Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Tìm hiểu về du lịch Thiền (Zen Tourism ) ở Thiền viện Trúc Lâm – Yên Tử dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Du lịch vốn là một ngành dịch vụ cung cấp các sản phẩm dịch vụ đem lại nhiều lợi ích cho các đơn vị tổ chức đi du lịch, các điểm đến du lịch và người tiêu dùng những sản phẩm du lịch đó – khách du lịch. Với lợi thế của từng vùng và từng quốc gia trong việc khai thác các điều kiện, tiềm năng du lịch, phát triển các sản phẩm dịch vụ căn cứ nhu cầu của du khách thì một loạt các sản phẩm du lịch đã được cung cấp trong hai thế kỷ gần đây với nhiều dạng thức và mục đích đi du lịch khác nhau: du lịch nghỉ dưỡng, du lịch MICE, du lịch văn hóa, du lịch chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch biển, du lịch thăm thân… và cùng với sự thay đổi nhận thức thế giới quan và sự phát triển của những tôn giáo, các loại hình thức du lịch tâm linh và du lịch hành hương ngày càng phát triển.
Phát triển du lịch tại khắp các Châu lục đã tạo điều kiện cho khách du lịch, các nền văn minh, các đặc trưng văn hóa, các công trình và tuyệt tác không chỉ của thiên nhiên mà có sự góp sức của bàn tay con người và những nghệ nhân qua các thời đại. Tuy nhiên, với nhu cầu ham hiểu biết của con người ngày càng tập trung vào các vấn đề không thuộc phạm vi của vật chất mà những hoạt động mang tính chất tôn giáo, tinh thần đặc biệt là các tôn giáo mang tính triết lý và trải nghiệm.
Với sự truyền giáo và duy trì của các tôn giáo trên thế giới, đạo Phật đã được biết đến không chỉ ở các nước khởi nguồn của Phật giáo mà đã lan rộng ra các nước Châu Á, Châu Âu. Khái niệm Thiền đang dần trở nên quen thuộc đối với tầng lớp học giả nghiên cứu tại các quốc gia, những tăng ni Phật tử và đã lan rộng ra mọi tầng lớp nhân dân đặc biệt là Việt Nam với sự du nhập của đạo Phật được xem như là từ thế kỷ thứ 3. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Với tiềm năng tài nguyên nhân văn và truyền thống Phật giáo tại các quốc gia như Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ đã sử dụng hoạt động này trở thành một lợi thế du lịch cũng như hình thành một hình thức du lịch mới – Du lịch Thiền đem lại hiệu quả cho đất nước. Trong khi đó tại Việt Nam cũng có rất nhiều điều kiện để có thể phát triển loại hình du lịch này nhưng chưa được các cấp các ngành và đơn vị tổ chức du lịch khai thác.
Du lịch Thiền là một hình thức du lịch phát triển mạnh ở các quốc gia Châu nói chung và các quốc gia theo Phật giáo nói riêng. Nội dung của các chương trình du lịch Thiền là tổ chức cho khách tham quan các công trình kiến trúc của đạo Phật, quan sát và tham gia vào cuộc sống sinh hoạt của các thiền sư, thưởng thức và chiêm ngưỡng những nét đặc sắc của các loại hình nghệ thuật Thiền như cắm hoa, trà đạo, bon sai, ẩm thực…
Việt Nam, du lịch Thiền mới bắt đầu hình thành và phát triển với những tour du lịch tham quan chùa chiền, lễ hội, các quán cafe Thiền (Zen Cafe), công viên thiền (Zen Park), các khu Spa trong khách sạn lớn ở những thành phố lớn.
Với các quốc gia như Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ… nguồn thu từ du lịch Thiền rất lớn và được các cấp chính quyền, hiệp hội và chính các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, người dân nhiệt tình tham gia vào loại hình du lịch này. Mặc dù du lịch thiền đang được đánh giá là sản phẩm du lịch mới lạ với nhiều doan nghiệp lữ hành ở Việt Nam, nhưng nhiều chính sách của các cơ quan hữu quan cũng như sự năng động sáng tạo của công ty lữ hành cũng chưa đủ thuyết phục để hình thành nên loại hình du lịch hấp dẫn và bền vững với môi trường này.
Nước ta với bề dày 2000 năm phát triển của đạo Phật, triết lý Thiền hiện diện trong sâu thẳm văn hóa và lối sống của người Việt. Cùng với một hệ thống Thiền viện độc đáo trải khắp các địa phương, Việt Nam có điều kiện phát triển loại hình du lịch này, cả nước có khoảng 120 thiền viện, trong đó Trúc lâm Yên Tử (Quảng Ninh), Trúc Lâm Tây Thiên (Vĩnh Phúc), Bích Động (Ninh Bình) từ Đàm, Thiên Mụ (Huế), Từ Ân, Giác Lâm, Giác Viên (thành phố Hồ Chí Minh ), Chùa Bà Đá, Chùa Trấn Quốc ( Hà Nội) … Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử mang trong mình giá trị lịch sử tâm linh vô cùng to lớn vì đây chính là nơi khởi nguyên của Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh đó, Thiền viện còn chứa đựng những giá trị kiến trúc, mĩ thuật vô giá. Hiện nay, số người tìm đến các Thiền viện Trúc Lâm nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh và nhu cầu tham gia tìm hiểu đang ngày một tăng, vì vậy nhằm giúp cho du khách cảm nhận sâu hơn về những giá trị của Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử khi khách hành hương về đây lễ Phật, người viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về du lịch Thiền (Zen Tourism ) ở Thiền viện Trúc Lâm – Yên Tử”. Người viết hi vọng thông qua những tìm hiểu của mình sẽ cung cấp một cái nhìn đầy đủ và hệ thống về lịch sử thiền tông Việt Nam, tìm hiểu giá trị lịch sử kiến trúc của Thiền viện và khả năng khai thác loại hình du lịch thiền. Người viết mong rằng đây sẽ là nguồn tư liệu để phục vụ cho hoạt động thuyết minh, hướng dẫn tại Thiền viện này đồng thời là một sự gợi mở về hướng khai thác một loại hình du lịch còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Du lịch Thiền mà vẫn không làm mất đi tính chất thiêng liêng của hoạt động tôn giáo hướng về cội nguồn tâm linh.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
“Thiền” được coi là Phật giáo Trung Hoa nhưng đã phản chiếu được toàn vẹn tinh thần cơ bản của đạo Phật nguyên thủy tại Ấn Độ và tới Việt Nam nó được coi là nét son ngời chói trong lịch sử dân tộc. Do đó, không những Thiền đã không đi lạc ra ngoài Phật giáo mà còn đưa con người trở về với tinh thần nguyên sơ của đạo Phật. Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, lối sống vội vã thực dụng với những tòa nhà công sở cao trọc trời, con người lại muốn trở về với nền văn hóa: độc đáo mang đậm tinh thần phương Đông mà vẻ đẹp đó chính là vẻ đẹp tinh thần lấp lánh và huyền diệu của thẩm mỹ Thiền Tông. Trên thế giới đã có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về Thiền như: Thiền Luận – Suzuki, chén trà Nhật Bản – Okakura kakuro… Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về Thiền tiêu biểu: Hương Thiền – Thiền sư Nhật Quang, Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ XX
Hòa thượng thiền sư Thích Thanh Từ, Zen tourism và khả năng phát triển Zen tourism ở Việt Nam – Lê Thu Hương… Nhưng chưa có tác phẩm nào thực sự đi sâu nghiên cứu về Thiền trong phát triển du lịch tại các Thiền viện, bởi đây là loại hình du lịch còn khá mới mẻ đối với nhiều quốc gia có loại hình du lịch phát triển trong đó có cả Việt Nam, phát triển du lịch Thiền mà không làm mất đi sự thanh tịnh, tính chất thiêng liêng, bản sắc văn hóa dân tộc, bản sắc mĩ thuật truyền thống đã và đang là một đòi hỏi nghiêm túc được đặt ra, được nhiều cấp, ngành, cá nhân quan tâm tới du lịch Thiền phải chú ý.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Trong chừng mực phạm vi và khả năng có thể, luận văn đưa tới một hệ thống lý luận cơ bản về loại hình du lịch Thiền nói chung và một số các hoạt động du lịch Thiền, hoặc có ứng dụng Thiền tại Việt Nam (tập trung ở phía Bắc). Từ đó, luận văn nghiên cứu tiềm năng để phát triển loại hình du lịch Thiền ở thiền viện Trúc Lâm – Yên Tử, thực trạng khai thác ứng dụng Thiền vào du lịch, xây dựng các tour, tuyến du lịch Thiền.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là loại hình du lịch Thiền hoặc có ứng dụng Thiền và những điều kiện để phát triển du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử.
Phạm vi nghiên cứu: Người viết không tiếp cận nghiên cứu sâu sắc các điểm trong khu di tích và danh thắng Yên Tử, nơi Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử tọa lạc mà chỉ điểm qua đôi nét về khu di tích. Trong bài viết của mình, người viết tập trung tìm hiểu giá trị lịch sử kiến trúc, tiềm năng phát triển du lịch Thiền, thực trạng khai thác du lịch tại thiền viện và của công ty lữ hành, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp phát triển loại hình du lịch này trong tương lai.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Thu thập thông tin, dữ liệu cơ bản từ các nguồn nghiên cứu chính thống trước đó về du lịch Thiền, các điều kiện phát triển du lịch Thiền tại Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Thu thập thông tin về những công ty lữ hành đang khai thác các sản phẩm du lịch Thiền ở Yên Tử, những yếu tố tác động đến hoạt động du lịch Thiền từ đó phân tích, tổng hợp dữ liệu.
Phương pháp thực địa: Trong quá trình tìm hiểu, người viết đã đi điền giã, khảo sát thực tế, tìm hiểu nghiên cứu tại Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử và chụp hình các công trình Thiền viện làm căn cứ.
6. Cấu trúc của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương chính:
- Chương 1: Mấy vấn đề lý luận về du lịch Thiền.
- Chương 2: Tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm – Yên Tử.
- Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm phát triển du lịch Thiền tại Thiền viện Trúc Lâm – Yên Tử.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH THIỀN
1.1. Sự ra đời của đạo Phật tại Việt Nam:
1.1.1. Sự ra đời của đạo Phật: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Đức Phật sống vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên tại vùng Bắc Ấn Độ. Ngài vốn là một vị Hoàng tử của Vương quốc Sakya tại chân dãy núi Hymalaya, ngày nay thuộc Nepal. Cuộc sống của ngài rất sung sướng, ngài kết hôn với công chúa Yasodhara và có một con trai là Rahula. Mặc dù sống trong nhung lụa nhưng Ngài luôn trăn trở về những mặt đen tối của xã hội Ấn Độ lúc đó, nỗi đau khổ của đồng loại, sự bất bình đẳng giai cấp trong xã hội, tính vô thường của sự việc thông qua các cảnh vật đã làm thay đổi tư duy của ngài. Ngài thấy một người già run rẩy, người bệnh rên siết và một người chết khiến cho con người ta thoát khỏi quá trình sinh lão bệnh tử, và ngài cũng thấy một vị chư tăng, ngài nảy sinh việc kiên quyết đi tìm chân lý thoát khỏi bể khổ của loài người.
Ngài rời bỏ cuộc sống vương giả để đi tu tập tìm con đường diệt khổ. Khi ngồi Thiền dưới gốc cây bồ đề ngài đã tìm được lời giải đáp và giác ngộ, lúc đó ngài 35 tuổi. Sau đó, Đức Phật đi tu hành khắp nơi để thuyết pháp và giảng dạy về con đường giác ngộ cho những ai hữu duyên và sẵn sàng tu học.
Tăng đoàn do đức Phật thành lập ngày càng lớn mạnh, giáo pháp của ngài được truyền đạo đến hết thảy dân chúng mà không dành riêng cho tầng lớp nào cả, không như đạo Bà La Môn chỉ dành cho các nhà quý tộc Ấn Độ thời đó. Sau khi ngài nhập Niết bàn, giáo pháp và đạo của ngài đã được truyền bá khắp nơi và sang cả các quốc gia ở những châu lục khác.
1.1.2. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam:
Với điều kiện cơ bản để phát huy được du lịch Thiền chính là nền tảng của đạo Phật tại quốc gia đó. Để hiểu rõ hơn về du lịch Thiền tại Việt Nam, chúng ta cần tìm hiểu rõ hơn về Phật giáo tại Việt Nam.
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay) là trụ sở của quận Giao Chỉ từ thời đầu phong kiến đô hộ phương Bắc sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La trong thời gian 168 – 189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành Bụt, từ Bụt được dùng nhiều trong các chuyện dân gian. Phật giáo và thời điểm đó mang màu sắc Phật giáo Tiểu thừa, Bụt được coi như là một vị thần chuyên đi cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này vào thế kỷ thứ IV – V, do ảnh hưởng của Phật giáo Đại Thừa đến từ Trung Quốc mà từ Bụt mất dần đi và thay vào đó là từ Phật. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Thời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống. Đến thời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đầu thế kỷ thứ 18, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Với các hoạt động của Phật giáo trong suốt thời gian truyền bá tại Việt Nam và các biến cố của lịch sử, Phật giáo Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay tạm thời được phân ra làm bốn giai đoạn chính sau:
- Giai đoạn 1: Từ đầu Công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc (Thế kỷ X) là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp.
- Giai đoạn 2: Thời kỳ Đại Việt là giai đoạn cực thịnh.
- Giai đoạn 3: Từ thời Hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX là giai đoạn suy thoái.
- Giai đoạn 4: Từ đầu thế kỷ XX đến nay là giai đoạn Phục hưng.
Đạo Phật sau khi được truyền bá vào Trung Quốc đã phát triển, hình thành các tông phái khác nhau và cũng theo đó truyền bá vào Việt Nam trong đó nổi bật là tác động của 3 tông phái lớn: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông.
Như vậy, Phật giáo đến Việt Nam từ rất sớm và trải qua nhiều giai đoạn phát triển đặc biệt là thời gian phát triển dưới thời Lý và tiếp đến triều Trần để rồi Việt Nam có dòng Thiền Tông riêng biệt với sự hợp nhất các thiền phái của Phật Hoàng Trần Nhân Tông để hình thành thiền phái Trúc Lâm. Quan trọng nhất, Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc đem lại giá trị đạo đức xã hội trong suốt thời gian tồn tại ở Việt Nam. Ngoài ra Phật giáo còn góp phần không nhỏ trong các giá trị văn hóa còn lại đến hiện nay như các công trình điêu khắc mang đậm nét văn hóa, các công trình kiến trúc có tính thẩm mỹ cao, các tác động của Phật giáo vào nếp sống, giáo dục nhân cách con người…
Chính các giá trị tinh thần, giá trị văn hóa to lớn qua tác động truyền bá của Phật giáo đã đem lại một kho tàng nhân văn để các thế hệ tiếp sau biết được các hoạt động phát triển của Phật giáo của thế hệ đi trước và cũng là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn để giới thiệu với bạn bè năm châu về hoạt động không chỉ mang tính chất tôn giáo thuần túy mà còn mang tính xã hội rất cao, và với khía cạnh du lịch là nguồn tài nguyên hấp dẫn để khai thác, đem lại nguồn thu bền vững cho nền kinh tế.
1.2. Thiền Tông: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
1.2.1. Khởi nguyên của Thiền Tông Trung Hoa:
Trong các tông phái Phật giáo Trung Quốc, Thiền Tông là tông phái có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ đời Đường trở về sau. Nếu xét từ cội nguồn thì hai phái chính trong hệ thống Thiền Tông là Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền được xem là phương pháp tu thiền có cội nguồn từ Phật giáo Ấn Độ, trong khi Tổ Sư Thiền lại có khuynh hướng được xem là sáng tạo riêng của Phật giáo Trung Quốc và khởi nguyên với sự hiện diện của Ngài Bồ Đề Đạt Ma.
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là thái tử thứ 3, con vua Kancipura xứ Nam Ấn. Theo lời dạy của thầy là ngài Bát Nhã Đa La (Prajnàtara), Ngài sang Trung Quốc vào đời Lương, khoảng năm 470 – 520. Theo phổ hệ truyền thừa của Thiền Tông Ấn Độ, từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến đời Ngài là thứ 28, nhưng Ngài được xem là người khai sáng của phổ hệ truyền thừa Thiền Tông Trung Quốc gồm: 1/Bồ Đề Đạt Ma. 2/Huệ Khá (? – 593). 3/Tăng Xán (? – 606). 4/Đạo Tín (580 – 651). 5/Hoằng Nhẫn (602 – 675). Bắt đầu từ ngài Hoằng Nhẫn, Thiền Tông Trung Quốc đã bắt đầu phát triển cực mạnh với sự truyền giảng của hai ngài Thiền Tú (605 – 706) và Huệ Năng (được xem là Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc, 638 – 713). Ngài Thần Tú truyền giáo ở phương Bắc nên dòng thiền này gọi là dòng thiền Bắc tông. Tương tự dòng thiền của Huệ Năng được gọi là dòng thiền Nam tông. Thiền Bắc tông chủ trương giáo pháp tiệm ngộ (sự bừng sáng của trí tuệ giải thoát có được theo quá trình tu tập thứ lớp) nên được coi là “Bắc tiệm”. Trong khi đó thiền Nam tông lại có mục tiêu đốn ngộ (giác ngộ ngay, không theo thứ lớp) nên được gọi là “Nam đốn”. Trong các thời đại sau đó, thiền phái của ngài Huệ Năng phát triển rất mạnh và phân thành 5 tông phái là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Lâm Tế tông sau lại chia thành hai phái là Hoàng Long và Dương Kỳ. Năm tông trên, thêm vào hai phái sau thường được sử viết là “Ngũ gia thất tông”.
Vào các thời đại Nguyên, Minh, Thanh, trong khi một số tôn phái khác bị suy thoái dần do sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của Lạt Ma giáo Tây Tạng thì Thiền Tông lại trở thành tông phái phổ biến nhất. Từ Trung Hoa dân quốc đến nay, Thiền Tông vẫn là một tông phái chủ đạo của Phật giáo Trung Quốc.
1.2.2. Thiền Tông Việt Nam:
Thiền có nghĩa là tĩnh tâm, chủ trương tập trung trí tuệ để quán định (thiền) nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật. Theo Thiền Tông, “thiền” không phải là “suy nghĩ” vì suy nghĩ là “tâm vọng tưởng”, làm phân tâm và mầm mống của sanh tử luân hồi. Cách tu theo Thiền Tông đòi hỏi phải tập trung toàn bộ công sức và thời gian cộng với khả năng đốn ngộ. Yêu cầu đó chỉ có kẻ căn cơ cao mới có được nên người tu thiền thì nhiều nhưng người chứng ngộ quả thực hiếm hoi. Tuy nhiên, lịch sử Thiền Tông ở Việt Nam cũng có một lịch sử rõ ràng hơn cả. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Dòng thiền tu thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam do nhà sư Tì Ni Đa Lưu Chi lập ra. Ông là người Ấn Độ, qua Trung Quốc rồi đến Việt Nam năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho Tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng thiền này được truyền đến 19 thế hệ. Dòng thiền thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc lập ra năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng – huyện Gia Lâm, Hà Nội. Dòng thiền này được truyền bá đến 17 đời. Dòng thiền thứ 3 do Thảo Đường người Trung Quốc, vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tông giải phóng khỏi kiếp nô lệ và cho mở đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069. Dòng thiền nay được truyền đến 6 đời. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều – Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó lập nên thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác xuất hiện như Tào Động dưới thời Trịnh Nguyễn, phái Liên tôn vào thế kỷ 16 – 19 (có trụ sở tại chùa Bà Đá và chùa Liên Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (một vị tổ dòng Lâm Tế) vào thế kỷ 18 ở miền Trung, phái Lâm Tế dưới thời nhà Nguyễn (miền Trung, sau này phát triển ở miền Nam).
Thiền tông Việt Nam cốt lõi đề cao cái “tâm”, “Phật ở tại tâm”, tâm là Niết bàn, hay Phật. Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã từng viết:
“Nơi mình có ngọc tìm đâu nữa
Trước cảnh vô tâm, ấy đạo Thiền”
(Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về thiền tuyển tập anh, tr 121)
1.2.3. Các phương pháp tu Thiền tại Việt Nam: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
1.2.3.1. Đức Phật và thiền định của Phật giáo:
Căn cứ theo sự phát triển của các học phái mà nói, Phật giáo Đại thừa hay Tiểu thừa, trên thực tế đều khởi nguồn từ sự tu chứng thiền định. Đức Phật khai sáng Phật giáo trên căn bản là cũng nương theo thiền mà ngộ đạo và dạy lại cho các đệ tử.
Phật Thích Ca sau khi xuất gia theo tu học Thiền định với hai vị thầy của phái số luận và mỗi thầy đều lấy một cảnh giới trong tứ thiền để làm cứu cánh. Nhưng Đức Phật không cho rằng hai cảnh giới định này không đi đến sự giải thoát nên cuối cùng ngài ngồi Thiền định dưới gốc cây Bồ đề và khai ngộ thành bậc Vô thường chính giác, đây chính là khởi nguyên của Thiền định Phật giáo. Đức Phật Thích Ca nương theo thiền quán mà thành Phật. Ngài cũng yêu cầu đệ tử của ngài tu học thiền quán. Trong thời Phật giáo nguyên thủy, Thiền định là pháp môn cực kỳ quan trọng. Đối với Đức Phật Thích Ca mà nói, chỉ có thiền định mới là phương pháp trực tiếp nhanh chóng giúp người ta ngộ đạo giải thoát. Tứ Diệu Đế, thập nhị nhân duyên là giáo lý cơ bản của Phật giáo nguyên thủy, cách thuyết pháp của họ có thể nói cũng căn cứ trên thực tế của sự tu tập Thiền định mà ra.
Đức Phật Thích Ca cũng là người đầu tiên hệ thống hóa hoàn toàn phương pháp và hình thức tu học thiền định. Thiền định trước khi Phật giáo được sáng lập, các phương pháp như phép tọa, phép quán, cho đến phép điều thân, điều tức, điều tâm đều không xác định và không nhất quán, xuất hiện những hiện tượng chi ly, vụn vặt. Thiền định của Phật giáo thì từ giai đoạn bắt đầu chuẩn bị tu hành đến giai đoạn đại ngộ viên mãn tối hậu đều có một hệ thống tu học hoàn chỉnh. Phép Thiền định của Đức Phật Thích Ca và của các giáo phái khác về căn bản có những điểm khác nhau, Ngài không lấy “khổ hạnh” làm phương cách, cũng không lấy “thần thông” làm mục đích. Mà là dùng Thiền định để thống nhất tinh thần, sinh ra tuệ quán, để đạt được chính trí bát nhã. Cho nên Thiền định có thể nói là tiến trình quan trọng của sự chứng đắc trí tuệ bát nhã mà không chờ kết quả.
Việc Thiền định của Phật giáo hiện nay tại Việt Nam được chia thành Thiền Định và Thiền Minh Sát (Vipassana). Thiền định là phương pháp gom tâm trụ nó vào một đề mục cố định để giữ cho tâm được vắng lặng, còn Thiền Minh Sát quan sát các đề mục của Thiền Minh Sát để thấy được sanh diệt của danh sắc và ngũ uẩn, qua đó kinh nghiệm được vô thường, khổ và vô ngã để cuối cùng chứng đắc các tầng tuệ Minh Sát, đạt được Giải Thoát, Niết Bàn và hai phương pháp thiền khác nhau ở những điểm sau: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Thiền Định:
- Định của Thiền Định là tâm sở nhất tâm, trụ tâm nằm trên một đề mục cố định duy nhất.
- Đề mục của Thiền định là tục đế (chế định), không có sinh diệt.
- Thiền định sử dụng đại định, kiên cố định và an chỉ định.
- Thiền định chỉ giúp tạm thời đè nén, khống chế phiền não.
Thiền Minh Sát:
- Định của thiền quán là tâm sở nhất hành, thực hành thiền Minh Sát, hành giả có khả năng định trên nhiều đối tượng khác nhau.
- Đề mục của thiền Minh Sát là chân đế, có sinh diệt.
- Thiền Minh Sát sử dụng cận định và sát na định.
- Thiền Minh Sát khổ tận gốc rễ phiền não và tham ái.
1.2.3.2. Sự truyền bá các hoạt động thiền khác:
Khi nói đến Thiền ai cũng nghĩ đến Thiền Tông của Phật giáo, hay với những người đã từng tu tập Thiền sẽ nghĩ đến các phương pháp tu thiền, hay các pháp môn tọa thiền như: Thiền Tứ niệm xứ, Thiền Minh Sát, thiền quán niệm hơi thở mà chúng ta vẫn được thấy, được nghe qua như trên… Tuy vậy, đối với một số các hoạt động được truyền từ xa xưa đến nay như Yoga hay các hoạt động phái sinh từ sự kết hợp của Thiền với các tín ngưỡng bản địa tại Nhật đã tạo ra lối sống thiền, phong cách thiền, trà đạo, vườn thiền, nghệ thuật thiền: hội họa, điêu khắc, âm nhạc…
Hoạt động thiền Yoga:
Yoga có nguồn gốc từ Ấn Độ và nó cũng được coi là một trong các hệ thống triết lý tồn tại lâu đời nhất trên thế giới. Cách đây khoảng 5000 năm, Đức Sadashiva đã được hệ thống kiến thức về khoa học thiền, được biết với cái tên Tantra Yoga. Tantra được hình thành như một khoa học toàn diện về cuộc sống, bao gồm mọi khía cạnh liên quan đến việc phát triển cá nhân và xã hội. Từ “tantra” có nghĩa là “cái để giải thoát khỏi sự ngu dốt”, vì thế các bài tập của nó được đặt căn bản trên một phương pháp có hệ thống và khoa học để đưa con người đạt đến giác ngộ về tinh thần. Các bài tập của nó không những chỉ giới hạn trong Thiền và Yoga mà còn được mở rộng sang các lĩnh vực nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, y học, khiêu vũ và ý thức về môi trường. Nói tóm lại, Tantra là một con đường để tiếp cận cuộc sống. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Kể từ đó, môn Yoga vẫn được tiếp tục bổ sung và ngày càng phát triển phong phú với nhiều hệ phái khác nhau, nó có xu hướng tách ra khỏi sự ràng buộc của các tôn giáo và chính vì đó mà nó vẫn tồn tại qua hàng ngàn năm, đồng thời nó còn phát triển không chỉ ở tại Ấn Độ mà còn lan rộng sang hầu hết các quốc gia châu lục.
Yoga khi phát triển đã được truyền bá và hình thành nhiều phái hệ khác nhau thông qua các phương pháp luyện tập và quan điểm lý luận. Yoga phiên âm là Du gia (nhưng từ Yoga dùng thông dụng nhất), gốc tiếng Phạn có nghĩa là đặt dưới mình một cái ách, điều ngự, cột thắt lại, chuẩn bị, chuyên chú. Theo nghĩa này thì Yoga là luyện thân, luyện tâm, giúp hành giả nâng cao năng lực thân tâm cũng như hoạt động của chúng trong chính mình, điều hòa chúng để rồi có thể tiến đến cấp bậc hoàn hảo tâm linh.
Nguyên tắc thực hành Yoga là tư thế thân, điều chế các giác quan và tâm thức, cách điều vận hơi thở… Trước hết, phải giữ vững tư thế của thân thể, các bộ phận ở phía trên người gồm ngực, vai và đầu phải thẳng tắp, rồi hướng các giác quan và tâm lý vào trái tim. Kế đó là sự kiểm soát hơi thở. Thực tập cho đến khi nào các hơi thở trở thành trầm tĩnh, nhẹ nhàng, qua các lỗ mũi. Nhờ đó mà thu thúc tâm ý, như buộc chặt con ngựa chứng vào cỗ xe. Hành giả được khuyến cáo là nên thực tập Yoga trong một hàng đá cản được gió cao, hay tại một nơi cao ráo, trong sạch, không bị gây trở ngại bởi các tiếng động, của nước chẳng hạn, nơi mà tâm trí có thể dễ dàng thơ thới, con mắt không bị gây khó chịu. Kết quả tiến bộ đầu tiên của Yoga là sự khinh an và sảng khoái, tráng kiện của thân thể, vắng bặt han muốn, da tươi nhuận, âm thanh êm tai, hương vị dịu ngọt.
Yoga là sự diệt trừ các tác dụng của tâm, cho đến khi phẩm tính được thu hồi trở lại trạng thái nguyên sơ, không bị ràng buộc và chi phối bởi thế giới vật chất. Các tác dụng của tâm trên bình diện tri thức gồm cả hai khía cạnh, hoặc đau khổ hoặc không đau khổ. Tu tập là nỗ lực đưa các tác dụng tâm này xuôi theo dòng thiện, ở trong chiều đó, nhờ phân biệt chính trí mà ta diệt trừ các tác dụng từng ý vốn là bất thiện, gây đau khổ.
Yoga có nhiều môn phái, sau đây là vài môn phái chính:
1-HATHA YOGA là một khoa luyện âm dương hợp nhất. Nó giống khoa luyện khí công của người Trung Hoa. Vần HA tiêu biểu cho Mặt Trời là Dương. Vần THA tiêu biểu cho Mặt Trăng là Âm. Khoa này dùng phương pháp hô hấp và phương pháp thể dục để thu thập sinh lực vào cơ thể mình. Có thể gọi nó là Khoa Luyện Trường Sinh. Ngày nay môn Yoga phổ biến và thịnh hành ở các nước Tây Phương là Hatha Yoga. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
2-KARMA YOGA là con đường Hành động. Người tập Karma Yoga tin tưởng sự hiện hữu hiện tại là do các hành động của quá khứ (Nghiệp) nên cố gắng hành động tốt, tạo nhân tốt để được quả tốt ở đời sau.
3-JNANA YOGA là con đường Minh Triết, luyện tập trí tuệ thông minh và hiểu biết sâu sa.
4-BHAKTI YOGA là con đường Sùng Tín (Sùng Đạo) hay là con đường của Tình Thương. Người thực tập Bhakti Yoga sẽ thấy thượng đế ở trong tất cả mọi người nên không ganh ghét và hận thù bất cứ ai.
5-LAYA YOGA cũng gọi là Kundalini Yoga vì Yoga này chuyên lo mở luồng Hỏa Hầu Cung, nó ảnh hưởng tới các Luân Xa.
6-MANTRA YOGA dùng Thần Chú làm cho cái Trí trở nên yên tịnh và còn nhiều sự hữu ích khác. Môn phái này thường bị hiểu lầm là tà đạo vì sử dụng những công thức kỳ quặc, khó hiểu. Thực ra người thực hành Mantra Yoga phải tập nhân thức toàn diện và từ bỏ dục vọng, sống trong sạch, khiêm tốn, hiến dâng, dũng cảm, thiện tâm.
7-KRIYA YOGA tu theo cách khổ hạnh nhưng cũng học hỏi, cũng thờ phụng, cũng hiến dâng. Kriya Yoga tăng tuổi thọ và mở rộng tâm thức, nó kiểm soát trực tiếp tinh thần nhờ sinh lực. So sánh với con đường chậm chạp và không chắc chắn của Thần học thì Kriya Yoga giống như chiếc máy bay với cỗ xe ngựa đời xưa.
Một Yogi (người tập luyện Yoga) muốn đạt đến đỉnh cao phải qua ngưỡng cửa của Hatha Yoga. Hatha Yoga là nền tảng của tất cả các môn Yoga, là cân bằng giữa căng và giãn, vận động và nghỉ ngơi. Gọi Hatha Yoga là dưỡng sinh tức là đánh thấp giá trị cuả nó vì trong Hatha Yoga có các môn khác và trong các môn khác đều có Hatha Yoga. Dù ở vào pháp môn nào, các bước căn bản mà một Yogi phải theo là:
1- Giới (Yama) hay cấm chế. Những điều răn cấm không được vi phạm, có không sát sanh, không nói dối, không trộm cướp, không tà dâm và không tham. Những răn cấm này được coi là có giá trị phổ biến, không hạn chế trong không gian, thời gian hay hoàn cảnh.
2- Luật (Niyama) hay khuyến chế. Thực hiện các khuyến cáo: Thanh tịnh, tri túc, khổ hạnh và tưởng niệm Thượng đế.
3- Điều thân (Asana) là điều nói về các tư thế, chẳng những làm chủ cơ thể mà còn phục hồi lại tất cả lệch lạc do đời sống mang lại đối với thể chất, tinh thần và tình cảm. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
4- Điều khí (Pranayama) kiểm soát và điều hòa hơi thở sau khi thân thể đã ngồi vững.
5- Điều tâm (Pratyahara) hay chế cảnh, chế ngự các cảm quan và tách chúng ra khỏi những đối tượng ngoại giới, không buông thả chúng theo bản chất vốn luôn luôn hướng đến các đối tượng.
6- Tập trung (Dharana) hay chấp trì. Sau khi đã chế ngự được các cảm quan, tâm không còn tán loạn theo ngoại giới, bấy giờ chuyên chú trên một đối tượng của tu tập. Tâm phải an trụ vững vàng, không dao động. Trạng thái phải nhẹ nhàng, khoan thai.
7- Thiền (Dhyana) hay tĩnh lự. Thiền là trạng thái kéo dài của tập trung cộng thêm sự suy nghiệm đối tượng, sống với đối tượng đó, hay nói chính xác hơn là cá nhân thẩm thấu trong đối tượng hoặc đối tượng thẩm thấu trong cá nhân đến mức độ không còn là hai vật thể riêng biệt.
8- Định (Samadhi: tam ma địa, tam muội) hay đẳng trì, trạng thái hoàn toàn tập trung tư tưởng. Đây là giai đoạn cuối cùng của Yoga. Trong giai đoạn tĩnh lự, vẫn còn có sự phân biệt giữa năng và sở, nhưng đến đây sự phân biệt ấy biến mất, tâm hoàn toàn thể nhập làm một với đối tượng. Giai đoạn này là niềm mơ ước không những của các yogi mà còn của các tín đồ các tôn giáo khác.
Hoạt động Yoga được nghiên cứu, áp dụng nhiều vào trong các hoạt động của cuộc sống hiện đại ngày nay: Chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh, rèn luyện tâm trí… ở hầu hết các nước phát triển đều có các trung tâm tập luyện Yoga và phần lớn theo trường phái Hatha Yoga để tập luyện.
1.2.3.3. Công dụng của thiền định với sức khỏe:
Thiền định có nhiều phương pháp nhằm phát triển chính niệm, tập trung, thanh tịnh, tỉnh giác và tột đỉnh giác ngộ giải thoát. Những kĩ thuật hành thiền cơ bản được ghi chép trong nhiều kinh sách, cũng như được truyền thừa và đa dạng hóa hàng ngàn năm. Trên phương diện sức khỏe, thiền định được xem như một nghệ thuật thư giãn, trong cố gắng giảm thiểu sự căng thẳng bức xúc, đau đớn, tạo cảm giác an lạc, giúp quân bình thân tâm và trị liệu các chứng bệnh. Chỉ riêng trong Phật giáo cũng đã có hơn 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu tập và số lượng phương pháp hành thiền cùng những chứng bệnh nan y cứ tiếp tục leo thang theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật. Trong 5 thập niên qua, khoa học và y học ngày càng chú ý đến Thiền, với nhiều nghiên cứu để được xem như là phương pháp trị liệu bổ sung – thay thế đối với nhiều bệnh trạng khác nhau như trầm cảm, căng thẳng, lo sợ, mất trí nhớ, đau nhức, mệt mỏi, mất ngủ, cảm cúm, ung thư, aids (sida), tê khớp, tim mạch, viêm gan, tiểu đường, suyễn, nghiện ngập, tăng tiến tuổi thọ,…
Ngay chính những tư tưởng tiêu cực, căng thẳng, xúc động và ưu phiền trong cuộc sống làm cho bệnh trạng càng thêm trầm trọng và nguy hiểm. Thiền định chú trọng và có tác dụng làm cho thân tâm được lắng dịu thanh tịnh, từ đó những trăn trở, khổ đau do bệnh tật gây nên cũng được thuyên giảm hay tiêu trừ. Trong thời buổi văn minh tiến bộ này, không phải tất cả mọi sự kiện đều được khoa học giải thích rõ ràng, hoặc những gì được khoa học chứng minh đều là đúng. Tuy vậy, “nói có sách, mách có chứng” hay căn cứ vào những gì đã được nghiên cứu và công nhận thì vẫn được nhiều người nghe hơn.
Qua nhiều kết quả nghiên cứu, các hoạt động tập luyện từ việc tu tập thiền định đến tập Yoga ở khắp các quốc gia trên thế giới: Nepal, Ấn Độ, Mỹ, Pháp, Đức, Thái Lan, Inđônêxia, Myanma, Hàn Quốc… và Việt Nam từ các trung tâm riêng biệt hoặc phối hợp với các khách sạn cao cấp, khu Spa sang trọng… đã khẳng định các công dụng của thiền định với sức khỏe và các hoạt động xã hội, kinh tế gắn với việc phát triển thiền định cần được quan tâm và phát triển.
1.3. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – Nét văn hóa tư tưởng đặc sắc đời Trần
1.3.1. Mạch nguồn thiền phái Trúc Lâm: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
“Phật giáo Trúc Lâm là một nên Phật giáo độc lập, uy tín, tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình”.
Thiền phái Trúc Lâm vốn dung hợp ba dòng thiền đã có từ trước là:
- Tỳ – ni – đa – lưu – chi: Thế kỷ VI
- Vô Ngôn Thông: Thế kỷ IX
- Thảo Đường: Thế kỷ XI
Thiền phái Trúc Lâm ra đời tại Yên Tử. Người xưa gọi là Thiền phái Trúc Lâm có thể có hai lý do:
- Yên Tử có nhiều trúc.
- Lấy tên từ Ấn Độ: Trúc Lâm tịnh xá tổ ban đầu của dòng truyền Yên Tử là Thiền sư Thường Chiếu, trước ở núi Từ Sơn, sau mới đến Yên Tử. Nhưng thực sự thiền Trúc Lâm phổ biến và thành một thiền phái từ khi vua Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành trở thành Điều Ngự Giác Hoàng đệ nhất tổ của Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trước đó đã có 5 vị tổ là:
Thiền sư Hiện Quang
Quốc sư Trúc Lâm
Quốc sư Đại Đăng
Thiền sư Tiêu Diêu
Thiền sư Huệ Tuệ
Xét theo dòng truyền thì vua Trần Nhân Tông thuộc thế hệ thứ 6. Vua Trần Nhân Tông là người đã thống nhất các thiền phái đã có thành một thiền phái Trúc Lâm. Chính vì vậy, sư tổ của thiền phái Trúc Lâm chính là vua Trần Nhân Tông. Từ đây, Việt Nam đã thực sự có một dòng thiền Phật giáo của người Việt do chính người Việt làm tổ.
Nội dung cơ bản của dòng thiền Trúc Lâm là Phật ở trong tâm, kế thừa tinh hoa của đạo Phật Ấn Độ và Thiền Tông Trung Quốc, được cải biên để phù hợp với đặc điểm tâm lý, điều kiện kinh tế xã hội của dân tộc Đại Việt. Thiền phái Trúc Lâm chủ trương xây dựng một xã hội đạo đức mà ở đó con người ai cũng tu sửa chính nơi mình. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
1.3.2. Những nét nổi bật của dòng thiền Trúc Lâm:
Nếu coi Yên Tử là một cơ thể sống trọn vẹn thì các công trình kiến trúc văn hóa tôn giáo Yên Tử, rừng cảnh quan Yên Tử là phần xác, Thiền phái Trúc Lâm là phần hồn Yên Tử. Dòng thiền Trúc Lâm là một dòng thiền mang đậm bản sắc dân tộc và từng làm một bước đột phá trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm kế thừa tinh hoa của đạo Phật Ấn Độ và Thiền Tông Trung Quốc, được cải biên để phù hợp với đặc điểm tâm lý, điều kiện kinh tế xã hội của dân tộc Đại Việt. Tư tưởng Phật giáo đời Trần nói chung và dòng Thiền Trúc Lâm nói riêng được xem là đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam, nó góp phần tạo ra sức mạnh thần kỳ trong ba cuộc chiến thắng quân Nguyên – Mông xâm lược của quân dân Đại Việt. Đó là sức mạnh của tình đoàn kết, của tình yêu quê hương đùm bọc lẫn nhau, sức mạnh của ý chí tự cường, sức mạnh của tinh thần, của trí tuệ…
Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ VII -> XVIII do Thiền tông lãnh đạo truyền bá, các hệ phái Thiền tông hầu hết từ Trung Hoa truyền sang, những vị tổ đứng đầu mỗi hệ phái đa phần là người Trung Hoa, ấn Độ. Chỉ có phái thiền Trúc Lâm – Yên Tử, ông tổ chính thực là người Việt Nam, mà đó lại là một ông vua đang ngự trị trên ngai vàng mà chối bỏ, giao lại cho con, xuất gia tu Phật. Đây là một nét đặc sắc ít có mà dân tộc Việt Nam đã có. Từ một ông vua, mà không phải một ông vua tầm thường, trái lại một ông vua anh hùng của dân tộc, một ông vua đã lên đến tột đỉnh vinh quang, quyền uy, danh vọng đứng đầu thiên hạ, nhưng sẵn sàng bỏ lại tất cả không nuối tiếc, để sống đời xuất gia thoát tục, tu hành khổ hạnh, đạt đạo làm Tổ một dòng thiền. Đức vua Trần Nhân Tông đi tu, không phải để trốn đời, yếm thế mà đi tu để nhập thế, cứu đời. Có điều, nhà vua cứu đời, không phải cứu đời theo kiểu một ông vua, mà là theo kiểu của một thánh nhân trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt kinh kỳ, Vua Trần Nhân Tông vẫn rõ được triều chính, có được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững nền an ninh chính trị nước nhà. Đồng thời, hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái trúc Lâm, giáo lý Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của một thời đại hoàng kim của Triều Trần, giai đoạn Phật giáo là Quốc đạo.
- Thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử nổi bật nhất ở thời Trần với 3 vị tổ là:
- Sơ tổ Phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông (1258 – 1308)
- Thiền sư Pháp Loa (1284 – 1330)
- Thiền sư Huyền Quang (1254 – 1334)
Sau đó do nhiều yếu tố trong đó có hoàn cảnh chính trị, xã hội khiến những vị tu hành này phải tiềm ẩn hoặc rút về núi rừng Yên Tử hoặc do tư liệu bị thất thoát nên trong lịch sử dường như bị lu mờ một khoảng. Đến triều nhà Mạc và hậu Lê mới được phục hưng lại. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Các nhà lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm chẳng những là những nhà chính trị, thiền sư mà còn là những nhà văn hóa, những thi nhân có tài. Họ đã ý thức muốn bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách hữu hiệu và lâu dài, phải phát triển nền văn hóa dân tộc, cần không ngừng học tập nội ngoại điển để thông Lão – Nho, ngộ lý thiền, khuyến khích dân chúng học hành, tuyển chọn nhân tài phục vụ đất nước.
Xuất phát từ nhu cầu bức xúc của dân tộc lúc bấy giờ là nêu cao tinh thần đoàn kết, thương yêu trong cộng đồng, nguyện chung ý chí bảo vệ quyền tự chủ và độc lập của tổ quốc, dựa trên vị thế tôn giáo đang thịnh hành, Trần Nhân Tông xúc tiến quá trình bản địa hóa của đạo Phật từ nước ngoài truyền vào ở hai phương diện lý thuyết và thực tiễn. “Nhập thế” và “Tu tại tâm” là hạt nhân cốt lõi của tu tưởng chính thống phái Thiền Trúc Lâm. Theo đó, đạo không tách biệt đời. Lấy pháp hiệu là Điều Ngự, Trần Nhân Tông cùng hai nhà sư Pháp Loa, Huyền Quang và các môn đệ dịch thuật, soạn thảo sách kinh, tập hợp và quy tụ tín đồ giảng giải, truyền bá giáo lý tại Yên Tử.
1.4. Du lịch Thiền:
1.4.1. Khái niệm về du lịch Thiền:
Du lịch thế giới phát triển đa dạng với nhiều hình thức được phân loại theo các sản phẩm du lịch khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của du lịch và đặc điểm của các sản phẩm du lịch của mỗi điểm đến, hình thức thực hiện chuyến du lịch, mục đích của chuyến du lịch và nhu cầu của du khách…
Cùng với sự vận động, phát triển của thế giới vật chất, các hoạt động tôn giáo theo tông phái cũng được truyền bá và từ đó tạo ra các cuộc hành hương tôn giáo và các hoạt động này được coi như là cuộc lữ hành tâm linh. Các tín đồ của các giáo phái đi hành hương với mục đích chính là thực hiện việc cầu nguyện tại nơi đất Thánh.
Các cuộc hành hương tôn giáo hay phân loại của các nhà nghiên cứu hay tổ chức du lịch hiện nay được coi là du lịch tôn giáo đã được hình thành và phát triển từ thời Hy Lạp cổ đại với các cuộc hành hương tôn giáo của các tầng lớp nhân dân các dịp lễ hội. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Việc hành hương tôn giáo phụ thuộc vào giáo lý và các cách thức quy định về lễ hội của mỗi loại hình và mức độ truyền giáo của các tôn giáo đó với các tín đồ.
Đối với hoạt động du lịch Thiền, các việc hành hương của Phật tử mang tính chất ước mong, cầu nguyện, rèn luyện ý chí vững tâm vào chính pháp, và đi thăm các nơi đức Phật giảng đạo, nơi tu hành và nơi khởi sinh ra các dòng thiền, phái Phật giáo của mỗi quốc gia cụ thể như đi thăm Ấn Độ, Nepal – Nơi sản sinh ra Đức Phật và truyền đạo của Ngài, đi Tây Tạng để thăm và tìm hiểu Mật Tông, sang Thái Lan để tìm hiểu nguyên nhân Phật giáo lại là quốc đạo, hay đi Trúc Lâm – Yên Tử của Việt Nam để hành hương về nơi Tổ thiền của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Đối với một số quốc gia khác như Ấn Độ, Thái Lan… thì ngoài hoạt động Thiền mang tính chất của đạo Phật còn có các hoạt động Thiền của Yoga, các hoạt động thiền “Zen” của Nhật Bản.
Trên hệ thống lý luận hiện nay chưa có khái niệm về du lịch Thiền nhưng căn cứ trên thực tế triển khai chúng ta có thể định nghĩa Du lịch Thiền là một loại hình du lịch được cung cấp cho du khách với sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố thiền định trong tôn giáo, các yếu tố tự nhiên, xã hội đối với việc sử dụng các nguồn lực, cở sở vật chất nhằm mang lại các giá trị về mặt thể chất và tinh thần cho du khách.
Các giá trị đem lại của du lịch Thiền không chỉ cho các du khách trong quá trình tham dự chuyến du lịch mà về mặt kinh tế xã hội cũng đem lại hiệu quả cao. Đối với một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan thì nguồn thu từ việc phát triển loại hình sản phẩm du lịch này rất lớn. Để nắm rõ hơn việc các hoạt động du lịch Thiền của các quốc gia và tại Việt Nam, các hoạt động du lịch khác gắn với các nguyên lý và giá trị của Thiền định và sự phát triển của Đạo Phật, các hoạt động thiền Yoga, các tác động và giá trị mà Thiền và Phật giáo đem lại của các quốc gia thế giới và của Việt Nam…
1.4.2. Đặc điểm của du lịch Thiền: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Với đặc điểm nổi bật chính là các hoạt động Thiền: tu tập, quán chiếu, thực hành Thiền định thông qua các pháp môn hoặc tham quan các địa danh nổi tiếng của đạo Phật, tìm hiểu và giới thiệu các giá trị do Thiền định đem lại như về sức khỏe và trị liệu, về tu tâm, về âm nhạc, kiến trúc… với các chuyến du lịch hiện nay đang được thực hiện và khái niệm như đã đề cập ở phần trên, du lịch Thiền mang tính chất và đặc điểm như sau:
Nhu cầu du lịch: so sánh với các loại hình du lịch thông thường phân loại theo nhu cầu chia thành các hình thức đi du lịch như: với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, phục hồi sức khỏe, thể thao; tìm hiểu cơ hội kinh doanh với giải trí, thăm thân, chữa bệnh, văn hóa, tôn giáo… thì nhu cầu của người đi du lịch Thiền có những nét khác biệt trong đó tập trung chính vào việc thực hiện các nhu cầu hành hương, tu tập hoặc tham gia vào các chương trình tour du lịch được thiết kế riêng biệt với việc đặt hàng các công ty lữ hành hay các tour du lịch được thiết kế sẵn sàng theo lộ trình chung ví dụ như: tour Yoga & Meditation Tour (14 đêm/15 ngày) tại Ấn Độ, tour du lịch Meditation Tour (13 đêm/14 ngày) tại BăngKok – Thái Lan, tour du lịch “Hot spring Yoga Tour” tại Nhật Bản, Temple Stay ở Hàn Quốc,… và ở Việt Nam có các tour du lịch Thiền từ 1 đến 4 ngày tại Lâm Đồng, hoặc Zen tour – Nha Trang của Công ty TNHH Du lịch Anh Anh…
Hình thức du lịch: mang tính chất du lịch tôn giáo, nghỉ dưỡng và sức khỏe trong đó dựa vào đặc điểm chính của hoạt động thiền định của Phật giáo hoặc Yoga, các lợi ích của thiền cho sức khỏe về cả mặt vật chất và tinh thần.
Tài nguyên sử dụng: Bao gồm cơ sở vật chất phục vụ du lịch thông thường như: dịch vụ lưu trú, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ ăn uống và tài nguyên nhân văn mang tính chất Phật giáo. Đặc điểm nổi bật nhất là tính chất sử dụng các tài nguyên vật chất rất ít và được làm nổi bật thông qua việc gìn giữ môi trường như thiền phái tại Nhật Bản, tạo ra các hoạt động sinh thái, tạo sự bền vững cho môi trường cho chính các quốc gia tổ chức du lịch.
1.4.3. Vai trò của du lịch Thiền: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Cũng như các sản phẩm du lịch khác trong hệ thống các dịch vụ du lịch cung cấp cho du khách trong nền kinh tế quốc dân. Du lịch Thiền ngoài việc mang lại các tác động và hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội, văn hóa nó còn thay đổi cách suy nghĩ, lối sống của cư dân.
1.4.3.1. Về mặt kinh tế:
Theo khái niệm về du lịch Thiền ở trên chúng ta có thể thấy về mặt xã hội thì du lịch Thiền mang tính chất du lịch văn hóa và sinh thái, bảo vệ môi trường, còn về mặt kinh tế thì là một sản phẩm du lịch trong một loạt các sản phẩm du lịch có thể cung cấp của điểm du lịch. Tuy nhiên, sự phát triển của du lịch Thiền với tác động kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác cụ thể như sự quan tâm của chính quyền đối với các hoạt động Phật giáo từ đó khiến cho các hoạt động này trở thành hoạt động chính thống thu hút không chỉ du khách trong nước mà cả du khách quốc tế cụ thể như nỗ lực tổ chức Đại lễ Phật Đản Vesak của thế giới sẽ tạo điều kiện cho quốc gia tổ chức thực hiện được dịp quảng bá đến các nước về Đạo Phật, về đất nước, con người, các điểm du lịch hấp dẫn các du khách trên toàn thế giới.
Đối với các quốc gia phát triển du lịch Thiền, hiệu quả kinh tế đem lại nguồn thu là rất lớn như Nhật Bản, Thái Lan hàng năm đều có hàng triệu du khách tham gia một phần hoặc hoàn toàn tour thiền được tổ chức tại các quốc gia đó và doanh thu đem lại hàng chục tỷ đôla cho các quốc gia nói trên.
1.4.3.2. Về mặt xã hội:
Sự phát triển du lịch Thiền sẽ đem lại sự hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên thông qua việc thấu hiểu các nguyên lý nhân quả và các du khách được cảm nhận, khuyến cáo việc sử dụng các nguồn tài nguyên này đối với chính bản thân du khách và các thế hệ tiếp theo. Du lịch Thiền có hiệu quả trong việc chữa bệnh, đặc biệt là các bệnh về tinh thần, thần kinh sẽ làm giảm bớt áp lực trong việc đảm bảo phúc lợi xã hội trong các dịch vụ y tế cho bệnh nhân. Ngoài da, các hoạt động thiền định khiến cho con người ta hiểu hơn về thế giới, về sự bình đẳng, sự công bằng… từ đó sẽ tạo ra hiệu quả cho cả cộng đồng trong việc chung sống hòa bình, không có các sự cạnh tranh, đối đầu hay các ý nghĩ tiêu cực dẫn đến giảm bớt các hệ quả đáng tiếc từ hoạt động này. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
1.5. Hoạt động du lịch Thiền trên thế giới và ở Việt Nam:
1.5.1. Tại Thái Lan:
Thái Lan là một quốc gia với truyền thống đạo Phật được coi là quốc đạo chiếm 90% dân số và đối với mỗi người dân Thái Lan thì việc tu học theo Phật giáo là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi công dân. Với truyền thống đạo Phật được truyền bá hàng nghìn năm, sự hoằng pháp và tạo điều kiện của các triều đại phong kiến Thái Lan đã khiến cho đạo Phật có đất sinh sôi nảy nở, các khu chùa thờ Phật được xây dựng khắp nơi tạo ra những cảnh quan, điểm du lịch hấp dẫn du khách. Cùng với sự phát triển của ngành du lịch ở Thái Lan, các lợi thế về các công trình kiến trúc Phật giáo, sự phát triển của đạo Phật và sự quan tâm đến đạo Phật của các Phật tử, du khách, đã tạo ra một lợi thế lớn cho Thái Lan khi khai thác yếu tố này để phát triển du lịch Thiền (Zen -Tour hay Meditation Tour).
Hầu hết các khách du lịch đến Thái Lan đều đi thăm các công trình Phật giáo và các tour du lịch khi thiết kế đều có các địa danh này trong lịch trình của chuyến tour, cụ thể như:
- Chùa Chiang Man – tại Chiềng Mai
- Chùa Dhammongkol
- Chùa Wat Ratchanaddaram – tại Băng Kok
- Chùa Wat Pho – tại Băng Kok
- Dhamma Kamala – tại Băng Kok
- The International Buddhist – tại Băng Kok… Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Theo sự phát triển của Phật giáo tại Thái Lan, Thiền định được chia làm hai nhánh chính như sau: Thiền Samatha (Thiền định) và Thiền Vipassana (Thiền Minh Sát). Các phương pháp Thiền định này dựa chủ yếu vào việc kiểm soát hơi thở, quán chiếu sự vật hiện tượng thông qua thực tại và từ đó kiểm soát được bản thân, phát triển trí não, hòa nhập vào thiên nhiên với niềm an lạc trong cuộc sống. Các hoạt động thiền định và dạy thiền định được phổ biến mọi nơi cho người dân Thái Lan và du khách, các trung tâm thiền định có ở khắp nơi và đặc biệt ở hầu hết các Chùa và học viện Phật giáo Thái Lan. Sự phổ biến hoạt động thiền định mang tính quốc tế hóa cao với các lớp học thiền định dạy bằng tiếng Anh, các trung tâm thiền định Phật giáo quốc tế.
Trung tâm thiền định Phật giáo quốc tế của Thái Lan được thành lập từ năm 1990 với mục đích cung cấp thông tin bằng tiếng Anh cho những người tìm hiểu về thiền định Phật giáo và các thông tin về Phật giáo Thái Lan. Tất cả các thông tin được cung cấp về mọi khía cạnh đạo Phật tại Thái Lan và hoạt động thiền định thông qua Thiền Vipassana (Thiền Minh Sát); đồng thời trung tâm thiền định Phật giáo quốc tế là một khoa trong trường Đại học Mahachulalongkorn Ratchawilthayala (MCU) – được Hoàng gia Thái Lan thành lập để đào tạo các bậc tăng ni cho giáo hội Phật giáo Thái Lan.
Với sự chú tâm vào phát triển và định hướng lớp trẻ, Hoàng gia Thái Lan còn thành lập ra Hội Thanh niên Phật tử từ năm 1950 và hướng dẫn dạy các hoạt động thiền định miễn phí cho mọi người. Các lớp học được dạy cho người từ mới bắt đầu và không nhất thiết phải là Phật tử trước khi tham gia lớp học. Ngoài ra, trung tâm thiền định của Hội tại Băng kok còn cung cấp cả các dịch vụ sinh hoạt phụ trợ như phòng ngủ, cơm chay…
Theo thống kê hàng năm của Cục Xuất nhập cảnh Thái Lan, số lượng du khách nước ngoài năm 2006 đến du lịch là 13,8 triệu du khách, năm 2007 là 14,5 triệu du khách, năm 2008 là 14,6 triệu du khách, năm 2009 là 14,09 triệu lượt khách (Nguồn: Cục Xuất nhập cảnh Thái Lan) trong đó các du khách hầu hết đều đến thăm Hoàng cung Thái Lan, các ngôi chùa tại Băng Kok, Chieng Mai… và có tới hàng triệu người tham gia các hoạt động thiền định, tham gia học chính quy tại các Học viện Phật giáo của Thái Lan.
Ngoài các hoạt động thiền định: tọa thiền, thiền hành, nghe thuyết pháp… tại các khu chùa nổi tiếng, các trung tâm thiền định, các hoạt động nghỉ dưỡng mang tính chất thiền như Spa chữa bệnh với các phương pháp dân gian: dùng lá cây, bấm huyệt… cũng hấp dẫn các du khách đến từ các nước.
Nhìn chung, hoạt động du lịch Thiền tại Thái Lan là hoạt động du lịch mang tính bền vững cao, khai thác tiềm năng sẵn có mà không sử dụng nhiều tài nguyên, đem lại hiệu quả kinh tế không nhỏ cho Thái Lan, chính vì vậy từ tháng 8/2008 đến nay, Chính phủ Thái Lan đã quảng bá mạnh mẽ hoạt động du lịch của Thái Lan về du lịch Thiền với cả một chương trình mang nội dung “Amazing Thailand – MEDITATION – The path to inner peace and well -being ” .
1.5.2. Tại Trung Quốc: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Trung Quốc vốn có tiềm năng du lịch của một quốc gia rộng lớn, có nền văn minh lúa nước được tính là một trong những cái nôi của các nền văn minh thế giới, cùng với đặc điểm lịch sử và văn hóa phương Đông mang tính thần bí và có những điểm du lịch thực sự hấp dẫn du khách; đặc biệt việc phát triển tôn giáo như đạo Phật trong suốt một thời gian dài đã tạo ra các điểm du lịch nổi tiếng như Tây Tạng huyền bí với Phật giáo Mật Tông, Thiếu Lâm tự với Phật giáo Thiền Tông…
Trung Quốc là quốc gia được tính là khởi nguồn của Đạo Phật và các tông phái chính truyền đạo sang các nước thuộc khu vực Châu Á như: Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc,… và chính Phật giáo tại Trung Quốc đã kết hợp với đạo Khổng và đạo Lão hình thành nên các tông phái khác nhau bao gồm 10 tông phái chính: Tỳ Đàm Tông, Thành Thật Tông, Nhiếp Luận Tông, Tam Luận Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiên Thai Tông, Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Luật Tông. Qúa trình hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc luôn gắn liền với lịch sử văn hóa – tư tưởng Trung Quốc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, ở từng thời đại và mỗi triều đại, sự phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như nước ở trong đại dương, đôi khi lặng lẽ êm đềm nhưng cũng có lúc hưng khởi mạnh liệt. Sự hưng khởi của các tông phái này dường như là để bổ túc cho sự suy vi của một tông phái khác và tính đến nay có 3 tông phái chính còn mang tính ảnh hưởng lớn nhất là: Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông.
Các ngôi chùa Trung Quốc mang sắc thái kiến trúc khác biệt khi phối hợp cùng với các đạo phái bản địa, thuật phong thủy đã tạo ra các quần thể kiến trúc đặc sắc đem lại sự say mê và mới lạ đối với du khách đặc biệt là du khách nước ngoài.
Theo thống kê, số lượng khách du lịch đến Trung Quốc ngoài đi thăm các địa điểm du lịch nổi tiếng như Tử cấm thành, Di hòa viên, Vạn lý trường thành, Thập Tam Lăng, Vô Tích, Hoàng Châu, Lệ Giang, Côn Minh, Đôn Hoàng… thì địa điểm được chú ý nhiều nhất đến hiện nay chính là Tây Tạng -thủ phủ của Phật giáo Mật Tông và Thiếu Lâm Tự – Phật giáo Thiền Tông. Chính phủ Trung Quốc và các Tăng nhân Thiếu Lâm chú trọng trong việc phát triển và quảng bá các hoạt động du lịch Thiền này cụ thể như việc đưa vào các bộ phim truyền hình các hoạt động Kung fu Thiếu lâm ở ngoài nước… từ đó đã tạo ra thương hiệu “Thiếu Lâm” và hấp dẫn du khách đến thăm nơi khởi nguồn của Thiền Tông và các hoạt động của Thiền Tông.
1.5.3. Tại Nhật Bản:
Trong số các quốc gia phát triển hiện nay, Nhật Bản là một quốc gia có số lượng khách du lịch quốc tế rất lớn. Đồng thời, với tiềm lực kinh tế và các cơ hội đầu tư kinh doanh thương mại, sự tò mò về “sự thần kỳ Nhật Bản” đã tạo sự thu hút rất lớn đối với du khách nước ngoài. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Với bề dày bản sắc văn hóa, các đặc trưng của Nhật Bản đã tạo ra sự hấp dẫn với du khách trong đó phải kể đến sự hình thành nên Phật giáo Nhật Bản trong quá trình Phật giáo du nhập từ Trung Quốc vào Nhật Bản vào thế kỷ XII và kết hợp với tín ngưỡng bản địa – thần giáo Shinto tạo ra các thiền phái của Nhật Bản. Shinto là sản phẩm của nền văn hóa nông nghiệp Nhật Bản, vốn gắn chặt và phụ thuộc vào thiên nhiên, hơn nữa lại là một thiên nhiên đầy rủi ro: động đất, núi lửa,… Vì thế Shinto còn được gọi là “Tôn giáo kính thờ thiên nhiên”. Ngoài những lễ nghi và tập tục, Shinto còn là sự biểu cảm sức mạnh và vẻ đẹp tự nhiên. Sự kết hợp giữa Thiền Trung Quốc và Shinto Nhật Bản tạo ra Zen (thiền Nhật Bản). Ngày nay, Zen trở thành phổ biến và là luật ngữ tiếng Anh chính thức của Thiền.
Zen không chỉ là cách tu tập của Phật giáo mà còn là một lối sống có triết lý giản dị nhưng thâm trầm, đậm sắc thái Nhật Bản hàng ngàn năm trở lại nay của phần đông dân chúng. Zen đi vào nhiều mặt của đời sống Nhật Bản như điêu khắc, nghệ thuật tranh mặc hội (Sumiye), xây dựng các công viên thiền (ví dụ điển hình là công viên đá Royanji ở Kyoto), vườn thiền (Zen Garden). Tầm cao của lối sống Nhật mang đậm phong cách thiền là võ sĩ đạo (Bushido)… Tuy nhiên, hoạt động phổ biến nhất của Zen được nhân dân Nhật Bản áp dụng hàng ngày và cũng được thế giới biết đến nhiều nhất là Trà đạo Nhật Bản. Tính chất Thiền trong Trà đạo Nhật bản được các nước phương Tây cũng như thế giới biết đến thông qua nhiều phương tiện trong đó đáng chú ý được đề cập trong cuốn Thiền Luận của Suzuki (quyển hạ).
Sự phát triển du lịch Thiền trên cơ sở một xã hội có phong cách sống Thiền đã khiến thiên nhiên Nhật Bản được bảo vệ rất tốt. Chính Hội Các đền thờ Shinto là tổ chức đầu tiên đề xuất việc bảo vệ môi trường ở đất nước này và nhờ đó cũng tạo ra tiềm năng du lịch thu hút du khách quốc tế đến với Nhật Bản. Ngoài ra, sự phát triển của Trà đạo, các vườn thiền… cùng với sự phát triển kinh tế của Nhật Bản là thế mạnh cho Nhật Bản trong việc phát triển loại hình du lịch này.
1.5.4. Tại Ấn Độ: Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Ấn Độ là đất nước có lịch sử Phật giáo từ lâu đời. Ngày nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà đạo Phật ở Ấn Độ không trở thành quốc giáo, dần bị mai một. Nhưng tại quốc gia này vẫn còn tồn tại nhiều chứng tích Phật giáo thu hút du khách đến tham quan, chiêm ngưỡng. Hàng năm, có hàng triệu du khách đến Ấn Độ với ước mong, cầu nguyện, rèn luyện ý chí vững tâm vào chính pháp, và đi thăm nơi sản sinh ra Đức Phật và truyền đạo của Ngài. Tại Ấn Độ, ngoài hoạt động thiền mang tính chất của đạo Phật còn có các hoạt động thiền của Yoga.
Khởi nguồn từ Ấn Độ cách đây khoảng 7.000 năm, yoga được coi là một trong những hệ thống triết lý về phát triển và hoàn thiện con người tồn tại lâu đời nhất trên thế giới.
Cùng với thời gian, dù đã có nhiều biến cố về lịch sử và xã hội, yoga vẫn tồn tại, tiếp tục được bổ sung và phát triển ngày càng phong phú. Yoga đã nhanh chóng vượt qua biên giới Ấn Độ và trở thành 1 môn rèn luyện thể chất, tinh thần và tâm linh được nhiều người ở khắp các châu lục ưa chuộng.
Yoga có nguồn gốc ở ấn Độ và lưu hành khắp thế giới. Ý nghĩa ban đầu của từ “Yoga” là điều khiển bò, ngựa. Từ thời kỳ xa xưa, từ này thể hiện một số thực tiễn hoặc tu luyện để mong đạt được mục đích cao nhất. Trong cuốn “Kinh Yoga” có nêu ra định nghĩa chuẩn xác là “sự khống chế có tác dụng đối với tim“. Yoga ở Ấn Độ có một lịch sử lâu đời và có quan hệ mật thiết với hệ thống Brahmanisn (đạo Bà la môn) mà chúng ta đã biết, rất nhiều điểm đầu chứa đựng tinh thần Yoga.
Ở ấn Độ, Yoga được trình bày và phân tích trong rất nhiều vǎn hiến cổ, hầu như mỗi bộ kinh điển đều có khá nhiều chương mục truyền thụ tri thức Yoga. Sau này, Phật giáo được sinh ra trong hệ thống Brahmanism, triết học Yoga vẫn được thể hiện trong kinh vǎn như cũ, cho tới ngày nay, rất nhiều phương pháp tu hành trong Phật giáo được phát triển trên cơ sở của Yoga. Ở ấn Độ, người ta tin rằng thông qua Yoga có thể thoát khỏi sự đau khổ của luân hồi, tự ngã của nội tại với vô thượng ngã của vũ trụ hợp làm một. Thông qua Yoga để thiêu huỷ mầm mống sinh ra luân hồi, chủ đề trong lòng được đánh thức, mọi thứ trở ngại đều không còn nữa. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
Hiện nay, ở Ấn Độ rất khó phân biệt quan hệ giữa Yoga với đạo Hindu, trong các đền chùa, kinh điển, trong cuộc sống và trong rất nhiều phạm vi mối quan hệ của chúng được hòa quyện lẫn nhau.
Yoga là một trong những thuật rèn luyện sức khoẻ cổ nhất ở phương Đông và là kết tinh trí tuệ của nhân loại. Yoga cũng là kiến thức mà các bậc tiên hiền của Ấn Độ nhận biết cuộc sống qua trực giác với tư tưởng sâu lắng nhất và trạng thái tính mạc nhất.
Lúc đầu chỉ có một số ít người tập luyện Yoga, thường là trong các chùa chiền, các am nhỏ trong làng, trong các hang động trên dãy núi Himalaya hoặc giữa rừng sâu rậm rạp và do các thầy dạy Yoga truyền thụ cho các môn đồ tự nguyện. Về sau, Yoga đã dần dần được lưu truyền trong các tầng lớp nhân dân ấn Độ.
1.5.5 Hoạt động du lịch Thiền tại Việt Nam:
Tại Việt Nam, Thiền không có gì xa lạ. Các lớp học Thiền, khí công hay yoga luôn rất đông học viên, đủ mọi lứa tuổi, trẻ có, già có. Nhưng du lịch Thiền thì lại là một phạm trù khác. Dẫu rằng loại hình này đã nhen nhóm triển khai ở nước ta vài năm trở lại đây nhưng sự phát triển của nó vẫn chưa đủ mạnh để khẳng định vị thế trong ngành du lịch. Du khách Việt Nam vẫn có tâm lý hưởng thụ vật chất hơn là tinh thần. Và đó chính là bài toán phải giải của du lịch Thiền.
Việt Nam, các tour du lịch Thiền thường bao gồm các lớp học yoga, điều trị tâm lý, liệu pháp spa. Thêm vào đó là những chuyến viếng thăm đền chùa, thiền viện hay các địa danh tâm linh khác. Mỗi chuyến đi như vậy, du khách lại được trực tiếp trải nghiệm văn hóa Phật giáo bằng cách tham gia vào đời sống hàng ngày của các nhà tu hành và thưởng thức những món ăn chay tịnh. Thoát khỏi những cám dỗ và thói quen đời thường chính là liệu pháp đầu tiên để du khách lấy lại sự cân bằng. Những hoạt động giải trí đầy tính Thiền, thư giãn đầu óc như spa, thư pháp, trà đạo… được đưa vào chương trình du lịch, mang lại sự tĩnh tâm cần thiết. Và đó cũng chính là điểm mấu chốt của hình thức du lịch này – luôn hướng tới việc tái tạo lại sự cân bằng giữa cơ thể và tinh thần của du khách. Trong suốt thời gian tham gia những tour này, du khách sẽ được tách ra khỏi mọi áp lực của cuộc sống, bộn bề thường ngày để hòa mình vào thiên nhiên và học những điều tưởng như… không cần phải học: thư giãn và hít thở.
Du lịch Việt Nam đã có khá nhiều những hoạt động thư giãn mang chất thiền và được ưa thích như: Zen Tea, Zen Café hay Zen Spa… Nhưng một hành trình du lịch Thiền là một cấp độ khác. Các chuyên gia du lịch cũng đánh giá Việt Nam có thể sẽ trở thành một điểm đến lý tưởng cho các du khách của loại hình du lịch này, bởi thiên nhiên đẹp và đời sống tâm linh phong phú. Những địa điểm lý tưởng có thể kể đến như: Khánh Hòa, Đà Lạt, Tây Thiên, Yên Tử, Vũng Tàu…
Không những thế, bất cứ một ngôi chùa hay thiền viện Phật giáo nào trên cả nước đều dễ dàng trở thành nơi dừng chân cho các “tín đồ”. Thế nhưng, du lịch Thiền xem ra vẫn là một cụm từ “lạ” đối với du khách Việt.
Các hoạt động du lịch Thiền ở Việt Nam có thể được tính dưới các hình thức sau:
- Các lễ hội: Đại hội Phật giáo quốc tế Veska – 2008, lễ giỗ tổ các thiền phái như: Trúc lâm Tam Tổ, Phật hoàng Trần Nhân Tông thuộc Thiền phái Trúc Lâm, Lễ Phật đản hàng năm, lễ Vu Lan báo hiếu…
- Các hoạt động nghiên cứu, trải nghiệm như các du khách quốc tế đến các Thiền viện Việt Nam nghiên cứu về Phật học, Thiền phái của Việt Nam. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
- Các hoạt động du lịch tâm linh, thư giãn mang tính chất hành hương, nghỉ dưỡng trong đó hoạt động du lịch hành hương được tổ chức dưới hình thức du lịch Outbound nhiều hơn với các chuyến hành hương của các Phật tử về đất Phật (Nepal), Ấn Độ, hoặc các chuyến du lịch đến các quốc gia có sự phát triển của Phật giáo như Thái Lan, Trung Quốc, Myanma…
- Một số tour du lịch trọn gói tại Nha Trang do Công ty Du lịch Anh Anh tổ chức dưới hình thức tour thiền – yoga trong đó hoạt động chủ yếu là tập một số bài tập yoga trong chuyến tour kết hợp với ăn chay và đi thăm cảnh Nha Trang. Tuy nhiên, việc triển khai tour này đòi hỏi các du khách khi đăng ký đã có tìm hiểu và hiểu biết một chút về Thiền, ngoài ra do chưa có chương trình quảng bá rộng rãi mà mới chỉ thực hiện trên trang Wed: com được tổ chức dưới hình thức là tour đặc thù và phải liên hệ đặt tour trước.
- Hoạt động du lịch tĩnh tâm của câu lạc bộ Trà Việt – Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức tour du lịch này kết hợp với An Lạc Trang – xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh. Nội dung chuyến tour gồm có: tập yoga, học thở và năng lượng, tập viết thư pháp, tập nghi thức trà đạo, thiền hành, cắt tỉa bonsai, sắp xếp non bộ, trồng rau, bơi lội…
Tour tĩnh tâm ở An Lạc Trang bắt đầu khóa thứ nhất vào dịp 30/4/2009. Mỗi tháng, An Lạc Trang tổ chức từ một đến hai khóa du lịch tĩnh tâm, theo từng chủ đề do khách đề xuất hoặc ban tổ chức tự thiết kế tối đa là 30 người/khóa. Chi phí tham dự mỗi người từ 350.000 – 450.000 đồng/khóa, tùy nội dung, thời gian khoảng hai ngày.
Tiểu kết chương 1
Mặc dù Thiền Tông được bắt nguồn từ Phật giáo Ấn Độ và được khởi nguyên từ Trung Hoa, nhưng chính ở Việt Nam Thiền Tông mới có một sức sống mãnh liệt và trường tồn. Thiền ở Việt Nam là sự kết tinh những gì là tinh túy nhất trong tư tưởng của hai nền văn minh lớn của nhân loại, Thiền đó vượt ra khỏi một phương pháp tu tập thông thường để vừa là một thứ triết lý thâm sâu, lại vừa là một thứ giải trí thanh cao của con người, ranh giới của tôn giáo, thần phật đó bị xóa nhòa để hòa nhập vào cuộc sống của con người. Bằng cách nâng mình lên để thưởng thức và thẩm thấu nghệ thuật ấy, con người đó hòa nhập vào thế giới của tự nhiên nguyên sơ thiêng liêng và vĩnh cửu, vĩnh cửu giống như những kiếp nhân sinh ngàn đời kế tiếp nhau. Và trải qua bao thăng trầm lịch sử, thời gian, mặc dù chỉ truyền qua ba thế hệ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tưởng chừng như đó suy vi, mai một và lu mờ, tuy nhiên với sức sống mãnh liệt, sức sống nội tâm, ánh áng của Thiền Tông chưa bao giờ đứt đoạn. Từ Hiện Quang khơi nguồn, Điều Ngự dựng gậy, Pháp Loa nối lửa, Huyền Quang tiếp hương… một mạch chảy dài đến tận ngày hôm sau. Sự hiện diện của dòng thiền này trong lịch sử đó góp phần tụ thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam dưới thời Trần, để rồi ngày nay những âm ba của nó trong lòng dân tộc vẫn còn vang ngân không dứt. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chính là cái nôi của “Đạo Phật Việt Nam”. Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Thực trạng hoạt động du lịch ở thiền viện Trúc Lâm

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>>> Khóa luận: Tìm hiểu về du lịch Thiền ở Thiền viện Trúc Lâm […]