Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk

Rate this post

Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk là một bài luận văn thạc sĩ giáo viên đánh giá cao, cho nên mình muốn chia sẻ đến các bạn học viên biết thêm nhiều hơn văn hóa Việt Nam, từ đó hoàn thành tốt bài luận văn có đề tài tương tự.  Văn hoá là một hiện tượng xã hội có tính kế thừa bền vững. Nó luôn luôn tồn tại trong dòng chảy của sự vận động, phát triển của lịch sử. Trên chiều dài lịch sử ấy, bên cạnh những cái dở, cái lạc hậu lại có biết bao nhiêu những đều hay, điều tốt do chính bản thân con người sáng tạo ra. Dưới đây là Bài mẫu Đề tài: Giữ Gìn Và Phát Huy Giá Trị Văn Hoá Của Dân Tộc Ê Đê Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk Hiện Nay bản đầy đủ.

2.2. Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk

Đối với đồng bào dân tộc Êđê còn đang trong trình độ phát triển văn minh tiền công nghiệp, thì tín ngưỡng, lễ nghi và phong tục là các lĩnh vực đời sống tâm linh vô cùng quan trọng, và ở đó chứa đựng các chỉ báo rất tiêu biểu về bản sắc và sắc thái dân tộc; nó cũng chỉ báo về độ bền vững và thăng bằng của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, ở lĩnh vực này đang diễn ra những “nhiễu loạn” theo các chiều hướng có khi trái ngược nhau. Đồng bào Êđê ở Đắk Lắk chủ yếu thờ cúng các loại thần Yàng, các nghi lễ liên quan tới tín ngưỡng nông nghiệp, tôn sùng các hiện tượng tự nhiên, bên cạnh đó là các hành động có tính ma thuật, bùa phép, pháp thuật để chữa bệnh, đặc biệt đáng chú ý là hiện tượng malai dẫn tới các hành động giết người, trả thù man rợ. Sau thời gian dài vắng bóng thì những năm gần đây, các hiện tượng này lại tái hiện, nhiều khi với mức độ khá nghiêm trọng. điều đó phần nhiều là do những hũ tục lỗi thời hơn là các thuần phong mỹ tục mang bản sắc dân tộc.

Giá trị văn hoá Êđê không thể không đề cập đến lễ hội, một loại hình sinh hoạt văn hoá dân tộc độc đáo, một loại hình giao hoà giữ đời sống tâm linh và đời sống ý thức.

Thời tiết ở Đắk Lắk chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ cuối tháng 4 đến tháng 10 dương lịch. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến đầu tháng 4 năm sau. Lao động sản xuất ở Đắk Lắk thường chỉ tập trung vào mùa mưa. Chủ yếu canh tác nương rẫy và bây giờ là cây công –nông nghiệp xen canh vẫn là vào mùa mưa. Từ tháng 11 cho đến tháng 1 dương lịch năm sau là mùa thu hoạch chính. Sau đó là đến vụ nông nhàn, người lao động nghỉ ngơi, bước vào “mùa ăn năm uống tháng”. Mọi lễ lạt không liên quan đến lịch sản xuất (đám cưới, bỏ mả, chúc sức khoẻ…) đều tập trung vào mùa khô, kéo dài từ khi gặt lúa sớm (cúng hồn lúa,cúng cơm mới) cho đến tận mùa don rẫy tháng 4 sang năm. Lúa bắp đã chất đầy kho, cái no đủ, dư thừa đã thấy rõ, đây là lúc nghỉ ngơi, vui chơi, gặp gỡ, cảm tạ trời đất, báo hiếu cha mẹ…và đón mừng một năm mới đến. Do đó bao giờ lễ cũng đông vui như hội, trở thành lễ hội của gia đình, của buôn làng

2.2.1. Lễ mừng cơm mới ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

Tiếng Êđê gọi là “Hua Esei mrâo” ăn cơm mới. Thời gian tổ chức “mừng lúa mới” thường được tiến hành từ tháng 11, 12 hoặc tháng 1 dương lịch. Có nơi cúng ngay sau khi bắt đầu thu hoạch gùi lúa đầu tiên, có nơi thu hoạch xong khu vực gieo trồng lúa cúng, có nơi khi đã xong hẳn mùa màng…Gia đình nào xong sớm tổ chức trước, xong sau cúng kiếng sau. Lúc đầu chỉ cúng trong gia đình, sau phát triển ra cả buôn làng ở nhà rông hoặc cả vùng.

Tuỳ theo khả năng kinh tế giàu hay nghèo mà mời mọc bà con anh em, bạn bè trong buôn làng mình hay lân cận, đông hay ít, kéo dài nhiều ngày hay ít ngày. Cứ thế liên tục từ nhà này sang nhà khác, lễ nọ tiếp lễ kia. Đến cả buôn thì đã vài ba tháng, cũng là lúc chuẩn bị bước sang mùa sản xuất mới.

Dân tộc Êđê cũng như một số dân tộc khác, trước tiên người ta thu hoạch đám lúa ở “đất thiêng” rộng chừng 2m2. Lúa trồng trên mảnh đất này dành riêng để cúng Yàng, cúng bỏ mả cha mẹ đã qua đời. Ngoài người mẹ chủ gia đình, không ai được đặt chân vào. Từ lúc chuẩn bị gieo hạt đến khi thu hoạch đám lúa này được chăm sóc đặc biệt chu đáo. Khi gặt phải tuốt bằng tay không được dùng liềm, hái. Cúng kiếng xong nếu còn dư , người ta rang lên để dành ăn trong gia đình, không được cho hoặc bán, hoặc mời người ngoài ăn. Sau đó mới thu hoạch đén các mảnh rẫy khác.

Người Êđê ăn cơm mới tuỳ theo khẳ năng từng gia đình. Vật hiến sinh có thể là gà, heo, dê hay trâu. Nếu cúng trtâu thì mời khách đông hơn. Lúc tiến hành lễ, chủ nhà buộc hai ché rượu vào cột gơng (chỉ dùng khi cúng). Thịt bày trên lá chuối, đủ mỗi thứ một ít (da, thịt, lòng, huyết…).Thầy cúng khấn vái mời các Yàng về ăn uống giúp đỡ phù hộ cho gia đình mạnh khoẻ, mùa sau được tốt hơn mùa trước.

Cúng xong chủ nhà mời khách vào tiệc, theo thứ tự già, trẻ, nữ, nam đựơc mời cầm rượu lần lượt uống. Cần không được rời khỏi tay, phải có người sau cầm lấy cần, người trước mới được bỏ ra.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

2.2.2. Lễ mừng cơm mới của đồng bào Êđê

  • Lễ mừng năm mới

Sau lễ ăn cơm mới là đến những lễ cúng khác tuỳ theo tình hình gia đình như: bỏ mả, thành đinh hay cưới hỏi. Như đã nói ở phần trên, các lễ thường tiến hành vào mùa khô, sau khi đã thu hoạch mùa màng. Vì có đủ lương thục để làm rượu cúng, thuận lợi cho việc mời mọc đi lại gặp gỡ. Mùa khô thường vào cuối năm cũ, đầu năm mới tức là đã vào mùa xuân.

Các già làng, thầy cúng, thầy bói bàn nhau chọn ngày xong, sẽ phân công đàn ông tu sửa nhà dài cho gon gàng, sạch sẽ, vào rừng lấy cây về làm cột gơng (cột cúng như cây nêu của người Kinh), cột có thể bằng tre, chuẩn bị cho đâm trâu. Đồng thời già làng cũng thông báo cho cả buôn biết ngày tổ chức lễ mừng năm mới.

Đến ngày đã định, cả buôn tập trung về nhà rông ăn mặc đẹp, mới, mang nhiều vòng cổ, vòng tay, chân bằng đồng, bạc hoặc các chuỗi hạt cườm. Nhà nào cũng có các bộ chiêng trống hay, chiêng quý…cũng được huy động mang tới góp vui. Con trâu hiến sinh được dắt tới buộc vào cột gơng, bên cạnh đặt cái nia đựng các lễ vật khác: rượu, muối và lúa, ngũ cốc…mới thu hoạch.

2.2.3. Lễ mừng năm mới của đồng bào Êđê ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

  • Lễ cúng bến nước

Dân tộc Êđê khi lập buôn thường chọn những nơi đất tốt, màu mỡ gần các nguồn nước hoặc ven sông suối. Buôn nào cũng có bến nước riêng của mình. Đây là nơi rất được coi trong, vì là nguồn nước sinh hoạt của cả buôn, là chốn tụ tập sau cả một ngày lao động mệt nhọc.

Lễ cúng bến nước của người Êđê thường được tổ chức cuối năm cũ hoặc đầu năm mới. Mục đích của lễ là cảm tạ và cầu xin Yàng bến nước tiếp tục phù hộ cho buôn làng có đủ nước sinh hoạt và gieo trồng quanh năm.

Trong sinh hoạt của cộng đồng, “Già làng bến nước” có vai trò động viên bà con tham gia xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần cũng như cổ vũ cộng đồng tham gia sản xuất phát triển kinh tế. Bến nước vừa là nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất, vừa là địa điểm tổ chức sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng. Hằng năm, các buôn làng đồng bào dân tộc tổ chức nghi lễ cúng bến nước. Trong lễ cúng đó, bà con cầu mong thần linh ban cho mưa thuận gió hòa, cho mọi người có sức khỏe dồi dào, làm ăn gặp điều may mắn; cầu mong mọi người đều làm việc tốt và đoàn kết thương yêu nhau, cùng nhau xây dựng quê hương giàu đẹp.

Với ý nghĩa là bến nước văn hóa, theo quy ước của mọi người trong các buôn và điểm dân cư người dân tộc Ê-đê thì mọi người cũng đều có trách nhiệm giữ sạch nguồn nước, bảo vệ cây cối quanh bến nước và bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên. Tuy vậy, trong một thời gian dài, hầu như các địa phương trong tỉnh đều ít quan tâm đến việc bảo vệ bến nước. Cây cối bên bến nước bị chặt phá, nguồn nước bị làm nhiễm bẩn do khai thác bừa bãi để tưới cà phê.

Để bảo tồn những nét đẹp văn hóa của đồng bào dân tộc Ê-đê, đi đôi với việc xây dựng quy ước thôn buôn, khu dân cư, các địa phương trong tỉnh Đắk Lắk đã tu bổ, phục hồi những bến nước và thực hiện nghi lễ cúng bến nước theo phong tục văn hóa truyền thống. Ở nhiều buôn, đồng bào dân tộc Ê-đê đã tu sửa, làm cho bến nước thoáng đãng, sạch đẹp, bảo đảm vệ sinh môi trường như kè đá lại bờ suối, bãi tắm, trồng nhiều cây xanh, trong đó chủ yếu là các loại cây bản địa. Tại nhiều địa bàn như Buôn Trinh (xã Ea Blang, thị xã Buôn Hồ), Buôn Krông A, Buôn Krông B (xã Ea Tu, TP Buôn Ma Thuột), buôn Chu Kniar (xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn), Buôn Cháy (xã Ea M’roh, huyện Cư M’gar) đã nhanh chóng phục hồi các bến nước văn hóa tiêu biểu. Các huyện Krông Păk, Krông Buk, Ea H’leo, Ea Kar, Krông Năng và M’Đrắc đã đầu tư kinh phí đáng kể giúp bà con dân tộc Ê-đê tu bổ, phục hồi nhiều bến nước văn hóa. Các bến nước được xây dựng thành nơi có cảnh quan đẹp, phục vụ cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng và một số bến nước xây dựng thành điểm du lịch sinh thái.

2.2.4. Lễ cúng bến nước của đồng bào Êđê ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

  • Lễ bỏ mả

Theo thuyết bảy vòng luân hồi của người Êđê ở Đắk Lắk, con người sau khi chết đi, sẽ phải qua bảy lần đầu thai vào kiếp khác như: giọt sương, con bướm, con chó…Sau đó sẽ được trở lại làm người. Đồng bào cũng đã quan niệm rằng: Sau khi chết đi, vì tình cảm thương nhớ giữa người sống và người đã khuất, mà linh hồn người khuất vẫn luôn luôn quanh quẩn bên gia đình, không đi đâu xa khỏi buôn làng. Do đó cần làm lễ bỏ mả, nghĩa là chia lìa chính thức và vĩnh viễn giữa người còn sống và người đã khuất núi. Để hồn người chết không còn vấn vương, luyến tiếc gì, nhẹ nhàng đầu thai sang kiếp khác.

Việc tổ chức cho một lễ bỏ mả, trước tiên là căn cứ vào nỗi đau đã vơi đi của người còn sống (bởi theo phong tục của người Êđê, trong vòng một năm, vì tình cảm thương nhớ, ngày nào gia đình cũng phải mang cơm ra mộ cho người chết, bỏ xuống huyệt qua một ống nứa xuyên thẳng từ mặt đất đến quan tài ở phía đầu huyệt). Bởi bỏ mả đồng nghĩa với từ nay trở đi không còn thăm nom gì nữa. Yếu tố quan trọng thứ hai là việc chuẩn bị lương thực và thực phẩm chuẩn bị cho buổi lễ, đặc biệt là chuẩn bị những ché rượu cần. Nếu rượu cần làm bằng nguyên liệu củ mì, thì chỉ làm trước từ 7-10 ngày, rượu bắp sẽ phải ủ lâu hơn, còn là rượu gạo thì càng để lâu càng ngon. Như vậy, ngoài gạo, cần có bắp hoặc mì. Sau đó là thực phẩm, gồm các loại rau ( thường l;à cọng môn, đu đủ, rau cải…để làm canh). Heo, gà và nhất là trâu, bò để làm vật hiến sinh, dâng lên các vị thần linh, cho phép người đã khuất vào thế giới bên kia, sau đó lại được đầu thai sang kiếp khác. đối với nhà giàu, người chết có vai vế trong buôn, lễ bỏ mả phải có cúng trâu.

Sỡ dĩ việc chuẩn bị lương thực, thực phẩm được coi là yếu tố quan trong nhất, bởi tính cộng đồng quán xuyến trong mọi sinh hoạt của đồng bào dân tộc Êđê ở Đắk Lắk. Mỗi một chuyện buồn, chuyện vui của một gia đình, đều có sự chia sẻ của cả dòng họ, cả buôn làng.

Lễ thường được tiến hành vào mùa khô, sau khi mùa màng đã thu hoạch xong xuôi. Để tránh tốn kém người ta chọn những năm không có đám cưới hoặc lễ mừng thọ nào phải tổ chức. Chuẩn bị cho lễ bỏ mả, gia đình chủ lễ phải có nhiều cuộc bàn bạc để phân công chịu trách nhiệm từng đầu việc.

Lễ thường được tổ chức trong ba ngày, vào những tuần trăng sáng. Ngày đầu tiên mang theo một ché rượu nhỏ và con gà ra ngoài ngôi mộ cũ, thầy cúng (Pô riu Yang) và người phụ nữ chủ gia đình sẽ khấn các vị thần linh cho phép gia đình làm lễ bỏ mả. Sau nghi lễ này, việc dọn cỏ, phá bỏ nhà mồ cũ, chặt cây đẽo tượng dựng nhà mồ mới bắt đầu khởi công. Người ta cũng dựng ngay tại khu mộ một chiếc lều nhỏ, đốt đống lửa để đêm đến gia đình và những người tham gia làm nhà mồ có dịp trò chuyện lần cuối với người đã khuất.Cũng bắt đầu từ lúc này, có những sinh hoạt văn hoá khác như hát đối đáp của nam nữ thanh niên, kể Khan của người già, thổi đinh buốt, đinh năm, hát kể về nỗi nhớ thương, sự chia tay giữa người sống và người đã khuất. Lúc này ở nhà chiêng trống cũng đã nổi lên, báo tin cho các vị thần linh và cộng đồng gia đình vào chuyện lớn.

Công việc quan trọng nhất của ngày thứ hai là dựng nhà mồ và giết các con thịt. Ngay từ hôm trước, những người trong buôn, trong dòng họ, tuỳ theo hoàn cảnh nhà mình mà tham gia đóng góp với chủ nhà. Một lon gạo, một trái bí, trái đu đủ, con gà…Do những người phụ nữ mang đến trao cho người đàn bà già nhất trong nhà. Sáng hôm đó, trai tráng trong họ hàng sẽ vác những ché rươụ đến đóng góp, cột một dãy 7 chiếc che ở trước nhà mồ, và một dãy khác nhiều hơn ở phía trong chiếc lều nghỉ mát ở cạnh đó. Dù ít, dù nhiều gia chủ đều trân trọng đón nhận và cảm ơn.

Công việc khu nhà mồ thật náo nhiệt. Những người thợ khéo tay sau khi đã dùng rìu xẻ những tấm ván, ghép lại thành căn nhà mới, có hai mảnh trăng hình lưỡi liềm ở hai đầu mái (biểu tượng nhà của người chết), vẽ các hoa văn lên thành ván, lên những cột Gưng Kut dựng bốn góc hàng rào. Những thanh niên to khoẻ nhất thì dựng lại cột Klao cao vút, có hình chóp nhọn trên đầu, cũng đã vẽ nhiều hình xanh, đỏ ở hai đầu mộ với nhau bằng sợi dây da trâu dài, như đường lên trời của linh hồn. Người phụ nữ cao tuổi nhất trong nhà xé những mảnh vải đen trắng buộc quanh nhà mồ lên đầu những bức tượng vừa được dựng lên. Bà vừa buộc vừ thì thầm những lời giã biệt với người đã khuất.

Ngày thứ ba, người ta tiếp tục giết các con thịt, lấy đầu và đuôi, mỗi thứ một ít cúng tiếp, thay lượt rượu khác cho những ché đã nhạt. Đến lúc này,ai có việc riêng có thể tạm biệt gia chủ ra về. Nhưng những con thịt hôm nay, không chỉ đãi những người đến muộn, người còn ở lại tham dự cuộc lễ, mà còn chia cho tất cả mọi người đã có mặt, mỗi người một rẻo thịt nhỏ. Hoặc gói trong lá chuối, lá môn hoặc xâu vào chiếc que, sợi lạt. Dẫu miếng thịt sẽ chẳng đủ nấu bát canh, nhưng đây là hình thức không thể thiếu ở bất cứ một cuộc cúng tế nào. Không đơn thuần là sự cám ơn, mà còn là sự chia sẻ vui buồn, gắn bó giữa cộng đồng với nhau.

Mọi người vẫn có thể tiếp tục vui chơi quanh nhà mồ, cho tới khi nào lương thực, thực phẩm chuẩn bị cho cuộc lễ cạn. Kể từ khi trồng xong những cây chuối và cây khoai môn ở bốn góc, đóng cửa nhà mồ, dứt hẳn mối quan hệ với người đã

khuất, gia đình không còn qua lại thăm nom ngôi mộ nữa. Người chết cũng yên tâm để đầu thai vào một đời sống khác.

Lễ bỏ mả có thể kéo dài từ ba cho đến năm hoặc bảy ngày, tuỳ theo mức độ giàu nghèo của gia đình. Với quan niệm từ bỏ để hồi sinh, đây là một trong những lẽ thức lớn và mang tính nhân bản rất cao của người Êđê.

2.3. Hình ảnh lễ bỏ mả của đồng bào Êđê ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

Giá trị vật chất và văn hoá tư tưởng của dân tộc Êđê còn đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, song với sự khắc hoạ ở những nét tiêu biểu như trên đã nói lên yêu cầu tất yếu của thực tiễn cần phải bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của đồng bào Êđê. Đánh mất bản sắc văn hoá ấy cũng có nghĩa là đồng thời loại bỏ đi một nền văn hoá dân tộc trong cộng đồng quốc gia. Không phải nghẫu nhiên mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá   dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc, tôn tạo các di tích, di sản, văn hoá và danh lam thắng cảnh, khai thác các kho tàng văn hoá cổ truyền, tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá nhân loại” [12-115]

Trong các buôn làng, các điểm dân cư đã và đang diễn ra quá trình đan xen, có cả sự thâm nhập, sự giằng co, sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa sự tiếp nhận văn hoá mới và sự duy trì văn hoá truyền thống. So với các vùng đô thị, quá trình ấy ở các vùng nông thôn có phần chậm chạp và dè dặt hơn.

Theo con đường tự phát ban đầu, văn hoá mới đến với dân tộc ở nơi đây một cách vô thức, lẻ tẻ, rời rạc, âm thầm, qua giao tiếp tự nhiên với người kinh và đông bào dân tộc, có thể là từ chợ, từ đô thị ở đường phố, có thể từ thương nhân len lỏi trong buôn làng….Trên thục tế, những yếu tố văn hoá mới thâm nhập bằng cách này chiếm phần không nhỏ, đa dạng, phong phú lại thường xuyên và dễ được chấp nhận.

Ở những vùng Thiên chúa giáo và đạo Tin lành đều có ảnh hưởng đối với dân chúng. Đáng chú ý hơn là từ vấn đề bảo tồn và giữ gìn văn hoá truyền thống: “Đạo Tin lành đi đến đầu thì hàng loạt những truyền thống văn hoá cổ truyền của đồng bào dân tộc mất đi đến đấy”. Đồng bào dân tộc Êđê ở Đắk Lắk một khi đã đi theo đạo, dù đạo nào, đều chịu khuôn nhiều vào các hình thức tổ chức, quản lý của tôn giáo, tuân thủ các quy tắc của tôn giáo, tham dự các sinh hoạt do tôn giáo chủ trương, sớm hoặc muộn hàng loạt yếu tố văn hoá truyền thống cũng biến mất trong đời sống của tín đồ của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Sự mất mát đó càng triệt để và mau chóng hơn đối với bộ phận tín đồ đạo Tin lành, ở đó tín ngưỡng cổ truyền hàng ngàn đời nay bị suy giảm, việc thờ cúng tổ tiên bị từ bỏ, nhiều lễ nghi phong tục phai nhạt dần, thay vào đó là một số phong tục tập quan và các thức đã tiếp thu từ tôn giáo hoàn toàn xa lạ với truyền thống đạo lý dân tộc.

Cần khẳng định sự thực là, văn hoá và nếp sống mới -bất kể du nhập, tiếp thu thế nào- đã tác động đáng kể trong một bộ phận đồng bào Êđê, chủ yếu là số sống ven thị, cận trung tâm, số “theo đạo”, và cũng ảnh hưởng nhất định đến bộ phận đông đảo hơn sống ở các vùng nông thôn xa đô thị, xa trung tâm, không “theo đạo”. Nói cách khác, nó in dấu đậm hay nhạt, ít hay nhiều là tuỳ nơi, tuỳ vùng, phụ thuộc lớn vào cường độ tiếp xúc của đồng bào với văn hoá mới.

Bên cạnh những hệ quả tích cực không thể phủ nhận, nó đồng thời lại có phần làm cho một số khía cạnh văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc Êđê hao mòn dần, theo chiều tỷ lệ thuận với mức độ tăng trưởng của văn hoá mới. Nhìn chung ở Đắk Lắk, có thể nói đến một “trào lưu” biến động, kéo theo cả hiện tượng suy giảm văn hoá cổ truyền ở đồng bào Êđê, đang tiếp diễn, nhất là trong lớp trẻ ngày nay và đặc biệt trong những năm gần đây. Họ không thích trang phục lối xưa, một phần cũng do sự lan tràn phổ biến cũng như ưu thế của vải dệt công nghiệp và đồ may mặc sẵn. Họ không say mê âm nhạc và các hình thức văn nghệ dân gian truyền thống của dân tộc mình.Có những người còn muốn thay đổi cả tập tục như cư trú sau hôn nhân, cách tính tử hệ…của chế độ mẫu hệ. Nghệ thuật trang trí bị giản lược đi, hoa văn bị cắt bỏ đi. Tượng nhà mồ bị săn lùng đánh cắp; nghệ thuật nhà mồ bị suy thoái nhanh chóng mấy năm gần đây. Nhiều nhà dài bây giờ làm nhỏ bé, đơn sơ, không bề thế, công phu và đẹp như xưa, thậm chí đã vắng bóng trong một số buôn làng. Ở một số nơi, các điệu nhảy múa bị quên lãng. Số nghệ nhân kể sử thi và nghệ nhân cồng chiêng vơi dần theo sự gia tăng số người già khuất núi. Tệ hại hơn, nạn “chảy máu cồng chiêng “ đã và đang diễn ra vô cùng đáng tiếc. Cồng chiêng bị đem bán đi vì lực hút của đồng tiền do bon buôn đồng, buôn đồ cổ tung ra, một số ít vì cần tiền để đầu tư làm kinh tế, cũng vì cồng chiêng (cùng với ché, nồi đông, trâu..) đối với một bộ phận đồng bào giờ đây không được xem là tài sản tích luỹ và dấu hiệu phân biệt giàu – nghèo như xã hội xưa. ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

Cùng với đó là ở đây đó, ở một số người, có tư tưởng đề cao “văn hoá mới” một chiều, lấy văn hoá của người Kinh làm mẫu, mặt khác, quan niệm vè văn hoá truyền thống của đồng bào Êđê gắn liền với sự thấp kém, lạc hậu, mê tín dị đoan, hủ tục nặng nề… một cách thái quá, của một số đồng bào Êđê cũng nảy sinh ý thức tự ti mặc cảm về văn hoá truyền thống của mình.Thêm nữa, trong thực tiễn, kiểu áp đặt, rập khuôn máy móc cung cách lối sống người Kinh đã vô hình chung dẫn tới làm một số khía cạnh văn hoá của đồng bào Êđê bị nghèo nàn và đơn điệu đi, (đó là chưa nói đén tính hợp lý và kết quả của những việc làm ấy ra sao), điển hình là việc nhất loạt phát triển hình thức cư trú theo từng khuôn viên gia đình (có nhà, có đất để làm vườn bên nhà) và bố trí các hộ ở theo mô hình ô bàn cờ, hay việc vận động từ bỏ nhà sàn, xuống nhà trệt tại một số địa phương…Những biểu hiện như vừa nêu trên, dù chỉ là vô thức, dù không phải là phổ biến, và dù có “cái được” nào chăng nữa, vẫn ít nhiều tác hại đến văn hoá truyền thống, đến việc bảo vệ và phát triển văn hoá của dân tộc Êđê.

Mời bạn tham khảo thêm:

Tổng hợp bài mẫu Luận văn Thạc Sĩ

2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc Êđê tại Đắk Lắk.

2.4.1. Nguyên nhân kinh tế-xã hội

Một là, đồng bào dân tộc Êđê ở Đắk Lắk chủ yếu sống bằng nghề trông trọt và chăn nuôi. Về trồng trọt chủ yếu là trồng lúa, càphê, sắn, tiêu, cao su…nhưng kỹ thuật canh tác lạc hậu, thiếu vốn đầu tư nên không thâm canh, năng suất thấp. Tỷ lệ đói nghèo cao, tình trạng sản xuất tự cung, tự cấpcòn phổ biến, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nhiều nơi còn ở tình trạng du canh du cư. Đến năm 2009 toàn tỉnh Đắk Lăk có 298.534 người đồng bào dân tộc Êđê,chiếm 17,2 % dân số toàn tỉnh và 90,1 % tổng số người Ê Đê tại Việt Nam (Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Nhìn chung, đời sống đồng bào dân tộc Êđê ở Đắk Lắk còn rất khó khăn, nhiều hộ bị đói ăn, nhà ở tranh nứa, lá tạm bợ. Khoảng cách giàu nghèo giữa đồng bào dan tộc Êđê và người Kinh còn khá xa.

