Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội nhằm thể hiện cho các bạn đọc giả thấy nhiệm vụ tất yếu xuất phát từ chức năng của tài chính Quân đội, từ yêu cầu khách quan của quá trình điều hành hoạt động của hệ thống tài chính quân đội. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính là đòi hỏi tất yếu đối với mỗi đơn vị. Tuy nhiên để có thể hoàn thiện công tác quản lý tài chính đòi hỏi phải có định hướng, giải pháp khoa học, hữu hiệu cùng với cơ chế, chính sách hợp lý và hoàn chỉnh, phù hợp với đặc thù của mỗi đơn vị. Dưới đây là Đề tài: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu Mời các bạn tham khảo.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thông qua công tác quản lý tài chính, các ngành, các đơn vị nắm được thực trạng tình hình tài chính và những thông tin cần thiết; trên cơ sở đó có những biện pháp tác động tích cực tới các đối tượng quản lý, làm cho quá trình phân phối, sử dụng các nguồn tài chính và các nguồn khác đạt hiệu quả tốt; chức năng của tài chính được thực hiện và phát huy vai trò trong thực tiễn; góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu là đơn vị dự toán quân đội đảm bảo hậu cần cho Bộ Tổng Tham mưu (BTTM) và dự bị chiến lược của Bộ Quốc phòng (BQP), có nhiệm vụ chính trị trung tâm là bảo đảm hậu cần, huấn luyện chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, nguồn tài chính bảo đảm cho đơn vị hoạt động chủ yếu do Ngân sách Nhà nước (NSNN) cấp thông qua BQP, NSNN giao và thu từ sản xuất, xây dựng kinh tế của Cục. Trong những năm qua, công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần được coi trọng, đi vào nền nếp trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, chế độ quản lý ngân sách, quản lý tài chính của Nhà nước, quy định của BQP. Hàng năm đơn vị đều được Bộ Tổng Tham mưu tặng bằng khen về “Đơn vị quản lý tài chính tốt”. Tuy nhiên trong công tác quản lý tài chính của Cục Hậu cần vẫn còn những hạn chế như: Việc xây dựng kế hoạch NS của các ngành chưa đầy đủ, chất lượng chưa cao; điều hành chi tiêu ngân sách (NS) giữa các tháng, quý chưa hợp lý, còn hiện tượng chi sai nội dung Dự toán ngân sách (DTNS), thanh quyết toán các công trình xây dựng cơ bản (XDCB) chậm, quản lý các hoạt động có thu chưa chặt chẽ, chưa phản ánh kịp thời doanh thu… làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác tài chính và việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Để góp phần khắc phục những tồn tại, hạn chế, hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Cục Hậu cần – Bộ tổng Tham mưu, tác giả đã chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng tại Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Cục Hậu cần trong giai đoạn mới đó là đáp ứng tốt nhất nhu cầu tài chính cho việc xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ quân sự và quốc phòng, quốc phòng kết hợp với kinh tế, kinh tế kết hợp với quốc phòng.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận cơ bản và thực tiễn về quản lý tài chính ở Đơn vị dự toán (ĐVDT) Quân đội;
- Khảo sát, đánh giá công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu giai đoạn 2012 – 2014;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu đến
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu được lấy số liệu khảo sát từ năm 2012 – 2014, giải pháp đến
- Về không gian: Nghiên cứu tại Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu
- Về nội dung: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu
4. Ý nghĩa khoa học và đóng góp mới của luận văn
4.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Về lý luận: Luận văn hệ thống hóa các lý luận cơ bản về quản lý tài chính ở ĐVDT Quân đội;
Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý tài chính ở Cục Hậu Cần – BTTM.
4.2. Đóng góp mới của luận văn
– Luận văn nghiên cứu, đề xuất những giải pháp pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu Cần – BTTM.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 4 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài chính ở đơn vị dự toán trong quân đội.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu giai đoạn 2012 – 2014.
- Chương 4: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu.
Có thể bạn quan tâm:
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở ĐƠN VỊ DỰ TOÁN TRONG QUÂN ĐỘI
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý tài chính ở đơn vị dự toán quân đội ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
- Tài chính, tài chính công, quản lý tài chính công
Tài chính:
Theo giáo trình Lý thuyết tài chính của Dương Đăng Chinh chủ biên (2005, tr.16 ): “Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội”.
Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Kết quả của quá trình phân phối các nguồn tài chính là sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Tài chính công:
“Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà nước tiến hành. Nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công nhằm đáp ứng cho các nhu cầu gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội, quốc phòng- an ninh trong từng giai đoạn cụ thể.” (Học viện tài chính, 2009).
Có thể vận dụng cách tiếp cận khái niệm tài chính công trên một số giác độ sau:
- Về mặt sở hữu: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công thuộc sở hữu công cộng, sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, thường gọi là sở hữu nhà nước.
- Về mục đích sử dụng: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài chính công được sử dụng vì lợi ích chung của toàn xã hội, của toàn quốc, của cả cộng đồng, vì các mục tiêu kinh tế vĩ mô, không vì mục tiêu lợi nhuận.
- Về mặt chủ thể: Các hoạt động thu, chi bằng tiền trong tài chính công do các chủ thể công tiến hành. Các chủ thể công ở đây là Nhà nước hoặc các cơ quan, tổ chức của Nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt động thu, chi đó (gọi chung là Nhà nước).
- Về mặt pháp luật: Các quan hệ tài chính công chịu sự điều chỉnh bởi các “luật công”, dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh – quyền uy. Các quan hệ tài chính công là các quan hệ kinh tế nảy sinh gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ công mà một bên của quan hệ là các chủ thể công.
Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau dựa trên các tiêu thức khác nhau có thể có các cách phân loại khác nhau về hệ thống tài chính công.
Theo chủ thể quản lý trực tiếp có thể chia tài chính công thành các bộ phận:
- + Tài chính công tổng hợp.
- + Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước.
- + Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước.
Theo nội dung quản lý có thể chia tài chính công thành các bộ phận:
- + Ngân sách Nhà nước.
- + Tín dụng Nhà nước.
- + Các quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách Nhà nước.
Quản lý tài chính công:
“Quản lý tài chính công là hoạt động của các chủ thể quản lý tài chính công thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của tài chính công nhằm đạt được các mục tiêu đã định.” (Học viện tài chính, 2009).
Đặc điểm của quản lý tài chính công
Quản lý tài chính công là sự tác động của các chủ thể quản lý tài chính công vào quá trình hoạt động của tài chính công. Để quản lý tài chính công có hiệu quả đòi hỏi phải nắm được đặc điểm của quản lý tài chính công
Đặc điểm về đối tượng quản lý tài chính công: Đối tượng của quản lý tài chính công là các hoạt động của tài chính công. Tuy nhiên, các hoạt động của tài chính công lại luôn gắn liền với các cơ quan Nhà nước – các chủ thể của tài chính công. Các cơ quan này vừa là người thụ hưởng nguồn kinh phí của tài chính công, vừa là người tổ chức các hoạt động của tài chính công. Do đó, các cơ quan này cũng trở thành đối tượng của quản lý tài chính công.
Quản lý tài chính công thực chất là quản lý các quỹ công, quản lý các hoạt động tạo lập (thu) và sử dụng (chi) các quỹ công, do đó sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý yếu tố con người với quản lý yếu tố hoạt động tài chính là đặc điểm quan trọng của quản lý tài chính công. ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Đặc điểm về việc sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý tài chính công: Trong quản lý tài chính công có thể sử dụng nhiều phương pháp quản lý khác nhau (tổ chức, hành chính, kinh tế) và nhiều công cụ quản lý khác nhau (pháp luật, các đòn bảy kinh tế, thanh tra – kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động tài chính công là luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước, nên trong quản lý tài chính công phải đặc biệt chú trọng tới các phương pháp, công cụ mang tính quyền uy, mệnh lệnh để đảm bảo tính tập trung, thống nhất. Đó là các phương pháp tổ chức, hành chính, các công cụ pháp luật, thanh tra, kiểm tra. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của quản lý tài chính công.
Đặc điểm về quản lý nội dung vật chất của tài chính công: Nội dung vật chất của tài chính công là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ thuộc sở hữu Nhà nước mà Nhà nước có thể chi phối và sử dụng trong một thời kỳ nhất định. Các nguồn tài chính đó có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản, nhưng tổng số nguồn lực tài chính đó là biểu hiện về mặt giá trị, là đại diện cho một lượng của cải vật chất của xã hội. Do đó, trong quản lý tài chính công, không những phải quản lý nguồn tài chính đang tồn tại cả dưới hình thức tiền tệ, cả dưới hình thức tài sản, mà còn phải quản lý sự vận động của tổng nguồn lực tài chính công – sự vận động về mặt giá trị – trên cơ sở tính toán để đảm bảo cân đối với sự vận động của các luồng của cải vật chất và lao động – sự vận động về mặt giá trị sử dụng – trong đời sống thực tiễn. Như vậy, kết hợp quản lý, đảm bảo tính thống nhất giữa hiện vật và giá trị, giá trị và giá trị sử dụng là một đặc điểm quan trọng khác của quản lý tài chính công.
Những nội dung cơ bản của quản lý tài chính công
Quản lý tài chính công có nội dụng đa dạng và phức tạp. Xét theo các bộ phận cấu thành các quỹ tài chính công, nội dung chủ yếu của quản lý tài chính công bao gồm: quản lý NSNN và quản lý các quỹ tài chính công ngoài NSNN.
- Quản lý Ngân sách Nhà nước
Quản lý quá trình thu của NSNN: Thu ngân sách Nhà nước được thực hiện bằng các hình thức: bắt buộc bao gồm thuế, phí, lệ phí; bán tài nguyên, tài sản quốc gia, các khoản thu trong các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước mà còn có các hình thức động viên khác như hình thức trưng thu, trưng ..
Quản lý quá trình chi của NSNN: Xét theo yếu tố thời hạn của các khoản chi NSNN, có thể hình dung nội dung cụ thể quản lý các khoản chi NSNN bao gồm:
- + Quản lý các khoản chi đầu tư phát triển
- + Quản lý các khoản chi thường xuyên
- + Quản lý các khoản chi trả nợ
- + Quản lý chi dự phòng
- Quản lý và thực hiện các biện pháp cân đối thu, chi Ngân sách Nhà nước
- + Quản lý tín dụng Nhà nước
- + Quản lý dự trữ, dự phòng tài chính của Nhà nước
- Phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước
- Quản lý các quỹ tài chính công ngoài Ngân sách Nhà nước
Tài chính quân đội ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Tài chính quân đội là một bộ phận của tài chính công, mọi hoạt động của tài chính quân đội nói chung đều phải tuân theo các nguyên tắc, chế độ, thể lệ cơ bản về kinh tế – tài chính và phụ thuộc vào khả năng tài chính của nhà nước. Song hoạt động tài chính quân đội cũng có những đặc điểm riêng, có hệ thống tổ chức hợp lý, thực hiện những nội dung nhiệm vụ cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu thắng lợi, tham gia xây dựng kinh tế và thực hiện các nhiệm vụ khác được Đảng, Nhà nước giao.
Theo Từ điển Bách khoa quân sự (2004, tr.22): “Tài chính quân đội là bộ phận của Kinh tế – Quân sự bao gồm những hoạt động quản lý và bảo đảm tài chính cho các đơn vị quân đội. Nhiệm vụ chủ yếu: Lập dự toán ngân sách, cấp phát, sử dụng và thanh quyết toán ngân sách; quản lý vốn và tài sản quân đội; tổ chức công tác kế toán, thống kê và thực hiện một số nghiệp vụ về kho bạc, ngân hàng; thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động tài chính của các ngành, các đơn vị và tổ chức kinh tế trong quân đội. Hệ thống tài chính quân đội được xây dựng theo tổ chức của quân đội, từ BQP đến đơn vị cơ sở”.
Toàn bộ các quan hệ tài chính và vốn bằng tiền do quân đội quản lý và sử dụng, chủ yếu bao gồm: Kinh phí thuộc NSNN cấp, tài chính doanh nghiệp quốc phòng, các nguồn lực tự huy động tại các cơ quan, đơn vị.
Từ những vấn đề nêu trên có thể rút ra: Tài chính quân đội là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quân đội, bảo đảm cho quân đội tham gia vào quá trình phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hình thức giá trị nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội.
Đơn vị dự toán quân đội
Theo giáo trình Tài chính dự toán quân đội ở đơn vị cơ sở của Học viện Hậu cần (2004, tr.5): “Đơn vị dự toán quân đội là những đơn vị chủ yếu làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu… được bảo đảm tài chính để thực hiện nhiệm vụ từ nguồn ngân sách chi cho quốc phòng là cơ bản”.
Theo Từ điển bách khoa quân sự (2004, tr.28): “Đơn vị dự toán là cơ quan, đơn vị trực tiếp nhận, phân phối và sử dụng các khoản tiền được cấp phát từ quỹ NSNN. Có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc lập DTNS thuộc phạm vi trách nhiệm; phân bổ DTNS cho đơn vị cấp dưới và tổ chức thực hiện DTNS được giao; tổ chức thực hiện công tác kế toán, quyết toán ngân sách của cấp mình và các đơn vị cấp dưới; hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách và xét duyệt báo cáo QTNS của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc”.
Như vậy ĐVDT trong quân đội (gọi tắt là đơn vị dự toán quân đội) là những đơn vị thụ hưởng NSNN trong quân đội, đơn vị dự toán ngân sách.
Nghị định số 10/2014/NĐ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2004 của Chính phủ quy định các ĐVDT thuộc BQP gồm:
- BQP là đơn vị dự toán cấp 1, quan hệ trực tiếp với Trung ương
- Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Tổng cục và các đơn vị tương đương là các ĐVDT cấp 2, quan hệ trực tiếp với ĐVDT cấp 1
- Sư đoàn và đơn vị tương đương là ĐVDT cấp 3, quan hệ trực tiếp với ĐVDT cấp 2. Riêng học viện, nhà trường trực thuộc Bộ là ĐVDT cấp 3, được quan hệ trực tiếp với ĐVDT cấp 1
- Trung đoàn và đơn vị tương đương là ĐVDT cấp 4, quan hệ trực tiếp với ĐVDT cấp 3. Trung đoàn độc lập là ĐVDT cấp 4, được quan hệ trực tiếp với ĐVDT cấp 2.
Các đơn vị cấp phân đội là cấp dự toán cơ sở.
- Tài chính đơn vị dự toán quân đội
Hệ thống tài chính quân đội là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quân đội, nhưng thống nhất với nhau về hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định với bộ máy quản lý tương ứng kèm theo.
Trong mỗi lĩnh vực hoạt động của quân đội có những quan hệ tài chính phát sinh tương ứng phù hợp với những lĩnh vực đó. Tổng hợp các quan hệ tài chính trong từng lĩnh vực hình thành các bộ phận tài chính trong hệ thống tài chính quân đội.
Tài chính ĐVDT là một bộ phận của hệ thống tài chính quân đội. Là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hoá các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thực hiện nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện chiến đấu, công tác, tham gia lao động sản xuất làm kinh tế, tạo nguồn thu tài chính để cải thiện, nâng cao đời sống của bộ đội và bổ sung kinh phí hoạt động.
Tài chính ĐVDT thuộc lĩnh vực tài chính công, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của quân đội và đáp ứng các nhu cầu lợi ích chung của xã hội.
Nguyên tắc cấp phát tài chính ĐVDT thực hiện phương pháp cấp phát không hoàn trả trực tiếp, bảo đảm nhu cầu chi của đơn vị, không phụ thuộc vào việc các hoạt động của đơn vị có mang lại các khoản thu cho NSNN hay không.
- Quản lý tài chính ở đơn vị dự toán quân đội
Quản lý nói chung được quan niệm như một quy trình công nghệ mà chủ thể quản lý tiến hành thông qua việc sử dụng các công cụ và phương pháp thích hợp nhằm tác động và điều khiển các đối tượng quản lý hoạt động phát triển phù hợp với quy luật khách quan và đạt tới các mục tiêu đã định.
Trong hoạt động quản lý, các vấn đề về: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, công cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý là những yếu tố trung tâm đòi hỏi phải được xác định đúng đắn.
Quản lý tài chính quân đội nói chung, quản lý tài chính ở các đơn vị dự toán nói riêng là nhiệm vụ tất yếu xuất phát từ chức năng của tài chính quân đội, từ yêu cầu khách quan của quá trình điều hành hoạt động của hệ thống tài chính quân đội, nhờ đó các chức năng của tài chính quân đội được thực hiện và phát huy vai trò trong thực tiễn, hệ thống tài chính quân đội hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp.
Trong thực tiễn, quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội gồm các hoạt động tổ chức, chỉ huy, điều hành và giám sát, đôn đốc đối với các hoạt động tài chính trong đơn vị. Thông qua công tác quản lý tài chính, các ngành, các đơn vị nắm được thực trạng tình hình hoạt động tài chính và những thông tin cần thiết; trên cơ sở đó có những biện pháp tác động tới các đối tượng quản lý, làm cho quá trình phân phối, sử dụng các nguồn tài chính và các nguồn lực khác đạt hiệu quả tốt.
Từ những vấn đề nêu trên có thể khái niệm tổng quát về quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội như sau: Quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội là hoạt động của các chủ thể quản lý tài chính ĐVDT thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của tài chính đơn vị dự toán nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Chủ thể quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội là tổng hợp: Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chỉ huy đơn vị, vai trò tham mưu và tổ chức thực hiện của cơ quan tài chính, các ngành nghiệp vụ cùng với sự tham gia quản lý tích cực, dân chủ của mọi cá nhân, tổ chức trong đơn vị.
Trong quản lý tài chính, các chủ thể nêu trên có thể sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý khác nhau như: Phương pháp tổ chức, phương pháp kinh tế, hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực tài chính quân đội, thanh tra, kiểm tra, đánh giá…
1.1.2. Đặc điểm, hoạt động của tài chính đơn vị dự toán quân đội ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
- Đặc điểm của tài chính đơn vị dự toán quân đội
Tài chính ĐVDT Quân đội là một bộ phận của tài chính quân đội, mang đặc điểm của tài chính quân đội. Được biểu hiện cụ thể ở ĐVDT trong quân đội, đó là:
- Hoạt động chủ yếu của tài chính ĐVDT trong quân đội là quản lý và sử dụng NSNN bảo đảm cho việc thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị.
Đặc điểm này đòi hỏi công tác tài chính ĐVDT phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc tiết kiệm, chấp hành nghiêm các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức; xác định nhu cầu tài chính không thể thoát ly khả năng chi của NSNN cho quốc phòng, khả năng bảo đảm của đơn vị cấp trên. Chi tiêu sử dụng ngân sách phải thực hiện đúng chỉ tiêu, nội dung DTNS được duyệt. Công tác quản lý phải tuân thủ chế độ, tiêu chuẩn, chính sách, nguyên tắc, thể lệ được quy định trong các văn bản pháp qui của Nhà nước, của quân đội. Đồng thời đánh giá hiệu quả công tác tài chính ĐVDT trong quân đội phải xuất phát từ mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ quân sự và theo mối tương quan: với một chi phí nhất định, nhiệm vụ được hoàn thành ở mức cao nhất, hoặc hoàn thành nhiệm vụ với mức chi phí thấp nhất.
- Tài chính ĐVDT Quân đội là một phạm trù kinh tế, quân sự, bị chi phối bởi các quy luật kinh tế và các quy luật chiến
Tài chính ĐVDT Quân đội trước hết chịu sự tác động của các quy luật kinh tế như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… như một tất yếu khách quan vì tài chính ĐVDT trong quân đội là một bộ phận của tài chính quân đội, thuộc hệ thống tài chính Nhà nước; là hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nhằm phục vụ cho hoạt động quân sự.
Tài chính ĐVDT trong quân đội chịu sự chi phối của các hoạt động quân sự, của quy luật chiến tranh vì tài chính ĐVDT trong quân đội phục vụ
cho hoạt động quân sự. Tính chất, đặc thù của hoạt động quân sự như: tính mệnh lệnh, tính cơ mật, quyết liệt và cơ động cao, tính đặc trưng của cơ cấu tổ chức, môi trường hoạt động đặc biệt… ảnh hưởng và chi phối một cách trực tiếp, toàn diện các mặt hoạt động tài chính trong ĐVDT trong quân đội. Hoạt động tài chính ĐVDT trong quân đội phải lấy việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự là mục tiêu hàng đầu, song không phải chi tiêu với bất cứ giá nào; tổ chức quản lý phải phù hợp với yêu cầu hoạt động quân sự và thích ứng với bảo đảm theo từng cấp chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, trong tình huống khẩn trương có thể bảo đảm vượt cấp.
- Hệ thống bảo đảm và quản lý tài chính ĐVDT quân đội được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa phân cấp theo ngành bảo đảm vật chất và theo đơn vị sử dụng từng cấp.
Quyền quản lý, sử dụng tổng hợp các nguồn tài chính trên cơ sở tuân thủ chế độ, chính sách chung của đơn vị từng cấp được thực hiện nhằm phát huy tính tích cực chủ động và trách nhiệm cụ thể của đơn vị từng cấp. ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Vai trò của các ngành bảo đảm vật chất được phát huy nhằm tăng cường tính tập trung, thống nhất trong bảo đảm và quản lý đối với phạm vi toàn quân.
Điều lệ công tác tài chính QĐNDVN quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn về công tác tài chính của chỉ huy đơn vị, thủ trưởng ngành nghiệp vụ bảo đảm vật chất và người phụ trách cơ quan tài chính các cấp tạo ra cơ sử cho sự kết hợp trong phân cấp quản lý.
Đặc điểm này ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức tổ chức và quản lý việc phân phối, cấp phát, chi tiêu sử dụng, thanh quyết toán tài chính trong đơn vị. (Cục Tài chính, 2002)
- Hoạt động của tài chính đơn vị dự toán quân đội
Hoạt động chủ yếu của tài chính ĐVDT là quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước bảo đảm cho việc thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu tài chính cho việc xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện, xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ quân sự và Quốc phòng; Quốc phòng kết hợp với kinh tế, kinh tế kết hợp với Quốc phòng. Được thể hiện cụ thể thông qua:
- Hoạt động thu (tạo lập quĩ tiền tệ tập trung)
- Ngân sách Nhà nước cấp: Đây là hoạt động tài chính chủ yếu để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung ở đơn vị, bảo đảm nhu cầu tài chính cho đời sống, sinh hoạt của bộ đội và thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Được thực hiện thông qua chu trình NSNN trong quân đội.
- Thu BHXH: BHXH, BHYT quân nhân, CNVQP phải nộp theo Luật Quỹ BHXH trong các ĐVDT quân đội được quản lý tập trung, thống nhất theo quy chế quản lý tài chính của Nhà nước, BQP và được sử dụng đúng mục đích nhằm bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHXH.
- Thu từ hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế… trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được giao, không trái với Pháp luật và Điều lệnh quản lý bộ đội, tạo nguồn thu tài chính bổ sung kinh phí cải thiện đời sống bộ đội và đóng góp một phần cho NSNN. Đơn vị phải quản lý chặt chẽ mọi khoản thu, tính toán và phản ánh kịp thời, đầy đủ các khoản thu trong quá trình sản xuất, làm kinh tế.
- Các khoản thu khác: Thu từ thanh lý, nhượng bán tài sản chuyên dùng phục vụ quốc phòng, tài sản phục vụ quản lý không còn sử dụng được, không cần dùng tại đơn vị theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Hoạt động chi (sử dụng qũy tiền tệ tập trung)
Chi từ ngân sách được giao
- + Đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần, chính sách cho bộ đội, CNVQP và lao động hợp đồng.
- + Huấn luyện, điều động kiểm tra sẵn sàng chiến đấu và thường trực chiến đấu; di chuyển quân, vận chuyển hàng quân sự.
- + Diễn tập theo kế hoạch hàng năm, đào tạo nghiên cứu khoa học, thực hiện các chương trình, đề tài, dự án.
- + Mua sắm, cải tiến, sửa chữa và bảo quản vũ khí, trang thiết bị và các phương tiện kỹ thuật.
- + Xây dựng mới, sửa chữa các công trình chiến đấu, trụ sở làm việc, doanh trại, kho tàng của đơn vị, nhà xe pháo.
- + Xây dựng, sửa chữa, cải tạo các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ trực tiếp đời sống, sinh hoạt của bộ đội.
- + Dự trữ sẵn sàng chiến đấu
- + Đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn đầu tư tập trung của NSNN
- + Chi các hoạt động khác theo quy định của pháp luật
Chi quỹ Bảo hiểm xã hội
- + Chi các chế độ bảo hiểm xã hội
- + Chi quản lý bảo hiểm xã hội
- Chi sản xuất, kinh doanh dịch vụ
- + Chi mua vật tư, công cụ dụng cụ, dịch vụ mua ngoài
- + Chi bồi dưỡng lao động
- + Chi quản lý
- Các khoản chi khác: Chi phí thanh lý nhượng bán tài sản, người có công với cách mạng, quỹ đơn vị …
1.1.3. Vai trò của tài chính đơn vị dự toán quân đội ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
- Nắm vững các nguồn tài chính, khai thác động viên mọi tiềm năng và nguồn lực, thực hiện cân đối tài chính tích cực.
- Bảo đảm tài chính đúng, đủ và kịp thời cho các nhu cầu của đơn vị phù hợp với khả năng trong từng thời kỳ.
- Thực hiện quản lý tài chính, bảo đảm cho các nguồn tài chính và các nguồn khác được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, các hoạt động tài chính được thực hiện đúng pháp luật, chế độ, chính sách.
Mời bạn tham khảo thêm:
1.1.4. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị dự toán quân đội
- Tổ chức bộ máy quản lý tài chính và phân cấp quản lý tài chính
- Tổ chức bộ máy quản lý tài chính
Cơ cấu tổ chức ngành tài chính quân đội là tổng thể các hoạt động tài chính ở từng cấp, do cơ quan chuyên trách thực hiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quân đội.
Việc xây dựng cơ cấu tổ chức tài chính quân đội phải phù hợp với tổ chức của quân đội; phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung thống nhất, một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức lực lượng vũ trang.
Hiện nay, tổ chức ngành tài chính quân đội được xây dựng theo hệ thống tổ chức của quân đội từ Bộ Quốc phòng đến đơn vị cơ sở bao gồm:
- Tài chính cấp toàn quân – cấp chiến lược
- Tài chính của các ngành, đơn vị trong đó có:
- + Tài chính khối các đơn vị dự toán
- + Tài chính khối các doanh nghiệp quân đội.
- Tài chính cấp toàn quân – cấp chiến lược
Đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Thủ trưởng Bộ Quốc phòng.
Hoạt động của tài chính cấp toàn quân chủ yếu là nghiên cứu, ban hành, hướng dẫn các chế độ, chính sách tài chính trong quân đội; thống nhất quản lý các nguồn tài chính; chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện công tác tài chính trong toàn quân; trực tiếp quan hệ với ngân sách nhà nước (ngân sách trung ương).
Cơ quan tài chính cấp toàn quân gọi là Cục Tài chính – Bộ Quốc phòng.
- Tài chính của các ngành, đơn vị khối dự toán
Đơn vị dự toán trong quân đội được chia ra như sau:
- Bộ Quốc phòng quan hệ trực tiếp với ngân sách nhà nước, được gọi là đơn vị dự toán cấp
Các quân khu, quân đoàn, các tổng cục, các quân binh chủng và tương đương là đơn vị dự toán cấp 2, trực tiếp nhận phân bổ dự toán ngân sách của Bộ Quốc phòng, phân bổ dự toán ngân sách cho đơn vị cấp 3 và cấp 4 trực thuộc, chịu trách nhiệm trước Bộ Quốc phòng về tổ chức, thực hiện công tác kế toán, quyết toán ngân sách của cấp mình và công tác kế toán, quyết toán ngân sách của các đơn vị trực thuộc; xét duyệt báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán ngân sách cấp 3 và cấp 4 trực thuộc.
Tài chính đơn vị dự toán cấp 2 là tài chính cấp chiến dịch (tài chính các quân khu, quân đoàn, các đơn vị tương đương) hoặc cấp chiến lược – chiến dịch (tài chính các tổng cục, các quân binh chủng)
Sư đoàn và tương đương là đơn vị dự toán cấp 3, trực tiếp nhận phân bổ dự toán ngân sách của đơn vị dự toán cấp 2, phân bổ dự toán ngân sách cho đơn vị dự toán cấp 4 trực thuộc, chịu trách nhiệm trước đơn vị dự toán cấp 2 về tổ chức, thực hiện công tác kế toán, quyết toán ngân sách của cấp mình và công tác kế toán, quyết toán ngân sách của các đơn vị trực thuộc; xét duyệt báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán ngân sách cấp 4 trực thuộc.
Các học viện, nhà trường trực thuộc Bộ Quốc phòng là đơn vị dự toán cấp 3 trực tiếp quan hệ với Bộ Quốc phòng về ngân sách.
Tài chính đơn vị dự toán cấp 3 là tài chính cấp chiến thuật.
- Lữ đoàn và trung đoàn là đơn vị dự toán cấp 4, trực tiếp nhận phân bổ dự toán ngân sách của đơn vị dự toán cấp 3 hoặc cấp 2, chịu trách nhiệm trước đơn vị dự toán cấp 3 hoặc cấp 2 về tổ chức, thực hiện công tác kế toán, quyết toán ngân sách của đơn vị mình.
Tài chính đơn vị dự toán cấp 4 là tài chính cấp chiến thuật.
- Các tiểu đoàn, đại đội không có ngân sách độc lập, là cấp dự toán chi tiêu và thanh quyết toán với cấp trên.
Tài chính các đơn vị này là tài chính cấp phân đội.
- Đối với cơ quan quân sự địa phương các cấp:
Cơ quan quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quan hệ với ngân sách địa phương cấp mình là đơn vị dự toán cấp 1, nhưng trong quan hệ ngân sách với Bộ Quốc phòng là đơn vị dự toán cấp 3.
Cơ quan quân sự quận, huyện trong quan hệ với ngân sách địa phương cấp mình là đơn vị dự toán cấp 1, nhưng trong quan hệ ngân sách với Bộ Quốc phòng chỉ là tài chính cấp phân đội.
Cơ quan tài chính của các đơn vị dự toán cấp 2 trở xuống tùy theo quy mô, tính chất nhiệm vụ, yêu cầu quản lý mà được tổ chức là phòng, ban…tài chính.
- Phân cấp quản lý tài chính ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Các cơ quan tài chính quân đội đều đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng và chỉ huy đơn vị cùng cấp. Cơ quan đơn vị cấp dưới chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan tài chính cấp trên. Các mối quan hệ này có tính chất khác nhau và song song tồn tại trong quá trình hoạt động của các cơ quan tài chính quân đội.
Đơn vị cấp dưới cơ sở không tổ chức cơ quan tài chính nhưng nếu được phân cấp sử dụng tài chính thì phải bố trí người chuyên trách làm công tác tài chính.
Tương ứng ở các cấp có các ngành nghiệp vụ, các ngành nghiệp vụ bảo đảm thực hiện chuyên môn nghiệp vụ theo chức năng nhiệm vụ được giao. Các ngành nghiệp vụ được thông báo DTNS, chi tiêu sử dụng kinh phí ngành và quyết toán trực tiếp với cơ quan tài chính cùng cấp. (Học viện Hậu cần, 2004)
- Quản lý chu trình ngân sách
Trong các nguồn tài chính ở ĐVDT quân đội, nguồn do NSNN cấp là nguồn cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất vì nó chiếm tỷ trọng rất lớn. Quá trình bảo đảm tài chính cho thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ yếu là cấp phát, sử dụng kinh phí được NSNN cấp thông qua hệ thống cơ cấu tổ chức tài chính quân đội đối với khối ĐVDT. Vì vậy quản lý chu trình NSNN là nội dung cơ bản trong quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội.
Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân sách dùng để chỉ toàn bộ hoạt động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho đến khi kết thúc chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách gồm ba khâu nối tiếp nhau đó là lập dự toán ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách.
- Lập dự toán ngân sách
Lập DTNS là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của chu trình quản lý ngân sách. Lập DTNS thực chất là lập kế hoạch (dự toán) các khoản thu, chi của ngân sách trong một niên độ nhất định. Một dự toán thu, chi ngân sách được lập chính xác, đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng trong việc điều hành và quản lý NS, quản lý tài chính.
– Dự toán NS năm của đơn vị được lập trên những căn cứ chủ yếu sau:
- + Phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng và phát triển quân đội của Đảng và Nhà nước; các chỉ thị và mệnh lệnh của Bộ trưởng BQP, của cấp trên và của người chỉ huy; các nhiệm vụ kế hoạch trong năm của đơn vị.
- + Tổ chức, biên chế và trang bị của đơn vị: Tổ chức, biên chế và trang bị là cơ sở để lập DTNS đồng thời là đối tượng của việc bảo đảm và quản lý tài chính.
- + Hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức và giá cả.
- + Số dự kiến giao DTNS do cơ quan có thẩm quyền thông báo và căn cứ vào mức tồn kho năm trước chuyển sang.
- + Kinh nghiệm lập DTNS và tình hình thực hiện DTNS năm trước.
- – Yêu cầu đối với dự toán ngân sách
- + Thể hiện đầy đủ các khoản thu, các khoản chi dựa trên hệ thống chế độ, chính sách và tiêu chuẩn định mức đúng đắn phù hợp với khả năng thực tiễn, không vượt số dự kiến giao DTNS được thông báo về tổng mức và chi tiết.
- + Lập theo đúng mẫu biểu, đúng thời gian quy định và chi tiết đến tiểu mục, ngành của mục lục NSNN áp dụng trong quân đội.
- + Dự toán ngân sách của ĐVDT cấp trên phải lập trên cơ sở DTNS của các đơn vị DTNS cấp dưới được phân tích theo nguồn kinh phí và lĩnh vực chi.
- + Dự toán ngân sách năm của đơn vị DTNS các cấp gửi lên cấp trên phải do thủ trưởng đơn vị ký, kèm theo báo các thuyết minh rõ cơ sở, căn cứ tính toán, phân tích so sánh với số ước thực hiện năm báo cáo và số kiểm tra.
- Nội dung lập DTNS: bao gồm dự toán thu và dự toán chi trong đó chủ yếu là dự toán chi. (Cục Tài chính, 2002)
Chấp hành ngân sách
Chấp hành ngân sách là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong DTNS thành hiện thực. Đồng thời thông qua việc chấp hành DTNS mà tiến hành công tác kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế tài chính của Nhà nước, của quân đội ở đơn vị.
Chấp hành DTNS được thực hiện thông qua các bước sau:
- Công khai DTNS: Công khai DTNS là một trong những nội dung của công khai tài chính nhằm bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của các cơ quan, đơn vị, của quân nhân, công nhân viên quốc phòng trong quá trình phân phối, quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của nhà nước và quân đội, các khoản thu tại đơn vị; thực hành có hiệu quả Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Phân bổ và giao DTNS: Sau khi nhận được DTNS đơn vị cấp trên giao, đơn vị phải tiến hành phân bổ và giao DTNS cho các ngành, các đơn vị trực thuộc.
- Cấp phát, thanh toán các khoản chi kinh phí
Cấp phát kinh phí là bước thực hiện DTNS, là việc cấp, chuyển tiền cho các ngành, các đơn vị để chi tiêu cho thực hiện các nhiệm vụ được giao cấp phát kinh phí phải bảo đảm đầy đủ, kịp thời, đúng mức cho thực hiện nhiệm vụ, đủ điều kiện chi ngân sách; phải có trọng tâm, trọng điểm và quán
triệt nguyên tắc tiết kiệm triệt để, toàn diện; phải nắm được kết quả hiệu quả chi tiêu sử dụng tài chính.
Thanh toán phải đúng nội dung, thủ tục quy định, phải trung thực, chính xác, kịp thời, chặt chẽ, phải đánh giá được hiệu quả chi tiêu.
Việc cấp phát, thanh toán chi kinh phí phải dự trên cơ sở DTNS được giao, hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhà nước, quân đội ban hành. Thông qua cấp phát, thanh toán kinh phí không những bảo đảm đủ, kịp thời nguồn kinh phí theo DTNS được giao cho thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị mà còn kiểm tra tình hình thực hiện chế độ tiêu chuẩn định mức và DTNS ở đơn vị. (Cục Tài chính, 2002)
- Quyết toán ngân sách
QTNS là việc tổng hợp, xem xét kết quả chấp hành DTNS trong một kỳ nhất định, khâu cuối cùng của qui trình quản lý ngân sách.
QTNS có vai trò rất quan trọng trong quá trình quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội. Thông qua QTNS cơ quan tài chính, chỉ huy đơn vị nắm được tình hình nhận, cấp phát, sử dụng và thanh toán các khoản kinh phí, tình hình chấp hành các chế độ, tiêu chuẩn, nguyên tắc, kỷ luật tài chính; phân tích, đánh giá chính xác kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí của từng ngành, từng đơn vị cho thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian nhất định (tháng, quý, năm). Trên cơ sở đó có biện pháp sát thực để thực hiện tốt DTNS năm tiếp theo. Đồng thời giúp cho cơ quan tài chính và chỉ huy đơn vị cấp trên nắm được tình hính quản lý ngân sách của đơn vị cấp dưới, đề ra được các chủ trương đúng, các biện pháp tích cực trong chỉ đạo thực hiện DTNS.
Quyết toán ngân sách là một chế độ cơ bản trong quản lý tài chính; thực hiện QTNS là trách nhiệm, nhiệm vụ của các đơn vị, các ngành có chi tiêu sử dụng ngân sách. ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Khi quyết toán NS phải đảm bảo đúng yêu cầu và nguên tắc QTNS như sau:
- Về yêu cầu:
- + Quyết toán phải trung thực, chính xác.
- + Quyết toán phải đầy đủ, toàn diện
- + Quyết toán phải chặt chẽ và đúng thủ tục quy định.
- + Quyết toán phải nhanh, gọn, kịnh thời.
- Về nguyên tắc:
- + Các ngành, các đơn vị có chỉ tiêu sử dụng ngân sách cho nhiệm vụ của ngành, đơn vị thì phải thực hiện QTNS.
- + Quyết toán phải dung nội dung chỉ tiêu DTNS
- + Quyết toán phải có chứng từ hợp pháp.
- + Quyết toán phải đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức đã được ban hành.
- Ở các ĐVDT quân đội, QTNS bao gồm quyết toán ngân sách tháng, quý và tổng quyết toán ngân sách năm. (Cục Tài chính, 2002)
- Trong ĐVDT quân đội các khoản kinh phí phải quản lý theo chu trình ngân bao gồm:
- Quản lý các khoản tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn
Tiền lương, phụ cấp, trợ cấp của , CNVQP; tiền ăn của HSQ-BS và ăn thêm, bù ăn quân, binh chủng cho người hưởng lương là khoản chi ngân sách theo chế độ, tiêu chuẩn và quân số được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Việc cấp phát, chi trả phải đầy đủ, kịp thời, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn.
- Tiền lương trong quân đội là một bộ phận tiền lương của Nhà nước, nhằm bù đắp những hao phí, sức lao động mà QN, CNVQP đã cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tiền lương trong quân đội được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản của chính sách tiền lương do NN quy định và có tính đến những đặc thù về lao động trong quân đội.
- Tiền ăn trong quân đội là một khoản chi của NSQP, dùng để mua lương thực, thực phẩm và chất đốt phục vụ cho việc ăn uống hàng ngày của bộ đội, nhằm tái tạo sức lao động bị hao phí trong quá trình luyện tập, công tác và chiến đấu.
Theo Điều lệ công tác tài chính QĐND Việt Nam (2007, tr.33): “Quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng thuộc biên chế đơn vị nào do đơn vị đó cấp phát tiền lương, phụ cấp. trợ cấp và bảo đảm ăn. Khi quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng được điều động đi đơn vị khác, đi học tập trung từ ba tháng trở lên; đi điều trị tại các bệnh viện, đội điều trị quân đội thì đơn vị cũ có trách nhiệm chi trả hết tháng và chuyển giấy giới thiệu cung cấp tài chính đến đơn vị mới để chi trả từ tháng tiếp theo”.
Tiền lương, phụ cấp, tiền ăn trong quân đội là nội dung chi lớn của NSQP nhằm thực hiện chính sách tiền lương của Nhà nước đối với quân đội nói chung và đối với quân nhân, CNVQP nói riêng. Việc cấp phát, chi trả phải đầy đủ, kịp thời, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn.
Tiền lương, phụ cấp được chi trả cho từng quân nhân, CNVQP bằng tiền mặt; tiền ăn của HSQ-BS; tiền ăn thêm, bù ăn quân chủng, binh chủng cho người hưởng lương, được cơ quan tài chính cơ sở cấp phát cho bếp ăn của đơn vị; những người hưởng lương khi ăn tại bếp đơn vị phải nộp tiền ăn theo quy định. Vì vậy việc quản lý chặt chẽ các khoản tiền lương, phụ cấp, tiền ăn ở đơn vị là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính và phải được sự quản lý chặt chẽ ở tất cả các khâu, bằng các biện pháp cụ thể.
- Quản lý kinh phí nghiệp vụ
Kinh phí nghiệp vụ là các khoản chi ngân sách, được bảo đảm và quản lý trên cơ sở tổ chức, biên chế, chế độ, tiêu chuẩn, định mức của NN và BQP; chức năng, nhiệm vụ về quản lý NS và phương thức bảo đảm của các ngành nghiệp vụ.
Theo chức năng, nhiệm vụ, mỗi ngành chịu trách nhiệm bảo đảm một hoặc một số mặt hoạt động. Phương thức bảo đảm cơ bản hiện nay là cấp trên bảo đảm cho cấp dưới và cấp dưới tự bảo đảm.
Kinh phí nghiệp vụ liên quan đến tất cả các ngành, các cấp; phương thức bảo đảm và quản lý đòi hỏi phải phù hợp với phương thức bảo đảm của các ngành, kết hợp bảo đảm với quản lý theo đơn vị. Từ ngành nghiệp vụ bảo đảm toàn quân xuống đến ngành nghiệp vụ cơ sở có nhiều cấp, ở từng cấp việc bảo đảm và quản lý kinh phí nghiệp vụ có mức độ khác nhau, đáp ứng yêu cầu từng mặt công tác khác nhau.
Ở các ĐVDT quân đội, kinh phí nghiệp vụ được cấp để chi tiêu, mua sắm thực hiện theo dự toán năm và kế hoạch chi quí được duyệt. Bao gồm nhiều khoản chi lớn, do nhiều ngành quản lý và sử dụng như: Chi mua sắm hàng hoá, chi huấn luyện, chi về chuyên môn nghiệp vụ, chi về tiền thưởng, phúc lợi tập thể …
Kinh phí nghiệp vụ có loại do đơn vị tự mua sắm, có loại do cấp trên thực hiện cấp phát theo phương thức cung ứng, có khoản chi vừa do đơn vị chi tiêu mua sắm, vừa do ngành nghiệp vụ cấp trên bảo đảm bằng hiện vật.
Phạm vi chi kinh phí nghiệp vụ ở các ĐVDT quân đội rất rộng, gồm nhiều nội dung, tính chất chi tiêu phức tạp. Quá trình quản lý và sử dụng kinh phí nghiệp vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Chi tiêu sử dụng kinh phí nghiệp vụ phải căn cứ vào DTNS được giao, hệ thống tiêu chuẩn định mức được cấp có thẩm quyền ban hành. Hiện nay, các tiêu chuẩn, định mức của các ngành đã được xây dựng, nhưng nhiều tiêu chuẩn định mức đã lạc hậu, chưa được bổ sung, sữa đổi; nhiều tiêu chuẩn định mức do ngân sách hạn hẹp nên được quy định ở mức thấp, chưa tính hết các yếu tố kỹ thuật trong hướng biến đổi ngày càng tiến bộ vượt bậc… Do vậy các ngành, các đơn vị cần phải nắm vững các chế độ, tiêu chuẩn, định mức để lập DTNS và quản lý chi tiêu đúng nguyên tắc chế độ, đúng nội dung chỉ tiêu dự toán được giao. Phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm triệt để, chống phô trương hình thức, sử dụng hợp lý và có hiệu quả vật tư, tài sản, tiền vốn của quân đội, của đơn vị. Mặt khác cần chủ động tích cực khai thác mọi tiềm năng về lao động, phương tiện, trang bị và khoa học công nghệ để phục vụ kịp thời các mặt hoạt động của đơn vị.
Với khối lượng lớn, phạm vi chi tiêu rộng, liên quan đến tất cả các mặt hoạt động của các ngành, các đơn vị cho nên quản lý chặt chẽ kinh phí nghiệp vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý tài chính.
- Quản lý vốn đầu tư xây dựng ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Đầu tư xây dựng là một dạng đầu tư cho tài sản vật chất dưới dạng các công trình xây dựng. Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư xây dựng được gọi là vốn đầu tư xây dựng. Nếu quy đổi ra tiền thì vốn đầu tư xây dựng là toàn bộ chi phí cho hoạt động đầu tư xây dựng.
Vốn đầu tư xây dựng bao gồm chi phí tạo ra tài sản cố định, chi phí khảo sát quy hoạch xây dựng, chi phí thiết kế, xây dựng và xây lắp, chi phí mua sắm máy móc thiết bị và các chi phí khác phát sinh trong quá trình XDCB (chi phí đền bù hoa màu, chi phí dự phòng, chi phí quản lý v.v…)
Đối với các ĐVDT, nguồn vốn đầu tư xây dựng chủ yếu hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn vốn đầu tư xây dựng thuộc NSQP thường xuyên
- Nguồn vốn đầu tư tập trung của Nhà nước.
- Nguồn vốn tự bổ sung của đơn vị
- Nguồn vốn đầu tư thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia
Quản lý tài chính vốn đầu tư và xây dựng bao gồm quản lý tài chính đối với dự án đầu tư xây dựng, quản lý chi phí đầu tư xây dựng thông qua các khâu: Dự toán vốn đầu tư, cấp phát, thanh toán vốn đầu tư, thẩm định và quyết toán vốn đầu tư.
Quản lý vốn đầu tư và xây dựng trong ĐVDT quân đội phải tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, về quản lý ngân sách và các quy định khác có liên quan đến BQP.
- Quản lý các khoản chi chính sách xã hội
Chính sách xã hội thực hiện đối với QN, CNVQP là một bộ phận trong hệ thống chính sách xã hội chung của NN, nhằm bảo đảm quyền lợi vật chất, tinh thần cho quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng khi đang công tác, khi nghỉ công tác hay chuyển ra ngoài quân đội. Sự đãi ngộ quy định của chính sách xã hội phù hợp với sự cống hiến của mỗi quân nhân, CNVQP trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ở các ĐVDT quân đội các khoản chi chính sách xã hội bao gồm:
- Chi thực hiện chế độ BHXH đối với quân nhân, CNVQP đang làm việc, công tác tại đơn vị, thuộc biên chế của đơn vị. Theo quy định, các chế độ BHXH.
- Chi thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng như: Chính sách đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; chính sách đối với anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang; chính sách đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc…
- Trợ cấp phục viên đối với quân nhân là sỹ quan, QNCN thôi phục vụ tại ngũ không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí hoặc không chuyển ngành
- Trợ cấp đối với HSQ-BS xuất ngũ
- Trợ cấp thôi việc đối với CNVQP thôi việc
Quản lý các khoản chi chính sách xã hội ở đơn vị phải chấp hành nghiêm những qui định về lập dự toán, cấp phát, thanh quyết toán. Chi các khoản về chính sách xã hội phải đúng nội dung, đúng đối tượng và chính sách chế độ, tiêu chuẩn.
Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất theo quy chế quản lý tài chính của Nhà nước, BQP và được sử dụng đúng mục đích nhằm bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHXH.
Các khoản thu, chi BHXH phải được phản ánh đầy đủ, chính xác, trung thực trong sổ kế toán. Các đơn vị không được tự đặt ra các khoản thu, chi bảo hiểm xã hội và sử dụng quỹ BHXH trái với quy định của Pháp luật
Sau mỗi quý và hết năm các đơn vị lập báo cáo quyết toán các khoản chi chính sách xã hội, báo cáo quyết toán thu, chi BHXH đúng qui định về thời gian, mẫu biểu gửi đơn vị cấp trên xét duyệt và tổng hợp quyết toán theo trình tự từ cấp cơ sở lên đến BQP (qua Cục Tài chính – BQP) Cục Tài chính trình Bộ phê duyệt để báo cáo Nhà nước.
- Quản lý tài chính đối với hoạt động có thu
Trong quá trình sản xuất, làm kinh tế và thực hiện các hoạt động có thu khác đơn vị phải quản lý chặt chẽ mọi khoản thu, chi và tính đúng, tính đủ các chi phí. Tính toán và phản ánh kịp thời, đầy đủ các khoản thu, chi vào sổ kế toán.
Kết thúc chu kỳ sản xuất, làm kinh tế và các hoạt động có thu khác hoặc định kỳ (quý, năm) các đơn vị phải xác định kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất, làm kinh tế, hoạt động có thu báo cáo đơn vị cấp trên và công khai đối với đơn vị.
Nội dung quản lý tài chính đối với các hoạt động có thu ở ĐVDT bao gồm:
- Quản lý vốn trong hoạt động sản xuất, làm kinh tế…
Quản lý vốn phải bảo toàn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
- Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ và giá thành sản phẩm
- Quản lý, phân phối, sử dụng thu nhập từ các hoạt động có thu. (Bộ Quốc phòng, Quyết định số 3365/2001/QĐ-BQP ngày 17/12/2001)
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý tài chính ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, có thể thấy công tác quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội chịu sự tác động của các nhân tố sau:
– Hệ thống tổ chức quản lý tài chính.
Đây là nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến toàn bộ công tác quản lý tài chính ở đơn vị, nhân tố này bao gồm:
+ Vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chỉ huy đơn vị đối với công tác tài chính. Đây là “nhân tố của mọi nhân tố” có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho công tác tài chính của đơn vị hoạt động đúng đắn, đúng hướng và hiệu quả.
+ Trách nhiệm và trình độ của cơ quan tài chính. Với vai trò là chủ thể quản lý, điều hành ngân sách cơ quan tài chính có vai trò quyết định đến chất lượng quản lý tài chính – ngân sách. Nếu bộ máy quản lý tài chính tốt và trình độ chính trị, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, nhân viên tài chính cao thì chất lượng quản lý tài chính – ngân sách sẽ tốt và ngược lại.
+ Các ngành nghiệp vụ, các tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý, sử dụng tài chính tài sản ở đơn vị.
Để hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở đơn vị phải thường xuyên nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống tổ chức quản lý tài chính.
- Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước và Bộ quốc phòng:
Đây là nhân tố mang tính pháp lý rất quan trọng, tạo điều kiện cho hệ thống tổ chức quản lý tài chính hoạt động đúng đắn.
Thực tiễn cho thấy, mỗi giai đoạn phát triển sẽ có một cơ chế quản lý tương đối phù hợp. Do đó cần thiết phải đổi mới và hoàn thiện đồng thời thực hiện tốt cơ chế quản lý tài chính phù hợp với yêu cầu phát triển mới.
- Hệ thống pháp luật, các quy chế, quy định, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức trong quản lý tài chính. Các quy định, tiêu chuẩn, chế độ rõ ràng chi tiết sẽ giúp công tác quản lý tài chính được thuận lợi.
- Điều kiện trang thiết bị, công nghệ phục vụ chuyên môn
Đây là nhân tố cần thiết, có ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý tài chính. Trang thiết bị, phương tiện làm việc được trang bị đầy đủ, đồng bộ; trình độ sử dụng thành thạo sẽ góp phần rất lớn vào việc ghi chép phản ảnh, tổng hợp các khoản thu, chi tài chính, phục vụ tốt việc điều hành quản lý tài chính của cơ quan tài chính và các ngành nghiệp vụ, cơ quan có liên quan ở đơn vị.
1.2. Cơ sở thực tiễn về quản lý tài chính ở một số đơn vị dự toán quân đội ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
1.2.1. Kinh nghiệm quản lý tài chính ở Học viện Khoa học Quân sự – Tổng cục II
Trong quản lý tài chính Học viện Khoa học Quân sự – Tổng cục II thực hiện theo Luật NSNN năm 2002 (sửa đổi); Nghị định số 10/2004/NĐ-CP ngày 17/1/2004 của Chính phủ về việc ban hành quy định về quản lý sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh; Thông tư liên tịch số 23/2004/TTLT-BTC-BQP ngày 26/3/2004 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Quốc phòng; Hướng dẫn lập, chấp hành, quyết toán NSNN và quản lý tài sản Nhà nước đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng; Điều lệ Công tác tài chính QĐNDVN và các văn bản hướng dẫn có liên quan của Cục Tài chính – BQP; Quy chế 499/QUTW ngày 23/11/2011 của Quân ủy Trung ương, lãnh đạo công tác tài chính của các cấp ủy Đảng trong quân đội; Các chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng BQP, hướng dẫn nghiệp vụ của Phòng tài chính Tổng cục II.
Học viện Khoa học Quân sự – Tổng cục II đã thực hiện tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ủy Học viện trong công tác quản lý tài chính, nâng cao năng lực quản lý và điều hành ngân sách của người chỉ huy. Xuất phát từ nguyên tắc: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy đảng đối với công tác tài chính còn xuất phát từ chính quá trình hoạt động tài chính, nó đảm bảo cho công tác tài chính của Học viện hoạt động đúng đường lối chính sách và có hiệu quả, phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ trong xây dựng và phát triển quân đội. Bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng và vai trò tham mưu giúp việc của cơ quan tài chính cá nhân người chỉ huy là người chịu trách nhiệm cuối cùng và chủ yếu về các quyết định liên quan đến quản lý tài chính của Học viện. Việc gắn trách nhiệm cao nhất cho người chỉ huy buộc người chỉ huy phải không ngừng học tập về mọi mặt liên quan đến quản lý và điều hành công tác tài chính, các quyết định ra phải phù hợp với nguyên tác, kỷ luật tài chính, thực hiện tốt quy chế dân chủ, tận dụng sự tham mưu của cơ quan tài chính, tranh thủ sự đồng thuận, phối kết hợp giữa cơ quan tài chính và các phòng, ban nghiệp vụ có liên quan đến chi tiêu sử dụng kinh phí.
Đối với công tác quản lý tài chính từ nguồn ngân sách Học viện căn cứ vào điều kiện cụ thể, yêu cầu quản lý đặc thù của đơn vị nghiên cứu hoàn thiện đổi mới một số cơ chế sao cho mỗi cơ chế quản lý đó có thể phát huy tốt nhất vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình trong quản lý ngân sách. Học viện chú trọng đến khâu xác định cơ cấu chi; nội dung và thứ tự ưu tiên bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ trọng tâm trong năm. Hoàn thiện một bước cơ chế phối hợp giữa cơ quan tài chính và các cơ quan quản lý nhân sự (cơ quan quân lực, cán bộ) trong nắm bắt yếu tố quân số (nhập ngũ, xuất ngũ, tăng giảm nội bộ, nghỉ hưu…) để thực hiện tốt khâu lập kế hoạch ngân sách.
Đảng ủy, chỉ huy các cấp thường xuyên chỉ đạo các đơn vị, các ngành chức năng tăng cường công tác giám sát kiểm tra, kịp thời uốn nắn và xử lý nghiêm túc những trường hợp chi sai, vượt chế độ, định mức đã quy định. Chi tiêu sử dụng ngân sách đáp ứng kịp thời, tương đối sát với dự toán được giao. Tiếp tục thực hiện phân cấp ngân sách xuống các đơn vị, bộ phận để các đơn vị chủ động quản lý và sử dụng ngân sách.
Trong quản lý hoạt động có thu Học viện đã tiến hành mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo như bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, đào tạo hệ dân sự nhắm khai thác hiệu quả nguồn thu từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, giảng viên, học viên… trong Học viện.
Tuy nhiên công tác quản lý tài chính của Học viện Khoa học Quân sự – Tổng cục II cũng gặp phải những khó khăn, hạn chế đó là về cán bô ̣ quản lý tài chính như khối phòng ban, khối hệ còn hạn chế về trình độ quản lý tài chính. Hiệu quả sử dụng các phương pháp, công cụ tài chính – ngân sách ở đơn vị chưa cao biểu hiện ở chỗ phương pháp lập DTNS chưa khoa học nhất là xác định định mức chi ngân sách cho từng loại kinh phí dẫn đến chất lượng chi tiêu nhiều loại, khoản kinh phí thấp so với cấp trên phân bổ. Định mức chi ngân sách chưa được điều chỉnh cho phù hợp với biến động của thị trường dẫn đến việc bổ sung ngoài dự toán vẫn còn. Chế độ công khai tài chính, dân chủ kinh tế còn mang tính hình thức.
1.2.2. Kinh nghiệm quản lý tài chính tại Cục Hậu cần – Tổng cục Hậu cần ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Quản lý tài chính tại Cục Hậu cần – Tổng cục Hậu cần trong nhưng năm qua có nhiều bước tiến bộ. Thể hiện trên một số nội dung sau:
Thay thế việc cơ quan tài chính và các ngành nghiệp vụ Cục kiểm soát giá và thực hiện các thủ tục trong khâu mua sắm tài sản và đầu tư XDCB bằng việc giao quyền chủ động cho các đơn vị dự toán cấp dưới lập hội đồng tự quyết định về giá đầu tư, mua sắm hoặc tổ chức đấu thầu, đấu giá theo quy định của pháp luật và tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Về việc giao dự toán cho các ngành, các đơn vị đã đảm bảo nhanh gọn kịp thời. Trước 31/12 hàng năm dự toán năm sau đã được giao đến đơn vị cơ sở. Nội dung dự toán ngân sách đã phản ánh đầy đủ các yêu cầu của nhiệm vụ và được giao ngay từ đầu năm. Trường hợp thật đặc biệt, khi có nhu cầu phát sinh cho phép bổ sung dự toán. Cách làm này đã giúp giải quyết tốt công việc phát sinh đột xuất chưa được giao trong dự toán đầu năm.
Cục Hậu cần – Tổng cục Hậu cần đã tiến hành xây dựng định mức kỹ thuật cụ thể cho đơn vị khi sử dụng kinh phí thuộc những nội dung liên quan đến sản xuất, sửa chữa như nội dung chi cho công trình phổ thông phải thực hiện theo quy định của đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện khoán kinh phí đối với một số nội dung chi tiêu như công tác phí, điện quốc doanh, nước quốc doanh…Ví dụ như xây dựng quy chế cụ thể tới hộ chi tiêu về định mức tiêu hao điện năng của từng phòng, ban dựa trên quân số và trang thiết bị. Trên cơ sở đó sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng kinh phí của đơn vị.
Công tác thanh tra, kiểm tra, thẩm định về tài chính ngân sách cũng được Cục Hậu cần – Tổng cục Hậu cần làm tốt. Qua thanh tra, kiểm tra đã góp phần đảm bảo cho ngân sách, tiền vốn, tài sản của nhà nước của quân đội được thực hiện đúng chính sách chế độ.
Công tác quyết toán chi ngân sách được thực hiện theo đúng quy trình, các báo cáo quyết toán được lập theo đúng biểu mẫu, đúng thời gian quy định. Số liệu báo cáo được phản ánh trung thực, chính xác, đúng mục lục ngân sách. Việc công khai giao dự toán và quyết toán ngân sách theo đúng các quy định.
Về thực hiện luật thực hành tiết kiệm và luật phòng chống tham nhũng lãng phí trong quản lý tài chính Cục Hậu cần – Tổng cục Hậu cần đã quan tâm và triển khai sâu rộng.
Trong quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Tổng cục Hậu cần bên cạnh những mặt đã làm được thì vẫn còn tồn tại một số tồn tại như sau:
Việc lập dự toán chi ở một số đơn vị, ngành xây dựng DTNS chưa sát, cho nên ngay từ những tháng đầu năm khi vừa giao xong dự toán đã có đơn vị xin bổ sung, điều chỉnh ngân sách.
Trong cơ chế quản lý tài chính và việc xây dựng tiêu chuẩn định mức về sử dụng kinh phí tuy đã có nhiều cố gắng song vẫn còn một số nội dung và lĩnh vực bộc lộ những điểm bất cập, ít phù hợp hoặc không còn phù hợp với thực tiễn. Mặt khác cũng cần phải nhìn nhân rằng có cơ chế quản lý phù hợp với đơn vị này nhưng chưa hẳn phù hợp với đơn vị khác.
Trong quá trình thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra vẫn còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thất thoát, chi sai nguyên tắc trong sử dụng ngân sách chưa được khắc phục triệt để.
1.2.3. Bài học rút ra cho Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu trong quản lý tài chính
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về quản lý tài chính ở đơn vị dự toán quân đội, công tác tổ chức, quản lý tài chính ở một số đơn vị tương đồng, có thể rút ra một số kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo, vận dụng vào quản lý tài chính của Cục Hậu cần – Bộ tổng Tham mưu như sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác quản lý tài chính, nâng cao năng lực quản lý và điều hành ngân sách của người chỉ huy đơn vị.
Hai là, để quản lý tài chính ở các đơn vị dự toán quân đội được tốt thì phải coi trọng cải cách cơ chế quản lý tài chính – ngân sách cho phù hợp với nhiệm vụ, điều kiện thực tế của đơn vị; tập trung sử dụng có hiệu quả công cụ quản lý tài chính để khai thác có hiệu quả nguồn thu từ làm kinh tế kết hợp, huy động mọi nguồn lực cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh và phát triển quân đội theo hướng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Ba là, chú trọng công tác phân tích, dự báo tình hình kinh tế – chính trị phục vụ cho việc hoạch địch chính sách chi tiêu cho các nhiệm vụ trọng yếu nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ cho an ninh quốc phòng một cách toàn diện và vững chắc. Trên cơ sở đó ban hành những tiêu chuẩn định mức và các chế độ cho các khoản chi được hợp lý và khoa học
Bốn là, các đơn vị cấp trên đều thống nhất chỉ đạo và phân cấp quản lý tài chính cho các đơn vị cấp dướ i trên cơ sở thống nhất chính sách, chế độ, tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo các quy định của pháp luật, thực hiện quản lý tài chính và sử dụng linh hoạt nguồn lực tài chính, cho phép thi hành những biện pháp tài chính cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế của từng đơn vị. ( Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính )
Năm là, các đơn vị, các ngành nghiệp vụ đều thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ, có hiệu quả trên toàn bộ các khâu của chu trình ngân sách, từ khâu lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán NSNN.
Sáu là, làm tốt công tác công khai minh bạch trong quản lý tài chính ở các đơn vị sẽ góp phần giảm thiểu tham nhũng, lãng phí và chi sai mục đích. Nhưng cũng cần nghiên cứu để quy định công khai những nội dung gì, công khai như thế nào để cán bộ, nhân viên được tiếp cận thông tin một cách dễ ràng và hiểu được nội dung các chỉ số công khai mang tính minh bạch.
Bảy là, thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình nhận và sử dụng kinh phí tại mỗi đơn vị được cấp có hệ thống. Sao cho mỗi khoản chi tiêu kinh phí vừa phải đảm bảo theo đúng dự toán, đúng định mức tiêu chuẩn, đúng chế độ và thủ tục chi tiêu theo quy định hiện hành.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội […]