLST của VQG khoá luận đã tiến hành đánh giá tiềm năng DLST của VQG Pù Mát kết quả đánh giá cho thấy rằng Pù Mát là một VQG có tiềm năng DLST với giá trị đa dạng sinh học cao, nhiều loài động thực vật quý hiếm, đặc hữu lần đầu tiên được tìm thấy
Việt Nam; nhiều thắng cảnh đẹp và nền văn hoá bản địa đặc sắc; vị trí và khả năng tiếp cận thuận lợi. Tuy nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn thiếu thốn nên chưa tạo thuận lợi khai thác tiềm năng này để phát triển du lịch.
Tóm lại, tài nguyên thiên nhiên của VQG dã tạo nên tiềm năng chính cho loại hình DLST phát triển. Nếu được khai thác hợp lý, VQG Pù Mát có thể trở thành điểm DLST hấp dẫn đối với khách du lịch. Tại đây có thể phát triển các loại hình du lịch như sau:
- Tham quan ngắm cảnh tại điểm du lịch. Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát.
- Tìm hiểu hệ động thực vật.
- Tổ chức các hoạt động du lịch thể thao và mạo hiểm như leo núi, đi bộ, cắm trại.
- Tham gia hoạt động giáo dục môi trường.
- Phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng hoạt động du lịch ở vườn quốc gia Pù Mát
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch tại vườn quốc gia Pù Mát […]