Hai là, Do đời sống của đồng bào Êđê còn quá thấp kém, khó khăn nên họ không có khái niệm “giữ gìn” và “ phát huy” vốn di sản văn hoá truyền thống của dân tộc mình, mà chỉ lo toan cho cuộc sống hàng ngày.

Với cuộc sống khó khăn và lạc hậu như thế, đồng bào chỉ coi văn hoá truyền thống như một giá trị tinh thần thuần tuý, chưa phat huy được những nhân tố tích cực của văn hoá truyền thống, những giá trị của văn hoá mới cũng chưa giúp đồng bào tiếp cận được bao nhiêu, những giá trị tiếp thu được một phần mang tính tự phát. Chẳng hạn, bên cạnh một bộ phận nhỏ đồng bào nuôi khát vọng làm giàu một cách chân chính, biết phát huy sức lực và tri thức văn hoá, thì một bộ phận lớn vẫn giữ nếp cũ, được chăng hay chớ chạy theo những giá trị văn hoá nhất thời, tự làm nghèo , tự bần cùng hoá cuộc sống của mình.

Ba là, trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều điểm văn hoá dồn về các trung tâm huyên, các điểm đông dân cư sinh sống, nên các xã miền núi, các buôn làng hẻo lánh hầu như bị bỏ trống và cách biệt với cộng đồng do điều kiện thời gian, tiền bạc, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, đời sống văn hoá cơ sở còn rất nghèo nàn, lạc hậu, đặc biệt là khi xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã. Mặc dù đài phát thanh truyền hình Đắk Lắk có chương trình phát thanh bằng hai thứ tiếng của đồng bào dân tộc bản địa Êđê phủ sóng khắp tỉnh, nhưng phương tiện nghe nhìn vẫn còn nhiều thiếu thốn; đội thông tin lưu động của tỉnh đã cố gắng xuống các buôn làng, các xã để phục vụ cho đồng bào nhưng trên thực tế vẫn chưa thể đáp ứng được những mong muốn của họ.

Bốn là, do sự tác động của kinh tế thị trường, nhất là mặt trái của cơ chế thị trường làm thiếu đi những tiến bộ của các giá trị văn hoá, thiếu đi những giá trị đạo đức cần thiết thể hiện đạo lý của con người. Không ít những nơi đó đây đã xuất hiện nhiều thói hư tật xấu, những ham muốn ích kỷ làm lu mờ những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp, làm nảy sinh những mảng tối trong bảng giá trị xã hội.

Trong mười mấy năm trở lại đây, đặc biệt là từ khi đổi mới đất nước 1986, sự phân bố dân cư trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có nhiều thay đổi, xu hướng người Kinh từ miền xuôi lên và các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc đến phát triển kinh tế nơi đây ngày càng nhiều, mức độ cư trú xen cài vốn có từ xưa nay càng thể hiện rõ nét hơn. Việc phân bố dân cư như vậy có tác động nhiều mặt, từ chính trị, kinh tế, xã hội tới văn hoá, nếp sống. Quá trình di dân ào ạt như thế đã tạo ra sự tranh chấp quyết liệt giữa dân cư mới đến với dân cư bản địa về không gian sinh tồn, không gian văn hoá là một nguy cơ tàn phá các giá trị văn hoá của đồng bào dân tộ Êđê nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói chung; sự giao lưu dân tộc đa số và dân tộc thiểu số ngày một tăng cường, đó là xu hướng đồng hoá tự nhiên ngày một thể hiện rõ; đồng bào Êđê ngày một mất đi nét riêng trong văn hoá của dân tộc mình.

Kinh tế thị trường đã đem lại lối sống vị kỷ, thực dụng của một số người biểu hiện sự lệch chuẩn, xa lạ với những giá trị đạo đức của cả cộng đồng. Ý thức cộng đồng vốn là truyền thống đạo đức nổi bật của dân tộc Êđê thì nay có nơi, có lúc bị phân rẽ, lợi dụng, biến thành cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Cồng chiêng là một loại tài sản, đồng thời lại là nhạc cụ dân tộc quý giá của đồng bào dân tộc Êđê đang bị đem bán cho đồng nát.

2.4.2. Về trình độ dân trí ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

Một là, dân tộc Êđê tại Đắk Lắk còn ở trình độ phát triển thấp và lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, xã hội trong khuon khổ buôn làng cổ truyền, nếp sống còn bảot lưu nhiều tàn dư xã hội cũ. Do diện tích rộng, địa hình phức tạp, dân cư sinh sống phân tán, cách xa nhau. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp thu các giá trị văn hoá cổ truyền cũng như các giá trị văn hoá mới. Hơn nữa, trong tư duy của đồng bào dân tộc chứa đựng những yếu tố bảo thủ, những tập tục lạc hậu, nhận thức thế giới đầy tính thần bí hoang sơ nhưng lại thiếu nhất quán. Tính chất đó biểu hiện phức tạp khi họ tiếp thu thêm những giá trị văn hoá mới để hội nhập với cuộc sống hiện đại-một bước ngoặc quá lớn so với những giá trị văn hoá đã phù hợp với nền văn minh nương rẫy đã tồn tại hàng nghìn năm. Bên cạnh đó, nền văn hoá truyền thống đã ít chứa đựng những yếu tố phát triển. Với tư duy triết học thô sơ, họ cho rằng cuộc đời con người là một chu kỳ khép kín: Đất-người-ma – đất. Thế giới bên kia cũng chỉ là một cuộc sống bình thường giống như cuộc sống ở trên thế gian này. Không ước mơ về một thế giới tôn giáo, cuộc sống hiện tại của họ cũng chứa đựng những ước mơ đơn giản, trông chờ vào những thế lực siêu nhiên. Mục tiêu của cuộc sống đều thiếu một sự biện chứng bởi sức mạnh của chính bàn tay con người. Điều này đã dẫn đến phong cách sống không xem mục tiêu vật chất như một sự hối thúc. Nói đơn giản là mục tiêu làm giàu chưa trở thành một sự tự thân và do đó ý thức tích luỹ, ý thức tiết kiệm cũng chưa trở thành ý thức tự thân của mỗi thành viên.

Hai là, trong một xã hội như vậy, một nền sản xuất thấp kém như thế, các kỹ thuật được sử dụng chỉ thuần tuý là kinh nghiệm được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời trước truyền lại cho đời sau, thông qua một nền giáo dục vô thức. Gia đình là môi trường, là nhà trường của chính mỗi cá thể. Thế hệ trước là thầy của thế hệ sau. Ngay từ khi còn bé, những trẻ em chỉ biết cầm dao phát cây, cầm rìu đốn củi dưới sự hướng dẫn của người lớn. Ngoài ra, chúng còn được cha, mẹ dạy cách trồng bông, dệt vải, chăn nuôi da súc, đan lát, đi săn..Cứ như thế cuộc sống của chúng chỉ là những chuỗi ngày tháng lao động miệt mài với những công việc nương rẫy, việc nhà lặp đi lặp lại một cách thuần tuý. Lúc đó, trong đầu óc của chúng chỉ biết công việc và vui chơi chứ không có chỗ cho việc tiếp thu những kiến thức mới. Theo thời gian, những đứa trẻ giờ đây là những thanh niên khoẻ mạnh lao động cơ bắp rất tốt nhưng lao động trí óc lại rất kém, lười suy nghĩ, ít tư duy, không chịu khó tìm tòi những kiến thức mới. Vì vậy, dẫn đến tình trạng con em người đồng bào dân tộc thường hay bỏ học, bỏ trường, bỏ lớp để quay về với công việc nương rẫy quen thuộc của mình.

2.4.3. Về tổ chức quản lý

Một là, đó là sự nhận thức của các nhà lãnh đạo ở các cấp đối với vấn đề văn hoá còn nhiều khiếm khuyết và lệch lạc. Từ đó dẫn đến những chủ trương và sự chỉ đạo thực tiễn không đáp ứng và làm chủ được những biến đổi đã diễn ra. Những biểu hiện của sự yếu kém, khiếm khuyết về nhận thức tập trung ở các điểm sau: Thứ nhất, chưa nhận thức đúng vai trò và vị trí của văn hoá trong sự nghiệp phát triển của tỉnh Đắk Lắk nói chung và của dân tộc Êđê nói riêng, chỉ thấy một chiều, văn hoá là kết quả của quá trình thay đổi kinh tế-xã hội, chứ chưa thấy văn hoá, môi trường văn hoá sẽ tạo ra động lực cho sự phát triển. Từ nhận thức ấy dẫn tới việc xem nhẹ văn hoá, đầu tư cho văn hoá không đáng kể. Các chương trình đầu tư cho miền núi hầu như chưa chú ý thích đáng đến khía cạnh văn hoá; thứ hai, chưa nhận thức đầy đủ giá trị tư tưởng của văn hoá truyền thống, coi thường những phong tục tập quán của đồng bào dân tộc, dẫn tới nôn nóng cải tạo văn hoá cổ truyền , ồ ạt du nhập văn minh hiện đại vào mà không điều tra cẩn thận, không tính toán một cách thận trọng. Cho nên, cái cũ lạc hâu không xoá đi đựơc, mà cái mới cũng không thâm nhập nổi, Ở một số nơi, văn hoá mới thâm nhập được, nhưng lại sao chép mô hình lối sống người Kinh (Việt) từ trang phục, nhà cửa đến đồ dùng sinh hoạt…Các giá trị văn hoá dân tộc, các lễ hội truyền thống như lễ đâm trâu, hội mùa bị lãng quên hoặc bị mất dần, nghệ thuật dân tộc như cồng chiêng, hát dân ca bị lãng quên. Lớp trẻ xem nhẹ trường ca và múa dân gian. Đầu tư cho việc sưu tầm, kiểm kê, bảo vệ và phổ biến các giá trị văn hoá của dân tộc Êđê chưa có hệ thống, từ đó dẫn đến mơ hồ trong sự chỉ đạo, đánh giá các giá trị văn hoá, cái nào cần được bảo vệ, giữ gìn, phát huy và cái nào cần hạn chế, xoá bỏ; thứ ba, nhận thức, chỉ đạo và định hướng cho các quá trình giao lưu văn hoá còn thiếu cơ sở khoa học, lúc thì áp đặt, ngăn chặn, lúc thì quá buông lỏng, do vậy thường bị động, chưa phát huy được vai trò của giao lưu văn hoá để thúc đẩy sự phát triển văn hoá và xã hội… ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

Hai là, do tích tụ những thiếu sót, sai lầm dẫn tới những kẻ hở ngày càng “rộng lớn” trong chính sách văn hoá đã tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dễ dàng lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm chống lại những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

Có thể nhận thấy rất rõ một giai đoạn trước đây, chúng ta đã không cho đồng bào tổ chức các lễ hội, hoạt động văn hoá với lý do mê tín dị đoan, lãng phí tốn kém. Đời sống tâm linh của đồng bào có một khoảng trống. Khoảng trống đó lập tức được lấp đầy bằng đạo Tin lành, chỗ dựa tâm linh mới của đồng bào, bởi vì “Đảng đi xa, đức cha sẽ đến”. Cho đến năm 2004, qua khảo sát của Ban Tôn giáo Chính phú, ở Tây Nguyên đã có khoảng 400 ngàn người theo đạo, hiện nay có 1730/3600 buôn theo đạo Tin lành, chiếm gần 50%. Sự phục hồi Tin lành Tây Nguyên gắn với sự phục hồi phát triển của Đề Ga, Fulro. Fulro có hai tồn tại, đó là tồn tại về tổ chức và tồn tại trong tư tưởng. Thời gian gần đây, vấn đề kinh tế xã hội, đặc biệt là tác động của kinh tế thị trường và nhiều nguyên nhân khác nữa, Fulro được sự hỗ trợ và phục hồi trở lại. Các vụ gây rối tháng 04/2001 và tháng 04/2004 cho thấy rõ điều đó.

Ba là, chưa có chính sách ngôn ngữ phù hợp với điều kiện ở Đắk Lắk. Với quan niệm của chúng ta, từ trước đến nay coi tiếng Việt là quốc ngữ nên chúng ta chưa chú trọng phát triển tiếng nói và chữ viết của đồng bào dân tộc Êđê. Hầu hết ở các công sở, trường học đều dùng tiếng Việt, trong khi đó không phải tất cả mọi người dân đều biết nói, biết viết bằng tiếng Việt. Trong lĩnh vực giáo dục –đào tạo, do việc giảng dạy bằng tiếng Việt là chủ yếu, nên chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc rất thấp. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục-đào tạo tỉnh Đắk Lắk đã biên soạn sách giáo khoa song ngữ Việt –Êđê, nhưng chỉ hạn hẹp ở một số trường. Việc chưa có chính sách ngôn ngữ đúng đắn đã tạo ra sự lo âu vì bị đồng hoá.

Bốn là, chưa có biện pháp hữu hiệu để khai thác, bảo quản, giữ gìn và phát huy vốn văn hoá nghệ thuật dân gian, thậm chí nếu có một số chính sách hay hình thức hoạt động văn hoá khác được thực hiện thì đó cũng chỉ là một sự áp đặt đối với đồng bào dân tộc Êđê. Trong khi đó, nhiều giá trị văn hoá truyền thống bị mai một và có nguy cơ bị mất do nghệ nhân già khuyết dần. Những công trình buôn, làng mà tiêu biểu là nhà dài -một kiến trúc dân tộc độc đáo, một mặt, do không được tu bổ thường xuyên nên ngày càng rách nát, mặt khác do chủ trương làm “nhà dài văn hoá” xuất phát từ thiện ý muốn lồng ghép những nhân tố văn hoá ngày nay vào trong văn hoá cổ truyền. Nhiều nơi, những chủ trương này đã gây phản cảm cho đồng bào, nhưng hầu như các cán bộ lãnh đạo cơ sở không hề quan tâm đến. Còn đồng bào nể cán bộ, họ không nói, mà chỉ lẳng lặng làm một nhà dài khác và chuyển toàn bộ sinh hoạt cổ truyền sang nơi đó. Ngoài ra, khi định canh, định cư, nhà dài của đồng bào Êđê không được xây cất tử tế theo cách truyền thống đã làm mất đi vẻ đẹp của kiến trúc nhà ở miền Cao nguyên Đắk Lắk này. ( Luận văn: Giá trị văn hóa ngày lễ của Dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk )

Các hình thức hoạt động văn hoá, văn nghệ thiếu khoa học trong cách thức tổ chức, dàn dựng các tiết mục. Bởi lẽ, những “nhà”, những “chuyên gia” dàn dựng các tiết mục này phần lớn là người Kinh và hầu hết không biết tiếng Êđê và cũng không hiểu gì về phong tục, tập quán, về văn hoá của đồng bào dân tộc. Họ dàn dựng mọi tiết mục văn hoá dân tộc theo những mẫu hình mà họ được học, thực chất là những mẫu hình du nhập từ văn hoá phương Tây. Kết quả ở đâu cũng chỉ thấy có một màu văn hoá như nhau bất kể sự phong phú văn hoá của mỗi tộc người.

Năm là, công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở còn yếu kém, chưa giải thích rõ ràng cho người dân hiểu tên gọi hay khẩu hiệu của một số phong trào, từ đó dễ gây ra sự hiểu lầm và tạo ra sự phản cảm không chỉ ở người dân nói chung mà còn ở vùng đồng bào dân tộc Êđê nói riêng. Chẳng hạn, tên và danh hiệu “gia đình văn hoá”, “làng văn hoá” cũng gây thắc mắc cho đồng bào; họ không hiểu ở những gia đình, những làng chưa được công nhận “văn hoá” thì là gì?Là gia đình và làng “vô văn hoá” hay sao?; các khẩu hiệu “đưa văn hoá về cơ sở” hay “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở” cũng có thể gây phản cảm, bởi lễ người ta chỉ “đưa” hoặc “xây dựng”cái gì chưa có mà thôi, trong khi đó ở cơ sở bao giờ cũng tồn tại một truyền thống văn hoá dân tộc độc đáo…Cho nên, cần nói rõ là “đưa” văn hoá gì về cơ sở, “xây dựng” đời sống văn hoá gì ở cơ sở.

Mời bạn tham khảo thêm:

Luận văn: Giải pháp phát triển hiệu quả văn hoá dân tộc Ê Đê

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993