Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung

Rate this post

Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung là một bài luận văn Thạc sĩ được giảng viên đánh giá cao thuộc chuyên môn Kinh tế, chinh vì vậy nếu bạn nào lựa chọn Đề tài tương tự có thể tham khảo ngay bài luận văn dưới đây. Với tiền đề trên, luận văn đã đi sâu vào phân tích các quan điểm về khái niệm điều kiện giao dịch chung trên thế giới và Việt Nam, những ưu điểm và bất cập trong việc ứng dụng điều kiện giao dịch chung; phân tích thực tiễn ngay tại Đề tài: Một số giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam.

Nội dung chính

LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển của các nền kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá, các hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra ngày càng sôi động. Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp ngày càng đa dạng, phức tạp đòi hỏi các doanh nghiệp phải vận dụng một cách hợp lý và chính xác các điều khoản trong hợp đồng kinh doanh quốc tế. Điều kiện giao dịch chung là một công cụ hữu hiệu đã được các doanh nghiệp trên thế giới sử dụng từ giữa thế kỷ 19 trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng. Đây là một bản điều kiện gồm các điều khoản đã được soạn sẵn do một bên hợp đồng đưa ra đề nghị phía đối tác chấp nhận.      .

Hiện nay, các văn bản pháp quy của Việt Nam chưa đề cập đến vấn đề được nêu ra ở trên một cách rõ ràng. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, khái niệm được sử dụng phổ biến là General Terms and Conditions, thuật ngữ này được dịch là Điều kiện giao dịch chung. Với mục tiêu hài hoà pháp luật về vấn đề này của Việt Nam với pháp luật của các nước, tác giả chọn sử dụng thuật ngữ “Điều kiện giao dịch chung” làm thuật ngữ chung cho toàn bộ luận văn. Và lấy đó làm chuẩn để so sánh, phân tích với những khái niệm còn đang được sử dụng chưa nhất quán ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu

Soạn thảo hợp đồng là một trong các kỹ năng mỗi doanh nghiệp đều quan tâm, đặc biệt khi tham gia vào thị trường quốc tế. Chính sự quan trọng này cũng đã dành được sự đầu tư nghiên cứu của một số tác giả trong nước. Tuy nhiên, riêng đối với việc áp dụng điều kiện giao dịch chung trong soạn thảo hợp đồng thì chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể cũng như đưa ra giải pháp toàn diện từ cấp doanh nghiệp cho đến kiến nghị chính sách chính phủ ở cấp độ luận văn thạc sỹ, đặc biệt trong chuyên ngành quản trị kinh doanh quốc tế. Vì vậy có thể nói đây là đề tài hoàn toàn mới.

3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Luận văn là:

  • Làm rõ những vấn đề cơ bản về điều kiện giao dịch chung nói chung và trong kinh kinh doanh quốc tế nói riêng, bao gồm cả việc làm rõ những ưu điểm và bất lợi trong việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong quá trình soạn thảo hợp đồng kinh doanh quốc tế.
  • Phân tích thực tiễn sử dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng điều kiện giao dịch
  • Đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy việc sử dụng điều kiện giao dịch chung cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dịch chung.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • Khái quát lý luận chung về điều kiện giao dịch chung
  • Phân tích kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hoạt động kinh doanh.
  • Đánh giá thực trạng sử dụng điều kiện giao dịch chung của Việt Nam trong hoạt động kinh doanh.
  • Đề xuất các giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là điều kiện giao dịch chung trong các kinh doanh quốc tế cũng như các quy định pháp lý điều chỉnh vấn đề này.

Đề tài được giới hạn nghiên cứu trong việc nghiên cứu thực tiễn ứng dụng, đưa ra được ưu điểm và bất cập còn tồn tại trong áp dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam. Vận dụng những kinh nghiệm của quốc tế đưa ra giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam

6. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành Luận văn, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm: phương pháp thống kê và điều tra phân tích, tổng hợp, đánh giá và tổng kết thực tiễn, phương pháp phân tích so sánh và các phương pháp nghiên cứu khoa học về kinh tế khác. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống với việc vận dung các quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới và mở cửa nền kinh tế.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm có 3 chương:

  • Chương 1: Tổng quan về điều kiện giao dịch
  • Chương 2: Thực tiễn sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hoạt động kinh doanh quốc tế.
  • Chương 3: Xu hướng và giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm:

Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG

1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Các hoạt động thương mại được hiểu là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Các hoạt động này được thực hiện dựa trên phương tiện chủ yếu và cơ bản nhất là hợp đồng. Qua nghiên cứu các quy định quốc tế và pháp luật Việt Nam, giao kết hợp đồng dựa trên một nguyên tắc rất cơ bản là nguyên tắc tự do hợp đồng.

Trong hoạt động kinh doanh trong nước và quốc tế những năm gần đây việc áp dụng một bộ phận của hợp đồng là Điều kiện giao dịch chung trở nên rất phổ biến. Điều này làm cho việc ký kết hợp đồng trở nên dễ dàng và thuận lợi cho các bên và qua đó thúc đẩy các quan hệ kinh doanh trong phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, Điều kiện giao dịch chung là các điều khoản soạn sẵn do một bên của hợp đồng đưa ra cho phía bên kia, làm cho phía bên được đề nghị chỉ có thể chấp nhận hoặc khước từ ký kết hợp đồng. Việc không thay đổi về toàn bộ nội dung làm nên tính bắt buộc áp dụng của điều kiện giao dịch chung. Liệu điều này có hạn chế tính tự do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh đã được khẳng định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về hợp đồng? Phần dưới đây của luận văn sẽ phân tích tính tự do của hợp đồng và những trường hợp ngoại lệ làm hạn chế tính tự do của hợp đồng nhưng vẫn được áp dụng phổ biến trong thực tiễn – một trong những ngoại lệ đó là Điều kiện giao dịch chung.

1.1.1. Nguyên tắc tự do hợp đồng

Pháp luật hợp đồng dựa trên nguyên tắc rất phổ quát, đó là quyền tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận của tổ chức, cá nhân. Quyền tự do khế ước này được thể hiện rất rõ trong pháp luật Việt Nam cũng như tại các quy tắc quốc tế về điều chỉnh hợp đồng thương mại.

Ví dụ, Điều 4 Bộ luật Dân sự Việt Nam: “Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận

Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.

Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.

Cũng như vậy, Điều 389 Bộ luật dân sự Việt Nam nêu: “Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:

  1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
  2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.” ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Hay trong Điều 11 Luật Thương mại cũng khẳng định: Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại

  1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền đó.
  2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”

Nguyên tắc tự do hợp đồng cũng được khẳng định trong bản “Bộ nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế ” (sau đây gọi là PICC)) do Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế (UNIDROIT) ban hành, tại Điều 1.1: “Các bên trong hợp đồng được tự do giao kết hợp đồng và qui định nội dung của hợp đồng”.

Như vậy, từ các khái niệm trên có thể khẳng định Quyền tự do hợp đồng là nguyên tắc chủ yếu trong phạm vi thương mại quốc tế

Hợp đồng kinh doanh quốc tế cũng mang đầy đủ các bản chất cơ bản của hơp đồng, nên nguyên tắc tự do hợp đồng cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng kinh doanh quốc tế. Thương nhân có quyền tự do quyết định ai là người họ sẽ bán hàng và cung cấp dịch vụ của mình và ai là người họ muốn mua hàng và nhận cung cấp dịch vụ cho mình, cũng như họ có thể tự do thoả thuận những điều khoản của từng giao dịch cụ thể. Đó là nền tảng của trật tự kinh tế quốc tế mang tính cạnh tranh và theo cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, trong thực tiễn kinh doanh quốc tế, việc áp dụng nguyên tắc trên cũng có những ngoại lệ mà theo đó, quyền tự do hợp đồng không hoàn hảo như các trường hợp phổ quát hoặc nó phải được tiếp cận dưới giác độ khác nhằm làm sáng tỏ hơn quyền tự do hợp đối với các trường hợp như độc quyền kinh doanh của Nhà nước, hợp đồng trong việc cung cấp dịch vụ công, đặc biệt là khi doanh nghiệp sử dụng điều kiện giao dịch chung. Bên cạnh đó, các chủ thể của hợp đồng là công dân của các quốc gia nên sẽ chịu sự chi phối của pháp luật các quốc gia này, đó cũng là một trong nhưng nguyên nhân làm hạn chế tính tự do của hợp đồng.

Các lĩnh vực kinh doanh có sự can thiệp sâu của Nhà nước nguyên tắc tự do hợp đồng bị hạn chế đáng kể. Về khía cạnh tự do giao kết hợp đồng với bất kỳ người nào, vì lợi ích chung, nhà nước có thể can thiệp vào một vài ngành kinh tế. Trong trường hợp đó hàng hoá chỉ có thể mua được từ một nhà cung cấp, thường là các công ty nhà nước. Những công ty này phải giao kết hợp đồng với bất kỳ ai trong xã hội có yêu cầu, trong giới hạn các hàng hóa và dịch vụ sẵn có mà không được dựa vào nguyên tắc tự do hợp đồng để từ chối.

Thông thường các nước đều có các quy định về những trường hợp đặc biệt mà các chủ thể bị hạn chế quyền tự do hợp. Các bên có quyền tự do quyết định nội dung của hợp đồng, nhưng trước hết, giới hạn của nguyên tắc này là các điều khoản các bên đưa ra không được vi phạm pháp luật.

Hơn nữa tính bắt buộc trong tư pháp lẫn công pháp đều là do nhà nước ban hành và do đó, thể hiện ý chí của nhà nước. Nhà nước có quyền hạn chế nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng thông qua các đạo luật như luật chống độc quyền, kiểm soát hàng hoá và giá cả, luật áp đặt chế độ trách nhiệm pháp lý đặc biệt hoặc ngăn cấm những điều khoản hợp đồng bất bình đẳng v.v…

1.1.2. Khái niệm điều kiện giao dịch chung ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

1.1.2.1. Khái niệm

Trong giao dịch thương mại quốc tế, điều kiện giao dịch chung (General terms and conditions) thường được hiểu là những điều khoản có tính ổn định trong hợp đồng, được sử dụng chung cho các đối tác khác nhau, do một hoặc một số chủ thể cùng ấn định nhằm đảm bảo tính thống nhất và hiệu lực chung khi ký các hợp đồng trong lĩnh vực tương ứng.

Điều kiện giao dịch chung là một bộ phận của nội dung hợp đồng đã được sử dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh nhưng hiện tại vẫn chưa có khái niệm chính thức nào về điều kiện giao dịch chung trong các văn bản pháp lý hay trong các nguyên tắc quốc tế. Với cách hiểu như trên, chúng ta có thể tìm thấy những đề cập sơ bộ về Điều kiện giao dịch chung trong các tài liệu nghiên cứu và trong các văn bản pháp luật.

Ví dụ, tại Điều 2.19 của PICC nêu:

“Điều 2.19: (Hợp đồng có các điều khoản đã được soạn sẵn)

  1. Khi một hoặc cả hai bên sử dụng các điều khoản mẫu soạn sẵn để giao kết hợp đồng, các qui định chung về giao kết hợp đồng sẽ được áp dụng theo các Điều 2.20 – Điều 22 dưới đây.
  2. Hợp đồng soạn sẵn là những hợp đồng có những điều khoản được chuẩn bị từ trước cho việc sử dụng lại nhiều lần và nhìn chung được tiến hành không qua đàm phán với phía bên kia.”

Như vậy, theo khái niệm này, điều quan trọng ở đây không phải là hợp đồng được trình bày dưới dạng nào (ví dụ hợp đồng được trình bày trong văn bản soạn riêng, hoặc hợp đồng được in sẵn, hoặc được lưu trữ trong máy tính …), hoặc do bên nào soạn thảo (một bên đối tác, hiệp hội thương mại hay nghề nghiệp ,…), hoặc số lượng những điều khoản cần thiết cấu thành hợp đồng, hoặc một vài điều khoản điển hình (điều khoản về trọng tài, hoặc điều khoản miễn trừ trách nhiệm,…). Điều quan trọng là những điều khoản này được soạn thảo trước để một bên sử dụng chung và làm nhiều lần, kể cả khi sử dụng chung cho bên kia, mà không có sự thoả thuận lại. Yêu cầu sau rõ ràng chỉ liên quan đến những điều khoản soạn sẵn, mà đối tác phải chấp nhận toàn bộ, trong khi các điều khoản khác của cùng hợp đồng có thể được thoả thuận lại giữa các bên.

Thông thường, có những nguyên tắc chung áp dụng cho việc soạn thảo mọi loại hợp đồng, cho dù các bên có ý định sử dụng các điều khoản soạn sẵn hay không. Các điều khoản soạn sẵn do một bên đề nghị sẽ có giá trị ràng buộc với bên kia, chỉ khi được bên kia chấp nhận, và điều này tuỳ thuộc vào hoàn cảnh từng vụ việc cụ thể, chẳng hạn như hai bên có thể có thể viện dẫn đến các điều khoản soạn sẵn trong hợp đồng, hoặc sự viện dẫn này có thể được các bên tự hiểu. Vì vậy, các điều khoản soạn sẵn trong hợp đồng thường có giá trị ràng buộc, khi có chữ ký của các bên nói chung; cũng như các điều khoản này phải được ghi phía trên của chữ ký và không được ghi ở phía dưới chữ ký nói riêng. Mặt khác, những điều khoản soạn sẵn trong một văn bản riêng biệt thường chỉ có giá trị ràng buộc khi bên có ý định sử dụng chúng nêu rõ vấn đề này trong hợp đồng chính. Việc sáp nhập một cách ngầm hiểu các điều khoản soạn sẵn chỉ có thể được công nhận nếu như hai bên đối tác đã có mối quan hệ từ trước và đã tạo thành một thói quen hay tập quán sử dụng các điều khoản soạn sẵn. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Ví dụ:

  1. A dự định ký một hợp đồng bảo hiểm với B toàn bộ những rủi ro về tai nạn có thể xảy ra cho các nhân viên của mình tại nơi làm việc. Hai bên đã ký một hợp đồng theo mẫu do B soạn sẵn sau khi đã điền vào chỗ trống, trong đó có ghi phí bảo hiểm và số tiền tối đa được bảo hiểm. Vì đã ký, A bị ràng buộc không chỉ bởi những thoả thuận riêng với B, mà cả những điều khoản chung của Hiệp hội các nhà bảo hiểm quốc gia – đã được in rõ trong mẫu hợp đồng bảo hiểm.
  2. A thường ký hợp đồng với khách hàng của mình trên cơ sở những điều khoản được soạn sẵn và được in trong một tài liệu riêng. Khi A lập đề nghị giao kết hợp đồng với B – một khách hàng mới, A quên không ghi rõ việc tham chiếu đến những điều khoản được soạn sẵn này. B chấp nhận đề nghị này. Các điều khoản soạn sẵn không được sáp nhập vào hợp đồng, trừ khi A có thể chứng minh rằng B biết hoặc phải biết mục đích của A là hợp đồng chỉ được ký kết khi các điều khoản soạn sẵn này được chấp nhận, ví dụ vì những điều khoản soạn sẵn này luôn được áp dụng cho những hợp đồng trước đây .
  3. A dự định mua ngũ cốc từ thị trường hàng hoá của Luân Đôn. Trong hợp đồng ký giữa A và B – người môi giới tại thị trường này – đã không nhắc đến những điều khoản soạn sẵn chung, mà thường được qui định cho các hợp đồng môi giới ký kết tại thị trường hàng hoá ở Luân Đôn. Mặc dù vậy, các điều khoản soạn sẵn này vẫn được coi như là một phần của hợp đồng, vì việc áp dụng chúng trong dạng hợp đồng này đã trở thành một tập quán.

Hiện tại pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện hành chưa có những quy định điều chỉnh riêng về Điều kiện giao dịch chung. Liên quan tới loại hợp đồng có điều khoản soạn sẵn, Bộ luật Dân sự Việt Nam đưa ra khái niệm về hợp đồng mẫu tại khoản 1 Điều 407: “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra”. Với cách quy định này, pháp luật Việt Nam mới chỉ đề cập tới hợp đồng mẫu và nội dung của nó chỉ có giá trị pháp lý nếu bên được đề nghị đã chấp nhận. Trong thực tiễn, điều kiện giao dịch chung đã được sử dụng khá phổ biến để giao kết hợp đồng, tuy nhiên chưa được điều chỉnh bởi pháp luật. Nhiều tài liệu có liên quan vẫn chỉ thừa nhận khái niệm hợp đồng mẫu trong hoạt động thương mại và không sự phân biệt giữa hợp đồng mẫu và Điều kiện giao dịch chung. Phần tiếp theo đây của luận văn xin được đề cập tới sự giống và khác nhau giữa hai khái niệm này và cách hiểu theo quan điểm quốc tế và quan điểm của pháp luật Việt Nam.

1.1.2.2. Phân biệt Điều kiện giao dịch chung với Hợp đồng mẫu ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

  • Giống nhau

Hợp đồng mẫu và Điều kiện giao dịch chung đều là những tiền đề về nội dung do một bên soạn sẵn, đưa ra làm cho việc giao kết hợp đồng trở nên dễ dàng và trở thành nội dung của hợp đồng nếu được phía bên kia chấp nhận.

  • Khác nhau

+ Về tính chất:Trong thực tiễn, hợp đồng mẫu thông thường gồm hai bộ phận: một là, những điều khoản để trống những thông tin thay đổi theo từng thương vụ (ví dụ: trị giá hợp đồng, số lượng hàng hoá, thời gian và địa điểm giao hàng…); hai là, những điều khoản được soạn sẵn đầy đủ nội dung.

Trong giai đoạn đầu của việc sử dụng những điều khoản soạn sẵn, vì mục tiêu đảm bảo lợi ích cho các thành viên của mình, các tập đoàn, hiệp hội đã đưa ra những điều kiện riêng trong hoạt động thương mại và dành cho các thành viên của mình áp dụng. Sau đó, nhằm tăng tính thuận tiện trong đàm phán, các điều khoản rời rạc này được tập hợp thành một bản các điều khoản soạn sẵn mang tính tham khảo. Khi bản các điều khoản này được soạn thảo đầy đủ hơn với những điều khoản soạn sẵn toàn bộ nội dung và những điều khoản để ngỏ để điền thông tin riêng của từng thương vụ thì hợp đồng mẫu ra đời.

Như vậy, hợp đồng mẫu ra đời trước hết nhằm mục đích tham khảo và tạo điều kiện dễ dàng cho việc giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp đã tiếp tục phát triển, cá biệt hoá các hợp đồng tham khảo này và tách phần điều khoản soạn sẵn đầy đủ nội dung thành một bản điều kiện không thay đổi qua các thương vụ, điều kiện giao dịch chung dần được hình thành. Chính vì những điều khoản được lựa chọn đưa vào bản điều kiện giao dịch chung đã được lựa chọn kỹ, ít thay đổi và được soạn thảo cẩn thận nên thường các doanh nghiệp sẽ đề nghị đối tác chấp nhận toàn bộ nội dung. Có thể nói, điều kiện giao dịch chung mới là bản mang tính bắt buộc áp dụng trong các thương vụ trong khi hợp đồng mẫu chỉ vẫn mang tính tham khảo nhiều hơn. Với cách hiểu này hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung là hai khái niệm độc lập.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 407 Bộ luật dân sự Việt Nam thì hợp đồng mẫu lại được hiểu trong phạm vi hẹp hơn. Nghĩa là hợp đồng mẫu chính là nội dung gợi ý của doanh nghiệp đưa ra trước khi các giao dịch được thực hiện. Nội dung soạn thảo sẵn sẽ không thay đổi nếu bên được đề nghị đã hoàn toàn chấp nhận. Có thể thấy, Bộ luật Dân sự chưa đề cập tới (về mặt bản chất) điều kiện giao dịch chung mà chỉ đề cập tới hợp đồng mẫu.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khái niệm điều kiện giao dịch chung được hiểu theo quan điểm phổ biến.

+ Về hình thức:

Với cách hiểu theo quan điểm quốc tế, hợp đồng mẫu gồm hai bộ phận: một là, các điều khoản để trống những thông tin thay đổi theo từng thương vụ (ví dụ: trị giá hợp đồng, số lượng hàng hoá, thời gian và địa điểm giao hàng…); hai là, các điều khoản được soạn sẵn đầy đủ nội dung, thường là các điều khoản không thay đổi qua các thương vụ (ví dụ: điều khoản về bồi thường, khiếu nại, điều khoản luật áp dụng…).

Điều kiện giao dịch chung gồm những điều khoản được soạn sẵn với đầy đủ nội dung, không thay đổi qua các thương vụ.

1.2. ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ

1.2.1. Tổng quan về điều kiện giao dịch chung ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

  • Lịch sử hình thành

Trên thị trường thế giới, các bên mua và bên bán thường có mâu thuẫn về quyền lợi. Trong một số thương vụ nếu bên bán có lợi, ắt hẳn bên mua ở vào thế bất lợi. Ngược lại, nếu bên mua có lợi, bên bán lại rơi vào thế bất lợi. Tham vọng giành giật thêm điều lợi hoặc, chí ít, bảo vệ quyền lợi cho mình đã tập hợp những doanh nghiệp có cùng lợi ích lại thành các tập đoàn. Những tập đoàn đó có thể là những tổ chức lũng đoạn như: cartel, trust, syndicat, consortium, conglomerate… cũng có thể là những tổ chức xã hội có tính chất nghề nghiệp như các hiệp hội (association), hội liên hiệp (federation). Chỉ có những doanh nghiệp nào có nhiều lợi thế, có tiềm năng dồi dào thì mới đứng độc lập trong kinh doanh quốc tế, gọi là những doanh nghiệp “ngoài rìa” (outsider).

Để bảo vệ quyền lợi của các thành viên của mình, các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn thường đưa ra những điều quy định, những cách ứng xử cho việc mua bán hàng hoá. Khoảng giữa thế kỷ 19, đó còn là những điều khoản mẫu để vận dụng vào các hợp đồng mua bán như: cơ sở của giá cả, thanh toán, điều kiện giao hàng, khiếu nại, phạt bội ước, trọng tài… Nhận thấy điều khoản mẫu chưa phải là biện pháp có tính chất tổng thể cho việc ký hợp đồng, người ta tập hợp các điều khoản này vào một văn bản có tính tổng quát hơn gọi là hợp đồng mẫu hoặc hợp đồng sử dụng những điều khoản soạn sẵn.

Thời kỳ này, các hợp đồng mẫu được các tập đoàn, hiệp hội soạn thảo để các thành viên của mình tham khảo và sử dụng. Ví dụ, Hiệp hội buôn bán ngũ cốc Luân đôn (The London Corn Trade Association) có tới trên dưới 60 loại hợp đồng mẫu; Hiệp hội đường của Luân đôn (The Sugar Association of London) cũng có hàng chục loại hợp đồng mẫu để các hội viên tuỳ ý sử dụng.

Các hợp đồng mẫu có thể được trình bày dưới dạng bản điều kiện chung của doanh nghiệp hoặc của tập đoàn kinh doanh. Đó là các bản điều kiện giao dịch chung bán hàng (General conditions of sales) hoặc điều kiện giao dịch chung mua hàng (General conditions of purchases). Các bản điều kiện giao dịch chung này có thể là những văn bản độc lập, cũng có thể là bản quy định nằm ở mặt sau của hợp đồng. Điều kiện giao dịch chung trở thành bộ phận không tách rời của hợp đồng, trong hợp đồng thường có một lời dẫn chiếu đến chúng, ví dụ như: “Theo bản điều kiện chung bán hàng kèm theo đây” (As per the herein attached General conditions of Sales).

Trong nhiều trường hợp, điều kiện giao dịch chung được các bên trong hợp đồng thoả thuận trước và trở thành bản hợp đồng khung, bao gồm những nguyên tắc căn bản và những điều quy định chung làm cơ sở cho những hợp đồng cụ thể. Những nguyên tắc này khi đã được các bên chấp nhận thì sẽ không có những thay đổi về nội dung. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

  • Lĩnh vực áp dụng

Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, các hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung chỉ được áp dụng đối với hàng nguyên liệu nông sản và khoáng sản. Đây là những mặt hàng chưa được chế biến hoặc có mức độ chế biến thấp, có khối lượng lớn, thường là những hàng đồng loại, chưa được đặc định hóa vào lúc ký kết hợp đồng.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung được áp dụng đối với hầu hết các mặt hàng có nguồn cung ổn định, kể cả những loại hàng hóa vô hình như dịch vụ tư vấn kỹ thuật, mua bán sang chế và bí quyết kỹ thuật…Tuy nhiên, lĩnh vực áp dụng phổ biến vẫn là những mặt hàng có khối lượng lớn và đối tượng khách hàng nhỏ lẻ nhiều.

1.2.2. Khả năng áp dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh quốc tế

Khi các doanh nghiệp lớn mạnh thì các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Chính sự đa dạng, phức tạp này lại ẩn chứa nhiều hơn những rủi ro đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị tốt cho các thương vụ trước khi tiến hành giao dịch; đòi hỏi các doanh nghiệp phải chuyên nghiệp hoá trong nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế. Trong đó, một mục đích quan trọng đặt ra của bên soạn thảo (thường là có thế mạnh) là làm sao xây dựng được hợp đồng hoàn hảo tránh được những rủi ro pháp lý cho mình. Thông thường, việc soạn thảo hợp đồng thương mại quốc tế yêu cầu khá nhiều kỹ năng. Người soạn thảo phải dự tính được những rủi ro sẽ xảy ra trong tương lai để có thể điều chỉnh các điều khoản cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Vai trò của hợp đồng trong các giao dịch thương mại quốc tế lại càng quan trọng; phần vì đối tác là những doanh nhân chuyên nghiệp, rất am hiểu luật trong việc giải quyết tranh chấp; phần vì các hợp đồng kinh doanh quốc tế không mặc nhiên được luật Việt Nam điều chỉnh. Từ đó có thể thấy việc làm quen với luật và tập quán quốc tế là rất cần thiết

Do điều kiện giao dịch chung là những điều khoản đã được soạn sẵn phù hợp với tiềm lực, đặc điểm và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với thực tiễn thị trường, có tính ổn định cao nên được sử dụng là công cụ rất hữu hiệu đối với mỗi doanh nghiệp.

Sự chuyên nghiệp hoá nghiệp vụ kinh doanh quốc tế ở đây không phải thành lập ra một bộ máy chuyên soạn thảo hợp đồng theo thời vụ mà tập trung nghiên cứu những biến động thị trường, nghiên cứu luật pháp, quy tắc điều chỉnh hợp đồng để đưa ra được những điều kiện giao dịch chung phù hợp với chuẩn mực quốc tế và phù hợp với doanh nghiệp.

1.3. ƯU ĐIỂM VÀ BẤT CẬP CỦA ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ

1.3.1. Ưu điểm trong ứng dụng Điều kiện giao dịch chung ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

1.3.1.1. Từ góc độ pháp lý:

Bản chất Điều kiện giao dịch chung là những nội dung được ấn định sẵn trong hợp đồng nên tính chặt chẽ, chuẩn xác trong ngôn ngữ và tính ổn định của các điều khoản là ưu điểm rõ nhất của việc ứng dụng điều kiện giao dịch chung trong hoạt động kinh doanh quốc tế.

  • Ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ chuẩn xác, chặt chẽ

Ngôn ngữ sử dụng trong các điều khoản hợp đồng là ngôn ngữ pháp lý – thương mại rất chặt chẽ và thường gây khó khăn trong việc hiểu trọn vẹn ý nghĩa của điều khoản. Muốn loại trừ sự hiểu lầm có thể xảy ra trong những vấn đề lớn, người ta thường có nhiều điều bảo lưu và nhiều điều thêm bớt, câu cú được sắp đặt một cách khác biệt so với văn phong bình thường.

Trong nội dung của Điều kiện giao dịch chung nhiều thuật ngữ thương mại được sử dụng. Những thuật ngữ này, trong nhiều trường hợp, chứa đựng những công thức để xử lý những vấn đề nghiệp vụ cụ thể. Chẳng hạn, điều kiện giao dịch chung thường dẫn chiếu tới một trong số các điều khoản trong Incoterm. Mà mỗi điều khoản của Incoterms lại quy định trách nhiệm và quyền hạn của người bán với người mua khác nhau. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần nắm vững những công thức của các điều kiện vận tải trong Incoterm để biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với hàng hoá tới đâu. Ví dụ, theo điều kiện FOB thì mọi rủi ro xảy ra đối với hàng hoá sẽ chuyển sang người mua kể từ khi hàng qua lan can tàu, hoặc theo điều kiện CIF thì người bán chịu trách nhiệm mua bảo hiểm hàng hoá và phí vận chuyển tới cảng đến.

Bản điều kiện giao dịch chung được soạn ra với mục đích ban đầu là để đảm bảo quyền lợi cho bên soạn thảo, sau khi ký kết hợp đồng thì toàn bộ nội dung sẽ có giá trị ràng buộc cả hai bên nên để có được sự hợp tác của các đối tác trong việc áp dụng thì ngôn ngữ của điều khoản đảm bảo rõ ràng, tránh gây hiểu lầm. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

  • Dự kiến các khả năng xảy ra, thuận tiện cho việc giải quyết tranh chấp

Các điều khoản của điều kiện giao dịch chung thông thường là những nội dung có tính nguyên tắc, ổn định trong các giao dịch của doanh nghiệp, ví dụ như: điều khoản về nguyên tắc giao hàng, điều khoản nguyên tắc thuê tàu, điều khoản về trường hợp bất khả kháng, điều khoản phạt vi phạm, khiếu nại… Đây thường là những điều khoản được soạn thảo dựa trên sự tổng hợp từ kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực kinh doanh của bên soạn thảo, từ các quy định của pháp luật quốc gia được lựa chọn điều chỉnh hợp đồng, từ các pháp luật và quy định quốc tế điều chỉnh hợp đồng của bên soạn thảo. Do vậy, bên soạn thảo sẽ hiểu rất rõ nội dung các điều khoản trong hợp đồng và dễ dàng dự kiến được các tình huống có thể xảy ra từ khi hợp đồng được đưa cho phía đối tác, khi hai bên thực hiện hợp đồng nếu hợp đồng được giao kết…

Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh là điều mà không doanh nghiệp nào mong muốn. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế, khi tranh chấp xẩy ra sẽ gây tốn kém về tiền bạc, thời gian cho các bên rất nhiều bởi tính phức tạp của các thủ tục giải quyết tranh chấp trong các hợp đồng mang tính quốc tế. Chính vì vậy, khi sử dụng Điều kiện giao dịch chung, doanh nghiệp có được lợi thế lựa chọn và nắm vững nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nên khi tranh chấp xảy ra ở thế chủ động hơn trong giải quyết tranh chấp.

1.3.1.2. Từ góc độ kinh tế

  • Rút ngắn thời gian đàm phán

Như đã phân tích ở trên, điều kiện giao dịch chung với ưu thế chính xác, chặt chẽ hơn sử dụng hợp đồng soạn thảo tức thời nên khi chuyển cho đối tác để đàm phán hợp đồng, việc đàm phán sẽ chỉ diễn ra trên khuôn khổ những nội mà không thuộc về điều kiện giao dịch chung, chẳng hạn như đối tượng của hợp đồng, số lượng, giá cả, địa điểm thực hiện… Đây lại là những nội dung không thay đổi qua các thương vụ nên với những đối tác quen, khi đã chấp nhận một lần sẽ là cơ sở để các thương vụ sau không mất nhiều thời gian để tìm hiểu đi đến nhất trí với những nội dung của điều kiện giao dịch chung.

Bản chất của việc xuất hiện điều kiện giao dịch chung chính là đơn giản hóa việc giao kết hợp đồng và sử dụng lợi thế trong kinh doanh của các doanh nghiệp lớn, có sức mạnh thị trường. Các doanh nghiệp lớn khi đưa ra bản điều kiện giao dịch chung thường có một lợi thế nhất định trên thị trường và gây được sức ép để phía đối tác chấp nhận vô điều kiện những điều khoản đã soạn thảo sẵn này nếu muốn thương vụ được tiến hành. Đây là một nguyên nhân chính giúp các doanh nghiệp (đặc biệt doanh nghiệp lớn soạn thảo bản điều kiện chung) tiết kiệm được thời gian đàm phán. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Cũng có những trường hợp phía bên kia đề nghị xem xét lại Điều kiện giao dịch chung. Nếu được bên đưa ra điều kiện giao dịch chung chấp thuận xem xét lại có nghĩa là họ sẵn sàng ký một hợp đồng mới không sử dụng điều kiện giao dịch chung (hiếm khi xảy ra). Những điều khoản xem xét lại thường là các điều kiện nhạy cảm dễ xảy ra tranh chấp như điều khoản vi phạm, điều khoản luật áp dụng, điều khoản bồi thường… Nhưng rõ ràng, khi xem xét lại mọi việc sẽ được tiến hành trên điều khoản đã có sẵn này nên diễn ra nhanh chóng hơn việc soạn thảo mới. Dù theo cách nào đi nữa thì thời gian đàm phán giữa hai bên đã được rút ngắn rất nhiều.

  • Giành lợi thế của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung khi ấn định nội dung của hợp đồng

Như đã phân tích ở trên, mục tiêu lớn nhất của các doanh nghiệp là lợi nhuận và để có được lợi nhuận các doanh nghiệp tìm mọi cách để giành lợi thế trên thị trường. Thương trường biến động từng ngày và khó có doanh nghiệp nào dự đoán được hết những rủi ro có thể xảy ra: rủi ro do thiên tai, rủi ro do giao hàng chậm, rủi ro chất lượng hàng hoá bị ảnh hưởng trên đường vận chuyển… Giảm thiểu tối đa các tổn thất nếu rủi ro xảy ra là điều doanh nghiệp quan tâm hàng đầu trước khi tiến hành các thương vụ. Cách ngăn chặn hiểu quả, an toàn nằm ở các điều khoản hợp đồng. Khi một doanh nghiệp đưa ra Điều kiện giao dịch chung cho phía đối tác đã hàm chứa mục tiêu giảm thiểu tối đa rủi ro cho mình. Như đã nói, nếu bên bán có lợi thì tất yếu bên mua sẽ rơi vào thế bất lợi hơn, thế nên việc có Điều kiện để đưa ra là việc mà các doanh nghiệp đều hướng tới.

1.3.2. Bất cập trong ứng dụng điều kiện giao dịch chung

Như đã nói ở trên, điều kiện giao dịch chung ban đầu ra đời nhằm phục vụ lợi ích của một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị thế thống lĩnh trên thị trường. Do vậy, ngay từ khi soạn thảo hợp đồng, sự bất cân bằng về quyền lợi giữa các bên đã hình thành tạo tiền đề cho những bất cập trong việc ứng dụng trong từng thương vụ. Phần này sẽ xem xét những bất cập trong việc ứng dụng điều kiện giao dịch chung từ góc độ pháp lý và góc độ kinh tế.

1.3.2.1. Từ góc độ pháp lý:

  • Bất cân bằng thông tin

Thông tin bất cân xứng xuất hiện khi người mua và người bán có các thông tin khác nhau. Thông tin bất cân xứng có thể xảy ra trước khi tiến hành ký kết hợp đồng. Các bên tham gia giao dịch cố tình che đậy thông tin, chẳng hạn, người mua không có thông tin xác thực, đầy đủ và kịp thời nên có quyết định bất lợi cho người mua ví dụ như không biết rõ về điều kiện bảo hành hoặc điều kiện khiếu nại về phẩm chất của hàng hóa. Như vậy, hiện tượng lựa chọn bất lợi đã cản trở việc giao dịch trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Thông tin bất cân xứng còn gây ra hiện tượng tâm lý ỉ lại sau khi hợp đồng đã được giao kết nhưng một bên có hành động che đậy thông tin mà bên kia khó lòng kiểm soát, hoặc muốn kiểm soát thì cũng phải tốn kém chi phí.

Điều kiện giao dịch chung đôi lúc cũng bị lạm dụng để thực hiện những mục đích che đậy thông tin nhằm đạt được lợi thế trên thị trường. Bên đưa ra điều kiện giao dịch chung bao giờ cũng là bên đã có sự tìm hiểu kỹ lưỡng đối với lĩnh vực mà mình kinh doanh bao gồm cả những quy định của luật pháp có liên quan. Việc lựa chọn điều khoản nào để đưa vào điều kiện giao dịch chung đã được tính toán lường trước những biến động của thị trường có thể ảnh hưởng tới các khâu của thương vụ. Bên được đề nghị chấp nhận điều kiện giao dịch chung lúc này sẽ rơi vào thế bị động và ít thông tin hơn do không trực tiếp khảo sát thị trường và soạn thảo điều khoản, do đó, rất dễ gặp tổn thất lớn nếu rủi ro xảy ra. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

  • Quyền tự do thỏa thuận hợp đồng bị hạn chế

Theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của đa số nước các nước về giao kết hợp đồng thì các chủ thể kinh doanh hoàn toàn có quyền tự do, tự nguyện, bình đẳng để xây dựng một hợp đồng giữa các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần 1, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, do những yếu tố đặc trưng của lĩnh vực cũng như phương thức kinh doanh, quyền tự do thỏa thuận hợp đồng bị hạn chế trong trường hợp áp dụng điều kiện chung.

Việc áp dụng bản điều kiện giao dịch chung đem lại sự thuận tiện cho bên soạn thảo rất nhiều, nhưng đồng thời cũng làm hạn chế quyền được tham gia thỏa thuận, đàm phán của bên không soạn thảo. Điều này thể hiện ở việc khi một bên đưa ra điều kiện giao dịch chung thì bên kia hoặc là chấp nhận toàn bộ nội dung hoặc thương vụ sẽ không được tiến hành.

Về nguyên tắc, hợp đồng chỉ được giao kết khi có sự thỏa thuận của các bên. Nhưng đứng trước một đối tác lớn, một thị trường đầy rẫy sự cạnh tranh không cho phép bên được đề nghị chấp nhận điều kiện giao dịch chung được dành quá nhiều thời gian cho việc cân nhắc có chấp nhận các điều khoản hay không.

Thêm nữa, thực tế cho thấy, khi đưa ra bản điều kiện giao dịch chung, bên soạn thảo luôn thông tin rằng điều khoản của họ dựa trên tập quán thương mại địa phương hoặc tiền lệ giao dịch. Hay họ ngụy biện sự bất bình đẳng trong quan hệ buôn bán bằng cách nêu lên mục đích tốt đẹp trong hợp đồng, ví dụ như: “Cố gắng thực hiện những tập quán mà căn cứ cơ sở là sự công bằng và sự bình đẳng” (Hợp đồng mẫu của London Conrn Trade Association). Như vậy, rõ ràng các doanh nghiệp nhỏ không có điều kiện giao dịch chung của riêng mình hay những điều khoản tham khảo trong tay, khi giao dịch sẽ phải chịu khuất phục trước áp lực của điều kiện giao dịch chung do những bạn hàng lớn đưa ra

1.3.2.2. Từ góc độ kinh tế ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Trong kinh doanh quốc tế, một vấn đề luôn luôn đặt ra đó là sự tương quan quyền lực thị trường giữa các bên giao dịch. Sự so sánh lực lượng chịu sự tác động của hai nhân tố sau:

Một là, quan hệ so sánh giữa người bán và người mua về sự tập trung vốn và tập trung tổ chức.

Hai là, quan hệ cung cầu về mặt hàng giao dịch tại thời điểm đàm phán, ký kết hợp đồng.

Nhân tố thứ hai thoạt nhìn có thể tưởng là một nhân tố khách quan, không phụ thuộc vào khả năng của các bên. Nhưng những kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng nhân tố quan hệ cung – cầu phụ thuộc khá lớn vào sự tập trung về vốn và tổ chức. Ví dụ, tập đoàn có vốn lớn có thể tung tiền ra mua nông sản vào lúc cung lớn hơn cầu để rồi bán ra vào lúc cầu lớn hơn cung. Một ví dụ khác, ngay lúc cầu lớn hơn cung, giá đang lên, nhưng vì vốn ít nhà sản xuất quy mô nhỏ vẫn phải bán sớm để thu hồi vốn. Vì vậy, trong mọi trường hợp, các tập đoàn và các doanh nghiệp lớn luôn luôn có lợi thế nhất định.

Với những lợi thế trên, lại là những người soạn thảo hợp đồng và đưa ra điều kiện giao dịch. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự phân biệt đối xử đối với bên yếu thế hơn ở bất kỳ điều khoản nào của hợp đồng.

Theo đúng pháp luật và quy tắc quốc tế thì hợp đồng chỉ được giao kết khi có sự thoả thuận của cả hai bên, nhưng nguyên tắc tự nguyện sẽ chỉ là hình thức nếu bên có lợi thế lại là bên đã có sự chuẩn bị trước với một hợp đồng có những điều kiện soạn thảo sẵn còn bên yếu thế lại chưa chuẩn bị gì.

Một ví dụ điển hình về việc lựa chọn điều khoản và soạn thảo nội dung điều khoản nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích bên soạn thảo là trường hợp của tập đoàn Sumitomo với điều kiện giao dịch chung của hợp đồng bán và hợp đồng mua không giống nhau:

  • Hợp đồng mua thì gồm có các điều khoản: Giao hàng, Thuê tàu, Giá cả, Chi phí, Trường hợp bất khả kháng, Vi phạm, Bảo đảm, Bồi thường, Những điều khoản
  • Hợp đồng bán thì gồm các điều khoản: Giao hàng, Thanh toán, Trường hợp bất khả kháng, Vi phạm, Quyền sở hữu trí tuệ, Bảo đảm khiếu nại, Hạn chế, Những điều khoản chung

Nội dung của cùng một điều khoản trong phần điều kiện giao dịch chung ở các hợp đồng có đối tượng khác nhau là khác nhau, phần lợi thế luôn thuộc về phía tập đoàn nếu phát sinh rủi ro. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Ví dụ cũng với hợp đồng bán và hợp đồng mua của Tập đoàn Sumitomo, quy định về việc khiếu nại:

  • Hợp đồng bán (điều khoản bảo đảm, khiếu nại): Bất kỳ khiếu nại nào của Bên Mua về các nội dung thực chất nào nảy sinh từ hợp đồng này hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được gửi bằng đường máy bay có bảo đảm trong vòng ba mươi (30) ngày sau khi hàng hoá đã đến cảng đến, hoặc riêng đối với những khiếu nại về việc có khuyết tật bên trong đối với hàng hoá thì trong vòng sáu mươi ngày (60) ngày kể từ khi hàng đã đến cảng đến, và khiếu nạo đó sẽ bao gồm những chi tiết đầy đủ với chứng cứ được xác nhận bởi một giám định viên được giao quyền giám định.
  • Hợp đồng mua (điều khoản vi phạm): Trong trường hợp (i) Bên bán không thực hiện bất kỳ điều khoản nào của Hợp đồng này hoặc vi phạm bất kể một điều khoản, điều kiện hay sự đảm bảo nào được diễn đạt hay ngụ ý ở đây; (ii) Bên Bán không có khả năng thanh toán những khoản nợ nói chung khi những khoản nợ này đến hạn; (iii) Bên Bán phá sản hay mất khả năng thanh toán; (iv) chỉ định người thụ thác, người trông giữ tài sản hoặc người thanh lý tài sản của Bên Bán hoặc đối với bất kỳ phần tài sản chính yếu nào của Bên Bán (Sự kiện Vi phạm). Bên Mua có thể, hoàn toàn theo sự quyết định của mình; (i) chấm dứt toàn bộ hoặc bất kể phần nào của Hợp đồng; (ii) từ chối hàng hoá; (ii) bán Hàng hoá cho Bên Bán vào thời gian và theo giá cả do Bên Mua thấy hợp lý; và (iv) mua hàng hoá ở nơi khác và đòi Bên Bán phải thanh toán bất kỳ mất mát hay tổn thất từ việc mua đó, và Bên Bán sẽ phải hoàn trả cho Bên Mua tất cả những mất mát hoặc tổn thất phát sinh trực tiếp hay gián tiếp từ Sự kiện Vi phạm đó, bao gồm nhưng không bị giới hạn bất kỳ chi phí hay chi phí ứng trước nào như trả cước khống, lợi nhuận mất đi đáng lẽ Bên Mua có được từ việc bán lại Hàng hoá và tổn thất gây ra cho bất kể khách hàng nào mua Hàng hoá từ Bên Mua.

Có thể thấy, khi đứng ở vị trí soạn thảo hợp đồng, tập đoàn đã sử dụng tối đa lợi thế của mình. Khi đứng vị trí người bán hàng, tập đoàn chỉ cho phép phía đối tác được phép khiếu nại vi phạm trong 30-60 ngày (tuỳ sự việc vi phạm) và yêu cầu phải đầy đủ chứng cứ được xác nhận bởi giám định viên. Trong khi đó, khi ở vị thế của người mua hàng, tập đoàn cho phép mình quyền quyết định tối đa đối với những sự việc vi phạm và không đề cập gì về giới hạn thời gian.

1.4. MỘT SỐ NỘI DUNG ĐIỂN HÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG

Những điều khoản trong bản Điều kiện giao dịch chung thông thường là những điều khoản về nguyên tắc, trừ trường hợp hợp đồng được thiết kế riêng cho một mặt hàng cụ thể hoặc đối tượng khách hàng nào đó của doanh nghiệp. Phần này tập trung phân tích một số điều khoản điển hình được lựa chọn trong Điều kiện giao dịch chung, cách thức soạn thảo và những lợi thế có được của việc soạn thảo sẵn đó. Dưới đây là một số nội dung cơ bản của điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa.

1.4.1. Điều khoản giao hàng ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

  • Thời gian giao hàng

Về thời hạn giao hàng, điều kiện giao dịch chung thường dẫn chiếu tới hoặc quy định giống như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế “Người bán phải giao hàng đúng vào ngày mà hợp đồng đã quy định cho việc giao hàng” hoặc “vào bất cứ thời điểm nào trong khoảng thời gian được hợp đồng ấn định”. Vì vậy, khi quy định ngày giao hàng, người bán phải giao trước 24 giờ ngày đó, còn khi quy định tháng giao hàng, người án phải tiến hành việc giao hàng vào một ngày trong tháng đó (tính từ ngày đầu đến ngày cuối cùng).

  • Thông báo giao hàng

Trong các bản điều kiện giao dịch chung, người ta thường có quy định hai lần thông báo giao hàng: Thông báo trước khi giao hàng và thông báo kết quả giao hàng.

Việc thông báo trước khi giao hàng có mục đích báo cho người mua biết về việc hàng đã sẵn sàng để giao, nhằm giúp người mua có thể thuê tàu chở hàng. Vì vậy, người bán không được làm thông báo này trước khi mình đã thực sự có khả năng giao hàng phù hợp với các điều kiện của hợp đồng.

  • Việc hoàn thành nghĩa vụ giao hàng

Việc hoàn thành nghĩa vụ giao hàng là nội dung khá được quan tâm trong điều khoản giao hàng của bản điều kiện giao dịch chung. Phần lớn các hợp đồng quy định ngày giao hàng được xác định “bằng ngày vận đơn được cấp hoặc sẽ được cấp” (As Bill of Lading dated or to be dated). Đa số các hợp đồng loại này còn quy định rằng, nếu không có bằng chứng khác thì vận đơn đường biển được công nhận là bằng chứng ngày bốc hàng lên tàu. Một số hợp đồng còn đề cao giá trị này của vận đơn bằng cách quy định rằng nếu muốn phủ nhận bằng chứng của vận đơn thì phải đưa ra bằng chứng có “khả năng thuyết phục” (conclusive). Những hợp đồng khác không công nhận những bằng chứng khác ngoài vận đơn về ngày bốc hàng. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Vì ngày của vận đơn quan trọng như thế nên để xác định thời gian hoàn thành việc giao hàng, các hợp đồng thường quy định khi nào thì ghi ngày vào vận đơn. Đa số hợp đồng ngũ cốc của London quy định vận đơn phải đề ngày hàng thực sự đã nằm trên tàu biển, các vận đơn nhận hàng để xếp không được công nhận là bằng chứng hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.

Hầu hết bản điều kiện giao dịch chung đều có một hay nhiều điều khoản cho hoãn hoặc miễn giao hàng nếu gặp những trở ngại khách quan cản trở việc giao hàng đó. Điều khoản này có thể mang tên là điều khoản “Trường hợp bất khả kháng”, điều khoản “Ngoại lệ”, điều khoản “Miễn trách”…

Thông thường, thời hạn giao hàng được hoãn trong một thời gian tương ứng với thời gian diễn biến của trở ngại cộng với thời gian khắc phục hậu quả của nó để thực hiện hợp đồng. Khi trở ngại lại kéo dài, quá một thời gian đã được quy định thì, với những điều kiện nhất định, một bên có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng.

Một số hợp đồng không quy định cụ thể thời hạn để sau đó có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp dồng, mà chỉ quy định đó là một khoảng thời gian hợp lý. Cũng có hợp đồng mà, nếu ta suy diễn từng chữ trong đó, lại không cho huỷ hợp đồng, không kể tới thời gian dài hay ngắn của sự việc trở ngại, đương sự vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.

Ngoài nguyên nhân khách quan trên đây, việc giao hàng còn phụ thuộc vào chủ quan của đương sự. Ở một vài bản điều kiện giao dịch chung, chúng ta thấy có một điều khoản đặc biệt, gọi là “điều khoản gia hạn” (extension clause), cho đương sự được quyền hoãn giao trong một vài ngày (có thể tối đã là 8 ngày), miễn là phải trả cho đối tác của mình một khoản tiền thích ứng. Như vậy, người bán có quyền lựa chọn việc giao hàng đúng hạn với việc hoãn giao hàng và chịu phạt. Nhưng khi sử dụng quyền hoãn giao hàng, người bán phải thông báo cho người mua biết.

1.4.2. Điều khoản vận tải ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Trong thương mại quốc tế, 70% thương vụ sử dụng vận tải đường biển. Theo thống kê của J.Zielenewski (Balan) thì trong số 295 hợp đồng mẫu thu thập được thì có tới 239 mẫu hợp đồng (theo CFR, CIF, DES, DDU, DDP) đều buộc người bán tổ chức chuyên chở và do khối lượng hàng lớn nên hàng thường được chở bằng tàu chuyến. Vì vậy, quy định của các hợp đồng soạn thảo sẵn cũng thường theo hướng này.

Nếu điều kiện giao dịch chung được soạn thảo cho nghiệp vụ mua hàng và quy định người bán lo việc chuyên chở thì điều khoản này quy định rằng tàu chở hàng phải có khả năng đi biển, chưa quá tuổi sử dụng (ví dụ chưa quá 15 tuổi sử dụng) hoặc được xếp hạng tốt bởi một công ty đăng kiểm có tín nhiệm. Quy định này là cần thiết cho việc bảo vệ quyền lợi của người mua vì theo Incoterms, người bán không buộc phải thuê tàu có khả năng đi biển (seaworthy vessel) mà chỉ cần thuê tàu đi biển (seagoing vessel) để chở hàng.

Tuỳ theo loại hàng hoá, nội dung điều khoản này cũng sẽ thay đổi. Ví dụ, điều kiện giao dịch chung về buôn bán gỗ cho phép hàng được xếp trên boong (on deck). Điều kiện giao dịch chung về hàng ngũ cốc cũng cho phép chở hàng trên boong, nhưng đó là hợp đồng theo điều kiện Rye terms, nghĩa là người bán phải chịu trách nhiệm về hàng bị hư hỏng vì nước biển.

1.4.3. Điều khoản giá cả và thanh toán

  • Đồng tiền của hợp đồng

Thông thường sự lựa chọn đồng tiền thuộc quyền của bên soạn thảo hợp đồng. Chính vì thế bên soạn thảo hợp đồng thường muốn tranh thủ điều kiện có lợi cho mình. Nếu đó là người bán thì đồng tiền sử dụng sẽ là đồng tiền ổn định hoặc đang lên giá. Còn nếu là người mua thì ngược lại muốn chuyển đổi nhanh chóng giá trị hợp đồng thành tài sản do đó họ muốn sử dụng đồng tiền mất giá, không ổn định.

Điều khoản bảo đảm hối đoái (Exchange Provide clause) đôi khi được các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng trong hợp đồng để bảo vệ lợi ích của họ. Hiện nay, theo những tài liệu thu thập được thì chưa có doanh nghiệp nào lựa chọn điều khoản này đưa vào Điều kiện giao dịch chung. Điều này có thể được giải thích là do sự biến động của tỷ giá hối đoái ngày nay rất nhanh chóng mà Điều kiện giao dịch chung lại được sử dụng trong một thời gian dài nên không phải lúc nào cũng đem lại lợi ích cho doanh nghiệp.

  • Giá cả của hợp đồng

Điều khoản về giá cả trong bản điều kiện giao dịch chung không phải để ghi mức giá cố định của hợp đồng mà là điều khoản quy định về đặc điểm của giá, những yếu tố tác động tới giá chính thức của hợp đồng. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Bên soạn thảo hợp đồng có rất nhiều lợi thế trong việc quy định những nguyên tắc làm thay đổi mức giá đặc biệt là trong một số ngành hàng đặc trưng. Ví dụ như một số mặt hàng (như quặng, kim loại, lương thực, thực phẩm…) giá cả được xác định theo hàm lượng của chất hữu ích trong hàng hoá mua bán. Nếu hàm lượng chất đó càng giàu thì giá cả càng cao, ngược lại chất hữu ích giảm thì giá cả giảm. Trong không ít hợp đồng, giá cả lại được xác định ngay khi ký kết, nhưng kèm theo giá đó có điều khoản về mức tăng giá khi hàng được giao có hàm lượng chất hữu ích cao hơn quy định của hợp đồng. Mức tăng giá đó gọi là tăng giá về chất lượng hàng (bonification). Ngược lại, khi hàm lượng chất hữu ích trong hàng được giao thấp hơn so với quy định mức giảm giá tương ứng gọi là giảm giá về chất lượng hàng (refaction). Trong một số hợp đồng mẫu về quặng, người mua còn đề ra những quy định bất lợi cho người bán như: Nếu hàm lượng chất hữu ích thấp hơn quy định, người bán chẳng những phải hạ giá mà còn phải hoàn lại một phần tiền cước mà người bán đã phải trả cho người vận tải. Phần cước phải hoàn lại này tương ứng với phần tạp chất vô ích đã có trong khối lượng chuyên chở.

  • Thanh toán

Nếu giao hàng là nghĩa vụ quan trọng của người bán thì thanh toán là nghĩa vụ không kém phần quan trọng của người mua. Bên cạnh điều khoản giao hàng, các bên rất chú trọng tới điều khoản thanh toán và đây cũng là điều khoản điển hình của Điều kiện giao dịch chung.

Nội dung của điều khoản này khá phong phú theo từng đối tượng của hợp đồng hoặc nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế.

Trong nghiệp vụ xuất khẩu hàng ngũ cốc, các hợp đồng thường buộc người mua trả tiền sớm, thậm chí trả tiền trước khi giao hàng (CBD – cash before delivery) hoặc trả tiền ngay khi ký hợp đồng (CWO – cash with order) hoặc trả tiền trước với ý nghĩa đặt cọc (down payment). Hay như trong lĩnh vực da sống, có hợp đồng quy định là trả ngày nhưng điều khoản trả tiền vẫn bất lợi cho người bán, ví dụ: “trả ngay vào lúc giao hàng ở cảng đến” (cash on delivery at port of destination).

Trong không ít trường hợp, hợp đồng nhập khẩu cho bên mua được quyền chọn thời hạn trả tiền trong phạm vi thời hạn quy định. Nếu trả tiền sớm, trước hạn thì người mua được hưởng một khoản giảm giá, gọi là “giảm giá trả tiền sớm” (cash discount). Cũng có những hợp đồng chỉ đề chung chung về thời hạn trả tiền: trả tiền trong thời hạn thích đáng (in due course hoặc due days) hay trả gấp (promt)… mà hợp đồng không giải thích gì thêm về thuật ngữ này. Cách quy định này dễ gây tranh cãi trong việc giải thích hợp đồng, do vậy các doanh nghiệp nên thận trọng trong việc lựa chọn cách thức này để quy định về thời hạn trả tiền. Cơ sở của việc thanh toán được quy định trên cơ sở chứng từ. Chứng từ hàng hoá làm cơ sở để thanh toán tiền hàng là vận đơn, chứng chỉ lưu kho, giấy chứng nhận phẩm chất, giấy chứng nhận số lượng, giấy chứng nhận kiểm dịch.

Phương thức thanh toán được quy định trong điều kiện giao dịch chung phổ biến nhất vẫn là phương thức tín dụng chứng từ. Một số hợp đồng quy định tiền hàng trả bằng phương thức nhờ thu, hối phiếu dùng trong phương thức này có thể không kèm chứng từ hoặc có kèm chứng từ. Phương thức ghi sổ cũng được sử dụng trong trường hợp về buôn bán đối lưu.

1.4.4. Nội dung liên quan đến luật áp dụng và giải quyết tranh chấp ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

  • Luật điều chỉnh hợp đồng

Hợp đồng dù soạn thảo đầy đủ tới đâu cũng không bao trùm được tất cả các tình tiết xảy ra, không thể quy định được tất cả những cách xử trí cụ thể cho từng trường hợp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Vì vậy, hợp đồng thường dẫn chiếu đến một nguồn luật nào đó có thể được áp dụng vào quan hệ hợp đồng.

Đa số các điều khoản luật điều chỉnh soạn sẵn là luật của nước người bán hoặc của nước người mua, cũng có trường hợp người ta quy định luật áp dụng luật của nơi ký kết hợp đồng. Nhưng nhìn chung bên soạn thảo Điều kiện chung luôn luôn muốn áp dụng luật của nước mình vào hợp đồng. Ví dụ, tại Khoản “Những điều khoản chung” của hợp đồng mua/bán của tập đoàn Sumitomo (Nhật Bản) quy định: “Về mọi khía cạnh hợp đồng này phải được điều chỉnh và giải thích phù hợp với luật của nước Nhật Bản” (This contract shall be, in all respects, governed by and construed in accordance with the laws of Japan)

  • Trường hợp bất khả kháng (Force majeure)

Trong khi thực hiện hợp đồng, một trong hai bên ký kết có thể gặp những hiện tượng khách quan khác thường, không lường trước được và không thể khắc phục được, cản trở việc thi hành nghĩa vụ hợp đồng. Những trường hợp xảy ra như thế, trong thương mại, vẫn thường gọi là trường hợp bất khả kháng (Force majeure). Ghi điều khoản trường hợp bất khả kháng vào hợp đồng, các bên ký kết có mục đích cho phép đương sự lâm vào trường hợp đó có quyền miễn hoặc hoãn thi hành nghĩa vụ hợp đồng trong một thời gian, tương ứng với thời gian xảy ra bất khả kháng, cộng với thời gian khắc phục hiện tượng đó.

Ví dụ điển hình của việc hạn chế rủi ro cũng như giành lợi thế nhờ việc đưa nội dung này vào phần điều kiện giao dịch chung là tập đoàn Sumitomo:

Với hợp đồng bán, điều khoản Bất khả kháng được quy định chi tiết: “Nếu khi thực hiện nghĩa vụ của mình, Bên Mua trực tiếp hay gián tiếp bị ảnh hưởng hoặc bị cản bởi trường hợp bất khả kháng, kể cả nhưng không bị giới hạn bởi thiên tai, lũ lụt, bão, động đất, sóng thần, sạt lở đất, hoả hoạn, bệnh dịch, hạn chế về kiểm dịch, mối nguy hiểm trên biển, chiến tranh có tuyên bố hoặc không tuyên bố, bạo động dân sự, bế quan, sự bắt giữ hay ngăn cấm của chính phủ, nhà cầm quyền hoặc nhân dân, trưng dụng tàu biển hoặc máy bay, đình công, ngăn không cho vào, sự phá hoại hoặc các tranh chấp lao động khác, sự nổ, tai nạn hoặc sự phá huỷ toàn bộ hay một phần máy móc, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển bốc dỡ, yêu cầu, chỉ dẫn, lệnh hoặc quy định của chính phủ, sự không sẵn có của phương tiện vận chuyển bốc dỡ, phá sản hoặc mất khả năng thanh toán của nhà sản xuất hoặc người cung cấp hàng hoá, hoặc bất kể nguyên nhân hay tình trạng nào khác nằm ngoài sự kiểm soát hợp lý của Bên Bán hoặc người sản xuất hoặc người cung cấp Hàng hoá, thì Bên Bán sẽ không chịu trách nhiệm đối với những mất mát hoặc tổn thất hoặc sự không thực hiện hay thực hiện chậm trễ các nghĩa vụ của mình trong Hợp đồng này và có thể, theo sự lựa chọn của mình gia hạn cho việc giao Hàng hoá hoặc chấm dứt vô điều kiện và không chịu trách nhiệm đối với phần chưa hoàn thành của Hợp đồng trong chừng mực bị ảnh hưởng hoặc cản trở như vậy” (Điều khoản bằng tiếng Anh xem tại Phụ lục 1: Sumitomo Corporation – Sales Contract) ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Tuy nhiên, tại hợp đồng mua lại chỉ quy định rất ngắn gọn: “Nếu việc thực hiện các nghĩa vụ của Bên Bán trực tiếp hay gián tiếp bị ảnh hưởng hoặc bị cản trở bởi trường hợp bất khả kháng, kể cả nhưng không bị giới hạn bởi thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh có tuyên bố hoặc không tuyên bố hoặc sự đe doạ nghiêm trọng tương tự, bạo động dân sự, đình công hoặc các tranh chấp lao động, lệnh hoặc quy định của chính phủ hay các nguyên nhân nằm bên ngoài tầm kiểm soát hợp lý của Bên Bán hoặc một (hay nhiều) khách hàng của Bên Bán thì Bên Bán sẽ không có trách nhiệm pháp lý về những mất mát hoặc tổn thất hoặc không thực hiện hoặc chậm trễ trong việc thực hiện những nghĩa vụ đã nêu trong Hợp đồng này và có thể, hoàn toàn tuỳ thuộc theo sự quyết định của mình, chấm dứt toàn bộ hay một phần nào đó của Hợp đồng này” (Điều khoản bằng tiếng Anh xem tại Phụ lục 2: Sumitomo Corporation – Purchase Contract).

Việc soạn thảo và sử dụng điều kiện giao dịch chung đã tạo ra lợi thế nhất định cho Sumitomo trong các thương vụ. Đây là một điều khoản phức tạp và khó lường những rủi ro có thể xảy ra khi áp dụng những điều khoản này. Đó chính là lý do mà các doanh nghiệp ngần ngại trong việc đưa vào soạn thảo điều khoản này, còn các doanh nghiệp khi là đối tác của Sumitomo thì lại càng khó kiểm soát được những rủi ro từ nội dung soạn thảo trên.

  • Chế tài

Nghiên cứu về Điều kiện giao dịch chung thường gặp các loại chế tài về việc không thực hiện hợp đồng. Đó là phạt, giảm giá và bồi thường thiệt hại.

Chế tài phạt được ghi ở các hợp đồng mẫu của Lục địa Châu Âu là “Phạt bội ước” (penalty) và ở các hợp dồng của Anh-Mỹ là “tiền bồi thường định trước” (liquidated damages). Mức phạt được quy định ở mỗi một hợp đồng một khác tuỳ theo mặt hàng, người soạn thảo hợp đồng mẫu và tình hình thị trường.

Chế tài giảm giá hàng được áp dụng trong trường hợp người bán giao hàng có phẩm chất kém hơn phẩm chất quy định trong hợp đồng hoặc giao hàng chậm trễ… Mức phần trăm giảm giá được quy định mỗi lúc một khác. Hợp đồng mẫu cũng có khi quy định việc bồi thường thiệt hại nếu một bên thực hiện không nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình, gây nên thiệt hại cho đối phương, chẳng hạn như chậm hoặc không giao hàng, chậm hoặc không trả tiền hàng …

  • Giải quyết tranh chấp

Đối với những tranh chấp hoặc bất đồng ý kiến, các hợp đồng có cách nhiều cách giải quyết khác nhau.

Có hợp đồng quy định việc hai bên trước hết phải thương lượng với nhau, nếu thương lượng không thành công thì tranh chấp mới được đưa ra trọng tài hoặc toà án. Ví dụ điều khoản này có thể quy định: “Mọi tranh chấp và bất đồng có thể xảy ra từ hợp đồng này hoặc có liên quan đến hợp đồng này phải được giải quyết bằng cách hữu nghị, nếu có thể. Nếu không thể giải quyết bằng cách hữu nghị, hai bên sẽ đưa ra Trọng tài tại Phòng Thương mại quốc tế tại Paris”. Có hợp đồng quy định việc giải quyết tranh chấp bằng toà án. Ví dụ điều khoản này có thể quy định: “Mọi tranh chấp và bất đồng có thể xảy ra từ hợp đồng này hoặc có liên quan đến hợp đồng này sẽ phải đưa ra và xác định bởi Toà án Anh quốc và các bên phải tuân theo quyền tài phán duy nhất của các toà án Anh” 1. ( Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung )

Như phân tích ở trên, việc lựa chọn luật điều chỉnh rất quan trọng đối với các bên tham gia hoạt động thương mại quốc tế, do vậy việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp thuộc quốc gia nào cũng có vai trò quan trọng tương tự. Nghiên cứu Điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng của các tập đoàn lớn cho thấy: hầu hết bên soạn thảo hợp đồng lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là Trọng tài hoặc Toà án của nước mình. Ví dụ: phần điều kiện giao dịch chung của Hợp đồng bán và mua Tập đoàn Sumitomo, Nhật

Bản đều quy định rằng: “Mọi tranh chấp, mâu thuẫn hoặc sự khác biệt nảy sinh từ hoặc liên quan đến Hợp đồng này hoặc sự vi phạm Hợp đồng này nếu không thể được giải quyết bởi sự nhất trí giữa các bên mà không gây nên sự chậm trễ quá mức thì sẽ được giải quyết bởi trọng tài tại Tokyo, Nhật Bản phù hợp với các quy tắc tố tụng của Hiệp hội Trọng tài Thương mại Nhật Bản…”. Hoặc phần điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bán của Tập đoàn Misubishi, Nhật Bản quy định: “Mọi đơn kiện do Bên Mua chống lại Bên Bán đều được đưa ra thụ lý tại một Toà án Nhật Bản có thẩm quyền xét xử Bên Bán, tuy nhiên, Bên Mua có thể đưa việc tranh chấp giữa mình và Bên Bán ra một cơ quan trọng tài ở Nhật Bản theo quy tắc tố tụng của Hiệp hội Trọng tài Thương mại Nhật Bản…”

Có thể thấy, khi đứng ở vị trí soạn thảo hợp đồng, doanh nghiệp sẽ lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp của nước mình. Điều này sẽ đem lại thuận lợi về ngôn ngữ trong xét xử và giải thích những luận điểm tranh chấp, thuận lợi về địa điểm, không phải tốn những chi phí sang nước khác để giải quyết tranh chấp…

Mời bạn tham khảo thêm:

Luận văn: Thực trạng hoạt động sử dụng điều kiện giao dịch chung

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng điều kiện giao dịch chung […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993