Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội nhằm thể hiện cho các bạn đọc giả thấy nhiệm vụ tất yếu xuất phát từ chức năng của tài chính Quân đội, từ yêu cầu khách quan của quá trình điều hành hoạt động của hệ thống tài chính quân đội. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính là đòi hỏi tất yếu đối với mỗi đơn vị. Tuy nhiên để có thể hoàn thiện công tác quản lý tài chính đòi hỏi phải có định hướng, giải pháp khoa học, hữu hiệu cùng với cơ chế, chính sách hợp lý và hoàn chỉnh, phù hợp với đặc thù của mỗi đơn vị. Dưới đây là Đề tài: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu Mời các bạn tham khảo.
Nội dung chính
Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu như thế nào ?
- Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu?
- Các giải pháp nào cần thực hiện để hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu trong thời gian tới?
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin
Mục đích của thu thập thông tin, số liệu là nhằm cung cấp cơ sở thực tiễn cho phân tích và đánh giá về thực trạng công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu.
Đề tài sử dụng thông tin thứ cấp của đơn vị từ năm 2012 đến năm 2014. Cụ thể, tác giả luận văn đã tiến hành thu thập các thông tin thông qua các tài liệu tham khảo như: kế hoạch, báo cáo về đơn vị, các giáo trình chuyên ngành, chế độ, luật, nghị định, thông tư, điều lệ, hướng dẫn về quản lý tài chính trong quân đội, tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, sách, mạng internet, bài viết liên quan đến đề tài … để hệ thống hoá được những vấn đề nghiên cứu cơ bản của đề tài luận văn, xác định được những khái niệm cơ bản, những vấn đề lý luận quan trọng của đề tài làm cơ cở cho việc điều tra thực tiễn.
2.2.2. Phương pháp tổng hợp thông tin ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Đề tài đã sử dụng các số liệu thu – chi tài chính từ hai nguồn đó là nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và nguồn kinh phí thu từ các hoạt động sản xuất kết hợp qua các năm từ 2012 đến 2014 của Cục Hậu Cần – BTTM để xử lý bằng phân tích thống kê đơn giản của Excel và hệ thống số liệu này thành các chỉ tiêu tương đối, chỉ tiêu tuyệt đối và lập thành các bảng biểu. Qua đó, đưa ra những biện pháp hoàn thiện công tác thu, chi và quản lý tài chính.
2.2.3. Phương pháp phân tích thông tin
Các phương pháp phân tích dữ liệu đã sử dụng giúp cho việc trình bày thực trạng cũng như đưa ra các kết luận và giải pháp về thực trạng quản lý tài chính của Cục Hậu Cần – BTTM
- Phương pháp so sánh
Thông qua số bình quân, số tối đa, số tối thiểu. Phương pháp thống kê so sánh gồm cả so sánh số tuyệt đối và số tương đối để đánh giá động thái phát triển của hiện tượng, sự vật theo thời gian và không gian. Việc so sánh được tiến hành so sánh giữa các số thu và chi từ các nguồn kinh phí, so sánh giữa các năm. Phương pháp này được sử dụng để đánh giá, phân tích thực trạng thu, chi, quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí hàng nãm và giữa các nãm của Cục Hậu Cần – BTTM.
- Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê mô tả là các phương pháp có liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán và mô tả các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu. Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu thập được từ nghiên cứu thực nghiệm qua các cách thức khác nhau.
Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu thập được. Các kỹ thuật phân tích:
- Biểu diễn dữ liệu bằng các đồ thị mô tả dữ liệu hoặc giúp so sánh dữ liệu.
- Biểu diễn dữ liệu thành các bảng số liệu.
- Thống kê tóm tắt (dưới dạng các giá trị thống kê đơn nhất) mô tả dữ liệu. Từ những số liệu và thông tin thu thập được, dùng phương pháp phân tích số liệu để đưa ra các biểu đồ về tỷ trọng, tăng trưởng hay những bảng số liệu phục vụ cho đề tài.
2.3. Các tiêu chí chủ yếu đánh giá chất lượng quản lý tài chính ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Chất lượng công tác quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội là một khái niệm trừu tượng dựa trên việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là xây dựng quân đội – bảo vệ tổ quốc, để đánh giá cần xây dựng các tiêu chí đánh giá với cách lượng hóa nó một cách tối đa. Ở các khía cạnh khác nhau có các tiêu chí đánh giá cụ thể khác nhau. Song khái quát lại có thể đưa ra một số tiêu chí sau:
Một là: Tính hợp lý của hệ thống tổ chức quản lý tài chính ở đơn vị. Tính hợp lý của hệ thống tổ chức quản lý tài chính biểu hiện ở các nhân tố cấu thành gồm:
- Cơ cấu tổ chức: Thể hiện sự đầy đủ, hợp lý của tổ chức biên chế và các chức danh quản lý tài chính.
- Chức năng, nhiệm vụ của hệ thống: Thể hiện ở sự xác lập đầy đủ cụ thể và tính phù hợp của các chủ thể tham gia quản lý tài chính.
- Biên chế nhân lực, trang bị kỹ thuật quản lý: Thể hiện ở sự đầy đủ, phù hợp về số lượng, chất lượng cán bộ nhân viên; tính đồng bộ, hiện đại của trang bị quản lý phục vụ chuyên môn.
Hai là: Tính đúng đắn, hiệu quả trong việc sử dụng các phương pháp, công cụ quản lý tài chính.
Tiêu chí này có thể được đo lường bằng các đại lượng sau:
- Các mệnh lệnh, quyết định của người chỉ huy; chỉ thị, hướng dẫn của cơ quan tài chính cấp trên; các kế hoạch triển khai nhiệm vụ của cơ quan tài chính đơn vị… được thực thi như thế nào?
- Việc duy trì và thực hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức, nguyên tắc, kỷ luật tài chính và qui chế quản lý tài chính có thường xuyên đúng, đủ, kịp thời, chặt chẽ không.
Ba là: Mức độ thỏa mãn yêu cầu về quản lý tài chính thông qua việc đánh giá các nội dung quản lý tài chính.
Tiêu chí này có một số đại lượng được lượng hóa hoặc mang tính định tính dễ nhận biết gồm:
- Trong quản lý chu trình ngân sách:
Các chỉ tiêu DTNS phải sát đúng nhu cầu thực tế, thể hiện ở sự so sánh giữa số thực hiện với số dự toán cả số tuyệt đối và số tương đối.
Phân bổ chỉ tiêu, giao DTNS cho các cơ quan, đơn vị cấp dưới; cấp phát, thanh quyết toán kinh phí bảo đảm đầy đủ, kịp thời, đúng DTNS đã được giao, đúng điều kiện chi ngân sách.
Quyết toán tài chính (kinh phí) bảo đảm chặt chẽ, chính xác, trung thực, rõ ràng, kịp thời, tổng hợp QTNS đúng mục lục ngân sách và mẫu biểu quy định. Có thể so sánh với số DTNS, số cấp phát, thanh toán.
- Trong quản lý các khoản tiền lương, phụ cấp, trợ cấp tiền ăn; các khoản chi chính sách xã hội; bảo đảm cấp phát, chi trả đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng được hưởng, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn; đúng thủ tục, quy định về lập DTNS, cấp phát, QTNS theo Luật NSNN, Điều lệ công tác tài chính QĐND Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Trong quản lý kinh phí nghiệp vụ, vốn đầu tư và xây dựng: Thực hiện đúng quy trình, thủ tục, chế độ quy định đối với từng nội dung, mục chi…
- Trong quản lý các hoạt động có thu: Quản lý chặt chẽ mọi khoản thu, chi; tính đúng, tính đủ chi phí, thu nhập và phân phối kết quả đúng chế độ quy định; phản ánh đầy đủ kịp thời, chính xác các khoản thu, chi vào sổ kế toán.
- Trong kiểm tra, thanh tra, kiểm toán: Tình hình và kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán theo kế hoạch và đột xuất có phản ánh chính xác, khách quan không.
Bốn là: Tính hiệu quả, hiệu lực trong quản lý, sử dụng tài chính. Hiệu quả quản lý và sử dụng tài chính được hiểu là phạm trù thể hiện mối quan hệ giữa kết quả thực hiện nhiệm vụ so với quy mô ngân sách bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ tương ứng được giao. Tiêu chí hiệu quả mang nhiều yếu tố định tính, khó lượng hóa. Tuy nhiên có thể xem xét đánh giá một số khía cạnh sau:
- Tính kinh tế: So sánh chi phí thực tế của các yếu tố đầu vào (số quyết toán) so với định mức chi tiêu (số dự toán); các báo cáo thanh kiểm tra, kiểm toán tài chính hàng năm của đơn vị, cơ quan cấp trên để thấy mức độ tiết kiệm hay lãng phí.
- Tính hiệu lực: Xem xét sự tác động của kết quả thực hiện nhiệm vụ đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội… Cần thấy rõ rằng sự lan toản của chính sách, chế độ tiền lương, tiền công, phụ cấp… trong các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung là rất to lớn. Vì vậy quản lý chặt chẽ tài chính sẽ góp phần quan trọng vào tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình quản lý ngân sách.
Như vậy, việc đánh giá chất lượng quản lý tài chính là hết sức phức tạp, đồi hỏi phải nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện trong đó yêu cầu thực hiện nhiệm vụ là mục tiêu quan trọng nhất, là thước đo chủ yếu đánh giá chất lượng quản lý tài chính quân đôi.
2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Để đánh giá công tác quản lý tài chính ở ĐVDT quân đội cần xây dựng các chỉ tiêu nghiên cứu với cách lượng hóa nó một cách tối đa. Ở các khía cạnh khác nhau có các chỉ tiêu nghiên cứu khác nhau. Song khái quát lại có thể đưa ra một số chỉ tiêu sau:
Ý nghĩa chỉ tiêu này cho phép đánh giá chất lượng lập DTNS của đơn vị. Nếu kết quả so sánh lớn hơn hay nhỏ hơn khá lớn, chứng tỏ đều không sát giới hạn trần NS hoặc không sát với khả năng và nhu cấu chi của đơn vị.
Chỉ tiêu này cùng với chỉ tiêu ở trên có ý nghĩa đánh giá cuối cùng chất lượng DTNS đơn vị lập. Nó cung cấp những thông tin cần thiết để có thể điều chỉnh chỉ tiêu năm sau phù hợp hơn.
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất, cho phép đánh giá xác đảng 2 vấn đề: Một là, kết quả lớn hơn 100% (thiếu NS) hoặc nhỏ hơn 100% (thừa NS). Như vậy phải xem xét 2 yếu tố: số thực hiện nếu đúng thực tế, đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức thì phải tính toán số chỉ tiêu trên phân bổ. Ngược lại, phải tăng cường làm tốt công tác thẩm định trước quyết toán.
Hai là, NS là có hạn; việc bổ sung NS về nguyên tắc là rất ít (trừ trường hợp có nhiệm vụ đột xuất quan trọng được nhà nước và Bộ quốc phòng quyết định). Vì vậy, qua chỉ tiêu này, Cục Tài chính – BQP với tư cách là cơ quan chủ trì tham mưu giúp Quân ủy trung ương và thủ trưởng BQP về công tác tài chính quân đội sẽ đánh giá NS tiết kiệm được ở phạm vị toàn quân trong mỗi năm
- Việc duy trì thực hiện chu trình NS có kịp thời hay không, thực hiện các chính sách chế độ, tiêu chuẩn định mức, nguyên tắc, kỷ luật tài chính có thường xuyên đúng, đủ hay không. Biểu hiện ở mức độ các vụ việc vi phạm, tính chất vi phạm và hậu quả của nó; tác động cụ thể của việc thực hiện các chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát chi, dân chủ kinh tế tài chính. Được lương hóa bằng các chỉ số:
+ Số lần thực hiện đúng chu trình về mặt thời gian
+ Tỷ lệ các sai sót trong các văn bản lập, thực hiện, quyết toán ngân sách.
- Các hoạt động có thu: So sánh số tương đối và tuyệt đối tình hình thực hiện kế hoạch theo các quy định trong các hoạt động có
Có thể bạn quan tâm:
Chương 3 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở CỤC HẬU CẦN – BỘ TỔNG THAM MƯU GIAI ĐOẠN 2012 – 2014
3.1. Tổng quan về Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
3.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu
- Quá trình hình thành và phát triển
Tiền thân của Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu là Cục Quản Lý Giáo dục – Bộ Tổng Tham mưu cơ quan Bộ Quốc phòng được thành lập ngày 11/09/1945 tại 34A Trần Phú – Ba Đình – Hà Nội. Ngày 12/2/1993 quyết định số 60/QĐ – QP đổi tên từ Cục Quản lý Giáo dục – Bộ tổng tham mưu sang tên Cục Quản Lý Hành chính – cơ quan Bộ Quốc Phòng. Ngày 6/9/2007 quyết định số 2501/QĐ – QP đổi tên Cục Quản Lý Hành chính – cơ quan Bộ Quốc Phòng sang tên Cục Hậu cần – BTTM. Lịch sử phát triển của Cục Hậu cần là một chặng đường với biết bao khó khăn thử thách, vừa xây dựng, vừa chiến đấu và trưởng thành. Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương mà trực tiếp là Đảng ủy, thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu; sự động viên giúp đỡ của nhân dân; cán bộ chiến sĩ Cục Hậu cần các thế hệ trong 70 năm qua đã không ngừng phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, lập nhiều chiến công trên các mặt trận, xây đắp lên truyền thống vẻ vang của Cục Hậu cần.
- Chức năng:
Cục Hậu cần BTTM có chức năng tham mưu giúp Đảng ủy, Thủ trưởng BTTM về công tác hậu cần, kỹ thuật, huấn luyện quân sự và tổ chức thực hiện công tác bảo đảm phục vụ.
* Nhiệm vụ:
- Tham mưu cho Đảng ủy, Thủ trưởng BTTM về công tác kế hoạch hậu cần, kỹ thuật, tổ chức đảm bảo hậu cần, kỹ thuật cho BTTM – Cơ quan BQP trong thời bình và thời chiến.
- Tổ chức căn cứ Hậu cần, kỹ thuật theo yêu cầu nhiệm vụ; quản lý, chỉ đạo và đảm bảo về hậu cần, kỹ thuật cho BTTM – cơ quan BQP; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật diễn tập chỉ huy tham mưu, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và các nhiệm vụ khác.
- Tổ chức huấn luyện quân sự, thể dục thể thao, duy trì điều lệnh cho BTTM – cơ quan BQP; phối hợp với các cơ quan, đơn vị và chính quyền địa phương có liên quan, bảo đảm an toàn khu vực đóng quân của BTTM – cơ quan
- Tổ chưc đón tiếp khách và bảo đảm ăn, nghỉ, đi lại cho cán bộ toàn quân về làm việc dự hội nghị, hội thảo, hội thi tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng.
- Quản lý, chăn sóc sức khỏe, bảo đảm các chế độ chính sách theo quy định cho cán bộ thuộc BTTM- cơ quan BQP và các Tổng cục.
- Tận dụng năng lực hiện có, tổ chức làm dịch vụ, liên kết sản xuất tạo nguồn thu để cải thiện và nâng cao đời sống cho bộ đội theo đúng pháp luật và quy định của BQP.
3.1.2. Tổ chức biên chế
– Lực lượng Quân số biên chế theo Quyết định số 1775/BTTM về quy hoạch tổ chức lực lượng của Cục Hậu cần, quân số của Cục Hậu cần được biên chế 630 đồng chí. Quân số hiện có ngày 31/12/2014 là 997 đồng chí.
– Tổ chức biên chế
+ Chỉ huy Cục Hậu cần gồm: Cục trưởng, Chính ủy và các Phó Cục trưởng, trong đó Cục trưởng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Cục và là
chủ tài khoản của đơn vị, Chính ủy đồng thời là Bí thư Đảng ủy Cục Hậu cần chịu trách nhiệm về công tác Đảng, công tác chính trị ở Cục; Các phó Cục trưởng giúp việc cho Cục trưởng theo lĩnh vực được phân công.
+ Các cơ quan chức năng của Cục Hậu cần gồm: Phòng tham mưu, Phòng chính trị, Phòng Doanh trại, Phòng Xe máy – Kỹ thuật, Phòng Quân y, Phòng Bảo đảm Phục vụ sở chỉ huy, Phòng Quân nhu, Phòng Xăng dầu, Ban hành chính, Ban tài chính.
+ Các đơn vị trực thuộc Cục gồm: Cơ quan đại diện phí nam C59B, nhà khách Bộ Quốc Phòng(T66), Nhà khách 299, Trường Mầm non 59, Đoàn xe, trạm sửa chữa, Căn cứ Hậu cần Bộ Tổng Tham mưu. Cơ cấu tổ chức Cục được thể hiện qua sơ đồ 3.1.
3.1.3. Cơ chế quản lý tài chính ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Công tác tài chính của Cục Hậu cần thực hiện theo Luật NSNN năm 2002 (sửa đổi); Nghị định số 10/2004/NĐ-CP ngày 17/1/2004 của Chính phủ về việc ban hành quy định về quản lý sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh; Thông tư liên tịch số 23/2004/TTLT-BTC-BQP ngày 26/3/2004 của Liên Bộ Tài chính
– Bộ Quốc phòng; Hướng dẫn lập, chấp hành, quyết toán NSNN và quản lý tài sản Nhà nước đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng; Chỉ thị số 66/2004/CT-BQP ngày 13/5/2004 của Bộ trưởng BQP về thời gian lập, chấp hành, quyết toán NSNN; Điều lệ Công tác tài chính QĐNDVN và các văn bản hướng dẫn có liên quan của Cục Tài chính – BQP; Quy chế 499/QUTW ngày 23/11/2011 của Quân ủy Trung ương, lãnh đạo công tác tài chính của các cấp ủy Đảng trong quân đội; Các chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng BQP, Tổng Tham mưu trưởng; Hướng dẫn của Phòng tài chính BTTM.
Cơ chế quản lý tài chính của Cục Hậu cần được thực hiện theo nguyên tắc: Cấp ủy Đảng lãnh đạo, Chỉ huy đơn vị điều hành, cơ quan Tài chính làm tham mưu và tổ chức thực hiện trên cơ sở các Nghị quyết, Quy chế lãnh đạo, Quy chế quản lý tài chính của Cục Hậu cần, của Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Quốc Phòng.
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo kinh phí và quản lý nguồn thu
- Các đơn vị dự toán cấp 4 căn cứ vào dự toán được duyệt, được cấp phát và quyết toán kinh phí với Ban Tài chính Cục theo quy định của BQP và Nhà nước.
- Các phòng ban trực thuộc Cục căn cứ vào nhiệm vụ và chỉ tiêu ngân sách, khi thực hiện chi ngân sách được ứng kinh phí và thanh toán trực tiếp với ban Tài chính Cục. Duy trì thường xuyên nguyên tắc thanh toán xong đợt nhận lĩnh trước mới tổ chức cấp phát nhận lĩnh đợt sau.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập căn cứ vào nhiệm vụ hàng năm:
Chi kinh phí quốc phòng (nếu có) được cấp phát, thanh quyết toán với Ban tài chính Cục theo đúng nguyên tắc và chế độ.
Thu BHXH, BHYT, Công đoàn… theo chế độ, được thực hiện thông qua Ban Tài chính Cục hàng tháng, quý trong năm.
Quyết toán các khoản thu theo quy định của BQP, BTTM được thông quan ban Tài chính Cục.
- Mọi nguồn thu đều được phản ánh trên hệ thống sổ sách kế toán của cơ quan tài chính các cấp và tài chính Cục, được quản lý đúng chính sách, chế độ.
3.2. Phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu giai đoan 2012 – 2014 ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
- Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý tài chính và phân cấp quản lý tài chính
- Tổ chức bộ máy quản lý tài chính
Tài chính của Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu là tài chính đơn vị dự toán cấp 3 – tài chính cấp chiến thuật có quan hệ trực tiếp với đơn vị dự toán cấp 2 là Bộ Tổng Tham mưu – tài chính cấp chiến dịch. Trong hệ thống tổ chức quản lý tài chính ở Cục Hậu cần, bộ máy quản lý tài chính bao gồm: Ban Tài chính Cục Hậu cần và tài chính các đơn vị trực thuộc (đơn vị cấp 4).
+ Ban Tài chính Cục Hậu cần:
Ban Tài chính Cục Hậu cần là cơ quan nghiệp vụ làm tham mưu và giúp việc cho Đảng ủy, Chỉ huy Cục về công tác tài chính, có nhiệm vụ chủ yếu là: Tổ chức lập DTNS, chấp hành ngân sách, công tác kế toán và quyết toán NS; Lập kế hoạch và quản lý thực hiện kế hoạch sản xuất, làm kinh tế; tổ chức quản lý vốn và tài sản, quản lý giá và thực hiện một số nghiệp vụ về kho bạc, ngân hàng có liên quan, tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với hoạt đông tài chính của các ngành, các đơn vị trực thuộc.
Tổ chức biên chế của Ban Tài chính Cục gồm 07 đ/c trong đó: 04 sĩ quan (Trưởng ban phụ trách chung, 1 đ/c Phó trưởng ban tài chính giúp việc cho Trưởng ban tổng hợp báo cáo hoạt động có thu, phân bổ và tổng hợp ngân sách, XDCB, 02 trợ lý quản lý kinh phí nghiệp vụ và theo dõi hướng các đơn vị); QNCN:03 đ/c (01 đ/c trợ lý kế toán; 01 đ/c trợ lý kế toán tiền lương và 01 thủ quỹ)
+ Tài chính các đơn vị trực thuộc
Nhiệm vụ của tài chính các đơn vị trực thuộc là các Ban tài chính, bộ phận tài chính là quản lý tài chính tại các đơn vị.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tài chính ở Cục Hậu cần được thể hiện qua sơ đồ 3.2.
Quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo
Quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ
- Phân cấp quản lý tài chính
- Ban Tài chính Cục Hậu cần quản lý toàn bộ hoạt động tài chính của Cục Hậu cần theo chức năng, nhiệm vụ, theo luật NSNN. Điều lệ công tác tài chính QĐNDVN; Quy chế quản lý tài chính của Cục Hậu cần ban hành theo Quyết định số 14/QĐ-LĐ ngày 14/1/2008 của Cục trưởng. Trực tiếp quản lý, chi tiêu, thanh quyết toán kinh phí chi hỗ trợ giải quyết việc làm, các khoản kinh phí thuộc NSNN giao, kinh phí vốn đầu tư XDCB, BHXH và một số khoản kinh phí nghiệp vụ trực tiếp quản lý tài chính và tổ chức hạch toán hoạt động sản xuất kết hợp, tăng gia sản xuất, sự nghiệp công lập của Cục.
- Các ngành nghiệp vụ của Cục Hậu cần quản lý, sử dụng kinh phí nghiệp vụ ngành, kinh phí thuộc ngân sách bảo đảm theo chuyên môn nghiệp vụ của từng ngành. Bảo đảm cho thực hiện nhiệm vụ theo chức năng và cho các đơn vị trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu như Phòng Doanh Trại, Phòng Quân y, Phòng Quân nhu, Phòng Xăng dầu, Phòng Xăng dầu riêng Phòng Bảo đảm phục vụ Sở chỉ huy nhiệm vụ chính là đảm bảo sửa chữa, thay thế trong toàn sở chỉ huy Bộ Quốc phòng.
3.2.2. Quản lý chu trình ngân sách ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
- Lập dự toán ngân sách
Dự toán ngân sách của Cục Hậu cần được thực hiện theo ba bước:
Bước 1: Hướng dẫn lập DTNS và thông báo số kiểm tra
Bước 2: Lập và thảo luận DTNS
Bước 3: Quyết định phân bổ, giao DTNS
Qua thực tiễn lập DTNS năm của Cục Hậu cần BTTM cho thấy: Do nắm và hiểu rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác lập DTNS đối với công tác tài chính nói chung, quản lý tài chính nói riêng của Cục nên trong những năm qua ban Tài chính Cục đã coi trọng công tác lập DTNS, việc lập DTNS của Cục đã đi vào nề nếp, bảo đảm được thời gian, đúng mẫu biểu quy định và đáp ứng được yêu cầu của công tác lập DTNS đã đề ra.
Có thể đánh giá được chất lượng công tác lập DTNS của Cục Hậu cần trên một số nét cơ bản sau:
- Chất lượng công tác lập DTNS ngày một nâng cao, Ban Tài chính đã bám sát khả năng bảo đảm của cơ quan Tài chính cấp trên nên tỷ lệ giữa số lập DTNS và số chỉ tiêu trên phân bổ trong các năm từ 2012 – 2014 ngày càng sát thực, có biến động nhưng không lớn. Nhìn chung DTNS đơn vị lập thường có xu hướng cao hơn chỉ tiêu trên thông báo.
- Kinh phí lương, phụ cấp, trơ cấp, tiền ăn phụ thuộc vào quân số và chế độ tiêu chuẩn. Các nhân tố này luôn biến động, song Cục Hậu cần đã lập DTNS khá sát so với chỉ tiêu NS được trên phân bổ đầu năm. Riêng năm 2012 do quyết định của Bộ trưởng điều động 03 đơn vị thuộc công ty 207 về Cục Hậu cần và thành lập Phòng Bảo đảm Sở chỉ huy nên có sự biến động lớn về quân số. Cục Hậu cần bị động đối với sự điều động này nên DTNS đầu năm đã không tính toán được, tỷ lệ NS trên phân bổ vượt DTNS là 9,8%. Như vậy Cục Hậu cần lập DTNS về lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn là khá tốt, chất lượng cao.
- Kinh phí nghiệp vụ là loại kinh phí khi lập DTNS luôn gặp nhiều khó khăn do có nhiều nội dung, nhiều loại tiêu chuẩn, định mức, nhiều yếu tố luôn tác động và phụ thuộc nhiều vào khả năng bảo đảm của cấp trên. Khi lập DTNS Cục Hậu cần thường căn cứ vào số ước thực hiện năm báo cáo và sự biến động trong năm kế hoạch để lập. Vì vậy số DTNS lập có khi vượt chỉ tiêu NS được trên phân bổ đầu năm có khi lại giảm đi cụ thể năm 2012 lập DTNS ít hơn số được phân bổ đầu năm, 2013 và 2014 đều lập vượt số NS trên phân bổ.
- Kinh phí đảm bảo năm 2012 do là năm đầu tiền có loại kinh phí này nên đơn vị chưa có kinh nghiệm trong lập DTNS. Tỷ lệ được phân bổ ngân sách chỉ đạt 89,29% nhưng những năm sau chất lương lập dự toán NSĐB đã nâng lên rõ rệt (đạt 100%)
- Kinh phí NS đầu tư XDCB và NSNN giao đơn vị lập dự toán tốt đã dự đoán được khả năng bảo đảm của cấp trên với nhu cầu đầu tư xây dựng của đơn vị trong điều kiện khó khăn trong bảo đảm vốn đầu tư XDCB của nhà nước, quân đội trong những năm
- Kinh phí BHXH, kinh phí khác, kinh phí hiện vật Cục Hậu cần lập DTNS chưa sát thực nên tỷ lệ NS được phân bổ/DTNS lập còn có sự giao động khá lớn.
Chất lượng DTNS được lập trong giai đoạn 2012 – 2014 của các ngành, các đơn vị tuy có được nâng lên song vẫn vẫn có những mặt hạn chế nhất định. Một số đơn vị, ngành, người làm công tác tài chính còn nhận thức chưa đầy đủ về vai trò quan trọng của lập DTNS nên DTNS được lập ra chưa đáp ứng được các yêu cầu chi tiêu của đơn vị, chưa sát với khả năng tài chính của trên. Mặt khác việc đôn đốc, giám sát các khâu lập DTNS của các đơn vị, cơ quan chưa được kịp thời, chặt chẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng DTNS của đơn vị. Các yếu tố, căn cứ tính toán tại thời điểm xây dựng các chỉ tiêu DTNS về cơ bản chưa đầy đủ, tính pháp lý chưa cao, bị động đối với các nhiệm vụ đột xuất, không có trong dự báo kế hoạch đầu năm như chế độ, tiêu chuẩn thay đổi… như yếu tố quân số: Đối chiếu số liệu quân số trong DTNS và số liệu quân số thực hiện trong báo cáo DTNS các năm cho thấy có sự chênh lệch
+ Quân số thực hiện các năm đều có sự chênh lệch so với quân số lập DTNS.
+ Sự biến động tăng, giảm quân số chủ yếu do sự biến động của QNCN, HSQ-BS, và số lao động Hợp đồng. Năm biến động cao nhất là năm 2012. Năm thực hiện theo quyết định điều đông của Bộ trưởng 03 đơn vị thuộc Công ty TNHH một thành viên 207 về Cục Hậu cần.
Sự chênh lệch về quân số giữa thực tế với dự toán đã hạn chế chất lượng công tác kế hoạch ngân sách. Vì quân số không dự kiến chính xác sẽ kéo theo các khoản chi tiêu khác như lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn khó xác định chính xác. Một số nội dung chi tiêu của kinh phí nghiệp vụ cũng sẽ thay đổi. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự khác nhau giữa các chỉ tiêu trong khi xét duyệt quyết toán.
- Chấp hành ngân sách
Công khai, phân bổ và giao dự toán ngân sách
Sau khi được BTTM giao dự toán chi NS năm cho Cục Hậu cần, Ban Tài chính tính toán, cân đối khả năng bảo đảm tài chính, lên phương án phân bổ NS báo cáo Đảng ủy và Cục trưởng; chuẩn bị mọi yếu tố và tổ chức hội nghị công khai ngân sách và giao chỉ tiêu cho các ngành, các đơn vị theo quy định. Số liệu phân bổ NS năm được tổng hợp báo cáo BTTM.
Do dựa trên các căn cứ khoa học và thực hiện đúng trình tự các bước của quy trình phân bổ NS nên việc phân bổ ngân sách trong nhưng năm vừa qua ở Cục Hậu cần – BTTM đã đảm bảo chất lượng, cụ thể là đã thực hiện đúng các quy định của cơ quan tài chính cấp trên, bảo đảm cho DTNS của các đơn vị có tính khả thi cao. Trong điều kiện các cơ quan đơn vị có chi tiêu NSNN phải thực hiện nghiêm luật NSNN, việc thực hiện tốt phân bổ DTNS ở Cục Hậu cần bảo đảm quá trình phân phối NS được minh bạch, rõ ràng, công khai và bình đẳng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ giữa các đơn vị, cá nhân được thụ hưởng NS ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Các khoản kinh phí lương, phụ cấp, tiền ăn được phân bổ triệt để cho các đơn vị. Đây là các khoản chi thanh toán trực tiếp cho cá nhân, việc thanh toán các khoản kinh phí này chủ yếu do các đơn vị cấp dưới, các bếp ăn tập trung thực hiện dựa trên thang bậc lương và các quy định về các chế độ tiêu chuẩn được hưởng của từng đối tượng. Riêng khoản hỗ trợ giải quyết việc làm thực hiện phân cấp cho các đơn vị khoảng 80%, số còn lại ban Tài chính sẽ căn cứ vào tình hình thực tế quân số ra quân, xuất ngũ của các đơn vị để cấp, bổ sung các đợt trong năm.
Các khoản kinh phí nghiệp vụ hành chính: Bao gồm nhiều nội dung chi, liên quan đến nhiều ngành nghiệp vụ, có nhiều tiêu chuẩn định mức và quá trình chi tiêu liên quan đến giá cả, chất lượng hàng hóa dịch vụ… đòi hỏi phải được quản lý chặt chẽ, toàn diện cả phần tiền và phần hiện vật, gắn liền với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.
Trong giai đoạn 2012 – 2014 ở Cục Hậu cần, tỷ lệ phân bổ các mục chi thuộc kinh phí nghiệp vụ cho các ngành, các đơn vị ngày càng tăng. Tổng hợp chung kinh phí nghiệp vụ phân bổ cho các ngành, đơn vị sau 3 năm từ 2012 đến 2014 tăng 3,5%. Tất cả các khoản chi đều có tỷ lệ phân bổ trên 80% trong đó có 7 khoản chi đạt tỷ lệ từ 90% – 100%. Việc tăng tỷ lệ phân bổ kinh phí cho các đơn vị, ngành nghiệp vụ, giảm dự phòng và trực tiếp chi ở cơ quan tài chính vừa tạo quyền chủ động chi tiêu cho ngành, đơn vị vừa gắn trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan đến chi tiêu sử dụng kinh phí, thông qua đó nâng cao hiệu quả chi tiêu, nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính.
- Quản lý cấp phát, thanh toán kinh phí
* Lập nhu cầu chi quý
Trên cơ sở chỉ tiêu NS năm đã giao cho các ngành, các đơn vị, Ban Tài chính Cục hướng dẫn các ngành nghiệp vụ cung cấp, các đơn vị lập nhu cầu chi quý, quy định nội dung lập, mẫu biểu lập và thời gian gửi nhu cầu chi tiêu quý về Ban Tài chính. Căn cứ vào nhu cầu chi tiêu của các ngành, đơn vị, Ban Tài chính lập nhu cầu chi tiêu quý theo mục lục NS hiện hành và mẫu biểu quy định, thông qua Cục trưởng ký duyệt, gửi phòng Tài chính BTTM, KBNN nơi Cục giao dịch theo đúng thời gian quy định để tổ chức tiếp nhận, cấp phát kinh phí.
Qua thực tiễn việc lập nhu cầu chi tiêu quý của Cục cho thấy: Nội dung nhu cầu chi tiêu quý so với DTNS năm đầy đủ hơn, tính hiện thực của các chỉ tiêu trong nhu cầu chi quý năm sau cao hơn năm trước, khắc phục được tình trạng lập nhu cầu chi phí mang tính hình thức. Song vẫn còn một số tồn tại như: Các ngành, các đơn vị còn chia đều nhu cầu cho các tháng; việc tính toán
một số chỉ tiêu trong nhu cầu chi phí thường dựa vào các kỳ trước mà không xem xét đến tình hình quý kế hoạch.
* Tiếp nhận, cấp phát và thanh toán kinh phí
Căn cứ vào DTNS năm được giao, số kinh phí được BTTM cấp vào tài khoản tiền gửi ĐVDT của Cục mở tại KBNN và tiến độ thực hiện nhiệm vụ, Ban Tài chính lập giấy rút DTNS thông qua chủ tài khoản ký duyệt gửi KBNN nơi giao dịch xin rút tiền để chi tiêu hoặc cấp cho các đơn vị.
Cấp phát, thanh toán kinh phí cho các ngành nghiệp vụ được tiến hành theo nguyên tắc cấp ứng và thanh toán hoàn ứng. Khi có nhu cầu chi tiêu, mua sắm cần ứng kinh phí để thực hiện, các ngành lập kế hoạch chi tiêu và bản dự trù kinh phí gửi Ban Tài chính. Căn cứ vào chỉ tiêu NS được phân bổ và nhu cầu chi quý, Ban Tài chính xem xét kế hoạch dự trù chi tiêu của ngành, hướng dẫn thủ tục cần thiết, nếu có đủ cơ sở thì tiến hành cấp ứng kinh phí. Khi đã thực hiện xong việc chi tiêu mua sắm, cơ quan nghiệp vụ tổng hợp, hoàn thiện hồ sơ, chứng từ chi tiêu chuyển Ban Tài chính thanh toán. Ban Tài chính căn cứ vào hồ sơ thanh toán, đối chiếu với các yêu cầu, nguyên tắc và các quy định trong quản lý tài chính để tiến hành thanh toán cho các ngành.
Hồ sơ thanh toán vật tư hàng hóa của các ngành gồm:
- Kế hoạch mua (dự trù kinh phí) được chỉ huy ngành phê duyệt
- Phiếu báo giá của đơn vị cung cấp vật tư hàng hóa
- Hóa đơn bán hàng; phiếu kê mua hàng
- Giấy đề nghị thanh toán
Tùy theo đặc thù từng ngành mà có một số chứng từ khác kèm theo.
Nếu ngành cấp phát cho đơn vị, Ban Tài chính căn cứ vào chứng từ để làm thủ tục cấp kinh phí cho đơn vị.
Đối với các khoản kinh phí nhận bằng hiện vật do trên cấp (thuộc Ngân sách bảo đảm) căn cứ vào kế hoạch cấp phát của cấp trên, các ngành nghiệp vụ tiếp nhận nhập kho hoặc cấp thẳng cho đơn vị sử dụng, gửi chứng từ tiếp
nhận, cấp phát cho Ban Tài chính. Ban Tài chính thực hiện thanh toán theo 2 bước: Thanh quyết toán phần tiền và thanh quyết toán phần hiện vật.
Các khoản thanh toán cho cá nhân như tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn, công tác phí… được cấp kịp thời đến tay người được hưởng theo đúng chế độ tiêu chuẩn hiện hành. ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Hạn chế:
Nhu cầu chi quý của các đơn vị lập chưa bao quát được nhiệm vụ quân sự, chính trị được giao, công tác lập nhu cầu chi quý chưa được các ngành, đơn vị chú tâm dẫn đến hiện tượng chi tiêu ngân sách chủ yếu dồn vào quý 4 năm ngân sách.
Chức năng kiểm soát chi tuy đã phát huy được hiệu quả, hiệu lực song trong quá trình chi tiêu, thanh quyết toán vẫn còn xảy ra hiện tượng chi sai nội dung ngân sách, hóa đơn chứng từ có lúc tính pháp lý chưa cao, chi quá chỉ tiêu ngân sách. Điều này được thống kê trong bảng dưới đây qua theo dõi 32 báo cáo chi ngân sách trong năm mà Cục Hậu cần nộp và được phê duyệt bởi phòng Tài chính BTTM:
Việc chấp hành thời gian thanh quyết toán của các ngành chưa kịp thời. Ở các đơn vị cơ sở, cơ quan tài chính phải đôn đốc thường xuyên công tác thanh toán đối với các ngành mới kịp thời gian tổng hợp báo cáo quyết toán với trên.
Trong năm tài chính các đơn vị trực thuộc phải thực hiện 50 báo cáo, dự toán và kế hoạch các loại. Gồm:
- 01 dự toán chi ngân sách năm
- 01 kế hoạch hoạt động có thu và thu nộp ngân sách
- 03 báo cáo tiến độ thực hiện ngân sách và dự kiến các tháng tiếp theo của năm NS (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng)
- 12 Báo cáo tài chính tháng
- 12 Báo cáo chi thường xuyên tháng (lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn)
- 04 Báo cáo chi Nghiệp vụ hành chính quý
- 04 Báo cáo chi BHXH quý
- 04 Báo cáo thu – chi hoạt động có thu quý
- 04 Báo cáo chi nguồn Tự cân đối BTTM
- 04 Báo cáo chi nguồn Để lại đơn vị từ hoạt động có thu
- 01 Báo cáo Tổng quyết toán ngân sách năm Thời gian thực hiện:
- Dự toán chi ngân sách năm; Kế hoạch hoạt động có thu và thu nộp ngân sách; Báo cáo tiến độ thực hiện ngân sách và dự kiện các tháng tiếp theo của năm NS thời gian thực hiện theo thông báo của Ban Tài chính Cục Hậu cần.
- Các báo cáo tháng nộp về Ban tài chính Cục Hậu cần trước ngày mùng 5 của tháng tiếp
- Các báo cáo quý nộp về Ban tài chính Cục Hậu cần trước ngày mùng 7 của tháng đầu tiên quý tiếp
* Kiểm soát chi ngân sách
Công tác kiểm soát chi NS của các đơn vị trong Cục được thực hiện cả trước, trong và sau khi, chi tiêu. Nội dung mà cơ quan tài chính kiểm soát gồm:
- Việc bảo đảm tài chính cho những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng đã xác định, tính cân đối, hợp lý trong kế hoạch chi tiêu kinh phí.
- Điều kiện chi ngân sách theo Luật NSNN;
- Việc chấp hành các quy định về quản lý giá của Hội đồng gía đơn vị;
- Tính đầy đủ, hợp pháp của chứng từ thanh toán.
Công tác kiểm soát chi ở Cục Hậu cần bên cạnh việc kiểm soát chi của Ban Tài chính, của KBNN còn có sự tham gia kiểm soát của chỉ huy đơn vị, chỉ huy các ngành nghiệp vụ và tự kiểm soát của bản thân đơn vị, bộ phận trực tiếp chi.
Có thể nói việc quản lý cấp phát, thanh quyết toán kinh phí ở Cục Hậu cần được tiến hành cơ bản là chặt chẽ, toàn diện, kịp thời, thường xuyên nên đã góp phần mang lại hiệu quả nhất định trong chi tiêu sử dụng tài chính cho thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Tuy nhiên trong chấp hành NS vẫn còn có những khoản chi không đúng mục đích, nội dung NS; hiệu quả chi tiêu của một số ngành nghiệp vụ có nội dung chưa cao, chưa bảo đảm chặt chẽ yêu cầu về mặt pháp lý.
- Quyết toán ngân sách
- Báo cáo quyết toán tháng, quý
Trên cơ sở báo cáo quyết toán tháng, quý của các đơn vị, Ban Tài chính thẩm định xét duyệt quyết toán cho các đầu mối chi tiêu.
- Báo cáo quyết toán tháng
Cơ quan tài chính thẩm định phê duyệt trực tiếp trên báo cáo quyết toán tháng của đơn vị. Khi thẩm định và phê duyệt quyết toán tập trung thẩm định sự chính xác của các yếu tố quân số, chế độ tiêu chuẩn và số xin quyết toán của từng nội dung chi tiêu. Sau khi phê duyệt báo cáo quyết toán, Ban Tài chính ra thông tri chuẩn quyết toán và gửi kèm báo cáo quyết toán đã phê chuẩn cho đơn vị, lập báo cáo quyết toán lương, phụ cấp, tiền ăn, trợ cấp của Cục gửi phòng Tài chính BTTM.
- Báo cáo quyết toán quý
Ban Tài chính quy định thời gian thẩm định và xét duyệt quyết toán với từng đầu mối chi tiêu, bắt đầu từ ngày 7 đầu tháng sau quý chi tiêu và yêu cầu các đơn vị gửi toàn bộ chứng từ chi tiêu có liên quan đến kinh phí nghiệp vụ về Ban Tài chính để thẩm định, xét duyệt quyết toán, việc thẩm định và xét
duyệt quyết toán được thực hiện đến từng hồ sơ chi tiêu. Sau khi thẩm định, Ban Tài chính phê duyệt báo cáo quyết toán cho các đơn vị. Trên cơ sở số liệu và hồ sơ đã phê duyệt, Ban Tài chính tổng hợp báo cáo quyết toán kinh phí nghiệp vụ, kinh phí NSNN giao, Kinh phí XDCB, kinh phí chi BHXH quý của Cục gửi phòng Tài chính – BTTM.
Qua quyết toán kinh phí nghiệp vụ quý 4 hàng năm cho thấy việc chi tiêu, quyết toán kinh phí nghiệp vụ thường dồn vào cuối năm.
- Báo cáo quyết toán ngân sách năm
Để công tác Tổng QTNS năm có chất lượng, Ban Tài chính đã thông báo hướng dẫn các ngành, các đơn vị nội dung, mẫu biểu, trình tự và thời gian QTNS năm đồng thời thực hiện tốt công tác chuẩn bị cho QTNS năm ở cấp Cục Hậu cần.
Do hàng tháng, quý ban Tài chính đã thẩm tra xét duyệt quyết toán kinh phí lương, phụ cấp trợ cấp tiền ăn. Kinh phí nghiệp vụ của các đơn vị, ngành nghiệp vụ ngay sau tháng, quý chi tiêu. Vì vậy khi QTNS năm chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:
Quyết toán tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn tháng 12 và quyết toán kinh phí nghiệp vụ, kinh phí NSNN giao, kinh phí BHXH, kinh phí đầu tư XDCB, kinh phí bảo đảm quý
Làm các thủ tục kết thúc năm NS, chỉnh lý quyết toán và tổng hợp lập các báo cáo QTNS năm, tổng kết công tác tài chính năm.
Sau khi QTNS cho các ngành, các đơn vị trực thuộc, Ban Tài chính Cục tổng hợp lập quyết toán NS và tổng kết công tác tài chính năm gửi phòng Tài chính – BTTM. Nội dung báo cáo QTNS và tổng kết công tác tài chính năm đánh giá toàn diện các mặt hoạt động tài chính trong năm NS. Qua báo cáo QTNS và tổng kết công tác tài chính, tình hình thực hiện NS của Cục Hậu cần giai đoạn 2012 – 2014 được thể hiện qua bảng 3.8.
Thực hiện NS so với dự toán ngân sách của Cục Hậu cần giai đoan 2012 – 2014 là tương đối tốt, từ năm 2012 sang năm 2013 nhìn thấy sự tiến bộ rõ rệt trong tỷ lệ sai lệch của việc thực hiện NS so với dự toán được lập đầu năm chứng tỏ đơn vị đã chú trọng trong khâu lập kế hoạch chi tiêu sát đúng với tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Thực hiện NS so với chỉ tiêu NS được cấp.
+ Các khoản kinh phí lương, phụ cấp, tiền ăn, kinh phí NSBĐ, đầu tư XDCB, kinh phí NSNN giao nhìn chung đều đạt mức 100%. Trong thực hiện có sự dung sai nhưng tỷ lệ không đáng kể do đơn vị thực hiện tốt khâu kế hoạch ngân sách và đã bám sát chỉ tiêu ngân sách được cấp.
+ Khoản kinh phí NVHC và kinh phí khác trong quá trình thực hiện có tỷ lệ dung sai lớn hơn do tính chất chi tiêu của kinh phí NVHC rất phức tạp, phạm vi chi tiêu rất rộng, nhiều khoản mục nên trong thực hiện không tránh khỏi có khoản thừa và có khoản thiếu so với yêu cầu của nhiệm vụ. Còn nguồn kinh phí khác thường phải đảm bảo nhưng nhiệm vụ đột xuất không có kế hoạch từ đầu năm nên tỷ lệ thực hiện ngân sách so với chỉ tiêu được cấp từ 2012 – 2014 đang ở mức sai lệch cao.
Từ những vấn đề nêu trên có thể đánh giá chất lượng công tác lập DTNS của Cục tương đối tốt, tuy nhiên việc chấp hành NS còn những hạn chế cần phải khắc phục. Đồng thời cấp trên cũng cần cụ thể hơn trong định hướng lập DTNS cho đơn vị, phân bổ chi tiêu NS đầu năm sát hơn với yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị, hạn chế điều chỉnh, cấp bổ sung trong năm.
Mời bạn tham khảo thêm:
3.2.3. Quản lý tài chính đối với hoạt động có thu ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Quản lý các hoạt động có thu ở Cục Hậu cần được thực hiện theo Quyết định số 2017/2013/HD – TM. Quyết định số 3365/2001/QĐ-BQP ngày 17/12/2001 và Quyết định số 178/2007/QĐ-BQP ngày 29/11/2007 của Bộ trưởng BQP về quy định quản lý tài chính các hoạt động có thu tại các đơn vị dự toán quân đội. Hướng dẫn số 338/CTC-CĐQLHL của cục trưởng Cục Tài chính- BQP hướng dẫn thực hiện quy định quản lý tài chính các hoạt động có thu tại các ĐVDT quân đội.
Để tiến hành các hoạt động có thu, hàng năm Cục Hậu cần đều lập kế hoạch sản xuất xây dựng kinh tế năm trình Thủ trưởng BTTM phê chuẩn. Hoạt động có thu tại Cục Hậu cần – BTTM gồm:
- Thu từ đơn vị sự nghiệp công lập: Giáo dục mầm non
- Thu từ đơn vị sản xuất kết hợp: Cho thuê mặt bằng, kho bãi, phục vụ ăn, uống, nghỉ, trông giữ xe ôtô, dịch vụ công cộng, liên kết sửa chữa ôtô…
- Thu từ hoạt động tăng gia sản xuất: chăn nuôi, trồng trọt, xay sát.
Qua nghiên cứu, kết quả hoạt động có thu tại Cục Hậu cần – BTTM giai đoạn 2012 – 2014, cho thấy Ban tài chính Cục Hậu cần đã chủ động hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị làm tốt công tác xây dựng kế hoạch khai thác các hoạt động có thu căn cứ vào khả năng khai thác tiềm năng về lao động, đất đai, trang thiết bị được phép huy động và nhiệm vụ quân sự năm kế hoạch của các đơn vị.
Trên cơ sở kế hoạch sản xuất, xây dựng kinh tế đã được Thủ trưởng BTTM phê chuẩn, căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị, quân sự được giao, hợp đồng kinh tế đã ký, Cục Hậu cần điều động lực lượng, trang bị tổ chức thực hiện các hoạt động có thu do Cục trực tiếp quản lý, hạch toán thu nhập, chi phí.
Đối với hoạt động tăng gia sản xuất tại đơn vị, do các phân đội tổ chức thực hiện theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Cục Hậu cần để đảm bảo điều hòa hợp lý việc sử dụng sản phẩm rau, củ, quả, thịt, cá thu hoạch cho bảo đảm ăn ở các bếp ăn tập thể trong Cục.
Nguồn vốn bảo đảm cho tăng gia sản xuất tại đơn vị được cấp theo định mức. Nguồn vốn bảo đảm cho các hoạt động sản xuất, làm kinh tế khác do
Cục tự huy động, khai thác tiềm năng, nguồn lực tài chính trong quá trình hoạt động tài chính.
Ban Tài chính Cục phân công một nhân viên tài chính trong ban kiêm nghiệm theo dõi, hạch toán thu nhập, chi phí, kết quả và phân phối kết quả của từng hoạt động có thu theo quy định quản lý tài chính và chế độ kế toán đơn vị dự toán quân đội hiện hành.
Thu nhập của từng hoạt động có thu được xác định trên cơ sở khối lượng công việc hoàn thành. Căn cứ vào hồ sơ, chứng từ kế toán ghi sổ theo dõi hoạt động có thu.
Chi phí cho hoạt động có thu được theo dõi quản lý bao gồm: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Các đơn vị phải xây dựng định mức tiêu hao vật tư cho từng loại hình có thu, mức tiêu hao vật tư dựa vào định mức tiêu hao do cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc mức tiêu hao vật tư tương ứng của các cơ quan đơn vị khác và tình hình cụ thể của đơn vị mình. Giá vật tư dùng để hạch toán là giá thực tế tại thời điểm chi phí, có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp. Một số khoản chi phí có nguồn gốc từ ngân sách quốc phòng đơn vị phải theo dõi chặt chẽ hạch toán kế toán cụ thể để nộp lại ngân sách quốc phòng theo quy định hiện hành. Những nội dung chi phí do không tình toán được cụ thể chi phí đầu vào thì áp dụng định mức thu theo tỷ lệ trên doanh thu.
Chênh lệch thu, chi từ hoạt động có thu được sử dụng theo quy đinh phân phối của Bộ Tổng Tham mưu, Nộp ngân sách quốc phòng các khoản lương, điện nước, trích khấu hao. Phần chênh lệch thu chi được phân phối cho: Bổ sung kinh phí BTTM, Bổ sung kinh phí để lại đơn vị, Trích lập quỹ BTTM, Trích lập quỹ Cục Hậu cần, trích lập quỹ của đơn vị cấp dưới. Bổ sung kinh phí hoạt động và trích lập quỹ đơn vị để cải thiện đời sống của cán bộ, chiến sĩ, CNVQP và xây dựng đơn vị đã phản ánh rõ việc thu nộp ngân sách nhà nước.
Kết quả trên cũng cho thấy doanh thu của hoạt động có thu có tăng lên hàng năm đã phản ánh phần nào sự cố gắng nỗ lực của cán bộ Cục Hậu cần trong việc khai thác các mặt bằng nhàn rỗi, liên kết với các đơn vị ký hợp đồng ngắn hạn, dài hạn để tạo nguồn thu
- Thu nhập từ hoạt động có thu tăng dần qua các năm.
- Chi phí cho hoạt động có thu tăng cao, năm 2014 so với năm 2012 tăng 833 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng 117,1%
- Chi phí tăng cao hơn tốc độ tăng của thu nhập đã làm cho chênh lệch thu chi giảm.
Đi sâu nghiên cứu cho thấy chi phí cho sự nghiệp công lập tăng cao do giá học phẩm, giá lương thực tăng, sản xuất kết hợp làm kinh tế như dịch vụ ăn uống, tổ chức các tiệc cưới cũng bị ảnh hưởng bởi giá thực phẩm đầu vào của thị trường mang lại. Trang thiết bị xuống cấp phải đầu tư sửa chữa nhiều. Bên cạnh đó do chủ trương tinh giảm biên chế của Bộ quốc phòng mà các đơn vị có lao động hợp đồng phải đảm bảo trả lương và đóng bảo hiểm cho người lao động khiến chi phí tăng cao. Một số mặt bằng cho thuê đã thu hẹp theo điều động của Bộ. Năm 2012 bàn giao nhà khách Trúc bạch về BTTM nên cũng ảnh hưởng đến Doanh thu của đơn vị.
Việc phân phối thu nhập cho bổ sung kinh phí và trích quỹ đơn vị được thực hiện theo đúng tỷ lệ quy định theo quyết định 1175 năm 2012, và hướng dẫn 2017 năm
Tuy nhiên trong quản lý tài chính đối với hoạt động có thu ở Cục Hậu cần còn những hạn chế như: Các đơn vị chưa hạch toán chính xác thu nhập,
chi phí của hoạt động có thu tại đơn vị, kết quả đơn vị báo cáo chủ yếu dựa theo chỉ tiêu nhiệm vụ được giao; chưa quản lý chặt chẽ, còn để trang thiết bị xuống cấp nhanh nên việc đầu tư chi phí mới đã ảnh hưởng đến Thu > chi của đơn vị. Trong quản lý chi sản xuất kết hợp chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm của nhân viên quản lý chưa xây dựng được đầy đủ hệ thống định mức trong quản lý chi sản xuất kết hợp.
3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần – Bộ Tổng Tham mưu ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
Thuận lợi
- Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Cục Hậu cần – BTTM lần thứ XIV nhiệm kỳ 2010 – 2015 và Quy chế lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác tài chính trong Đảng bộ cục Hậu cần nhiệm kỳ 2010 – 2015. Đây là cơ sở định hướng lãnh đạo rất quan trọng cho công tác quản lý tài chính của Cục Hậu cần – BTTM.
- Công tác tài chính và Ban Tài chính Cục Hậu cần – BTTM luôn có sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của Đảng ủy, thủ trưởng Cục, sự lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ thường xuyên của phòng Tài chính BTTM và các cơ quan chức năng của Bộ Tổng Tham mưu. Bên cạnh đó KBNN Thành phố Hà Nội cũng luôn tạo điều kiện thuận lợi cho ngành tài chính hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Cán bộ, nhân viên tài chính của đơn vị có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
- Công tác quản lý tài chính của đơn vị đã có nề nếp từ nhiều năm. Cơ chế quản lý tài chính tương đối phù hợp với yêu cầu quản lý. Giúp phát huy được tính chủ động trong quản lý của cơ quan tài chính.
- Tài chính quân đội đã xây dựng được một hệ thống các quy định, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức rõ ràng giúp quản lý tài chính được thuân lơi.
- Điều kiện trang thiết bị, công nghệ thông tin từng bước được cải thiện giúp nâng cao hiệu quả quản lý, nâng cao năng suất làm việc của cán bộ tài chính.
Khó khăn:
- Trước hết Cục Hậu cần – BTTM cũng như các đơn vị, các ngành, các cấp… chịu sự tác động của nền kinh tế thế giới, tác động của kinh tế trong nước, gây bất ổn kinh tế vĩ mô dẫn đến sự biến động của giá cả hàng hóa dịch vụ. Đặc biết giá nguyên nhiên liệu phục vụ cho các hoạt động công tác thường xuyên theo đặc thù của từng ngành chuyên môn kỹ thuật.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngành tài chính ở các đơn vị cấp dưới chưa đồng đều.
- Có những tiêu chuẩn định mức đã lỗi thời không còn phù hợp với tình hình thực tế và cũng có những nội dung chi chưa được xây dựng định mức.
- Trang thiết bị công nghệ thông tin ở các đơn vị cơ sở có nơi còn khó khăn. Có những phần mềm quản lý chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu quản lý của ngành tài chính.
3.4. Đánh giá chung về công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần giai đoạn 2012 – 2014
3.4.1. Kết quả đạt được
Về thực hiện cơ chế quản lý tài chính, lãnh đạo, chỉ đạo công tác tài chính: Hệ thống quản lý tài chính ở đơn vị tương đối đầy đủ, hợp lý, thể hiện ở cơ cấu tổ chức, biên chế với các chức danh quản lý, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống. Cục Hậu cần đã thực hiện tốt cơ chế, quy chế quản lý tài chính của Cục Hậu cần theo nguyên tắc: Công tác tài chính đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Cục, sự chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp của Cục trưởng, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan đơn vị thuộc Cục chịu trách nhiệm trước Đảng ủy Cục và Cục trưởng về công tác tài chính của cơ quan, đơn vị mình. Ban Tài chính có trách nhiệm làm tham mưu và giúp Cục trưởng thực hiện công tác tài chính của Cục, đồng thời chịu trách sự chỉ đạo về nghiệp vụ của phòng Tài chính
- Về quản lý chu trình NS, kinh phí được NSNN cấp
Đối với công tác lập, chấp hành và QTNS Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng; Cục thường xuyên quán triệt nghiêm Luật NSNN. Trên cơ sở nhiệm vụ quân sự năm và chế độ chính sách hiện hành, căn cứ nhu cầu chi tiêu của các ngành, Cục đã tiến hành xây dựng kế hoạch tài chính bảo đảm cho các nhiệm vụ quân sự trong năm của từng ngành, từng đơn vị. Quá trình lập DTNS Cục chấp hành đúng các chế độ quy định, mẫu biểu, nội dung DTNS sát với thực tế đơn vị, hướng dẫn của BTTM
Về quản lý hoạt động có thu: Các khoản thu được quản lý chặt chẽ, chi tiêu dưới sự xét duyệt trực tiếp của Cục trưởng. Hàng tháng, quý cơ quan tài chính tổng hợp thu, chi báo cáo thường vụ Đảng ủy và chỉ huy Cục. Kết quả các hoạt động có thu Cục đã bổ sung kinh phí nghiệp vụ, chi hỗ trợ giải quyết chính sách, hoạt động dân vận, thưởng tết nguyên đán, chi ăn thêm cho bộ đội theo đúng quy định quản lý tài chính đối với hoạt động có thu của
- Về chấp hành chế độ quản lý, chế độ chính sách
Công tác tài chính tại Cục đã chấp hành tốt theo Điều lệ công tác tài chính QĐNDVN; Quy chế lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác tài chính trong Đảng bộ BTTM, trong Cục nhiệm kỳ 2010 – 2015; Quy chế quản lý tài chính của Cục; Quy chế lãnh đạo công tác xây dựng cơ bản; Quy chế quản lý hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế, Quy chế quản lý, sử dụng trang bị kỹ thuật của Cục Hậu cần.
Các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức được quản lý chặt chẽ, bảo đảm đúng đối tượng được hưởng, đúng định mức.
Hệ thống sổ, tài khoản và chứng từ kế toán được mở đầy đủ, hạch toán kịp thời sử dụng và quản lý theo đúng nguyên tắc, chế độ.
Thực hiện tốt chế độ dân chủ, công khai tài chính, kịp thời phổ biến, hướng dẫn các chính sách, chế độ mới của Nhà nước và BQP ban hành trong lĩnh vực tài chính cho mọi cán bộ chiến sĩ trong đơn vị, quán triệt và thực hiện nghiêm chỉ thị về đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Về công tác thanh tra, kiểm tra, xây dựng đơn vị quản lý tài chính tốt Cục đã tiến hành tự kiểm tra tài chính đơn vị, công tác kiểm tra tài chính được thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định. Định kỳ ủy ban kiểm tra đảng Cục chưng dụng các thành viên các cơ quan kiểm tra các ngành việc thực hiện chấp hành Đảng lãnh đạo công tác tài chính, chi tiêu ngân sách đúng mục đích.
Ban chỉ đạo phong trào thi đua xây dựng “ Đơn vị quản lý tài chính tốt” được kiện toàn theo đúng chỉ đạo của BTTM. Việc triển khai xây dựng, nhân điển hình tiên tiến về công tác tài chính luôn được cấp ủy Đảng và Chỉ huy Cục quan tâm. Đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tài chính có tinh thần đoàn kết cao, được đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đã làm tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy các cấp về công tác tài chính của đơn vị mình.
3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
- Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được như đã trình bày ở trên, công tác quản lý tài chính ở Cục Hậu cần trong giai đoạn 2012 – 2014 còn một số hạn chế đó là:
Chưa phát huy đầy đủ vai trò của hệ thống tổ chức quản lý tài chính ở Cục Hậu cần nhất là các tổ chức kiểm tra, giám sát tài chính nội bộ. Sự phối hợp giữa cơ quan tài chính với các ngành nghiệp vụ trong lập, chấp hành và quyết toán NS có thời điểm chưa chặt chẽ. Sử dụng các phương pháp, công cụ quản lý tài chính còn những hạn chế làm cho chất lượng quản lý tài chính chưa
Chất lượng công tác lập DTNS còn nhiều hạn chế, một số nội dung tính toán thiếu căn cứ thực tế, không sát yêu cầu nhiệm vụ, việc thực hiện xây dựng kế hoạch NS của các ngành nghiệp vụ chưa đầy đủ, chất lượng chưa Có nhiệm vụ được giao trong năm kế hoạch nhưng trong DTNS lại không được bố trí ngân sách hoặc bố trí mức quá thấp so với nhu cầu.
Quá trình chấp hành NS, chi tiêu sử dụng kinh phí được cấp ở một số ngành vẫn còn hiên tượng lấy kinh phí của mục này chi cho nội dung ở mục chi khác như lấy kinh phí bảo quản sửa chữa công trình phổ thông mua thiết bị văn phòng, kinh phí mua sắm tài sản dùng trong công tác huấn luyện chiến đấu mua dụng cụ phục vụ công tác chuyên môn, phụ cấp đi đường thanh toán vé tàu xe trong công tác phí…. Hoạt động kiểm soát chi NS, kiểm tra tài chính đối với các ngành, đơn vị có lúc, có nơi chưa được tăng cường, có trường hợp chi chưa đủ thủ tục pháp lý và các điều kiện chi. Việc điều hành chi tiêu ngân sách giữa các tháng, các quý của các ngành chưa hợp lý, vẫn còn tình trạng chi dồn NS vào các tháng cuối năm.
Thanh quyết toán kinh phí nghiệp vụ của một số ngành và thanh quyết toán một số công trình XDCB và công trình có tính chất XDCB chậm. Thủ tục quyết toán một số nội dung chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ. Còn có hiện tượng hợp pháp hóa chứng từ chi tiêu với những nội dung chi nhỏ. Công tác quản lý hiện vật sau quyết toán chưa chặt chẽ, mua sắm vật tư tài sản giá trị lớn nhưng công tác tổ chức đấu thầu đôi khi còn mang tính hình thức. Hiệu quả công tác kiểm tra chưa thể hiện rõ, xử lý vi phạm chưa nghiêm.
Quản lý chi hoạt động có thu chưa chặt chẽ, chi tiết cụ thể nội dung chi theo hướng dẫn số 338/CTC-CĐCLHL của Cục trưởng Cục Tài chính. Một số nội dung hoạt động có thu đơn vị chưa phản ánh kịp thời doanh
Nhận thức về quản lý tài chính của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ chưa đầy đủ, chưa nêu cao vai trò trách nhiệm trong chi tiêu sử dụng tiền vốn, vật tư tài sản, còn hiện tượng lãng phí trong sử dụng điện, nước.
Nguyên nhân chủ yếu
- Nguyên nhân khách quan
Quân số luôn biến động: Có nhiều nhiệm vụ đột xuất trong năm kế hoạch. Nhu cầu chi tiêu thực tế của Cục cho nhiệm vụ được giao lớn, thời gian dài, giá cả vật tư hàng hóa biến động tăng và chế độ chính sách có nhiều thay đổi. Nội dung các khoản chi NS chưa được hướng dẫn chi tiết cụ thể.
Trong cùng một bếp ăn nhưng tiêu chuẩn ăn khác nhau….Vì vậy quá trình tổ chức thực hiện chi tiêu thanh quyết toán NS, quản lý tài chính gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
- Hệ thống văn bản pháp lý về quản lý tài chính chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nhiều nội dung chi cụ thể chưa có định mức hoặc định mức không còn phù hợp thực tế nên các đơn vị còn gặp khó khăn trong quá trình quản lý.
- Công tác bảo đảm tài chính của Cục phụ thuộc nhiều vào khả năng bảo đảm của cấp trên. Phương thức bảo đảm bằng hiện vật do ngành nghiệp vụ cấp trên cung ứng đối với một số nội dung không hiệu quả, chưa phù hợp với tính chất cơ động thường xuyện trong thực hiện nhiệm vụ của Cục.
- Nguyên nhân chủ quan ( Luận văn: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội )
- Năng lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chỉ huy một số ngành, đơn vị đối với công tác quản lý tài chính có mặt chưa theo kịp với sự phát triển của tình hình thực tiễn. Thực hiện nguyên tắc lãnh đạo, quy chế và các chế độ quản lý, sử dụng tài chính, tài sản có lúc, có đơn vị chưa nghiêm. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chức năng chưa thường xuyên, phát hiện và đề xuất khâu yếu mặt yếu trong quản lý chu trình NS, xử lý tồn đọng về tài chính chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao.
- Nhận thức và thực hiện công tác tài chính, NS của một số cơ quan, ngành nghiệp vụ, của một bộ phận cán bộ chiến sĩ, CNVQP có mặt còn hạn chế. Cá biệt còn có biểu hiện cho rằng quản lý chặt chẽ tài chính là gây khó khăn cho đơn vị trong chi tiêu, kiểm tra tài chính là “bới lông, tìm vết”.
- Năng lực công tác, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số nhân viên làm công tác tài chính (nhất là cán bộ kiêm nhiệm) ở các cấp có lúc, có nơi chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn.
- Công tác kiểm soát chi có lúc thực hiện chưa được kiên quyết, tài chính các cấp chưa phát huy tốt vai trò, chức năng kiểm soát trong quá trình bảo đảm, thanh quyết toán kinh phí các loại.
- Tổ chức công tác kế toán ở một số ngành, đơn vị có những hạn chế nhất định. Trong thiết bị công nghệ phục vụ quản lý tài chính còn thiếu và chưa hiện đại ảnh hưởng đến chất lượng quản lý tài chính.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Giải pháp công tác quản lý tài chính ở đơn vị quân đội

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com