Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung là một bài luận văn Thạc sĩ được giảng viên đánh giá cao thuộc chuyên môn Kinh tế, chinh vì vậy nếu bạn nào lựa chọn Đề tài tương tự có thể tham khảo ngay bài luận văn dưới đây. Với tiền đề trên, luận văn đã đi sâu vào phân tích các quan điểm về khái niệm điều kiện giao dịch chung trên thế giới và Việt Nam, những ưu điểm và bất cập trong việc ứng dụng điều kiện giao dịch chung; phân tích thực tiễn ngay tại Đề tài: Một số giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam.
Nội dung chính
3.1. XU HƯỚNG SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TẠI VIỆT NAM
Hiện nay trên thế giới chưa có nghiên cứu chính thức nào về việc áp dụng điều kiện giao dịch chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi tác giả sử dụng công cụ tìm kiếm của google (google search) với từ khoá “General Terms and Conditions + +” thì có khoảng 3,7 triệu kết quả. Tuy chưa xem xét được hết nội dung các kết quả, nhưng có thể thấy phần lớn kết quả trên là điều kiện giao dịch chung của các doanh nghiệp. Điều này có thể thấy việc sử dụng điều kiện giao dịch chung đang trở nên rất phổ biến.
Ngày nay khi công nghệ đã đi vào mọi mặt của đời sống cũng như sản xuất kinh doanh thì việc giao dịch trên mạng đã được ứng dụng nhiều trong các hoạt động giao dịch kinh doanh quốc tế. Người tiêu dùng Việt Nam ngày nay đã quen với cụm từ “mua hàng qua mạng” hay các doanh nghiệp cũng đã bắt đâu tìm kiếm đối tác qua các công cụ tìm kiếm trên mạng. Một trong những đặc điểm của việc giao dịch kinh doanh trên mạng đấy là không tồn tại hoặc tồn tại rất ít việc đàm phán nội dung hợp đồng. Chúng ta có thể thấy, đa phần tại phần giao dịch (contact us) của các web bán hàng sẽ là một bản hợp đồng có sẵn các điều khoản, người tiêu dùng và đối tác chỉ còn một việc là điền thông tin của mình vào nếu đồng ý giao dịch. Đây chính là tiền đề cho việc sử dụng điều kiện giao dịch chung cho các doanh nghiệp khi muốn tìm kiếm khách hàng qua mạng.
Hội nhập – yếu tố tác động nhiều nhất đến các nét văn hoá trong kinh doanh – là một trong những nguyên nhân chính của sự ra đời những quy tắc hay những tập quán trong hoạt động kinh doanh. Khi các quy tắc, tập quán này đã được phổ biến ở nhiều quốc gia đã tạo tiền đề cho xu hướng chuyên môn hoá trong ký kết hợp đồng. Sự đồng nhất hoá các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế giữa các quốc gia, khu vực sẽ tạo nên tính ổn định trong các điều khoản được lựa chọn đưa vào bản điều kiện giao dịch chung của các doanh nghiệp. Và khi các điều khoản đã trở nên quen thuộc thì sự e ngại từ những bất cập của điều kiện giao dịch chung sẽ được giải toả. Khi đó, điều kiện giao dịch chung sẽ là giải pháp tối ưu cho việc tiết kiệm thời gian soạn thảo và đàm phán hợp đồng. ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Nếu như thời gian đầu ra đời, điều kiện giao dịch chung chủ yếu phục vụ cho các hoạt động thương mại trong ngành hàng có khối lượng lớn như lương thực thì ngày nay nó đã trở nên phổ biến hơn và đã xuất hiện không chỉ ở những hợp đồng có đối tượng hữu hình mà còn cả những hợp đồng hàng hoá vô hình. Các ngành có nhiều đối tượng khách hàng nhỏ lẻ như: ngân hàng, bảo hiểm, vận tải… lại chính là ngành sử dụng điều kiện giao dịch chung nhiều và chuyên nghiệp nhất.
Việc thiết lập những điều kiện giao dịch chung nhằm áp dụng đồng đều cho mọi khách hàng, trước tiên vì mục tiêu hợp lý hoá bán hàng. Qua đó, các bên đều có thể “tiết kiệm” được thời gian, sức lực trong đàm phán và thoả thuận. Xa hơn nữa và thực tiễn đã thừa nhận là, thông qua việc thiết lập các quy tắc bán hàng thống nhất, các nhà cung cấp cùng với các hiệp hội nghề nghiệp của mình đã phát triển nhiều chủng loại hợp đồng cụ thể mà nhà làm luật chưa hề biết tới. Điều này có ý nghĩa về nhiều phương diện:
Một là, thông qua đó, các nhà cung cấp hình thành được những “luật chơi riêng” của mình. Đây cũng là yếu tố thể hiện bản sắc và uy tín của doanh nghiệp, là điều kiện và yếu tố hình thành khả năng và cơ hội cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hai là, thông qua những điều kiện giao dịch chung, pháp luật hợp đồng sẽ được cụ thể hoá trong những chủng loại giao dịch cụ thể. Theo nghĩa đó, điều kiện giao dịch chung có chức năng mang tính điều chỉnh hành vi. Chúng được coi là sự phát triển tiếp tục những tư tưởng của nhà làm luật.
Ba là, khi được áp dụng trong một quan hệ hợp đồng, các điều kiện giao dịch chung có khả năng ngăn ngừa những rủi ro nhận thức của các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên quan đến việc giải thích hợp đồng. Bên cạnh đó, các điều kiện giao dịch chung cũng là công cụ hữu hiệu của việc phân chia rủi ro pháp lý, trách nhiệm giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
Có thể bạn quan tâm:
3.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM
3.2.1. Nâng cao nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã gia nhập vào thị trường thế giới nhiều hơn. Sản phẩm và dịch vụ mang thương hiệu Việt đang dần được khẳng định trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tích lũy nhiều hơn kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, một điểm yếu còn tồn tại trong đa phần các doanh nghiệp – mà phần thực trạng tình hình tranh chấp về điều kiện giao dịch chung đã phân tích – chính là sự yếu kém về nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế. Điểm yếu này sẽ được khắc phục hữu hiệu khi vận dụng điều kiện giao dịch chung. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi được nhận thức về điều kiện giao dịch chung và có sự quan tâm đầy đủ tới việc xây dựng các hợp đồng mẫu.
Nhìn ra nước ngoài chúng ta thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp xây dựng bản điều kiện giao dịch chung thường là các tập đoàn lớn, các hiệp hội, các liên đoàn… Trong khi đó, các doanh nghiệp của ta quá nhỏ bé so với các tập đoàn đó. Với doanh số của hoạt động xuất nhập khẩu còn thấp, các doanh nghiệp chưa chú trọng tới hoạt động nâng cao nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế cũng như kỹ thuật soạn thảo hợp đồng. Chính vì vậy, việc thu gom đầu mối, tạo nên những doanh nghiệp tương đối lớn trong hoạt động xuất nhập khẩu là điều rất cần thiết. Mặt khác, các tập đoàn lớn, các tổng công ty, các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp có thể xây dựng những bản điều kiện chung mẫu cho các doanh nghiệp trong tổ chức của mình tham khảo.
Muốn có các điều khoản trong bản điều kiện giao dịch chung phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và cơ sở vật chất của mình, các doanh nghiệp cần có sự tổng kết về nghiệp vụ. Trên cơ sở tổng kết như vậy, doanh nghiệp mới xác định được cách xử lý có lợi nhất về nghiệp vụ trong hoạt động của mình. Từ đó các điều khoản của bản điều kiện giao dịch chung mới hợp lý.
Về phương diện pháp lý, hợp đồng sử dụng điều kiện giao dịch chung là tài liệu rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Do đó, nó cần được soạn thảo cẩn thận, chặt chẽ. Muốn vậy, cần phải tập trung những người giỏi về pháp luật, thành thạo về giao dich kinh doanh để soạn thảo điều kiện giao dịch chung. Sự tập trung như vậy chỉ có thể có được do nhận thức của doanh nghiệp về tính cấp thiết của điều kiện giao dịch chung, sự nhiệt tình của các nhà khoa học giúp đỡ của các cơ quan pháp luật…
Một khi đã có đầy đủ điều kiện soạn thảo điều kiện giao dịch chung như vậy, các doanh nghiệp cần phải soạn thảo nhiều bản đề vận dụng tùy từng trường hợp cụ thể của giao dịch. Chẳng hạn:
- Về mỗi mặt hàng có thể có điều kiện giao dịch chung cho xuất khẩu và hợp đồng mẫu nhập khẩu
- Về mỗi điều kiện giao dịch lại có một bản điều kiện giao dịch chung riêng, ví dụ, có điều kiện giao dịch chung xuất khẩu theo điều kiện FOB, có điều kiện giao dịch chung xuất khẩu theo điều kiện CIF…
- Về mỗi nhóm khách hàng giao dịch lại có một bản điều kiện giao dịch riêng, ví dụ, có nhóm điều kiện giao dịch chung xuất khẩu gạo đi Đông Âu theo điều kiện FOB, có điều kiện giao dịch chung xuất khẩu gạo đi Singapore theo điều kiện CIF…
3.2.2. Khắc phục những hạn chế của điều kiện giao dịch chung ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Như đã phân tích ở Chương I, điều kiện giao dịch chung còn tồn tại khá nhiều điểm bất cấp khi doanh nghiệp sử dụng chúng. Các doanh nghiệp, khi áp dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh, bên cạnh việc phát huy các ưu điểm của điều kiện giao dịch chung còn cần phải nghiên cứu những biện pháp nhằm hạn chế điểm bất cập của nó. Dưới đây là một số ý kiến nhằm hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết vấn đề này dựa trên việc xem xét các quy định pháp lý liên quan đến điều kiện giao dịch chung của quốc tế và Việt Nam.
3.2.2.1. Gíải pháp hạn chế điểm bất cập từ góc độ pháp lý
Về vấn đề bất cân bằng thông tin, Joseph Stiglitz đặt ra vấn đề là bản thân những người có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải thiện tình trạng của mình thông qua cơ chế sàng lọc (screening). Ông đã chỉ ra rằng bên có ít thông tin hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra các điều kiện giao dịch hợp đồng khác nhau. Ví dụ điển hình là các công ty bảo hiểm thường cung cấp những loại hợp đồng bảo hiểm với các mức phí bảo hiểm khác nhau, tương ứng với mức bồi thường khác nhau. Các khách hàng sẽ tự lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp với mình, do đó tự phân hóa thành các loại khách hàng khác nhau. Những khách hàng có rủi ro thấp thường thích loại hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi ro cao lại lựa chọn hợp đồng có phí bảo hiểm cao.
Nhằm hạn chế việc lạm dụng điều khoản soạn sẵn với nội dung gây bất lợi cho các đối tác của các doanh nghiệp, pháp luật hợp đồng của Việt Nam và pháp luật hợp đồng quốc tế đã có những quy định nhằm bảo vệ cho bên được đề nghị chấp nhận điều kiện giao dịch chung. Đó là:
Ưu tiên giải thích theo hướng có lợi cho bên không soạn thảo điều kiện giao dịch chung.
Biện pháp này được nêu rõ trong Khoản 2 Điều 407 Bộ luật Dân sự: “Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó”. Khoản 1 Điều 2.20 PICC cũng thể hiện tinh thần trên: “Một điều khoản bất ngờ trong hợp đồng soạn sẵn, không được phía bên kia lường trước trong giới hạn hiểu biết của mình, sẽ không có hiệu lực, trừ khi chúng đã được phía bên kia chấp nhận một cách rõ ràng”
Có những nguyên nhân khác mà một điều khoản soạn sẵn có thể gây bất ngờ cho bên chấp nhận như sử dụng ngôn từ khó hiểu, hoặc có thể hiểu theo nhiều nghĩa, hoặc được viết bằng chữ quá nhỏ. Để xác định xem điều khoản này có phải là điều khoản gây ngạc nhiên hay không hay không, cần phải xem xét cách trình bày và cách soạn thảo những điều khoản soạn sẵn đó , dựa vào chuyên môn và kinh nghiệm, có được các thương nhân hoặc nhũng người có cùng hoàn cảnh như bên chấp nhận, sử dụng hay không … Do đó, cách dùng từ cùng một lúc có thể là khó hiểu hoặc dễ hiểu, tuỳ theo bên chấp nhận có phải là người chuyên nghiệp hay trong việc sử dụng những điều khoản được soạn sẵn hay không . ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Ví dụ 1: A – một công ty bảo hiểm hoạt động tại nước X – là công ty con của B – một công ty bảo hiểm hoạt động tại nước Y. Các điều khoản được soạn sẵn của A gồm 50 điều khoản được in bằng chữ nhỏ. Một trong các điều khoản qui định luật được áp dụng là luật của nước Y. Trừ khi điều khoản này được in đậm hoặc bằng cách nào đó để gây chú ý cho bên chấp nhận, nó không có hiệu lực vì khách hàng ở nước X không thể nào nghĩ là một hợp đồng được thực hiện hoàn toàn ở nước mình lại phải chọn luật nước ngoài làm luật điều chỉnh hợp đồng trong các điều khoản soạn sẵn.
Ví dụ 2: A – Một thương nhân trên thị trường Hamburg, thường sử dụng các điều khoản soạn sẵn trong các hợp đồng với khách hàng của mình, trong đó có điều khoản “Hamburg – Freundschaftliche Arbitrage”. Đối với khách hàng trong nước điều khoản này có nghĩa là các bên sẽ đưa tranh chấp (nếu có) ra một hội đồng trọng tài đặc biệt và thủ tục tranh chấp được xử là theo thủ tục của địa phương. Trong các hợp đồng với khách hàng nước ngoài, điều khoản này có thể bị coi là vô hiệu, cho dù bên kia đã hoàn toàn chấp nhận hợp đồng soạn sẵn này, bởi vì một người nước ngoài không thể nào hiểu rõ ý nghĩa của điều khoản này, bất kể điều khoản này đã dịch ra tiếng nước họ hay chưa
Nêu ra điều khoản này không nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng điều kiện giao dịch chung, mà nhằm mục đích khuyến khích các doanh nghiệp ở vị thế yếu hơn trên thương trường không phải quá e dè trước những điều kiện giao dịch chung do các đối tác đưa ra.
Cấm một số điều khoản vi phạm nghiêm trọng quyền của bên kia
Khoản 3 Điều 407 Bộ Luật Dân sự quy định về biện pháp này như sau: “Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. PICC không tách riêng hai biện pháp này thành 2 khoản như Điều 407 Bộ luật Dân sự Việt Nam mà cả hai biện pháp này đều thể hiện trong Điều 2.20 của PICC.
Như vậy, điều khoản có nội dung như thế nào được coi là vi phạm nghiêm trọng quyền của bên kia?
Một điều khoản có thể nằm trong bản điều kiện giao dịch chung và có thể gây ngạc nhiên cho bên chấp nhân nội dung vì nội dung của điều khoản soạn sẵn này làm cho một người bình thường, ở cùng hoàn cảnh như bên chấp nhận, khó có thể tưởng tượng là trong hợp đồng lại có điều khoản như trên. Để xác định một điều khoản có phải là bất thường hay không, một mặt cần phải xem xét điều khoản này có thường đề cập trong các điều khoản soạn sẵn trong lĩnh vực kinh doanh đó hay không. Mặt khác, cũng cần phải xét đến cả các nội dung của các cuộc đàm phán riêng giữa các bên. Ví dụ một điều khoản miễn trừ hoặc giới hạn trách nhiệm hợp đồng của bên đề nghị có thể hay không thể coi là một điều khoản “bất ngờ” và do đó có thể hay không thể làm hợp đồng vô hiệu. ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Mặt khác việc vô hiệu này còn tuỳ thuộc vào việc các điều khoản này có phổ biến trong lãnh vực kinh doanh đó hay không, và có phù hợp với cách thức mà hai bên đã đàm phán giao kết hợp đồng hay không.
Ví dụ: A – một công ty du lịch chào mời một chuyến du lịch trọn gói. Các điều kiện trong quảng cáo này làm mọi người nghĩ rằng A sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm về mọi dịch vụ trong chuyến du lịch trọn gói này. B đặt chỗ cho chuyến du lịch dựa trên các điều khoản soạn sẵn của A. Cho dù B đã chấp nhận toàn bộ các điều khoản trong hợp đồng mẫu, A không thể dựa trên các điều khoản này mà nói rằng: theo một điều khoản trong hợp đồng họ chỉ làm đại lý cho khách sạn, nên không chịu mọi trách nhiệm về việc lo chỗ ở cho khách.
Khi có mâu thuẫn giữa điều khoản soạn sẵn và không soạn sẵn, điều khoản không soạn sẵn chiếm ưu thế áp dụng
Theo định nghĩa, các điều khoản soạn sẵn có thể được một bên hay bên thứ ba soạn sẵn từ trước và được gắn liền với hợp đồng, mà không thông qua việc thảo luận giữa các bên. Vì thế, bất kỳ khi nào các bên đàm phán kỹ càng và đồng ý về một vài điều khoản cụ thể nào đó trong hợp đồng, thì đương nhiên những điều khoản đó sẽ có ưu thế áp dụng hơn so với những điều khoản được soạn sẵn, nếu như có sự mâu thuẫn về cách giải thích giữa hai loại điều khoản này, vì các điều khoản được thảo luận thường phản ánh đúng ý chí chung của các bên trong hợp đồng.
Các điều khoản được thoả thuận riêng có thể xuất hiện cùng với các điều khoản soạn sẵn trong cùng một văn bản, nhưng chúng cũng có thể được ghi trong một văn bản khác. Trong trường hợp thứ nhất, chúng có thể được dễ dàng nhận ra bằng cách được viết kiểu chữ khác so với kiểu chữ của các điều khoản được soạn sẵn. Nhưng trong trường hợp thứ hai thì rất khó phân biệt sự khác nhau giữa các điều khoản được soạn sẵn và các điều khoản không được soạn sẵn, và cũng khó xác định chính xác thứ tự ưu tiên của những văn bản khác nhau. chính vì thế các bên thường ghi một điều khoản trong hợp đồng chỉ rõ những văn bản nào là thuộc một phần hợp đồng và thứ tự ưu tiên áp dụng của chúng như thế nào.
3.2.2.2. Giải pháp hạn chế điểm bất cập từ góc độ kinh tế ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Lợi thế về mặt kinh tế của bên có điều kiện giao dịch chung là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, giành được lợi thế đó không phải là dễ dàng đối với tất cả các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế. Như đã phân tích ở trên, lợi thế này thường rơi vào các doanh nghiệp lớn, có khả năng chi phối thị trường hoặc ít nhất là chi phối đối tác.
Tuy nhiên, không phải cứ là bên yếu thế hơn thì không thể áp dụng điều kiện giao dịch chung hay mặc nhiên lúc nào cũng phải chấp nhận điều kiện của đối tác. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các kỹ năng trong giao dịch kinh doanh quốc tế để hạn chế những áp lực từ phía đối tác. Chẳng hạn, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm từ các điều kiện giao dịch chung của hợp đồng mua bán bông của doanh nghiệp Ai Cập. Điều khoản về cách xác định phẩm chất bông là điều khoản quan trọng trong hợp đồng mua bán bông, do áp lực từ phía người mua mạnh hơn về kinh tế và do sức cạnh tranh của thị trường, hợp đồng của các doanh nghiệp Ai Cập đã thu hẹp các giới hạn sai chệch phẩm chất (tới mức kém phẩm chất quy định là 1/4 đơn vị tiêu chuẩn, do trọng tài xác nhận) so với các hợp đồng của các quốc gia khác. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo lợi ích của người bán, các doanh nghiệp Ai Cập đã thu hẹp quyền của người mua bằng “biện pháp hành chính”: Người mua chỉ có thể từ chối hàng kém phẩm chất quy định là 1/4 đơn vị, nếu người mua xin trọng tài xác nhận phẩm chất trước khi dỡ hàng. Còn nếu đã dỡ hàng thì nói chung, không được từ chối hàng. Trong trường hợp hàng bị từ chối vì phẩm chất, người bán phải thay thế bằng cách gửi hàng đúng phẩm chất trong thời hạn đã quy định từ đầu.
Ví dụ trên để thấy rằng, mặc dù điều kiện giao dịch chung thường được các tập đoàn, doanh nghiệp lớn áp dụng, nhưng không có nghĩa, trong thương vụ nào cũng chỉ có một bên có tiềm lực mạnh hơn được đưa ra điều kiện giao dịch chung. Trong thực tiễn kinh doanh quốc tế, vẫn có những trường hợp các bên của hợp đồng cùng sử dụng điều kiện giao dịch chung. PICC đã có những quy định dành cho trường hợp này tại Điều 2.22: “Khi cả hai bên trong hợp đồng đều sử dụng các điều khoản soạn sẵn và đạt được thoả thuận, trừ một vài điều khoản, thì hợp đồng được giao kết trên cơ sở của những điều khoản đã thoả thuận và bất kỳ điều khoản soạn sẵn nào tương đồng về nội dung, trừ khi một bên ghi rõ trước, hoặc sau đó thông báo kịp thời cho bên kia rằng họ không có ý định ràng buộc bởi hợp đồng như vậy”. Nội dung điều này có thể hiểu:
Các bên có thể sử dụng các điều khoản được soạn sẵn khác nhau.
Một điều thường xảy ra trong các giao dịch thương mại đối với bên đề nghị giao kết khi lập bản đề nghị giao kết hợp đồng, và đối với bên chấp nhận khi chấp nhận, là việc mỗi bên đều viện dẫn các điều khoản soạn sẵn của mình. Khi các điều khoản soạn sẵn của cả bên đề nghị lẫn bên chấp nhận vẫn chưa được bên nào chấp nhận, sẽ nảy sinh vấn đề là liệu hợp đồng có được giao kết hay chưa, và nếu như hợp đồng được giao kết thì những điều khoản soạn sẵn của bên nào sẽ được coi là điều khoản hợp đồng chính thức.
“Ưu thế giữa hai hợp đồng soạn sẵn” và những quy tắc chung về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Nếu các qui tắc chung về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được áp dụng, thì sẽ không có một hợp đồng nào được giao kết, vì việc chấp nhận của một bên sẽ là một đề nghị mới, hoặc nếu cả hai bên bắt đầu thực hiện hợp đồng mà không có phản đối gì về các điều khoản soạn sẵn của nhau, thì hợp đồng đã được coi như đã được giao kết dựa trên các điều khoản, mà bên cuối cùng được nhận đến hay chuyển đến (thuyết “last shot”).
Thuyết “knock-out”
Có một ngoại lệ quy tắc chung về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là nếu như các bên đạt đến một thoả thuận chung, ngoại trừ các điều khoản được soạn sẵn của họ, thì hợp đồng được giao kết dựa trên các điều khoản chung đã được thoả thuận và bất kỳ các điều khoản được soạn sẵn nào xuất hiện chung trong cả hai văn bản (thuyết “knock-out”).
Thuyết “Last shot “có thể là thích hợp, nếu các bên ghi việc áp dụng các điều khoản soạn sẵn của họ là một điều kiện cần thiết để giao kết hợp đồng. Mặt khác, trong thực tế thường xảy ra các truờng hợp viện dẫn các điều khoản soạn sẵn của mình, ví dụ như khi trao đổi các văn bản được in sẵn và công nhận mọi điều khoản trong đó bằng việc ký vào mặt sau của văn bản, họ thường không để ý đến sự mâu thuẫn giữa các điều khoản được soạn sẵn của mình và của bên kia. Khi đó các bên không có lý do gì cho phép nghi ngờ về sự tồn tại của hợp đồng, hoặc nếu các bên đã tiến hành việc thực hiện hợp đồng, thì theo thuyết “last shot” các bên có thể cứ tiếp tục áp dụng các điều khoản được gửi đến hoặc chuyển đến lần cuối.
Ví dụ 1: A ký hợp đồng mua thiết bị của B, trong đó có ghi rõ chủng loại, giá cả, phương thức thanh toán, ngày và nơi giao nhận. Ngoài ra, A sử dụng một mẫu đặt hàng có tên “điều kiện chung khi mua hàng” được A soạn vào mặt sau của mẫu. B chấp nhận bằng cách ký tên vào mặt sau của mẫu do A soạn. Khi A định rút lui khỏi hợp đồng, A viện cớ rằng hợp đồng chưa được giao kết do hai bên chưa đạt được thoả thuận về các điều khoản soạn sẵn nào sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, vì các bên đã thoả thuận những điều khoản chủ yếu của hợp đồng, nên hợp đồng được coi là đã giao kết dựa trên những điều khoản chủ yếu và dựa trên các điều khoản do A soạn sẵn.
Như vậy theo thuyết “knock-out” A không thể từ chối việc ký kết/thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên, một bên luôn có thể loại bỏ thuyết “knock-out” bằng cách ghi rõ trước khi giao kết hợp đồng hoặc sau đó thông báo kịp thời cho bên kia rằng họ có ý định ràng buộc vào một hợp đồng không dựa trên các điều khoản soạn sẵn theo tiêu chuẩn của họ. Mặc dầu vậy, việc chỉ dẫn “rõ ràng” như đã nêu, không được phép ghi tuỳ tiện trong mọi điều khoản, nhất là các điều khoản soạn sẵn. Khi này, các điều khoản soạn sẵn thường không được coi là đã được thông báo đầy đủ cho bên kia, vì cần phải có sự nhấn mạnh về điều khoản này giữa bên đề nghị và bên chấp nhận. ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Ví dụ 2: Tương tự như ví dụ 1, nhưng chỉ khác là A khiếu nại là hợp đồng đã được giao kết dựa trên các điều khoản A đã soạn sẵn, trong đó có một điều khoản quy định rằng “việc sửa đổi những điều khoản soạn sẵn của bên chấp nhận đơn đặt hàng là không có giá trị, trừ khi được chúng tôi xác nhận bằng văn bản”. Khi này hậu quả cũng giống ví dụ 1, vì khi có một điều khoản như vậy trong các điều khoản soạn sẵn, A đã không chỉ ra một cách rõ ràng cho B rằng việc quyết định giao kết hợp đồng của A chỉ dựa vào các điều khoản soạn sẵn của A.
Ví dụ 3: Cùng ví dụ 1, chỉ khác là trong điều khoản không được A soạn sẵn (hoặc được ghi riêng theo đề nghị của A) có một câu là A chỉ có ý định giao kết hợp đồng trên cơ sở những điều khoản mà A đã soạn sẵn. Khi này, B không thể chối cãi việc hợp đồng bị giao kết dựa trên các điều khoản được soạn sẵn của A, bằng cách viện dẫn các điều khoản soạn sẵn của B vào chấp nhận giao kết hợp đồng của mình
Nếu trong trường hợp doanh nghiệp chưa đủ khả năng và điều kiện để đưa ra điều kiện giao dịch chung, thì theo PICC, doanh nghiệp sẽ được bảo vệ khi xuất hiện các điều khoản bất thường trong điều kiện giao dịch chung của đối tác.
Trên nguyên tắc, khi một bên chấp nhận các điều khoản soạn sẵn của bên kia thì sẽ bị ràng buộc bởi những điều khoản này, bất kể họ có biết nội dung chi tiết và hoàn toàn hiểu nội dung của các điều khoản đó hay không. Tuy nhiên, một ngoại lệ quan trọng mà Điều 2.20 – PICC nêu ra là: cho dù một bên chấp nhận các điều khoản soạn sẵn trong hợp đồng một cách toàn bộ, thì bên chấp nhận vẫn không bị ràng buộc bởi những điều khoản có nội dung, ngôn từ, hoặc cách diễn đạt không thể hiểu được một cách hợp lý. Nguyên nhân của ngoại lệ là nhằm tránh một bên lợi dụng những điều khoản soạn sẵn để gây bất lợi về kinh tế cho bên kia. Nếu bên kia được hiểu một cách đầy đủ thì sẽ không chấp nhận các điều khoản bất lợi đó.
Như vậy, điều kiện giao dịch chung là một tiến bộ trong kỹ thuật hợp đồng kinh doanh quốc tế, nó không chỉ thích nghi với các doanh nghiệp lớn mà sẽ phù hợp với tất cả các doanh nghiệp có quy mô khác nhau.
3.3. HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Điều kiện giao dịch chung ẩn chứa trong đó là những “quy phạm” mang tính tuỳ nghi, các khách hàng có thể thoả thuận lại hay bảo lưu. Song, một điều dễ hiểu là khi thiết kế việc phân chia rủi ro pháp lý, tác giả của các điều kiện giao dịch chung bao giờ cũng:
- Tìm cách hạn chế tính tuỳ nghi của các quy tắc, chèn ép khách hàng, dồn họ vào tình thế khó lựa chọn, hạn chế hay vi phạm nguyên tắc tự do khế ước trong giao dịch,
- Cố gắng dùng các thủ thuật pháp lý để phân chia rủi ro pháp lý và lợi ích một cách không công bằng hay không chính đáng, bất lợi cho khách hàng hay người tiêu dùng.
- Pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dich chung phải đảm bảo quyền tự do khế ước trong Bộ luật dân sự, tương thích với những quy định hiện có khác điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng ở các lĩnh vực kinh doanh đặc thù…
- Pháp luật điều chỉnh điều kiện chung phải đảm bảo sự bình đẳng tương đối của các bên trong các giao dịch tương ứng, phải bảo vệ được quyền lợi của bên khách hàng trước sự lạm dụng vị thế của mình đối với các doanh nghiệp đưa ra điều kiện giao dịch
- Phải đưa ra các biện pháp và hình thức xử lý đối với những chủ thể kinh doanh khi vi phạm các quy định điều chỉnh điều kiện giao dịch chung.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có các quy định riêng dành cho việc ban hành và áp dụng điều kiện giao dịch chung trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước xu thế chung của thế giới về việc sử dụng điều kiện giao dịch chung ngày càng nhiều như hiện nay thì việc ban hành Luật về điều kiện giao dich chung là rất cần thiết.
Việc ban hành pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dich chung phải có sự nghiên cứu toàn diện và tham khảo kinh nghiệm trong việc quy định của pháp luật về điều kiện giao dịch chung ở những nước có hệ thống pháp luật tiên tiến.
Việc ban hành pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dịch chung cần phải có ý kiến từ các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các hiệp hội kinh doanh…
KẾT LUẬN ( Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung )
Khi khái niệm “hội nhập” không còn xa lạ với xã hội hiện đại thì nền kinh tế thế giới cũng đã chấp nhận nhiều hơn những công cụ kinh doanh mới. Trong đó, điều kiện giao dịch chung là một trong những công cụ hữu hiệu của các doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo hợp đồng. Công cụ này đã được các doanh nghiệp trên thế giới khai thác hiệu quả từ thế kỷ 19 và cho tới nay cũng đã trở nên khá phổ biến đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Điều kiện giao dịch chung là sản phẩm tất yếu của quá trình chuyên nghiệp quá kỹ năng soạn thảo hợp đồng, nó đã đem lại những tính năng đáng quan tâm cho các doanh nghiệp như sự tiết kiệm về thời gian soạn thảo hợp đồng; hạn chế rủi ro do ngôn ngữ hợp đồng không chính xác, chặt chẽ; những lợi thế trong việc đưa ra nội dung hợp đồng… Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, điều kiện giao dịch chung vẫn còn những bất cập cần giải quyết khi muốn áp dụng trong hoạt động kinh doanh như: gây hạn chế quyền đàm phán hợp đồng, bất cân xứng thông tin,…
Do thời gian và tài liệu tham khảo có hạn nên luận văn chưa bao quát được toàn bộ mọi vấn đề của điều kiện giao dịch chung và chắc chắn vẫn còn thiếu sót. Để có thể phát triển mảng đề tài này sâu rộng hơn nữa, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung […]