Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân là bài luận văn Thạc sĩ của một bạn tác giả yêu thích tìm hiểu văn học tại khu vực tỉnh Kiên Giang. Trong những năm nửa đầu thế kỉ hai mươi đến nay, do nhiều nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan mà có nhiều đợt di cư của cư dân phía Bắc vào Nam. Dù cho họ xuất thân từ tầng lớp nào đi chăng nữa thì khi đến vùng đất mới họ vẫn mang theo những hành trang quý giá nhất về văn hóa vốn được hình thành từ bao đời được triển khai trong Đề tai: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của một số nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những thứ hành trang quý giá ấy, ắt hẵn không thể thiếu văn học dân gian của quê hương mình. Chính vì vậy, sinh hoạt văn học dân gian trên vùng đất mới chính là một biểu hiện của tâm thức những người li hương xa xứ. Trong những dịp sinh hoạt văn học dân gian ấy, họ có dịp giao lưu văn hóa với văn học dân gian của cư dân khác thuộc khối cộng cư.
Với mong muốn tìm hiểu đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên vùng đất Nam Bộ, được sự gợi ý, hướng dẫn của thầy và sự động viên giúp đỡ của gia đình, bạn bè, chúng tôi xin chọn vấn đề này làm đề tài cho luận văn. Tuy nhiên, do khả năng có hạn nên trong quá trình khảo sát, chúng tôi chỉ chọn một tỉnh tiêu biểu ở Nam Bộ có nhiều nhóm cư dân phía Bắc sống tập trung – đó là tỉnh Kiên Giang. Thiết nghĩ, đây là một đề tài thú vị, mở ra hướng tiếp cận văn học dân gian từ nguồn văn học dân gian sống thông qua thâm nhập môi trường thực tế đời sống. Chính vì vậy, chúng tôi thống nhất chọn đề tài”Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của một số nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”làm đề tài nghiên cứu cho luận văn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Với đề tài này, chúng tôi thực hiện nhằm mục đích sau:
Thứ nhất, tìm ra những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân phía Bắc ở Nam Bộ thông qua việc khảo sát một địa bàn cụ thế – tỉnh Kiên Giang.
Thứ hai, luận văn góp phần khẳng định tính tích cực, hiệu quả của việc nghiên cứu văn học dân gian bằng cách thức điền dã.
Từ những mục đích đã đề ra, chúng tôi cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, chúng tôi tiến hành tìm hiểu quá trình định cư của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Theo chúng tôi, cần thiết phải tìm hiểu điều này vì đặc điểm môi trường vùng đất định cư sẽ là cơ sở vững chắc cho việc bảo tồn và phát triển văn nghệ dân gian nói chung và văn học dân gian nói riêng.
- Thứ hai, chúng tôi tiến hành ghi chép trung thực và xử lí những tư liệu do người dân cung cấp về sinh hoạt văn học dân gian của họ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, tiến hành phỏng vấn, phát phiếu điều tra để khảo sát tình hình sinh hoạt văn học dân gian theo từng nhóm đối tượng cụ thể.
- Thứ ba, từ những tư liệu khảo sát, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu sinh hoạt văn học dân gian của cư dân miền Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang với cư dân bản địa (ở từ lâu đời). Từ đó, chúng tôi khái quát lên những quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian từ vùng đất cố cựu lên vùng đất mới, rút ra những nét đặc thù, thế mạnh, hạn chế trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc cư trú trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
3. Lịch sử vấn đề ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Chúng tôi nghĩ rằng đây là một đề tài mới và rất thú vị. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi rất tiếc chưa tìm được công trình nghiên cứu nào liên quan đến đề tài. Chính vì vậy, để thực hiện đề tài theo mục đích và nhiệm vụ đề ra ở trên, chúng tôi phải rất khó khăn để giải quyết cho tường tận. Kính mong quý thầy cô thông cảm.
4. Đóng góp của luận văn
Chúng tôi nhận thấy với việc khảo sát đề tài này, luận văn có những đóng góp sau:
Thứ nhất, thông qua việc xử lí tư liệu, luận văn đã tìm ra được những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, rút ra những quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân từ phía Bắc vào Nam.
Thứ hai, luận văn góp phần khẳng định tính tích cực, hiệu quả của việc nghiên cứu sự vận động, sinh tồn của văn học dân gian bằng cách thức điền dã.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp chuyên ngành, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Với đề tài này, chúng tôi dùng phương pháp điều tra xã hội học ở hai cách: Thứ nhất, điều tra dạng hỏi – đáp (hỏi và trả lời bằng miệng).
Thứ hai, điều tra dạng trắc nghiệm (lập phiếu điều tra theo từng nhóm đối tượng cụ thể).
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm so sánh đối chiếu sinh hoạt văn học dân gian của cư dân miền Bắc trên địa bàn Kiên Giang với các tài liệu sưu tầm văn học dân gian ở miền Bắc và sinh hoạt văn học dân gian của cư dân bản địa.
- Phương pháp thống kê: Thống kê những tư liệu đã điều tra để tiến hành xử lí tư liệu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích những tư liệu điều tra, những kết quả rút ra từ việc so sánh, đối chiếu để tổng hợp nên những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Căn cứ vào đặc thù của đề tài nghiên cứu văn học dân gian thông qua con đường điền dã trên một địa bàn cụ thể nên đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên, để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi chỉ chọn những địa bàn tiêu biểu trong tỉnh Kiên Giang có đông người miền Bắc sống tập trung. Cụ thể, luận văn sẽ khảo sát trên ba huyện của tỉnh Kiên Giang, trong mỗi huyện, chúng tôi sẽ chọn một xã hoặc thị trấn tiêu biểu. Như vậy, đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là: cư dân phía Bắc cư trú trên các khu vực thuộc xã Nam Thái Sơn (huyện Hòn Đất); thị trấn Tân Hiệp (huyện Tân Hiệp) và thị trấn Kiên Lương (huyện Kiên Lương) của tỉnh Kiên Giang. Để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi xin tạm gọi cư dân miền Bắc cư trú ở xã Nam Thái Sơn là nhóm một; cư dân miền Bắc cư trú ở thị trấn Tân Hiệp là nhóm hai và cư dân miền Bắc cư trú ở thị trấn Kiên Lương là nhóm ba. Cách gọi này chúng tôi sẽ dùng thống nhất trong luận văn.
Về phương diện phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chủ yếu đi vào khảo sát những vấn đề liên quan đến sinh hoạt văn học dân gian đối với đối tượng nghiên cứu đã nêu ở trên.
Có thể bạn quan tâm:
Chương 1: QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƯ CỦA CƯ DÂN PHÍA BẮC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG
Ở chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát sơ lược về vùng đất định cư và những đặc điểm chính của cả ba nhóm đối tượng cư dân phía Bắc cư trú trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Từ đó, chúng tôi tìm ra những điều kiện thuận lợi cũng như những khó khăn của vùng đất định cư đối với sự phát triển văn học dân gian. Chúng tôi nghĩ rằng tìm hiểu sinh hoạt văn học dân gian của một cộng đồng người là cần thiết phải tìm hiểu rõ về những vấn đề liên quan đến đời sống của họ. Bởi vì chúng tôi hiểu rằng sinh hoạt văn học dân gian là hoạt động mang tính cộng đồng, họ sử dụng văn học dân gian hoặc chất liệu văn học dân gian có hoặc không có chủ ý ngay trong đời sống sinh hoạt thường nhật. Thiết nghĩ, những nội dung này sẽ là những tiền đề quan trọng chi phối sự hình thành và phát triển nền văn học dân gian ở địa bàn tỉnh Kiên Giang nói chung và sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân miền Bắc di cư vào Nam trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói riêng.
1.1. Vài nét về địa bàn tỉnh Kiên Giang và quá trình định cư của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
1.1.1. Vài nét về địa bàn tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam nước ta. Trung tâm của tỉnh là thành phố Rạch Giá, cách thành phố Hồ Chí Minh 250 km về phía Tây. Tỉnh Kiên Giang tiếp giáp với tỉnh An Giang ở phía Đông Bắc, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang ở phía Đông, tỉnh Bạc Liêu ở phía Đông Nam, tỉnh Cà Mau phía Nam, đặc biệt là phía Bắc giáp với nước Campuchia với đường biên giới dài 54 km và Vịnh Thái Lan ở phía Tây với đường biển dài hơn 200 km. Tỉnh Kiên Giang có khoảng hơn 100 đảo lớn nhỏ ngoài biển vá có diện tích rừng ngập mặn vào loại nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh có diện tích tự nhiên là 6299 km2 với dân số 1683149 người (tính từ ngày 1/4/2009). Về địa giới hành chính, tỉnh Kiên Giang có một thành phố, một thị xã và mười ba huyện. Nhìn chung, trong tất cả các địa bàn của tỉnh đều có ba thành phần dân tộc gồm Kinh, Hoa và Khơ me. Trong số đó, người Kinh chiếm tỉ lệ đông nhất với một phần người Kinh bản địa và một bộ phận rất đông người Bắc di cư vào Nam. Những người gốc Bắc di cư này chủ yếu sống ở các địa bàn thuộc các huyện Hòn Đất, Tân Hiệp và Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang. Nhìn chung, những người dân trong khối cộng cư này vẫn sống chan hòa, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, người Bắc hay người Nam. Họ luôn yêu thương, đoàn kết giúp đỡ, chia sẽ nhau trong việc phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cũng như trong sinh hoạt văn hóa cũng có sự giao lưu với nhau. Chính điều này đã tạo nên nét đặc thù trong sinh hoạt văn hóa của địa bàn này.
Về mặt lịch sử, Kiên Giang trước đây là một trấn hoang vu của phủ Sài Mạt thuộc Chân Lạp xưa do Mạc Cửu, di thần nhà Minh- Trung Quốc, do không hàng phục triều đình Mãn Thanh đã di cư đến mở mang, khai phá và phát triển làm cho vùng đất này ngày càng trở nên trù phú hơn. Khoảng cuối thế kỉ mười bảy, đầu thế kỉ mười tám, vua Cao Miên phong cho Mạc Cửu chức Ốc nha để cai quản vùng đất này. Tuy nhiên do bị quân Xiêm thường xuyên quấy nhiểu mà nhà nước Cao Miên không có đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ, vì vậy, năm 1708, Mạc Cửu đã thần phục chúa Nguyễn Phúc Chu để được bảo hộ nhưng vẫn giữ nguyên chức vụ. Từ lúc đó trở đi, vùng đất này thuộc lãnh thổ của Việt Nam và có tên gọi Hà Tiên. Sau này, con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tích làm đô đốc cai trị và mở rộng thêm vùng đất này. Đến đời Minh Mạng, 1832, Hà Tiên là một trong sáu tỉnh Nam kì. Đến năm 1876, Pháp chia Nam kì thành bốn khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện thì tỉnh Hà Tiên lúc bấy giờ lại bị chia thành hai hạt là Hà Tiên và Rạch Giá. Đến khoảng năm 1900, hai hạt tham biện Hà Tiên và Rạch Giá lại đổi thành hai tỉnh Hà Tiên và Rạch Giá. Sau năm 1954, hai tỉnh này nhập lại làm một với tên gọi là Kiên Giang như ngày nay.
Vốn là một tỉnh giàu tiềm năng về kinh tế lại được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào bao gồm hơn hai mươi núi đá vôi lớn nhỏ lại thêm rừng vàng biển bạc nên đời sống của người dân Kiên Giang tương đối phát triển. Cùng với sự phát triển ấy, đời sống văn hóa tinh thần của người dân Kiên Giang cũng được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, như đã nói, đây là địa bàn có nhiều thành phần dân tộc, tôn giáo đặc biệt là khu vực có rất đông người di cư gốc Bắc sống tập trung nên trong sinh hoạt văn hóa vừa đa dạng vừa phức tạp. Ngoài sự tiếp thu nền văn hóa mới trong khối cộng cư, mỗi dân tộc đều có những bản sắc riêng kể cả những người dân di cư, khi đến vùng đất mới, họ vẫn mang theo và truyền cho các thế hệ con cháu những gì thuộc về bản sắc văn hóa của quê hương mình. Người Hoa ở Kiên Giang dù đã định cư rất lâu nhưng họ vẫn nói lưu loát tiếng mẹ đẻ và những nghi thức lễ hội của họ đều được bảo tồn. Người Khơ me bản địa cũng thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, tôn giáo của mình rất rõ trong sinh hoạt tập thể ở các lễ hội chùa chiền. Người miền Bắc khi di cư vào Nam cũng thể hiện mình bằng những nét văn hóa đặc sắc của quê hương qua những cân chuyện kể, những lời ru, điệu hò câu hát quê mình…
1.1.2. Vài nét về quá trình định cư của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Đối với đề tài này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi những người gốc Bắc di cư trong khoảng thời gian từ nửa đầu thế kỉ hai mươi đến nay. Như đã giới thiệu ở phần mở đầu, từ khoảng nửa đầu thế kỉ hai mươi đến nay đã có rất nhiều đợt di cư của cư dân phía Bắc vào Nam. Họ di cư với nhiều lí do, có thể là vì cuộc sống mưu sinh cũng có thể vì lí do tôn giáo, chính trị hoặc nhiều lí do khác nữa, thế nhưng, hầu hết những người miền Bắc di cư đến miền Nam nói chung, đến tỉnh Kiên Giang nói riêng đều có điểm chung là cần cù, sáng tạo, chịu thương chịu khó. Qua khảo sát tư liệu và thực tế, chúng tôi nhận thấy trong khoảng một thế kỉ trở lại đây có nhiều đợt di cư từ Bắc vào Nam nhưng nhìn chung vẫn có ba đợt di cư được xem là quy mô lớn. Đó là các đợt di cư vào các năm : 1941, từ 1954 đến 1956 và từ 1978 đến 1979.
Đợt di cư có thể xem là sớm nhất là đợt di cư năm 1941 của người miền Bắc chủ yếu là ở vùng nông thôn. Vào năm 1940, báo chí miền Bắc có đăng một bài thơ vận động nhân dân đi vào Nam, cụ thể là vùng Rạch Giá, Tri Tôn làm đồn điền. Hiện nay, hầu hết người dân di cư vào Nam vẫn truyền lại cho con cháu nội dung bài thơ như sau:
“Vốn nhà nông nghề mình từ trước
Việc cấy cày cả nước cùng theo
Bắc kì ruộng ít người nhiều
Cái điều nhân mãn là điều đáng lo
Miền Rạch Giá người thưa đất rộng
Bãi phù sa gần vũng Tri Tôn
Muôn ngàn mẫu ruộng bỏ không
Cỏ hoa vui mắt non sông nhiệm mầu
Nay muốn giúp dân nghèo cả nước
Chính phủ bèn mở cuộc di dân
Đưa người ra đó làm ăn
Riêng dân Nam, Thái dự phần được đi ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Nhờ chính phủ thương vì rất mực
May áo quần lương thực cấp cho
Ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò
Mười lăm mẫu ruộng riêng cho tư điền
Dịp may mắn tự nhiên mà gặp
Anh em nghèo xin chớ bỏ qua
Chữ rằng tứ hải vi gia
Ở đâu cũng đất nước nhà Việt Nam
Nên cố gắng ăn làm chăm chỉ
Chớ tin điều tà quỉ điêu ngoa
Những điều gian trá xấu xa
Đừng nên nghe vạy nữa mà mất khôn
Cát lấp mãi nên cồn mấy chốc
Đất vỡ dần thành thục có phen
Nền ta nếp cũ vẫn còn
Ngoảnh trông Tiền Hải,
Kim Sơn thuở nào
Công tác thổ dồi dào khắp cõi
Cuộc hưng vong nối dõi tông đường
Một mai sở vững bền
Thành làng thành nước nổi lên cơ đồ…”
Đó là một nội dung vận động nhân dân hai tỉnh Nam Định và Thái Bình vào vùng Tri Tôn lập nghiệp, thực ra đó là một hình thúc mộ phu của tay tư sản Belot… Được chính quyền thực dân ủng hộ bằng một số chính sách cụ thể trong việc di dân, Belot đã mộ được 750 gia đình của các huyện Tiền Hải, Kiến Xương, Thụy Anh, Nghĩa Hưng, Xuân Thủy, Hải Hậu thuộc hai tỉnh Nam Định và Thái Bình vào làm công cho hắn dưới hình thức chia đất cho dân khai hoang lập nghiệp. Như vậy, đến ngày 27/10/1941, đã có 750 gia đình quê ở hai tỉnh Nam Định, Thái Bình vào định cư trên vùng đất mới này cho đến ngày nay. Có thể xem đợt di cư này là cuộc di cư thứ nhất và riêng có trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Đợt di cư thứ hai có thể xem là cuộc di cư vào Nam qui mô lớn nhất từ trước đến nay. Qua khảo sát tài liệu, chúng tôi thấy rằng từ năm 1954 đến năm 1956, tổng cộng có khoảng một triệu người gốc Bắc di cư vào Nam. Ngoài số đông là người Kinh, trong đợt di cư này cũng có khoảng bốn mươi lăm ngàn người dân tộc thiểu số Tây Bắc như Nùng, Thái, Mèo,… Trong đợt di cư này, đồng bào công giáo có khoảng tám trăm ngàn người chiếm hơn hai phần ba số dân di cư. Trong số đó có rất đông giáo dân thuộc các làng Bùi Chu và Phát Diệm thuộc tỉnh Ninh Bình và các khu vực phụ cận. Như vậy, có thể nói lí do tôn giáo là lí do thứ nhất của những người di cư đợt này. Có thể xem đợt di dân này là đợt di dân nhiều nhất trong lịch sử của người gốc Bắc vào Nam. Khi vào Nam, đại bộ phận những cư dân này sống tập trung theo khu vực, cũng có một số rất ít sống riêng lẽ hòa nhập cùng cộng đồng người Nam bản địa hoặc các dân tộc khác. Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi thấy rằng, những khu vực có đông người gốc Bắc di cư trong đợt này tập trung nhiều nhất ở các địa bàn của tỉnh Đồng Nai và rất nhiều trong số đó tập trung ở một số địa bàn thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có địa bàn Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Đây cũng là địa bàn nằm trong phạm vi khảo sát của đề tài ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Khác với đợt di dân năm 1941, đợt di dân này gồm nhiều thành phần rất phức tạp, có cả những người trí thức và những người có xu hướng chính trị tiêu cực. Qua khảo sát ở địa bàn Tân Hiệp và Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang, chúng tôi thấy đa số di dân vào Nam vì lí do chính trị trong đợt này hiện nay đã di cư sang Mỹ, nhất là những người định cư ở địa bàn Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên, trong phạm vi khảo sát của đề tài, chúng tôi xin phép không đề cập nhiều đến vấn đề lí do chính trị hay tôn giáo của những người di cư đợt này. Thiết nghĩ, đó là vấn đề nhạy cảm và cũng không cần thiết cho phần tiền đề để đi vào việc tìm hiểu sinh hoạt văn học dân gian của họ.
Đợt di dân thứ ba là đợt di dân khoảng từ năm 1978 đến mùa hè năm 1979, khi chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta nổ ra, một số cư dân ở nhiều địa bàn miền Bắc đã lần lượt di cư vào Nam. Hầu hết những người di dân trong đợt này là tránh họa chiến tranh, một số khác vì lí do kinh tế khó khăn nên vào Nam lập nghiệp. Khi vào Nam, họ định cư ở nhiều nơi, nhiều tỉnh ở miền Nam. Chính vì vậy, họ khác với các đợt di dân trước, những người di dân trong đợt này có quê gốc ở nhiều tỉnh khác nhau và ít sống tập trung thành khu vực như các nhóm di dân trước đó. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy ở tỉnh Kiên Giang duy chỉ có địa bàn Kiên Lương là có nhóm cư dân này sống tập trung tương đối cao.
Ngoài ba đợt di cư nói trên, khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng còn có nhiều đợt di cư khác với quy mô nhỏ lẻ. Những nhóm cư dân này vào Nam nhiều nhất vào những năm tám mươi đến nay với nhiều lí do nhưng nhiều nhất vẫn là đoàn tựu gia đình và mục đích kinh tế. Một nhóm người dân gốc Bắc khác vào Nam cũng tương đối đông là những cán bộ công viên chức chuyển công tác và bộ đội vào Nam sau 1975. Nhìn chung, trên địa bàn Kiên Giang, những nhóm này định cư ở nhiều nơi nhưng nhiều nhất vẫn là các khu vực thuộc các địa bàn nằm trong phạm vi khảo sát của đề tài này, đặc biệt chiếm tỉ lệ cao nhất ở địa bàn huyện Kiên Lương.
1.2. Đặc điểm của các nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
1.2.1. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ nhất ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
1.2.1.1. Vài nét về lịch sử vùng đất Nam Thái Sơn
Là một xã thuộc huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, Nam Thái Sơn có rất đông người dân phía Bắc di cư. Về vị trí địa lí, xã Nam Thái Sơn nằm cặp theo kinh xáng Tri Tôn về phía bờ bắc kinh xáng Rạch Giá-Hà Tiên. Xã có diện tích tự nhiên 154.960 km2 với dân số trên 3000 người. Phía Bắc giáp xã Vọng Thê và Cô Tô-tỉnh An Giang, Nam giáp thị trấn Hòn Đất, Đông giáp xã Mỹ Hiệp Sơn-tỉnh Kiên Giang và phía Tây giáp xã Bình Sơn-Kiên Giang.
Trước đây, vùng này là rừng rậm, đất thấp. Trải qua một thời gian dài với nhiều biến đổi của thiên nhiên, nhất là thời kì”hải thoái”(biển lùi), lại thêm được nước sông Cửu Long mang phù sa về bồi dần, cây tràm phát triển mạnh. Rừng xanh tươi tốt nhưng gần như không có người ở. Cho đến khi Trấn Hà Tiên được thành lập thì vùng đất này vẫn còn hoang vu, nhưng cư dân từ các vùng trên, phía An Giang, cũng bắt đầu lần xuống khai hoang lập nghiệp.
Đến đầu thế kỉ XIX, dưới triều Nguyễn, khu vực này thuộc tổng Kiên Hảo, huyện Kiên Giang, tỉnh Hà Tiên. Đến khi thực dân Pháp xâm chiếm miền Nam, chúng chia Nam kì thành 6 tỉnh, trong đó tỉnh Rạch Giá gồm 6 quận: Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, Long Mỹ và Phước Long. Các làng Thổ Sơn, Sóc Sơn, Mỹ Lâm đều thuộc quận Châu Thành. Địa giới của các làng bấy giờ rất rộng. Làng Sóc Sơn kéo dài từ Sóc Xoài đến Bình Sơn, bao trùm cả Nam Thái Sơn ngày nay. ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Từ khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, thực dân Pháp cho đào kênh Rạch Giá-Hà Tiên và kênh Mốp Giăng (còn gọi là kênh Sóc Xoài-Ba Thê), kênh Tri Tôn và kênh Tám Ngàn để phục vụ cho việc khai thác rừng tràm và phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, thời gian này, các đường giao thông nối liền Rạch Giá, Hà Tiên và các vùng phụ cận còn được mở. Kênh Xáng Tri Tôn được đào từ Tri Tôn (Xà Tón) thuộc tỉnh An Giang xuống Rạch Giá-Hà Tiên nên chỗ khu vực nối có địa danh là Ngã Ba Tri Tôn. Thời gian này, nơi đây bắt đầu có dân cư người kinh và người khmer bản địa tập trung về ở hình thành xóm Tri Tôn.
Khi kênh Tri Tôn hình thành, nhân dân các nơi kéo về khai hoang lập nghiệp, nhất là dân vùng Xà Tón, Ba Thê, lấn dần từ phía An Giang xuống ở dọc theo kênh xáng, mở đất làm ruộng hình thành những khu dân cư mới. Từ những năm 1930, một số người hoạt động cách mạng ở các nơi khác bị chính quyền thực dân khủng bố đã tìm về đây trú ngụ. Thế nhưng, vùng đất này có cư dân đông đúc, trù phú như ngày nay phải kể đến những người di dân từ Bắc vào Nam.
1.2.1.2. Vài nét về lịch sử di dân của nhóm cư dân thứ nhất
Như đã giới thiệu ở phần trước, vào khoảng những năm 30, 40 của thế kỉ XX, chính quyền thực dân cho phép số tư sản người Pháp và địa chủ người bản xứ đến địa bàn xã Nam Thái Sơn ngày nay khai thác rừng tràm và mở các đồn điền trồng lúa. Vùng đất Nam Thái Sơn ngày nay lúc bấy giờ thuộc làng Sóc Sơn được một tay tư sản người Pháp tên Belot xin khai thác phần đất phía đông kinh xáng Tri Tôn. Tại đây, ở hai bờ kênh xáng đã có một số người dân bản địa sinh sống nhưng rất thưa thớt. Như đã nói ở phần trước, đến năm 1941, địa bàn này lại có thêm có 750 gia đình quê ở hai tỉnh Nam Định, Thái Bình vào định cư trên vùng đất mới này cho đến ngày nay.
Tính đến thời điểm khảo sát đề tài, người viết đã thống kê có khoảng hơn 2500 người dân trên địa bàn xã Nam Thái Sơn là người gốc Bắc, chiếm tỉ lệ trên 80 phần trăm dân số trong toàn xã. Thời gian đầu, cộng đồng cư dân Nam Thái Sơn được hình thành nhưng mối quan hệ giữa dân di cư mới đến và dân địa phương chưa gắn bó chặt chẽ vì ai cũng phải lao động cật lực để mưu sinh. Khi cuộc sống dần ổn định, quan hệ của họ càng ngày càng thân thiết qua trao đổi kinh nghiệm trong cuộc sống, lao động sản xuất hay giao lưu văn hóa, không có sự phân biệt giữa dân mới và dân cũ, người Bắc hay người Nam. Việc hình thành tên xã Nam Thái Sơn cũng đã phần nào khẳng định mối quan hệ khắng khít của cộng đồng cư dân trong khối cộng cư này (Nam Thái Sơn là tên ghép giữa dân di cư Nam Định, Thái Bình và cư dân người kinh, khơ me thuộc làng Sóc Sơn bản địa).
1.2.1.3. Điều kiện sinh sống ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Phần lớn những hộ gia đình di dân ở xã Nam Thái Sơn theo tập quán lao động của ông cha là làm ruộng và chăn nuôi nông nghiệp. Tuy nhiên, có một bộ phận người di dân đến đây lại chuyển sang làm nghề nắn lò đất. Đây là một nghề truyền thống có trên một trăm năm nay của cư dân bản địa do tận dụng nguồn nguyên liệu đất sét tự nhiên của địa phương. Thế nhưng, từ khi nhiều gia đình người Bắc di cư chuyển sang nghề nắn lò thì nơi đây lại nhanh chóng trở thành làng nghề nổi tiếng với tên gọi “Xóm lò đầu doi”. Tại đây, người dân di cư không chỉ nắn lò đất mà còn chuyên sản xuất một số loại sản phẩm gia dụng như khuôn bánh, nồi, óng khói lò,… Nhờ sự cần cù vốn có của số đông đồng bào di cư mà đời sống người dân ở Nam Thái Sơn hiện nay đang dần khấm khá, phát triển hơn.
1.2.1.4. Về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
Hầu hết người dân di cư vào Nam Thái Sơn đều xuất phát từ gốc nông thôn cùng khổ thuộc hai tỉnh Nam Định và Thái Bình. Chính vì vậy, khi đến vùng đất mới, họ vẫn bảo tồn truyền thống tín ngưỡng, văn hóa của quê hương mình. Khi có điều kiện thì họ lập tức xây dựng đền thờ những anh hùng dân tộc trên vùng đất mới. Có lẽ, đó vừa là niềm tự hào đối với quê hương của họ vừa là chỗ dựa tinh thần giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Khảo sát trong toàn xã Nam Thái Sơn có tổng cộng ba đền thờ đều là do những người Bắc di cư xây dựng, đó là hai đền thờ các vị vua nhà Trần và đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Mặc dù qui mô các đền thờ có khác nhau nhưng lòng tôn kính của họ đối với các bậc tiền nhân theo thời gian vẫn không suy giảm. Hàng năm, họ đều tổ chức các nghi thức lễ hội rất long trọng với sự tham gia của đông đảo người dân di cư, trong đó có cả người dân bản địa. Qua khảo sát thực tế, người viết nhận thấy phần lớn người di cư nơi đây không theo tôn giáo nào cả. Họ thờ cúng tổ tiên ông bà, thổ địa, thành hoàng và trong nhà đều có treo ảnh Bác Hồ. Một bộ phận rất ít người di dân là tín đồ Công giáo và phật giáo. Và những người theo đạo phật này cũng có đôi chút ảnh hưởng của đạo Phật giáo Hòa Hảo của người dân Nam Bộ và đạo phật của người Khmer bản địa.
Hòa chung vào sự giao lưu tín ngưỡng là sự giao lưu văn hóa giữa những người di dân và người bản địa. Trong những lễ hội, sinh hoạt văn hóa của người miền Bắc di cư không bao giờ thiếu sự tham gia của những người bản địa, kể cả người Khmer và người dân vùng phụ cận. Và tất nhiên trong các lễ hội, sinh hoạt văn hóa của người dân bản địa cũng không thể thiếu sự tham gia nhiệt tình của người dân di cư. Thoạt nhìn cứ tưởng trong khối cộng cư này có sự hòa trộn văn hóa sâu sắc nhưng quan sát kĩ thì đó chỉ là sự giao lưu, tiếp thu những tinh hoa giữa các vùng văn hóa với nhau. Đã hơn nửa thế kỉ vào Nam nhưng những người Bắc di cư vẫn bảo ban cho con cháu mình giữ giọng nói của người con Nam-Thái, vẫn nhớ không quên những lời ru, điệu hò câu hát và cả những câu truyện kể như là niềm tự hào đối với quê hương xứ sở…
1.2.2. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ hai ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
1.2.2.1. Vài nét về lịch sử vùng đất Tân Hiệp
Địa bàn Tân Hiệp của tỉnh Kiên Giang là địa bàn có rất đông người dân miền Bắc theo đạo Công giáo di cư vào Nam. Huyện được thành lập năm 1957 trên cơ sở tách ra từ quận Kiên Thành. Nơi đây có vị trí địa lí thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội vì huyện nằm trên trục đường chính nối dài theo hướng thành phố Rạch Gía đi thành phố Hồ Chí Minh. Huyện gồm chín xã và thị trấn trung tâm- thị trấn Tân Hiệp, phía Bắc giáp huyện Thoại Sơn-tỉnh An Giang, phía Nam giáp huyện Giồng Riềng- tỉnh Kiên Giang, phía Đông giáp huyện Vĩnh Thạnh- thành phố Cần Thơ và phía Tây giáp thành phố Rạch Giá, huyện Châu Thành- tỉnh Kiên Giang.
Do giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu địa bàn có đông người miền Bắc di cư nhất huyện, đó là thị trấn Tân Hiệp. Thị trấn Tân Hiệp có diện tích tự nhiên là 321.720 km2
Pvới dân số là 19.929 người. Thị trấn Tân Hiệp ra đời ngay khi huyện thành lập và là khu vực trung tâm của huyện. Đây là địa bàn duy nhất ở đồng bằng sông Cửu Long có đền thờ Quốc tổ Hùng Vương do những người di cư từ miền Bắc vào Nam xây dựng từ năm 1957.
1.2.2.2. Vài nét về lịch sử di dân của nhóm cư dân thứ hai
Như đã nói ở phần trước, từ năm 1954 đến năm 1956 một bộ phận khá đông người dân theo đạo Công giáo ở nhiều địa bàn miền Bắc di cư vào Nam. Chúng tôi xin phép không đề cập đến vấn đề chính trị liên quan đến lịch sử di dân của nhóm cư dân này. Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng khi di cư vào địa bàn tỉnh Kiên Giang họ định cư tập trung nhiều nhất ở địa bàn Tân Hiệp của tỉnh Kiên Giang và một số vùng phụ cận thuộc thành phố Cần Thơ. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến nhóm cư dân định cư trên vùng đất Tân Hiệp của tỉnh Kiên Giang. Có thể thấy, phần lớn nhóm người di cư này là những người theo đạo và có trình độ học vấn tương đối, kinh tế cũng không đến nỗi khó khăn cùng khổ (khác với nhóm cư dân thứ nhất đã trình bày ở trên). Chính vì vậy, chỉ ba năm khi đến vùng đất mới (tính đến thời điểm thành lập huyện Tân Hiệp), họ nhanh chóng biến vùng đất trũng sâu của quận Kiên Thành xưa kia thành huyện Tân hiệp có sự phát triển về mọi mặt, có nhiều kênh rạch chằng chịt, đặc biệt mang đậm dấu ấn, bản sắc văn hóa của người miền Bắc.
1.2.2.3. Điều kiện sinh sống ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Đây là địa bàn trung tâm và là khu vực thị tứ của huyện nên phần lớn người dân ở đây sống dựa vào buôn bán, nuôi trồng thủy sản và các làng nghề thủ công truyền thống. Một bộ phận khác chủ yếu tập trung vào lớp trẻ làm công nhân cho các nhà máy chế biến nông sản ở địa phương và các khu vực lân cận. Hiện nay, địa bàn này vẫn còn làng nghề truyền thống làm bánh đa rất phát triển thu hút hàng trăm hộ gia đình tham gia. Đây là làng nghề truyền thống của người gốc Bắc, nó ra đời ngay khi có mặt của người Bắc trên vùng đất này. Nhìn chung, tính đến thời điểm đề tài, chúng tôi nhận thấy đời sống của người dân nơi đây, đặc biệt là người dân di cư từ phía Bắc đều có đời sống tương đối ổn định.
1.2.2.4. Về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
Theo số liệu điều tra thống kê thì hiện nay toàn thị trấn Tân Hiệp có khoảng hơn 70 phần trăm người gốc Bắc sinh sống. Phần còn lại gồm dân người kinh, người Khmer bản địa và cả người gốc Hoa di cư. Như đã nói ở trên, chỉ khi người miền Bắc di cư vào huyện này mới có và cùng lúc với quá trình thành lập địa bàn mới là đền thờ Quốc tổ Hùng Vương được dựng lên. Nếu ở thành phố Hồ Chí Minh có đến 9 đền thờ Quốc tổ Hùng Vương thì ở đồng bằng sông Cửu Long duy nhất chỉ có ở đây có đền thờ. Qua tìm hiểu thực tế, ngôi đền thờ này tọa lạc tại ấp Đông Bình, thị trấn Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Năm 2005, đền đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Hàng năm, đến ngày 10 tháng 3 âm lịch, những người dân quanh vùng dù là người Nam hay người Bắc đi đâu xa vẫn về để bái vong linh tổ tiên. Không chỉ có vậy, nơi đây còn có vài đền thờ các vị thần cũng do những người Bắc di cư xây dựng mang dáng dấp của những đền thờ ở quê hương họ. Điều đó cho thấy ý thức về cội nguồn, truyền thống dân tộc rất mãnh liệt của những người con xứ Bắc li hương và cả của người bản địa.
Như đã nói ở trên, đa số những người di dân miền Bắc vào đây là tín đồ của đạo Công giáo cho nên ở huyện Tân Hiệp nói chung và thị trấn Tân Hiệp nói riêng có rất nhiều nhà thờ Công giáo phục vụ cho việc tín ngưỡng của người dân nơi đây. Hàng tuần vào ngày chúa nhật, những giáo dân nơi đây không phân biệt Bắc Nam nô nức đi lễ. Trong những dịp lễ lớn như lễ Giáng sinh họ tổ chức rất long trọng, hòa vào dòng người đi lễ có cả sự có mặt của các cư dân bản địa. Và trong những lễ hội khác của người bản địa lại cũng có sự tham gia của những người Bắc di cư. Chính trong những dịp như thế họ lại có điều kiện kết thân, trao đổi kinh nghiệm làm ăn và cả giao lưu văn hóa trong những lần sinh hoạt mang tính tập thể của khối cộng cư.
1.2.3. Đặc điểm nhóm cư dân thứ ba
1.2.3.1. Vài nét về lịch sử vùng đất Kiên Lương
Kiên Lương là một địa bàn thuộc trấn Hà Tiên xưa. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Sài Gòn cho tách ra khỏi Hà Tiên để thành lập quận Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Từ sau năm 1975, Kiên Lương lại được sát nhập vào huyện Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Cho đến ngày 8 tháng 7 năm 1998, vùng đất này lại tách khỏi Hà Tiên để thành lập huyện Kiên Lương cho đến ngày nay. ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Xét về địa giới hành chính, huyện Kiên Lương bao gồm khu vực trung tâm là thị trấn Kiên Lương và 9 xã. Huyện có vị trí khá thuận lợi về mọi mặt với phía Bắc giáp huyện Tri Tôn-tỉnh An Giang, phía Nam giáp với biển, phía Đông giáp với huyện Hòn Đất-tỉnh Kiên Giang và phía Tây giáp với huyện Hà Tiên – tỉnh Kiên Giang. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số vấn đề liên quan đến khu vực thị trấn Kiên Lương.
Thị trấn Kiên Lương có diện tích tự nhiên 191.060 km2, với dân số là 85309 người. Đây là khu vực thị tứ trung tâm của huyện với nhiều cơ quan mới xây dựng rất khang trang. Do địa bàn nằm trải dài trên trục đường chính nối liền thành phố Rạch Giá với huyện Hà Tiên lại có núi có biển, dân cư đông đúc nên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và văn hóa xã hội.
1.2.3.2. Vài nét về lịch sử di dân của nhóm cư dân thứ ba
So với hai địa bàn trước đó mà chúng tôi khảo sát, địa bàn này có thành phần người gốc Bắc di cư chiếm tỉ lệ thấp hơn. Qua tìm hiểu thực tế địa bàn, chúng tôi thấy rằng người gốc Bắc định cư ở thị trấn Kiên Lương có khoảng từ 50 đến 60 phần trăm. Thế nhưng, điều này cũng không trở ngại cho quá trình khảo sát đề tài vì hầu hết những người gốc Bắc định cư ở đây sống tập trung thành khu vực.
1.2.3.3. Điều kiện sinh sống
Đây là khu vực trung tâm kinh tế, hành chính của huyện Kiên Lương và cũng là vùng đất nằm trong địa bàn cư dân Nam Phố sung túc của trấn Hà Tiên xưa. Đây là vùng đất được thiên nhiên ban cho nhiều tài nguyên quý giá, nhiều danh lam thắng cảnh, ngư trường thuận lợi cho việc nuôi trồng hải sản. Nơi đây có nhiều núi đá vôi là nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất xi măng. Hiện nay, tại địa bàn thị trấn Kiên Lương có nhà máy sản xuất xi măng Hà Tiên II, thu hút hàng ngàn lao động địa phương với số đông là người gốc Bắc di cư.
Bên cạnh đó, đây là địa bàn dân cư giáp biển nên có một bộ phận cư dân, đặc biệt là những cư dân gốc Bắc làm trong các ngành nghề liên quan đến kinh tế biển như thủy thủ, công nhân trong các nhà máy chế biến hải sản, buôn bán thủy hải sản,…Nhìn chung, về đời sống kinh tế, nhóm cư dân này có đời sống tương đối tốt hơn.
1.2.3.4. Về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
So với hai nhóm cư dân trên, nhóm cư dân này có đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng phức tạp hơn. Vì rằng, đây là địa bàn có nhiều tôn giáo với nhiều nét văn hóa khác nhau. Mặc dù phức tạp nhưng với đời sống văn hóa, tín ngưỡng của nhóm cư dân này rất phong phú. Nó thể hiện sự pha trộn, giao thoa văn hóa của cộng đồng cư dân nơi đây.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng địa bàn này vừa có chùa của người Việt, người Khơ me bản địa và cả những nhà thờ của đạo công giáo. Trong sự giao thoa văn hóa đó, ắt hẵn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến tình hình sinh hoạt văn hóa, văn học, trong đó có văn học dân gian.
1.3. Đặc điểm của cư dân bản địa trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Kiên Giang là địa bàn tiêu biều cho Nam Bộ có khối cộng cư gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó, nhiều nhất là người Kinh, người khơ me và người Hoa. Mỗi dân tộc đều có đời sống tinh thần phong phú, nhất là văn hóa, văn học.
Do là địa bàn có nhiều dân tộc cùng sinh sống nên quá trình giao lưu văn hóa sống động tạo nên nét đặc trưng riêng. Hiện tượng giao lưu văn hóa thể hiện trên nhiều phương diện, dễ nhận biết nhất là hiện tượng song ngữ, đa ngữ trong vùng, qua cách ăn mặc và nếp sống, ăn uống,…Đặc biệt là trong giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Ở địa bàn này, sự gao lưu văn hóa thể hiện rõ nét trong các làn điệu dân ca. Những câu hò, điệu lý, câu hát dân ca dù của dân tộc nào thì họ cũng xem như là sản phẩm tinh thần của mình.
Như đã nói ở trên, Kiên Giang là vùng đất mới với nhiều dân tộc cộng cư đã mở ra nhiều mối giao lưu văn hóa. Điều này nhận thấy rõ nhất trong văn học dân gian mà chúng tôi sẽ khảo sát ở những chương sau. Có thể nói, nếu so với miền Bắc thì ở miền Nam nói chung và Kiên Giang nói riêng có môi trường sinh hoạt văn hóa, văn học dân gian không cố định. Những cư dân bản địa này có thể giao lưu văn hóa, văn học ở mọi lúc, mọi nơi, có khi đan xen, lồng ghép trong các sinh hoạt khác.
Điều này vửa thể hiện sự phong phú trong đời sống tinh thần nhưng cũng không kém phần phức tạp của những cư dân bản địa. Những cư dân bản địa này rất phóng khoáng, vì thế khi có cư dân phía Bắc vào định cư thì họ hòa nhập nhanh chóng và trở nên một cộng đồng cư dân đoàn kết cùng tương trợ nhau trong cuộc sống. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho quá trình sinh hoạt văn học dân gian mà chúng tôi tiến hành khảo sát.
Tóm lại, Kiên Giang là địa bàn có điều kiện thuận lợi cho cả đời sống kinh tế lẫn văn hóa tinh thần cho những người di cư. Và khi họ đến đây lại bắt gặp sự nhiệt tình phóng khoáng của những cư dân bản địa. Chính vì vậy, việc lựa chọn này làm vùng đất định cư là là một sự lựa chọn đúng đắn. Có lẽ, đây cũng là một trong những lý do chúng tôi chọn vùng đất này làm địa bàn khảo sát luận văn.
Để cho quá trình khảo sát đi đúng hướng, chúng tôi xin tạm đưa ra một cách hiểu về cụm từ”sinh hoạt văn học dân gian”. Theo chúng tôi sinh hoạt văn học dân gian là một hoạt động mang tính tập thể, trong hoạt động ấy có sử dụng các thể loại và nội dung của văn học dân gian theo những cách thức khác nhau gắn với môi trường diễn xướng. Như vậy, cách hiểu này chúng tôi sẽ dùng thống nhất trong toàn bộ quá trình khảo sát đề tài này. ( Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân )
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Truyền thống văn học dân gian ở nhóm cư dân phía Bắc

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn: Khảo sát sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân […]