Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch

Rate this post

Nhận thấy được thế mạnh của Việt Nam, tác giả lựa chọn Đề tài Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch làm bài luận văn tốt nghiệp. Việt Nam được xem như là một Đông Nam Á thu nhỏ với văn hóa phức thể gồm 3 yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng, văn hóa biển, trong đó, yếu tố đồng bằng đóng vai trò nổi trội nhất. Việt Nam cũng là nơi hội tụ đủ các bộ tộc thuộc tất cả các dòng ngôn ngữ ở Đông Nam Á.Với 54 tộc người, 54 nền văn hóa khác nhau đã tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng, đa màu sắc, nhưng luôn thống nhất và triển khai chi tiết tại Luận văn: Tìm hiểu và khai thác văn hóa Then của người Tày tại huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh phục vụ du lịch.

Nội dung chính

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Văn hóa tộc người là một trong những khái niệm cơ bản của khoa dân tộc học, nó là tổng thể về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, các sắc thái tâm lý, tình cảm, phong tục và lễ nghi khiến người ta phân biệt được tộc người này với các tộc người khác.

Người Tày là một tộc người có dân số đông thứ hai và cư ngụ lâu đời ở Việt Nam. Họ có những giá trị văn hóa phong phú, độc đáo, chứa đựng tinh thần nhân văn cao mà tiêu biểu phải kể đến là Then Tày. Đây là một loại hình văn hóa dân gian đồng thời cũng là loại hình nghệ thuật dân gian được tồn tại lâu đời trong đời sống lao động và sinh hoạt hàng ngày của người Tày. Tuy nhiên với sự du nhập văn hóa như hiện nay đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa của tộc người Tày.

Ngoài ra, trong những năm gần đây, du lịch đến những vùng dân tộc thiểu số đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm. Các tộc người thiểu số thường có tập tục, lối sống cũng như nền văn hóa đặc sắc. Việt Nam là nước rất có lợi thế cho loại hình du lịch này, lợi thế đó được phát huy trong sự bảo lưu những nét sơ khai văn hóa, trong lối sống, phong tục, thói quen canh tác hay trong các nghề thủ công truyền thống. Đặc biệt hơn các nét văn hóa đó lại được hòa quyện với không gian sinh thái tự nhiên tuyệt đẹp hấp dẫn khách du lịch. Ngoài ra, nét hấp dẫn của nền văn hóa không chỉ ở tính độc đáo mà chính ở tính thống nhất trong văn hóa cộng đồng tạo nên nhiều mảng màu rực rỡ trong bức tranh toàn cảnh chung của nền văn hóa dân tộc.

Theo thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009 có 34 dân tộc sinh sống tại Quảng Ninh, trong đó,   người Tày là tộc người đông thứ 3 của tỉnh. Tại huyện Bình Liêu có 93% dân số là người dân tộc thiểu số và người Tày chiếm 50.3% với những giá trị văn hóa phong phú, độc đáo chứa đựng tính nhân văn cao hấp dẫn du khách đến tìm hiểu, khám phá văn hóa và con người nơi đây. Đây là nơi thích hợp để phát triển du lịch văn hóa tộc người, tuy nhiên trên thực tế, tại nơi đây chưa khái thác hết được tiềm năng du lịch và lượng khách đến với nơi đây còn ít. Hiện nay, lượng khách đến với Quảng Ninh thì ngày càng tăng, tuy nhiên người ta lại hay đến những khu vui chơi giải trí trong thành phố lớn mà ít chú ý đến việc du lịch tham quan và tìm hiểu về tộc người thiểu số tại các huyện xa trung tâm. Nếu có những kế hoạch cụ thể về bảo tồn và phát huy, khai thác nghi lễ Then cổ thì chắc chắn nó sẽ góp phần làm cho du lịch Quảng Ninh phát triển hơn và làm cho cuộc sống ở Bình Liêu sẽ được phát triển hơn và tạo được một nguồn thu nhập ổn định cho người dân tộc thiểu số.

Là một người con đất mỏ, với mong muốn góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc mình, đưa giá trị văn hóa Then lên một bước phát triển mới, để Bình Liêu thực sự trở thành một khu du lịch gắn liền với sự phát triển chung của tỉnh Quảng Ninh, em đã chọn thực hiện một bài khóa luận với đề tài “ Tìm hiểu và khai thác văn hóa Then của người Tày ở huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh phục vụ hoạt động du lịch”.

2. Mục đích nghiên cứu

  • Đề tài giới thiệu chi tiết về Văn hóa Then và tiềm năng khai thác du lịch nó.
  • Đưa ra các phương án phục hồi và bảo tồn văn hóa của người Tày tại huyện Bình Liêu. Kiến nghị với chính quyền cao cấp, ngành du lịch, văn hóa, và các ngành có liên quan phối hợp chỉ đạo, nhằm bảo tồn, khai thác các giá trị văn hóa của tộc người Tày nhằm phát triển văn hóa.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Đối tượng của đề tài là tìm hiểu yếu tố văn hóa của Người Tày tại huyện Bình Liêu để qua đó khai thác phát triển du lịch địa phương.

Phạm vi nghiên cứu:

  • Về mặt nội dung: nghiên cứu yếu tố văn hóa phi vật thể.
  • Về không gian nghiên cứu: huyện Bình Liêu tỉnh Quảng

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trước bài nghiên cứu này đã có những bài khóa luận nghiên cứu về huyện Bình Liêu với nội dung đề tài khác nhau. Các đề tài thường nghiên cứu chung về huyện, về văn hóa chung của những tộc người thiểu số sống trên địa bàn của huyện. Bài khóa luận này với mục đích nghiên cứu một nét đặc trưng trong sinh hoạt văn hóa cũng như tín ngưỡng của người Tày ở huyện Bình Liêu để khai thác phát triển du lịch.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu:

  • Phương pháp này được làm và sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ quá trình làm khóa luận. Để thực hiện đề tài này, em đã thu thập tài liệu từ các giáo trình chuyên ngành Dân tộc học, giáo trình Du lịch, văn hóa, dự án, báo cáo tổng kết và tham khảo một số thông tin trên các phương tiện khác
  • Sau khi có các tài liệu trong tay em đã sử dụng các bước phân loại, thống kê, so sánh để lựa chọn được thông tin sát với vấn đề nghiên cứu nhất.

Hiện nay công nghệ thông tin đã xâm nhập vào rất nhiều lĩnh vực trong đời sống. Vì vậy, trong quá trình hoàn thành khóa luận, em đã sử dụng các tài liệu lấy từ Internet sau đó xử lý những thông tin đó sao cho phù hợp và chính xác với tình hình thực tế mà mình muốn tìm hiểu.

6. Bố cục đề tài

Ngoài lời cảm ơn, phần mở đầu, phụ lục và tài liệu thạm khảo thì bài khóa luận gồm có 3 chương:

  • Chương I: Khái quát chung về văn hóa tộc người Tày tại huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh
  • Chương II: Văn hóa Then của người Tày tại huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh
  • Chương III: Thực trạng và giải pháp văn hóa Then phục vụ hoạt động du lịch tại địa phương

CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA TỘC NGƯỜI TÀY TẠI HUYỆN BÌNH LIÊU TỈNH QUẢNG NINH

1.1 Một số khái niệm về tộc người và văn hóa tộc người ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

1.1.1 Khái niệm tộc người

Trong 60 năm qua, ở Việt Nam đã sử dụng khái niệm “Dân tộc” để chỉ một cộng đồng người cụ thể ( Việt, Thái, Dao, Hoa, Mường, Tày…) nhưng thực ra khái niệm đó là “Tộc người”.

Cũng như đại bộ phận tên gọi của các ngành khoa học, thuật ngữ “Dân tộc học”- Ethnography là từ phát sinh của các yếu tố Hy Lạp cổ, gồm Ethnos (tộc người) và Graphy (miêu tả, mô tả).

Tộc người là một hình thái tập đoàn người hay một tập đoàn xã hội, được hình thành qua quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử, được phân biệt bởi 3 đặc trưng là : Ngôn ngữ, các đặc điểm về văn hóa, ý thức cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng ngàn năm lịch sử ứng với mọi chế độ kinh tế- xã hội gắn với các phương thức sản xuất (Nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, chủ nghĩa xã hội) tộc người được gọi bằng các tên như: Bộ lạc, bộ tộc chiếm nô, bộ tộc phong kiến, dân tộc tử bản chủ nghĩa, dân tộc xã hội chủ nghĩa.

Theo định nghĩa này thì Việt Nam có 54 “tộc người” chứ không phải 54 “dân tộc” như cách hiểu trước đây. Mỗi tộc người ở Việt Nam đều có nền văn hóa đặc trưng góp phần xây dựng nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng đậm đà bản sắc dân tộc.

Khái niệm dân tộc thực chất phải được hiểu là tộc người (ethnic). Tộc người là hình thái đặc biệt của một tập đoàn xã hội xuất hiện không phải do ý nguyện của con người mà là trong kết quả của quá trình tự nhiên- lịch sử. Điểm đặc trưng của các tộc người là ở chỗ nó có tính bền vững giống như là những quy tắc tồn tại hàng nghìn năm. Mỗi tộc người có sự thống nhất bên trong xác định cả những nét đặc thù để phân biệt nó với các tộc người khác. Ý thức tự giác của những con người hợp thành tộc người riêng biệt đóng vai trò quan trọng cả trong sự thống nhất tương hỗ, cả trong sự dị biệt với các cộng đồng tương tự khác trong hình thái phản đề của sự phân định “chúng ta” và “họ”.

Theo đó, điều mà nhiều nhà khoa học chủ trương là đồng nhất bản chất của tộc người với ý thức tự giác là không chuẩn xác. Đằng sau ý thức tự giác như vậy còn có giá trị tồn tại khách quan một cách hiện thực trong các tộc người của những con người thân thuộc.

1.1.2 Khái niệm về văn hóa tộc người ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sinh động toàn bộ của cuộc sống con người trong suốt quá trình lịch sử. Văn hóa tạo nên một hệ thống các giá trị truyền thống bao gồm thẩm mỹ và lối sống, từ đó từng dân tộc xây dựng nên bản sắc riêng của mình. Văn hóa là tất cả những gì con người đã bỏ công sức để sáng tạo ra, nó khác với những gì tồn tại trong tự nhiên của con người. Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người tạo ra và tích lũy trong quá trình thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.

Văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc trưng và đặc thù dân tộc, nó thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân biệt tộc người này với tộc người khác. Hay văn hóa tộc người là khái niệm chỉ toàn bộ các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của các dân tộc thiểu số có quá trình sinh tụ lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện của sự thích ứng và sáng tạo của con người trong môi trường, hoàn cảnh tự nhiên và xã hội cụ thể, các giá trị đó vừa phản ánh những nét thống nhất, sự giao thoa văn hóa tộc người trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Nó là một hệ thống di tích lịch sử, thắng cảnh, các quần thể kiến trúc làng bản, nhà cửa các đô thị cổ, các sinh hoạt văn hóa, lễ hội thu hút một lượng lớn du khách đến tham quan và nghiên cứu.

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, các nhà dân tộc học của nước Cộng hòa Xô viết Ác Mê Ni ( Liên Xô )- chia văn hóa tộc người thành các bộ phận:

  • Văn hóa sản xuất: là các yếu tố phục vụ trực tiếp sản xuất ( công cụ sản xuất, tri thức và kinh nghiệm sản xuất, cách thức sản xuất).
  • Văn hóa bảo đảm đời sống: gồm các yếu tố liên quan trực tiếp đến ăn, mặc, ở.
  • Văn hóa chuẩn mực xã hội: gồm các thiết chế xã hội, các ứng xử văn hóa được cố định thành phong tục tập quán, luật tục.
  • Văn hóa nhận thức xã hội: gồm các yếu tố thuộc lĩnh vực tư tưởng, chủ yếu là những nhận thức về tự nhiên, xã hội (các tri thức dân gian, tín ngưỡng, tôn giáo…)

Từ năm 1988, UNESCO chia văn hóa thành hai bộ phận:

  • Văn hóa vật thể: những yếu tố văn hóa tồn tại dưới dạng vật chất.
  • Văn hóa phi vật thể: những yếu tố văn hóa tồn tại vô hình, không ở dạng vật chất.

1.1.3 Khái niệm văn hóa Then của tộc người ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Then trong tiếng Tày tức là Thiên, Thiên tức là Trời. Then là tín ngưỡng cúng vía của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam. Then bắt nguồn từ tín ngưỡng của đồng bào về một thế giới huyền bí, nơi đó có những nhân vật và sức mạnh kỳ diệu như Bụt, Giàng, Trời mà chỉ có ông Then, bà Then mới đủ bản lĩnh và khả năng đến được thế giới đó. Khi các ông Then, bà Then dâng lên trời những sản vật của con người thì miệng họ hát, tay đệm nhạc, chân sóc nhạc. Chính lời hát Then hòa trong nhịp đàn Tính cùng tiếng xóc nhạc lúc khoan nhịp, lúc dồn dập sẽ đưa bà Then, ông Then đến với Mường Trời và chở lời thỉnh cầu của con người tới đấng thần linh.

Hiện không có tài liệu nào ghi chép về thời gian ra đời của Then, chỉ biết Then đã xuất hiện trong đời sống của tộc người Tày, Nùng đã từ rất lâu. Then là một nét đặc trưng văn hóa của người Tày, Nùng, nên ở đâu có người Tày, người Nùng là ở nơi đó có Then.

Người Tày ở Bình Liêu không theo một tôn giáo nào mà chỉ có tín ngưỡng dân gian để thờ cúng tổ tiên, thần thánh, ma quỷ mà người Tày gọi chung là Phi (có Phi lành, Phi dữ). Người Tày có nhiều nghi lễ cúng khấn để xin Phi lành phù hộ, xin những điều tốt đẹp, xua đuổi Phi dữ và những điều xấu.

Những lời cúng khấn thực hiện trong các nghi lễ gọi là đường the do các Then thực hiện. Cũng chính vì thế mà nghi lễ Then là hệ thống có làn điệu, kèm với các nghi thức sinh hoạt cộng đồng người Tày.

Tín ngưỡng Then có nhiều nghi lễ, tùy thuộc vào yêu cầu của gia chủ mà thầy Then thực hành nghi lễ đó để giúp gia đình gia chủ cầu an. Các loại nghi lễ của Then bao gồm:

  • Then cầu an giải hạ, thường được diễn ra vào dịp đầu năm.
  • Then Nàng Hang, thường được diễn ra vào dịp trung
  • Then cúng mụ, diễn ra vào dịp cúng đầy tháng của đứa trẻ.
  • Then thôi
  • Lẩu Then (hay còn gọi là Lễ cấp sắc) là nghi lễ cúng lớn nhất của nhà Lẩu Then có nhiều loại, lẩu Then khai quang, lẩu Then tăng sắc, lẩu Then khao quân, lẩu Then cáo lão.

Một lễ Then phải trải qua nhiều cung cửa để đi từ gia đình gia chủ lễ trình lên Ngọc hoàng, Thổ công, Thành hoàng, Táo quân, Tổ tiên, pháp sư, cửa tướng.

Với rất nhiều nghi lễ, Then đóng vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của người Tày, người Nùng. Theo PGS.TS   Nguyễn Thị Yên của Viện Nghiên cứu Văn hóa đã nhận định rằng “Trai qua nhiều bước thăng trầm, Then vẫn tồn tại trong đời sống văn hóa tinh thần của người Tày như một sự minh chứng cho sức mạnh trường tồn của tinh thần dân tộc, bản sắc dân tộc.

Đề cập đến vai trò quan của Then trong đời sống của người Tày, người Nùng, có người đã từng nói rằng, nếu thiếu đi Then miền núi phía Bắc Tổ quốc sẽ thiếu đi một cái gì đó rất quan trọng, một cái gì đó dường như phần hồn của rừng núi.( Trích Tín ngưỡng Then của người Tày Nùng- Chuyên mục Dân tộc thiểu số- Số báo online Thế giới Di sản)

Đầu năm 2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thay mặt Chính phủ ký hồ sơ “Thực hành Then của người Tày, Nùng ở Việt Nam” trình lên UNESCO xem xét đưa vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

1.1.4 Văn hóa Then ở các địa phương khác. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

–    Then của người Tày ở Hà Giang

Là một tỉnh miền núi biên giới cực Bắc của Tổ quốc, Hà Giang là một trong những vùng đất cổ đang lưu giữ bao di sản văn hóa dân gian cần được tìm hiểu và khai thác. Nơi đây cũng là một trong những cái nôi của kho tàng văn hóa tín ngưỡng Then. Trên bức tranh văn hóa tín ngưỡng Tày – Nùng ở Việt Nam, Then Hà Giang là một trong những mảng màu tươi đậm.

Dân tộc Tày ở Hà Giang có trên 130.000 người sinh sống, chiếm 23,1% dân số toàn tỉnh, là dân tộc có dân số đông thứ hai sau dân tộc Mông. Dân tộc Tày sống chủ yếu và tập trung tại các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang, Quang Bình, Bắc Mê và thành phố Hà Giang. Đây là dân tộc có lịch sử cộng cư lâu đời trên đất Hà Giang và có nhiều di sản văn hóa truyền thống, trong đó có di sản hát Then – đàn Tính.

Theo bà Triệu Thị Tình, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Giang: Then là loại hình diễn xướng dân gian gắn bó sâu sắc với đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Tày ở Hà Giang. Điển hình là hội lẩu Then bjoóc mạ ở xã Phương Độ (thành phố Hà Giang) có quy mô lớn, đỉnh cao và tập trung đầy đủ các nghệ thuật của Then. Với ý nghĩa cầu xin vua cha ban phước lành cho trần gian, một năm an lành, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Từ sự hình thành lâu đời, lẩu Then bjoóc mạ đã thấm sâu vào tâm linh của người Tày, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, hình thành một nét đẹp trong văn hóa cộng đồng ở Hà Giang.

Sự phong phú của Then tùy thuộc vào phong tục tập quán của từng địa phương, từng vùng. Hệ thống Then chia thành các hình thức như: Then cầu mong, Then chữa bệnh, Then bói toán, Then đưa người khuất, Then cầu mùa, Then chúc tụng và lẩu Then.

Ông Nguyễn Văn Chự, Câu lạc bộ then xã Phương Độ (thành phố Hà Giang) cho biết: Những ông Then, bà Then lúc hành nghề được “ông ma Then” nhập vào, trở thành “con trời” để tỏ lòng biết ơn Ngọc Hoàng hay Chúa Then. Vào dịp đầu năm mới, khi muôn hoa đua nở là lúc làm lễ dâng rượu, dâng hoa lên cho Ngọc Hoàng và Chúa Then, vì vậy lẩu Then Bjoóc Mạ thường được tổ chức vào mùa xuân. Lúc này hoa bjoóc mạ – hay còn gọi là hoa bờm ngựa đã nở nhiều. Từ đó, lẩu Then bjoóc Mạ được hình thành và trở thành một nét độc đáo riêng có ở Hà Giang.

Những năm trước đây, hội lẩu Then bjoóc mạ chỉ diễn ra ở nhà Then chủ, mọi hoạt động trong phạm vi gia đình. Thì nay lẩu Then bjoóc mạ được tổ chức rộng rãi, mang tính quần chúng. Từ năm 2016 đến nay, hội Lẩu Then bjoóc mạ được cấp ủy, chính quyền xã Phương Độ (thành phố Hà Giang) tổ chức, trình diễn tại các buổi chợ phiên. Đây không chỉ quảng bá những nét đẹp, giá trị về mặt tâm linh của hội lẩu Then bjoóc mạ cho đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh biết đến, mà còn góp phần bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa đặc sắc truyền thống của cha ông để lại.

Để tiến hành một hội lẩu Then bjoóc mạ cần được chuẩn bị rất chu đáo. Gần đến ngày tổ chức hội lẩu Then bjoóc mạ, nhân dân trong xã cùng họp mặt tại nhà thầy Then cả là ông Nguyễn Văn Chự cùng bàn bạc, giúp nhau làm các vật dụng, chuẩn bị lễ vật. Nam giới vào rừng đào măng, vầu, loại 2 củ mọc cùng 1 rễ, hái các loại hoa như bjoóc mạ, hoa chuối rừng, hoa trứng cá đan vào nhau thành hình nón. Các bà, các mẹ, các chị thì cắt, dán các hình vật trang trí, chuẩn bị các lễ vật như: Hình con én, con ương, bánh sừng bò, bánh dày hình nón, rượu nếp cái làm bằng thứ gạo cẩm ngon nhất. Đến ngày tổ chức hội lẩu Then bjoóc mạ người ta thịt thêm thịt lợn, gà, vịt để làm lễ.

Một hội lẩu Then bjoóc mạ thường được thực hiện bởi 1 thầy Then cả và 5 thầy phụ; mỗi thầy lại có 2 nàng Hương phục vụ, giúp việc. Hội Lẩu Then diễn ra trong 2 ngày, 1 đêm với các bước chính đó là: Mời Chúa Then và đoàn Then lên đường vượt qua các chặng.

Hội Lẩu Then phải đi qua rất nhiều cung, chặng như: Cung trình tổ Then, tổ tiên; trình thổ công, trình thần; cung ve sầu; thanh lâm, lên cửa trời; chờ đò; khảm hải; lên phủ Ngọc Hoàng; lồng mường, đón Chúa Then, Ngọc Hoàng giáng trần…

Cả chặng đường, các ông, bà Then diễn xướng, hát bằng các làn điệu Then, kết hợp với đàn Tính và chùm xóc nhạc. Tiếng hát Then lúc trầm, bổng, khi trang nghiêm, lúc rộn ràng, khi lâm ly, thống thiết; âm hưởng còn vang mãi và gây ấn tượng sâu sắc cho người nghe. Những lời Then, hòa trong nhịp đàn Tính dìu dặt đưa các ông, bà Then đến với Mường Trời để cầu xin các vị thần linh cứu giúp con người, xin vua cha ban phước lành cho trần gian, cầu xin một năm an lành, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Với phần lớn là người Tày sinh sống, xã Phương Độ được biết đến như một “địa chỉ đỏ” về Lẩu Then, hát Then, đàn Tính. Đây đã trở thành nét văn hóa tâm linh gắn bó với đời sống, in sâu trong từng nếp nhà của người dân nơi đây. Từ nhiều năm nay, Hội Nghệ nhân dân gian xã Phương Độ và các Câu lạc bộ hát Then được thành lập là một cầu nối đưa Then đến gần hơn với cộng đồng.

Ông Nguyễn Văn Chự, là thầy Then cả trong hội lẩu Then bjoóc mạ cũng là người đã dày công sưu tầm, lưu giữ những điệu Then cổ. Trăn trở khi Then đang dần mai một, ông và các nghệ nhân dân gian “truyền lửa” cho lớp trẻ, cho bà con trên địa bàn khôi phục, gìn giữ nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Việc tổ chức hội lẩu Then bjoóc mạ hàng năm góp phần gìn giữ, phục hồi giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện sự đoàn kết cộng đồng. Mặt khác, cân bằng giữa bảo tồn văn hóa truyền thống với phát triển du lịch cộng đồng tại địa phương.

Có thể nói, lẩu Then bjoóc mạ là một loại hình nghệ thuật tổng hợp gắn bó mật thiết với cộng đồng người Tày ở xã Phương Độ (thành phố Hà Giang). Lẩu Then bjoóc mạ ngoài những nét đẹp về văn hóa tâm linh nó còn mang giá trị về mặt nghệ thuật, âm nhạc, múa, trang trí.

Với những giá trị to lớn, hội lẩu Then bjoóc mạ đã được tỉnh Hà Giang chọn trình diễn tại Liên hoan Nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày – Nùng – Thái toàn quốc lần thứ VI, năm 2018 tổ chức tại tỉnh Hà Giang.

– Then của người Tày ở Lào Cai

Làn điệu Then của người Tày tỉnh Lào Cai xuất phát từ nghi lễ Then-một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. “Then” theo tiếng Tày là Thiên, tức là Trời, vì thế Then được coi là “điệu hát thần tiên”, là một loại hình nghệ thuật mang màu sắc tín ngưỡng, gửi gắm những mong muốn tốt lành của con người đến với thiên giới, cầu xin may mắn bình an ấm no và hạnh phúc cho cộng đồng và gia đình. Do đó, hát Then là món ăn tinh thần có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh của người Tày, thấm đẫm giá trị nhân văn và nghệ thuật

Theo thời gian, không giống như các loại hình nghệ thuật dân tộc khác, nghi lễ Then của người Tày ở Lào Cai không hề bị mai một mà vẫn được duy trì và tồn tại với các nghi lễ, như Then giải hạn, Then gọi vía, Then cầu an… ở Văn Bàn, Bảo Yên, Bảo Thắng, Sa Pa và thành phố Lào Cai. Sở dĩ nghi lễ Then tồn tại đến ngày nay, bởi sự tin tưởng của người Tày vào những giá trị to lớn mà nghi lễ then mang lại.

Thầy Then Hoàng Sín Phìn, xã Hòa Mạc, huyện Văn Bàn cho biết, trong cuộc đời mỗi người Tày Lào Cai ít nhất trải qua nghi lễ Then một lần. Nguyên nhân để tổ chức nghi lễ Then có nhiều, nhưng chủ yếu là con người bị ốm yếu, uống thuốc mà không khỏi; trẻ con ốm đau hoặc quấy khóc. Then thường tổ chức vào dịp đầu năm, đầu xuân để cầu lộc, cầu tài và sức khỏe cho các thành viên trong gia đình. Là tổng hòa các loại hình diễn xướng nghệ thuật như hát, nhạc, nhảy múa, trang phục với hai hình thức chính là “thoát hồn” và “nhập hồn”, Then hướng tới mục đích chữa bệnh, giải hạn, trừ hiểm họa, cầu tự, ban phúc lộc.

Cấp cao nhất của Then gọi là Lễ Cấp sắc, người Tày ở Lào Cai gọi là Lễ Pang Luông. Để một người hành nghề Then được chứng nhận đủ khả năng tiến hành nghi lễ cúng bái, cầu an trong đời sống tâm linh của cộng đồng thì nghi thức cấp sắc lần đầu là một trong những nghi lễ chính của đại lễ mở hào quang cho người làm Then. Một trong số các thầy Then có điều kiện về vật chất, đứng ra đăng cai, gia chủ mời tất cả thầy Then trong thôn hoặc trong xã về gia đình thực hành nghi lễ. Sau nghi lễ Pang Luông, các thầy Then chỉ việc chuyên tâm vào công việc của mình với trách nhiệm là cầu nối truyền tải tâm tư, ước vọng giữa thần linh và người thường.

Trong thời gian diễn ra Lễ Pang Luông, người thực hiện và người đến dự đều không va chạm, lời qua tiếng lại, trộm cắp, đánh nhau. Vì vậy, ý thức tự giác, sự tôn trọng nhau trong đồng bào người Tày rất lớn, có tính nhân văn cao. Thông qua nghi lễ Then, những người làm Then luôn tự tin, có sức mạnh và ý chí phấn đấu trong cuộc sống, tích cực tạo phúc cho mọi người. Chính vì vậy, nghi lễ Then luôn là niềm tự hào của dân tộc Tày ở Lào Cai và đương nhiên các câu hát Then ra đời trong môi trường diễn xướng như vậy nên có nội dung, hồn cốt gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần, phong tục tập quán và tín ngưỡng từ lâu đời của người Tày Lào Cai. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Tuy vậy, mỗi vùng đất Then lại có những vẻ đẹp khác nhau. Theo số liệu thống kê, ghi chép, sưu tầm của các nghệ nhân như Hoàng Thị Cứ, Ma Thanh Sợi (huyện Bảo Yên, Lào Cai) thì hiện nay, địa phương này có vài trăm làn điệu hát Then từ cổ truyền đến hiện đại. Những làn điệu hát Then nơi đây không lẫn với bất cứ làn điệu hát Then ở những vùng Tày khác, mà đó là những sáng tạo của chính cư dân bản Tày nơi đây với những bài thơ, bài hát nói về các phong tục tập quán, đạo lý con người, phong tục cưới xin, những điệu hát giao duyên, hát đối nam nữ, hát mừng trong các lễ hội… Những câu thơ đố như: “Món gì ăn cả con không có ruột (con nhộng), món gì đun nước lã lại đậm (nước muối), điều gì đánh thức giấc ngủ thiên hạ (tiếng gà gáy)…” đều được người dân ở đây trân trọng và truyền giữ cẩn thận. “Đó thực sự là một kho báu quý giá và là ước nguyện “gìn giữ linh hồn” mà người Tày mong muốn”, ông Ma Thanh Sợi cho hay.

Không chỉ dùng cho các nghi lễ, đây cũng là loại hình dân ca được nam nữ thanh niên Tày sử dụng trong các cuộc vui giao duyên. Các câu hát Then có cấu tứ chặt chẽ, hệ thống mạch lạc từ lúc mở đầu đến kết thúc, đáp ứng được ước nguyện tỏ tình, giao duyên của các nam thanh, nữ tú. Ai đã có dịp được đắm mình trong cuộc hát Then giao duyên của trai gái Tày Văn Bàn, Lào Cai sẽ khó mà quên được lời lượn hát tinh tế, ví von sâu xa giàu hình ảnh, cảm xúc cùng giai điệu mượt mà, da diết say đắm lòng người.

Đi thăm mỗi bản làng các dân tộc Tày ở tỉnh Lào Cai đều có thể nghe những làn điệu hát Then truyền thống. Hoà trong vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc, điệu mùa xòe nhịp nhàng và âm hưởng réo rắt của đàn Tính, những câu hát Then của đồng bào như dìu dặt, hoà quện trong tiếng gió, tiếng xào xạc của lá rừng… Những làn điệu Then tô điểm lên bức tranh làng bản vẻ yên bình, nét đẹp văn hoá độc đáo và bản sắc của đồng bào dân tộc Lào Cai.

– Then của người Nùng Lạng Sơn.

Theo tập tục từ xa xưa, mỗi khi trong cuộc sống gặp hiện tượng lạ không thể lý giải được đồng bào dân tộc Nùng thường tổ chức lễ cầu cúng, cầu mong cho gia đình được bình yên, may mắn, khỏe mạnh, làm ăn thuận lợi. Để thực hiện nghi lễ này, đồng bào đều tìm đến bà then để được nghe bà then đàn hát. Bà then theo quan niệm xưa được ví như bà tiên trên trời với cây đàn tính trên tay gẩy những khúc nhạc, cất lên những lời ca theo mây theo gió vang đến tận trời xanh. Nhờ lời ca tiếng hát của mình, Bà Then đưa những nguyện ước đó đến với các đấng thần linh…để biến những lời cầu mong đó thành hiện thực. Theo thời gian, những nghi lễ hát then giống như buổi sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, trấn an tinh thần cho dân chúng.

Thông thường các nghi lễ diễn ra trong 2 ngày đêm với nhiều nội dung như: Lễ cúng tổ tiên; lễ dọn đường cho các quan. Nghi lễ hát then bắt đầu cuộc hành trình lên mời Ngọc Hoàng và các sư phụ Then đã về với tiên tổ cùng về làm lễ “Lẩu then” với các phần lễ cúng mời, cúng dâng rượu, cúng trừ ma, cúng giải hạn, cúng cầu an rồi dần phát triển thêm các lễ cúng tổ tiên, cúng sinh nhật, cúng cầu an, cúng nhà mới…Trong các nghi lễ đó, hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng tường thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin đáng thần linh giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ. Trong các nghi lễ đó, âm nhạc luôn luôn là yếu tố xuyên suốt với nhiều bài bản, làn điệu phù hợp với từng phần nghi lễ. Ông Hoàng Văn Páo, nhà nghiên cứu văn hoá dân gian tỉnh Lạng Sơn, cho biết: Khi hát then bao giờ cũng có cây đàn Tính và cây quạt. Ban đầu nó chỉ mang   yếu tố tâm tâm linh, cầu cúng để chữa bệnh. Nhưng sau đó vào năm 1956 thì hát then không chỉ phục vụ cho hoạt động tâm linh nữa, mà nó phát triển thành loại hình văn nghệ cộng đồng. Giờ đây có then cổ và then hiện đại. Hát then dựa trên nguyên lý chung, nghi lễ cuộc nào thì họ sáng tạo lối hát then theo cuộc đó.

Trải qua quá trình hình thành và phát triển, hát then đã trở thành loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian kể chuyện tín ngưỡng bằng âm nhạc vừa mang yếu tố tâm linh vừa mang yếu tố văn hoá nghệ thuật. Nghệ thuật hát then là sự tổng hoà nhiều môn nghệ thuật và phong tục như hát, múa, đàn… Ở khía cạnh tôn giáo đồng bào tin rằng: nghi lễ then và hát then có khả năng chữa bệnh, đen lại sự bình an, niềm vui, niềm lạc quan trong cuộc sống. Ở khía cạnh nghệ thuật, hát then gắn liền với hình ảnh cây đàn Tính trở thành bản sắc văn hoá của cộng đồng dân tộc.

Sau âm nhạc, câu chuyện của then là tình ca bất hủ của đồng bào phản ánh mọi mặt từ đời sống vật chất tới đời sống tinh thần, từ lịch sử đến tập tục sinh hoạt. Hiện nay, nghệ thuật hát then đã lan rộng ra khắp cộng đồng, trở thành tài sản âm nhạc quý báu trong kho tàng văn hoá nghệ thuật các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên mỗi dòng then ở mỗi vùng then lại có những làn điệu hát khác nhau, nhưng tựu chung đều chung âm hưởng then với giai điệu, lối hát tình tứ, lôi cuốn người nghe

Đi thăm mỗi bản làng các dân tộc Nùng ở tỉnh Lạng Sơn đều có thể bắt gặp, nghe những làn điệu hát then truyền thống. Hoà trong vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc, tiếng đàn Tính, những câu hát then của đồng bào như dìu dặt, hoà quện trong tiếng gió, tiếng xào xạc của lá rừng…Những làn điệu then càng tạo thêm vẻ yên bình, nét đẹp văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc nơi đây.

1.2.Văn hóa tộc người với sự phát triển du lịch

1.2.1 Phân loại văn hóa tộc người ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Ở Việt Nam, có rất nhiều cách để phân loại văn hóa như phân loại dựa trên đặc điểm về ngôn ngữ, môi trường địa lý, tự nhiên, xã hội, nhân văn.

Phân loại theo nhóm ngôn ngữ: có loại phân loại này vì các tộc người có chung ngôn ngữ, ngữ hệ thì thường có những đặc điểm giống nhau về văn hóa.

Bên cạnh việc nghiên cứu phân loại văn hóa theo văn hóa ngôn ngữ, các công trình nghiên cứu văn hóa tộc người cũng đã tiếp cận và phân loại dựa trên những sắc thái về môi trường địa lý tự nhiên- xã hội nhân văn theo các vùng lãnh thổ. Đối với các tộc người thiểu số ở Việt Nam việc nghiên cứu phân loại các “ Vùng văn hóa” có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu sự tác động của điều kiện tự nhiên, địa lý, môi trường cư trú… đối với quá trình phát triển của văn hóa tộc người cũng như mối quan hệ và tác động qua lại của các yếu tố kinh tế- văn hóa ở các vùng lãnh thổ khác nhau. Ở Việt Nam, những công trình văn hóa nói chung và văn hóa tộc người nói riêng đã phân định tương đối các vùng văn hóa là:

  • Vùng văn hóa Tây Bắc.
  • Vùng văn hóa Việt Bắc và Đông Bắc.
  • Vùng văn hóa Bắc Trung Bộ.
  • Vùng văn hóa Nam Trung Bộ.
  • Vùng văn hóa Trường Sơn Tây Nguyên.
  • Vùng văn hóa Đồng bằng sông Cửa

Việc phân loại nghiên cứu văn hóa theo vùng cũng được cụ thể hóa theo cách thức phân loại dựa vào địa vực cư trú, theo độ cao thấp của các vùng lãnh thổ (so với mặt nước biển). Vì vậy những công trình nghiên cứu văn hóa tộc người đã phân định theo một số loại hình cụ thể sau:

  • Văn hóa tộc người ở trên cao: HMông, Tạng, Miến.
  • Văn hóa tộc người ở rẻo giữa: Các nhóm làm nương.
  • Văn hóa tộc người ở thung lũng chân núi: Tày, Thái, Mường.
  • Văn hóa tộc người ở trung du: Việt, Sán Dìu,
  • Văn hóa tộc người ở châu thổ: Việt, Hoa, Chăm,
  • Văn hóa tộc người ở ven biển: Việt, Hoa, Chăm.

1.2.2 Vai trò của văn hóa tộc người đối với phát triển du lịch

Các đối tượng văn hóa được coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn. Nếu tài nguyên thiên nhiên hấp dẫn khách du lịch bởi sự hoang sơ, độc đáo, hiếm hoi, thì tài nguyên du lịch văn hóa hấp dẫn bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính địa phương. Ở Việt Nam, văn hóa tộc người là một nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng sâu sắc, mỗi cá thể văn hóa của tộc người là một đặc trưng riêng khác biệt. Chính sự khác biệt đó là yếu tố quan trọng để hấp dẫn khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Văn hóa tộc người là một tài nguyên du lịch nhân văn, bởi vậy, nó bao gồm cả hai bộ phận, đó là: văn hóa vật thể và phi vật thể.

  • Tài nguyên văn hóa vật thể.

Tài nguyên văn hóa vật thể trong văn hóa tộc người bao gồm các yếu tố tiêu biểu như: nhà ở, trang phục, các sản vật địa phương, các sản phẩm nghệ thuật.

  • Nhà ở: Là một trong những yếu tố gây sự chú ý nhất đối với du khách. Chính vì vậy, nó trở thành một trong những yếu tố để xác định tính độc đáo của du lịch văn hóa tộc người. Ở Việt Nam có rất nhiều loại hình nhà ở khác nhau như: Nhà sàn ( Tây Bắc), nhà nửa sàn nửa đất (Đông Bắc), nhà Rông Tây Nguyên. Do vậy, nhà ở là yếu tố quan trọng trong quá trình thúc đẩy du lịch văn hóa tộc người phát triển.
  • Trang phục: là yếu tố để phân biệt tộc người này với tộc người khác. Khách du lịch khi đến một tộc người nào đó, ai cũng muốn mặc thử trang phục đặc trưng của dân tộc đó để chụp hình kỉ niệm.
  • Các sản vật đặc trưng của địa phương: có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng doanh thu du lịch như: Một bộ quần áo dân tộc, một món ăn ngon, những đồ dùng như túi đeo, đồ trang sức truyền thống, một cây sáo, cây đàn… để làm kỉ niệm…. đó là những vật mang tính đặc trưng và gắn liền với đồng bào nơi đó và do chính họ làm

Tài nguyên phi vật thể

Tài nguyên văn hóa phi vật thể trong văn hóa tộc người bao gồm: Ngôn ngữ, ẩm thực, phong tục tập quán, các trò chơi dân gian, các lễ hội truyền thống của tộc người.

  • Ngôn ngữ: trong việc khai thác văn hóa tộc người, việc quan tâm đến văn hóa tộc người là yếu tố quan trọng thúc đẩy du lịch phát triển. Ngôn ngữ cũng là một đặc trưn để phân biệt tộc người này với tộc người khác. Việc học được một ngôn ngữ của một tộc người nào đó sẽ tạo ra sự thích thú đặc biệt với du khách, nó làm cho người học muốn tìm hiểu về văn hóa của tộc người đó.
  • Ẩm thực: cũng là nét đặc trưng văn hóa tộc người, nó có tác động mạnh đến cảm nhận của du khách về chuyến du lịch. Với các món ăn, du khách không chỉ thưởng thức mà còn muốn tìm hiểu cách chế biến, cách ăn như thế nào mới đúng.
  • Mỗi tộc người có một phong tục tập quán, sinh hoạt, và tín ngưỡng riêng. Du khách đến với cộng đồng người thiểu số, rất chú ý đến việc tìm hiểu những thói quan, kiêng kị của đồng bào.
  • Các loại hình nghệ thuật truyển thống: là một biểu hiện độc đáo của văn hóa tộc người. Các hoạt động văn nghệ truyền thống của một tộc người luôn được du khách tán thưởng và làm theo rất nhiệt tình, thậm chí khi du khách ra về, họ còn mua những băng đĩa thu lại những bài hát, bài nhạc của tộc người đó. Đặc biệt là điệu nhảy của các tộc người dường như tạo nên một sự thu hút, lôi cuốn, sôi động mạnh mẽ vơi du khách. Các hình thức và chương trình được tiến hành đủ màu sắc sặc sỡ, trang phục cổ truyền, âm nhạc và trình độ nghệ thuật càng làm tăng sức hấp dẫn đối với du khách.

Các lễ hội truyền thống của các tộc người luôn để lại những ấn tượng mạnh mẽ đối với du khách. Thông qua lễ hội, các du khách không những được biết đến mà còn được hòa mình vào các trò chơi giàu màu sắc.

1.3. Khái quát chung về tộc người Tày ở huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh

1.3.1. Khái quát chung về huyện Bình Liêu ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

1.3.1.1. Lịch sử hình thành

Đồng bào huyện Bình Liêu có truyền thống đánh giặc giữ nước từ lâu đời. Trên đỉnh núi Cao Ba Lanh giáp biên giới có những hòn đá rất lạ, gõ vào đá phát ra tiếng kêu gần giống tiếng chuông và lại nghe tiếng vang ở cả các hòn khác. Có truyền thuyết về những “hòn đá thần” có tiếng vang làm quân giặc bên kia biên giới gục ngã. Lại có chuyện người dũng sĩ cưỡi ngựa đánh giặc nay còn ghi dấu ở nhiều địa danh như Bãi Dáo, Mạ Trạt (ngựa trượt) và chuyện về giống tre mọc ngược do lời thế của người dũng sĩ khi chống gậy dừng chân. Sử sách còn ghi lại những trận đánh đuổi giặc cướp từ bên kia biên giới tràn sang, nhất là cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX- những năm đầu thời Nguyễn, bên kia là thời nhà Thanh.

Trong thời Pháp thuộc, từ đồn Bình Liêu, viên đội người Tày Thàm Cam Sláy, thường gọi là Đội Sáng, đã tổ chức binh sĩ làm binh biển. Được nhân dân hưởng ứng, sau khi đánh đồn Bình Liêu nghĩa quân ra vùng rừng núi phía đông lập căn cứ, căn cứ mở rộng đến vùng núi phía Bắc Hà Cối và vùng núi PanNai của Móng Cái. Lực lượng đông dần lên tới vài trăm người, đã nhiều lần tập kích cả đồn Hà Cối và uy hiếp Móng Cái. Cuộc khởi nghĩa kéo dài gần 2 năm, chấn động cả vùng Đông Bắc, từ cuối năm 1917 đến giữa năm 1919 mới chịu thất bại.

Đến Cách mạng Tháng Tám, khi mấy sĩ quan Nhật vừa rút chạy, nhân dân Bình Liêu và binh lính đồn Bình Liêu đã nô nức chào đón Việt Minh. Tháng 11- 1945 Bình Liêu thành lập chính quyền cách mạng. Giữa năm 1946 bọn Việt Cách theo chân quân Tưởng tràn vào Bình Liêu và đầu năm 1947 quân Pháp quay lại chiếm đóng,  nhân dân Bình Liêu kiên cường kháng chiến. Cùng với Chiến dịch Biên giới, ngày 25-12-1950, quân đội ta vây đánh đồn Bình Liêu, buộc quân Pháp rút chạy, Bình Liêu được hoàn toàn giải phóng và trở thành căn cứ kháng chiến của tỉnh Hải Ninh. Các cơ quan đầu não của tỉnh từ đây tiến về các huyện đẩy mạnh chiến tranh du kích.

Về văn hóa, Bình Liêu có tập quán và nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc của nhiều dân tộc. Đồng bào không theo tôn giáo nào, cả huyện không có chùa, nhà thờ, chỉ có mấy ngôi đình nhỏ thờ thành hoàng. Các gia đình và dòng họ chỉ có tục thờ cúng tổ tiên. Sinh hoạt văn hóa xưa kia tập trung nhất là hội au-pò của người Tày và người Sán Chay vào các ngày 14,15,16 tháng 3 âm lịch. Những ngày đó, nam nữ thanh nien từ các bản kéo về thị trấn huyện lỵ gặp gỡ tâm tình, hát đối đáp giao duyên bằng các làn điệu dân ca. Người Tày có các điệu sli, tì làu, Then. Người Sán Chay có hát xoóng cộ và thường từng đôi bạn gặp nhau suốt ngày 16. Trrong ngày hôi au-pò và những ngày đầu xuân ở bản làng, bà con chơi đàn tính, ném còn, chơi gụ.

1.3.1.2 Vị trí địa lý.

Bình Liêu là một huyện miền núi, biên giới phía Đông Bắc của tỉnh Quảng Ninh. Vị trí địa lý huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh, phía bắc giáp với Sùng Tả và Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc, phía tây giáp với tỉnh Lạng Sơn, phía đông giáp với tỉnh Hải Hà, phía nam giáp huyện Tiên Yên và huyện Đầm Hà.

Bình Liêu là huyện miền núi ở cực bắc của tỉnh ( có tọa độ 21027’ đến 21039’ vĩ độ bắc và 107017’ đến 107036 kinh độ đông) cách thành phố Hạ Long 130km, cách huyện Tiên Yên 40km, phía bắc có 42,7 km đường biên giới giáp Trung Quốc, phía đông giáp huyện Quảng Hà, phía tây giáp huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn, phía nam giáp huyện Tiên Yên.

Bình Liêu có tổng diện tích tự nhiên khoảng 417 km2, dân số trên 27.629 (2009) bao gồm các dân tộc: Tày, Dao, Sán Chỉ, Kinh, Hoa. Có thể đi từ thành phố Hạ Long theo quốc lộ 18A đến ngã 3 Tiên Yên rẽ vào quốc lộ 18C để đến huyện Bình Liêu.

Có thể bạn quan tâm:

Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp

1.3.1.3. Điều kiện tự nhiên. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

  • Tài nguyên thiên nhiên.

Huyện có tiềm năng lớn về diện tích đất đai, đặc biệt là đất rừng phù hợp cho trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi theo mô hình trang trại, bảo vê môi trường sinh thái; có trữ lượng nước ngầm lớn, chất lượng tốt, đảm bảo vê sinh, phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt cho nhân dân.

Tuy nhiên, nước phục vụ sản xuất nông nghiệp còn khó khăn; sản xuất nông nghiệp của huyện vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện; phát triển các ngành nghề từ rừng còn hạn chế; sản xuất lương thực, thực phẩm và các loại sản phẩm khác chỉ mới đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ; sản xuất hàng hóa nông, lâm sản còn ít, hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng có sẵn có của huyện.

  • Địa hình.

+ Bình Liêu là huyện miền núi có địa hình núi non trùng điệp với tổng diện tích tự nhiên là 471,38 km2, phía đông có nhiều dãy núi cao, cao nhất là ngọn núi Cao Xiêm với chiều cao là 1330m và ngọn núi Cao Ba lanh với chiều dài là 1050m.

+ Đất nông nghiệp rất hạn hẹp với hơn 7000ha chiếm 15,6% tổng diện tích đất đai toàn huyện. Trong đó có hơn 4000ha lả diệ tích đất đồi có thể chăn thả gia súc, đất cấy lúa và đất trồng hoa chỉ có hơn 2000ha chủ yếu là ruộng bậc thang trải dài theo các thung lũng, vườn đồi, bãi bồi ven sông. Đất lâm nghiệp chiếm 70% diện tích đất toàn huyện phù hợp với trồng một số loại cây đặc sản như hồi, quế, trầu, sở và các loại cây lấy gỗ như sa mộc, thông, keo và một số cây ăn quả.

  • Khí hậu.

+ Bình Liêu không cách xa biển nhưng chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa, do bị che chắn bởi các dãy núi cao, vì vậy khí hậu ở đây có 4 mùa rõ rệt, mùa đông lạnh và kéo dài, có khi nhiệt độ xuống tới 4°C, thường có sương muối.

+ Nhiệt độ trung bình từ 17-22°C. Lượng mưa trung bình hàng năm trên 2400mm, năm cao nhất lên đến hơn 3000mm, năm thấp nhất là hơn 1000mm. Số ngày mưa trong năm trung bình là 165 ngày, mùa mưa nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 10, mưa ít từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm không khí tương đối cao trên 80% phục thuộc vào độ cao, địa hình phân hóa theo mùa, mùa nhiều mưa, mưa có độ ẩm không khí cao hơn mùa ít mưa.

  • Tài nguyên nước.

+ Bình Liêu có nhiều sông suối, phần lớn là đổ về Tiên Yên được bắt nguồn từ Trung Quốc. Trên đất Bình Liêu, sông Tiên Yên là đoạn thượng nguồn lưu lượng bình quân là 21,3/s (khoảng 609 triệum3/năm). Lòng suối dốc, nhiều ghềnh, mùa khô có thể lội qua được nhiều đoạn, mùa mưa lũ nước dâng rất nhanh, chảy dữ dội gây khó khăn cho việc đi lại.

+ Nước ngầm có trữ lượng lớn, đảm bảo được nhu cầu nước cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, đặc biệt là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp.

+ Chất lượng nước: Chất lượng môi trường nước ngầm tương đối tốt, ít bị ảnh hưởng tác động từ bên ngoài.

+ Nhờ có sông suối và địa hình núi cao không những cung cấp nước cho huyện Bình Liêu mà còn tạo ra nhiều dòng thác đẹp như Khe Vằn, Khe Tiền….

  • Động thực vật.

+ Động thực vật rất phong phú về chủng loại, trên rừng thực vật có hơn 1020 loài thuộc 6 ngành và 171 họ, một số ngành lớn như Mộc Lan 915 loài, ngành Dương Xỉ 58 loài, ngành Thông 11 loài.

+ Động thực vật có khoảng hơn 120 loài, trong đó có 11 loài lưỡng cư, bó sát 5 loài, chim 67 loài, thứ 34 loài.

  • Khoáng sản.

+ Trong lòng đất Bình Liêu có nhiều quặng quý hiếm như vàng ở Bản Ngày (xã Vô Ngại), quặng chì, kẽm ở Ngàn Phe (xã Đồng Tâm) song hàm lượng thấp nên chứa được đưa vào khai thác.

+ Riêng nguyên liệu chịu lửa Alumin có một trường quặng lớn gồm 3 thân quặng chính, tổng trữ lượng ước tính 35 triệu tấn. Ở phía Bắc có mỏ đá Grannit aplichuwa được khai thác. Hiện nay mớ chỉ khai thác mỏ quặng Bô-xít ở Vô Ngại.

  • Điều kiện kinh tế- xã hội.
  • Dân cư.

+ Bình Liêu có nhiều dân tộc sinh sống, dân số trên toàn huyện trong đợt tổng điều tra ngày 1/4/1999 là 25.626 người song dân cư thưa thớt, mật độ dân số là 55 người/km2, chủ yếu là dân tộc thiểu số chiếm 96% dân số toàn huyện, Bình Liêu có 5 tộc người chính.

+ Đông nhất ở đây là tộc người Tày, chiếm 58,4% dân số toàn huyện, sống tập trung thành bản làng ở vùng thấp và thị trấn.

+ Người Dao chiếm 25,6% chủ yếu tập trung ở xã Đồng Văn và Hoành Mô.

+ Người Sán Chay chiếm 15,4% đông nhất xã Húc Động. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

+ Người Kinh chiếm 3,7%

+ Người Hoa chiếm 0,3.

Bình Liêu là huyện có tộc người Tày đông nhất tỉnh Quảng Ninh.

  • Kinh tế- xã hội.

+ Kinh tế Bình Liêu bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên huyện có thể mạnh về phát triển lâm nghiệp trồng Hồi, Quế, Trầu, Sở, cây lấy gỗ như Sa mộc, Thông, Keo…

+ Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm đã được chính quyền quan tâm nhưng số lượng vẫn còn ít, những năm trước đây ở Bình Liêu có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt tơ, nhưng hiện nay đã suy giảm nhiều.

+ Trước đây, kinh tế địa phương còn gặp nhiều khó khăn vì đi lại xa xôi, đất canh tác ít, chủ yếu là đất rừng, vì thế, kinh tế chủ yếu của huyện là nông- lâm nghiệp. Giao thông đi lại, vận chuyển chỉ có quốc lộ 18C từ Tiên Yên lên Bình Liêu, chạy dọc huyện men theo thung lũng Tiên Yên và tận cùng là cửa khẩu Hoành Mô.

+ Thực hiện công cuộc đổi mới, các cấp lãnh đạo đã chú trọng chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế theo hướng nông- lâm nghiệp, thương mại, dịch vụ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đẩy nhanh kinh tế hàng hóa và kinh tế cửa khẩu. Huyện đã khai thác lợi thế địa phương như sản phẩm cây đặc sản: hồi, quế và chế biến miến dong…

+ Miến dong là một sản phẩm đặc trưng của bà con dân tộc huyện Bình Liêu, miến được sản xuất từ củ dong riềng được trồng trên những thửa ruộng từ tháng 3 đến tháng 11. Trước đây, miến dong được bà con sản xuất theo phương pháp thủ công và chỉ phục vụ cho gia đình, ít được đem bán. Hiện nay, nhờ dự án đầu tư của nhà nước, nghề sản xuất miến dong ở Bình Liêu rất phát triển, vùng nguyên liệu được mở rộng, bà con đưa máy móc công nghệ vào sản xuất và chế biến, làm số lượng miến dong tăng lên và miến dong Bình Liêu được khẳng định trên thị trường là sản phẩm có chất lượng và trở thành đặc sản của huyện Bình Liêu.

+ Xác định tầm quan trọng của nông nghiệp trong việc phát triển kinh tế, huyện đã từng bước đưa những ứng dụng khoa học công nghệ vào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, phát triển kinh tế trang trại… tại địa phương. Trong canh tác lúa để nâng cao giá trị sản xuất huyện đã đưa các giống lúa thuần, lúa lai vào ruộng đồng phù hợp với điều kiện của địa phương nên đem lại năng suất cao hơn, từ đó mở rộng diện tích canh tác. Cùng với trồng lúa, bà con nông dân được hướng dẫn kĩ thuật trồng một số loại cây rau vụ đông có hiệu quả giúp nguồn thu nhập của nông dân ngày càng tăng.

Trong lĩnh vực lâm nghiệp vốn được coi là một trong những thế mạnh của địa phương, hàng năm huyện đều ra các chỉ tiêu tăng diện tích trồng rừng. Tính trung bình mỗi năm số lượng cây giống được gieo tạo khoảng 2 triệu cây. Bên cạnh đó huyện thực hiện các biện pháp chăm sóc, tu bổ, khoanh nuôi rừng để đảm bảo duy trì và phát triển nguồn lợi lâm sản. Trong 2 năm gần đây, tổng diện tích trồng rừng toàn huyện đạt trên 4000ha, bình quân mỗi năm trồng mới trên 2000ha, trong đó thông Mã Vĩ chiếm 57% diện tích trồng rừng hàng năm, cây Keo chiếm 30%, còn lại là các giống cây khác. Đến nay, độ che phủ rừng đạt 41.5%, 90% số hộ trên địa bàn huyện nhận đất rừng để sản xuất và bảo vệ, nhờ đó thu nhập từ trồng rừng đạt 60-80 triệu đồng/năm. Nhờ có những bước đi đúng đắn sản xuất nông- lâm nghiệp trong những năm qua của huyện Bình Liêu đã có những bước phát triển đáng mừng. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp trong những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng bình quân trên 3%/năm, sản xuất lâm nghiệp trên 5.6%.

Trong những năm qua hoạt động thương mại luôn phát triển khá. Tổng số hộ kinh doanh trên huyện là 420 hộ, tăng 148 hộ so với năm 2002. Các chợ trên địa bàn đáp ứng nhu cầu giao lưu văn hóa và phục vụ các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân. Từ năm 1990 cửa khẩu Hoành Mô mở cửa lại, hàng hóa từ nội địa 2 bên Việt Nam- Trung Quốc giao lưu ngày càng tăng, hoạt động của cửa khẩu đã tạo thêm bước phát triển thương mại và dịch vụ của huyện. Cửa khẩu Hoành Mô chính là một điểm lưu thông quan trọng cho sản phẩm từ cây đặc sản của địa phương với hướng chủ đạo là sản xuất sang Trung Quốc. Năm 2009 măc dù còn nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng kim ngạch xuất- nhập khẩu qua cửa khẩu Hoành Mô ước đạt 18 triệu USD trong đó xuất khẩu ước đạt 7 triệu USD.

–   Đơn vị hành chính.

STT Tên đơn vị hành chính
1 Xã Đồng Văn
2 Xã Hoành Mô
3 Xã Đồng Tâm
4 Xã Lục Hồn
5 Xã Tĩnh Húc
6 Xã Vô Ngại
7 Xã Húc Động
8 Thị trấn Bình Liêu

1.3.2. Lịch sử hình thành tộc người. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Viết về tộc người Tày ở Quảng Ninh, Thiếu tá Reversery (trong Revoi Indochinose-1905) cho rằng khu vực Tày chỉ giới hạn ở phía Bắc vùng biển trong quân khu Móng Cái. Nhưng trong khu vực Hán- Việt có những nhóm lẻ tẻ nói tiếng Tày sống lẫn lộn ở các cánh đồng cũng như trên dãy núi phía Nam. Theo ông, có hai nhóm Tày đến địa phương trong những điều kiện khác với những điều kiện mằ người Tày đến sinh cơ lập nghiệp ở những vùng dất khác của Đạo quan binh thứ nhất. Trong khi tiếp xúc với người Hán và người Việt, họ dần mất đi các đặc điểm của tộc người mình, kể cả tiếng nói. Hai nhóm đó là nhóm Phén và nhóm Thủ.

Tên Phén là tên tự gọi, người Tày và người Việt đều gọi là Phén, người Hán và những tộc người miền núi nói tiềng Hán thì gọi là Phén Lão. Người Phén nói rằng họ đến từ huyện Phòng Thành, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, đến đây từ rất lâu đời, có nơi còn trước cả người Việt. Trước khi xứ sở bị xâm chiếm, đàn ông Phén ăn mặc như người Việt, phụ nữ thì thường mặc chiếc áo dài và một số yếm thêu như người phụ nữ Sán Chỉ, khi sống giữa người Hán thì ăn mặc theo người Hán trừ cách đội khăn kể cả nam lẫn nữ. Giống như người Việt, họ cũng ăn trầu, nhuộm răng, nhất là phụ nữ.

Tên Thổ hay còn gọi là Thổ Nhằn hoặc Thôn Nhằn theo Reversery, Thổ Nhằn là do người Hán và người Mán nói tiếng Hán gọi, còn người Việt gọi họ là Thổ Nhân. Họ đến vùng đất từ Khâm Châu, cũng là một huyện của tỉnh Quảng Đông, Trug Quốc từ nhiều đời nay. Khác với những người đồng tộc Tày ở địa phương khác cuira Đạo quan binh thứ hai thì nhóm Phén và Thổ ở đây dễ hòa vào người Việt và người Hán.

Về ngôn ngữ, người ta ghi nhận rằng người Thổ và người Phén đều có cùng một loại tiếng nói. Qua so sánh các ngôn ngữ khác, người ta phân thành 5 nhóm, 2 nhóm đầu dường như cóp mối quan hệ thân thuộc nào đó.

  • Pùn Tỷ Hạc, Hạc, Ngái, Hắc Cá.
  • Sán Dìu, Sán Chỉ Hà, Sán Chỉ.
  • Thủ và Phén.
  • Pan
  • Việt.

Về dân số, theo cuốn “ Tiểu dẫn về tỉnh Hải Ninh (1932)” Bình Liêu có 5700 người thì Thổ chiếm 3/4 .

Trong cuốn “ Lược chí địa lý khu tự trị vùng Hải Ninh” của Voong A Sáng (1949) đề cập đến người Thổ và cho rằng “Người Thổ từ Quảng Tây, Trung Quốc phiêu bạt nhiều đời sang, quây quần tại huyện Bình Liêu, các chân núi màu mỡ thuộc Tiên Yên, vùng sâu cuối sông Ba Chẽ thuộc Đình Lập, vùng cuối sông Kỳ Cùng.

Nhưng nhìn chung, tên gọi Tày vẫn là tên gọi thống nhất, đại diện cho tất cả các nhóm có những tên gọi mang tính địa phương. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì Tày và Nùng là những cư dân có chung nguồn gốc lịch sử, cùng thuộc khối Bách Việt xưa, sau khi thiết lập biên giới Việt- Trung, các cư dân Tày, Nùng, Thái… ở hai nước được hình thành và phát triển với những điều kiện riêng. Tày là tên gọi từ lâu đời, có thể vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên. Là cư dân sinh sống lâu đời ở vùng đất đai thuộc vùng núi phía Bắc như hiện nay, người Tày còn lưu lại nhiều chuyện cổ về nguồn gốc của tộc người mình như Nạn Hồng Thủy, Báo Luông Slao, Pú lương quân….

Năm 1989 cả tỉnh Quảng Ninh có 23130 người Tày thì huyện Bình Liêu đã có 10758 người (chiếm 46%).

1.3.3. Thực trạng đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Cũng như phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số khác nhau trên địa bàn, cộng đồng các dân tộc thiểu số trong cả nước thì đời sống- kinh tế của người Tày ở Bình Liêu vẫn còn nhiều hạn chế và khó khăn. Sản xuất chính vẫn là nông nghiệp- lâm nghiệp nhưng kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, trình độ thâm canh thấp. Cuộc sống hàng ngày vẫn còn phụ thuộc lớn vào tự nhiên.

Hiện tượng phát nương làm rẫy, khai thác lâm sản, săn bắn động vật vẫn còn diễn ra phổ biến trực tiếp đe dọa đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.

Do người Tày đã định cư ở Bình Liêu lâu đời nên đồng bào đã sớm biết cách trồng lúa nước, ngoài trồng lúa, hoa màu, người dân ở đây còn đào ao, thả cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng. Lịch sinh hoạt sản xuất của người Tày cùng giống như nhiều đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Bình Liêu:

  • Tháng 1: Ăn tết nguyên đán, chọn ngày tốt làm lễ xuống đồng, phát nương trồng ngô.
  • Tháng 2: Tiếp tục trồng ngô và các loại màu.
  • Tháng 3: Trồng ngô, vun xới ngô, màu, cày bừa ruộng, gieo mạ
  • Tháng 4: Tiếp tục cày bừa ruộng làm nương
  • Tháng 5, tháng 6: nhổ mạ, thu hoạch màu.
  • Tháng 7, tháng 8: chăm sóc lúa, thu hái lâm, thổ sản.
  • Tháng 9, tháng 10: thu hoạch lúa, làm lễ mời cơm, sửa chữa nhà, tiến hành các nghi lễ cưới hỏi.
  • Tháng 11, tháng 12: tiến hành các nghi lễ cưới hỏi, đây là thời gian bà con nghỉ ngơi, thăm hỏi họ hàng, chuẩn bị ăn tết nguyên đán và đón một mùa sản xuất mới.

Tỉ lệ đói nghèo tuy đã giảm nhưng vẫn còn nhiều, trừ những người Tày sinh sống ở khu vực thị trấn- là những người cón thu nhập ổn định. Những người Tày sinh sống ở vùng sâu vùng xa của huyện Bình Liêu đều xếp vào diện khó khăn, việc đó đã hạn chế khả năng tiếp thu nâng cao dân trí của người dân.

Nhưng những năm gần đây, được sự giúp đỡ của chính quyền và chính sach của nhà nước, các gia đình đã cho con em mình đi học xong vẫn còn tỉ lệ bỏ học và tái mù chữ. Một số bộ phận học sinh vùng cao đi học chưa đều, tỷ lệ tuyển sinh vào lớp 6 và lớp 10 còn thấp, chất lượng giáo dục thấp, chuyển biến chậm.

1.3.4. Đặc trưng văn hóa của người Tày ở huyện Bình Liêu. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

1.3.4.1. Văn hóa vật thể

Kiến trúc dân gian (nhà ở):

Không giống với phong cách du canh du cư của nhiều tộc người thiểu số khác, người Tày luôn có tư tưởng ổn định về nơi ở, từ đó mới tính đến chuyện làm nương, trồng ngô. Đồng bào Tày thường sống quần tụ thành từng bản, mỗi bản có 20 đến 100 nóc nhà, nhiều bản hợp thành một xã. Bản của người Tày được dựng ở chân núi hoặc những nơi đất đai bằng phẳng như ven sông, ven suối ở trên những cánh đồng. Tính cộng đồng của bản làng xưa kia đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, để lại những thuần phong mỹ tục truyền thống của dân tộc Tày.

Nhà của người Tày có nhà sàn, nhà đất và một số bản giáp biên giới có loại nhà phòng thú. Ngôi nhà sàn không chỉ là nơi cư ngụ truyền đời của gia đình, dòng họ mà còn là cái nôi diễn ra sinh hoạt văn hóa truyền thống và là nơi trú ngụ, thờ cúng tổ tiên. Nhà sàn truyền thống của dân tộc Tày có bộ sườn làm theo kiểu từ 4 đến 7 hàng cột, nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói tranh hay lá, xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa. Xưa kia nhà sàn được sử dụng một cách tổng hợp, bên trong gồm 2 phần: phần trong và phần ngoài. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, phòng nữ ở trong buồng. Ở những gia đình khá giả, nhà sàn được xây dựng bằng gỗ tết có ván bưng xung quanh nhà và lót sàn, mái lợp ngói, trông rất khang trang.

Cũng như các dân tộc khác, người Tày ở Bình Liêu khi làm nhà phải chọn đất, xem hướng, xem tuổi,chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới, chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ cho ngọn lửa luôn cháy suốt đêm đến sáng hôm sau. Trải qua sự phát triển hàng thế kỷ, người Tày vẫn không ngừng sáng tạo để cải tiến ngôi nhà của mình sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như cuộc sống lao động sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn không quên gìn giữ nét đặc trưng truyền thống. Chính điều này đã tạo dựng nên một phong cách riêng của tộc người Tày.

Hiện nay, kinh tế được phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, nhà ở của người Tày ở Bình Liêu đã không còn nhiều nhà sàn nữa mà phần lớn đã xây dựng bằng gạch hoặc các vật liêu hiện đại, có những ngôi nhà khang trang, hiện đại như ở thành phố.

–   Trang phục.

Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông dệt, nhuộm chàm, gần như không thêu thùa trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc mặc quần áo, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Phén thường mặc áo màu nâu.

Y phục của nam giới Tày gồm loại áo cánh bốn thân, áo dài năm thân, khăn đội đầu, quần và giầy vải. Áo cánh bốn thân là loại xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải và có hai túi nhỏ phía dưới hai thân trước. Trong dịp lễ tết, nam giới mặc thêm loại áo dài năm thân, xẻ nách phải, đơm cúc vải hay đồng. Quần cũng làm bằng vải sợi bông chàm như áo, cắt theo kiểu quần đũng chéo, dỗ dãn vừa phải, dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng luồn rút, khi mặc có dây chun buộc ngoài. Khăn đội màu chàm quấn trên đầu theo lối chữ nhân.

Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Áo cánh là loại bốn thân, xẻ ngực, cổ tròn có hai túi nhỏ phía vạt trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng. Khi đi hội thường được mặc lót bên trong áo dài. Áo dài cũng là loại năm thân, xẻ nách, được cài cúc vải hoặc đồng, cổ tròn, ống tay và thân hẹp có eo.

Trước đây thì phụ nữ thường mặc váy, nhưng gần đây thì phổ biến mặc quần. Đó là loại quần về nguyên tắc thì gần giống của nam giới, kích thước có phần hẹp hơn. Khăn của người phụ nữ Tày có loại khăn vuông màu chàm, khi đội gập chéo kiểu mỏ quạ của người Kinh. Nón của phụ nữ Tày rất độc đáo, nón bằng nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng. Trang sức của họ cũng đơn giản song đủ các chủng loại cơ bản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích và đôi khi họ còn đeo túi vải.

Cái độc đáo đáng quan tâm nhất của người Tày ở đây không phải là lối tạo dáng mà là lối dùng màu chàm phổ biến đồng nhất trên trang phục nam nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo dài màu chàm. Nhiều tộc người khác cũng sử dụn màu chàm nhưng khi gia công còn trang trí những màu khác trên trang phục. Ở người Tày, hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm. Trang phục của bé trai người Tày cũng giống như trang phục của nam giới người Tày, trang phục bé gái cũng tương tự.

Trang phục của người Tày chỉ đơn giản một màu sắc chàm, còn những nét đặc sắc được thể hiện ở những màu hoa văn trên vải của họ. Loại vặt dệt hoa văn màu đen trên nền vải trằn là loại vải để may mặt chăn, trên cơ sở của loại bố cục hoa văn màu đen nền trắng của người Tày đã phát triển trang trí theo một hướng khác, gài màu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết phụ thuộc vào trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, dó là thổ cẩm. Thổ cẩm có loại hình vuông để may mặt địu, các loại thổ cẩm hình chữ nhật để làm mặt chăn, màn che. Những tấm màn che ở vị trí như nơi thờ cúng tổ tiên thì người ta thường thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo như thêm đường diềm phía trên- tương ứng với cõi trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm phía dưới- tương ứng cho cõi đất và có hình chim muông.. là biểu tượng cho cây cỏ, muông thú trên mặt đất. Ngoài ra còn nhiều họa tiết như chữ hán, hình hoa văn cách điệu. Màu sắc rực rỡ phối hợp với các màu nguyên sắc có độ tương phản cao, có những sắc trầm hoặc tươi sáng, các sắc thái khác nhau cho thấy thổ cẩm của người Tày không gò bó trong quy ước nào, nó thể hiện sự sáng tạo phong phú và đa dạng của các nghệ nhân. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Công cụ lao động, sản xuất, chiến đấu.

Xưa kia, người Tày chủ yếu canh tác nương rẫy do địa hình liền kề núi, có nhiều mảnh đất màu mỡ thuận tiện cho việc trồng lúa nương, ngô khoai sắn…

Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng lúa nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, bắc phai làm cọn lấy nước tưới ruộng. Trước đây, đồng bào dùng cày chìa vôi, bừa răng bằng gỗ, hoặc dùng trâu dẫm đất cho nhuyễn thay cho lượt cày thứ nhất, có lúc phải dùng đến bốn, năm con trâu nhưng hiệu quả kinh tế thấp. Nay nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật, người Tày đã biết sử dụng nhiều loại máy móc hiện đại như máy cày, máy bừa để phục vụ sản xuất, tốn ít sức lao động mà hiệu quả kinh tế cao hơn. Họ thường đập lúa ở đồng trên những máng gỗ gọi là Loóng, rồi mói dùng dậu gánh thóc về nhà, nay thì đã có máy tuốt lúa, máy gặt, máy đập giúp cho việc thu hoạch đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… chăn nuôi phát triển với các loại gia súc, gia cầm.

Trước kia, người Tày ở Bình Liêu còn có nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, tuy nay đã không còn nhưng trong nhiều gia đình vẫn còn máy dệt vải để dẹt những tấm thổ cẩm phục vụ cho đời sống sinh hoạt.

Vũ khí của dân tộc Tày gồm súng kíp, bẫy, vừa dùng để săn bắn, vừa dùng để tự vệ, bảo vệ con người khỏi thú dữ và kẻ thù.

  • Phương tiện vân chuyển

Là cư dân sống trên vùng núi cao, địa hình hiểm trở, có sự đan xen giữa núi và các sông suối nên giao thông gặp nhiều khó khăn. Người Tày sử dụng sức người là chính trong giao thông vận chuyển. Khi lao động sản xuất, vận chuyển lương thực, hàng hóa thiết yếu phục vụ cho cuộc sống với những thứ nhỏ gọn thì họ cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải đeo trên người. Còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng, vác, hoặc sử dụng sức trâu kéo.

Ngày nay nhờ có sự phát triển của kinh tế- xã hội, đời sống của tộc người Tày đã bớt khó khăn, họ đã và đang sử dụng nhiều phương tiên cơ giới trong sinh hoạt.

  • Văn hóa phi vật thể.
  • Ngôn ngữ, chữ viết.

Trong giao tiếp hàng ngày với các dân tộc khác, người Tày vẫn sử dụng tiếng Việt, còn trong gia đình, họ hàng, người thân quen cùng biết tiếng Tày thì họ sử dụng tiếng Tày.

Tiếng Tày là tiếng nói của người Tày, là văn nói là khẩu ngữ, chứ viết là chữ Hán Nôm. Chữ Nôm Tày được xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV, dạng chữ này thường được dùng cho cúng tế, ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng. Khi chính phủ quy định viết hệ ngôn ngữ này, vấn đề phát âm của tiếng Tày theo chữ quốc ngữ không có sai bao nhiêu. Tiếng Tày có quan hệ mật thiết với tiếng Nùng.

Chữ Tày được sử dụng cách đây khoảng 300 năm và trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, nó đã trở thành một phần tất yếu của văn hóa Tày. Ngày nay đối với dân tộc Tày ở Bình Liêu nói riêng và cộng đồng tộc người Tày nói chung, tiếng Tày không chỉ là một phương tiện giao tiếp đơn thuần mà là một tài sản phi vật thể vô giá, là niềm tự hào của dân tộc, là một thứ tôn giáo đặc biệt của tâm hồn.

1.3.4.2. Văn học nghệ thuật dân ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Người Tày có kho tàng văn học dân gian phong phú với các thể loại như truyện ngụ ngôn, truyện cười, dân ca, ca dao, tục ngữ, thành ngữ… phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan và cuộc sống lao động đấu tranh của tộc người Tày.

Đối với người Tày ở khu vực Bình Liêu hát Then là loại hình văn nghệ dân gian có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống văn hóa, tinh thần, không chỉ đơn thuần là hình thức diễn đạt nội dung bằng nhạc điệu, phương thức giao lưu giao duyên giữa đôi tri gái với nhau mà hát Then đã được người Tày xưa gắn vào các hoạt động tín ngưỡng, tâm tình khi lấy những điệu hát Then để lảy Then, cúng Then, bói Then.

Nửa thế kỉ trước, ở Bình Liêu có ông già mù Lô Chính, một nhân vật được coi là tài hoa của bản người Tày, chống gậy lang thang di hát Then, bói Then, cúng Then khắp các ngã rừng như kiểu hát đúm, hò biển của người vùng sông nước Hà Na (Yên Hưng), hát Sán cổ, Soong cọ của người Sán Dìu, người Dao. Hát Then được sử dụng làm phương thức giao duyên giữa trai và gái người Tày. Bởi vậy, những câu hát Then đầy sáng tạo của ông già mù Lô Chính mà nhiều chàng trai Tày đã tìm được vợ hiền, vợ đẹp.

Ngoài hát Then, người Tày còn có nhiều làn điệu dân ca như hát Lượn phong slư… là những lối hát giao duyên thường được biểu diễn tại các lễ hội lồng tồng, đám cưới, mừng nhà mới hay có khách đến bản.. Tất cả các loại hình nghệ thuật dân gian góp phần làm giàu đẹp thêm đời sống văn hóa của người Tày tại huyện Bình Liêu nói riêng và người Tày trên cả nước nói chung.

Phong slư hay còn được gọi là Phảng lài, là một loại dân ca phổ biến của vùng Đông Bắc, nơi có bà con tộc người Tày cư trú. Phong slư được hiểu theo nghĩa là bức thư tình viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên bằng tiếng Tày và đôi câu Hán Tự, Hán Nôm có lẫn cả với Nôm Tày. Những bức thư tình ấy là nỗi niềm suy tư thầm kín, sâu lắng từ đáy lòng các chàng trai, cô gái mới quen hay đã bén duyên nhau hoặc tơ duyên trắc trở. Tình yêu của họ dạt dào như suối nguồn, ngày đêm thương nhớ nhưng lại ít có điều kiện ở bên cạnh nhau, vì thế, phong slư là phương tiện chuyền tải nội dung tình yêu lứa đôi, là người bạn kè vai, áp má của họ.

  • Tôn giáo, tín ngưỡng dân gian truyền thống.

Đồng bào Tày ở Bình Liêu không theo tôn giáo nào cả, cả huyện không có chùa, nhà thờ, các gia đình và dòng họ có tập tục thờ cúng tổ tiên vào các ngày lễ tết. Đây cũng là một tín ngưỡng quan trọng của người Tày.

Người Tày rất quan trọng Táo quân và Thổ công, họ quan niệm bếp không có lửa sẽ có điều xấu đến. Đối với họ Táo quân là vị thần bảo vệ người và gia súc, nơi thờ vị thần này được đặt ngay cạnh bếp, rất đơn giản, chỉ là một ống tre được dán giáy đỏ làm ống hương. Khi gia đình có việc hoặc đại sự xảy ra các việc như bệnh tật, mất trộm, gia súc đau ốm,… thường phải cúng bái báo cho thần bếp, xin thần bếp chứng giám và phù hộ cho tai qua nạn khỏi. Thổ công đối với người Tày là vị thần bảo vệ mùa màng, bản làng. Hàng năm, người Tày cúng Thổ công vao dịp tết Nguyên đán. Tết nguyên đán cũng là cái tết lớn nhất trong năm, các bàn thờ được trang hoàng, dán giấy đỏ. Ngày 30 tết, người Tày cất tất cả những dụng cụ sản xuất và đồ dùng trong nhà như dao, rựa, cày, bừa…. vào một nơi rồi làm lễ cúng để cho chúng nghỉ ngơi ăn Tết.

  • Phong tục tập quán.

*Quan hệ dòng họ, gia đình, gia tộc.

Người Tày có quan hệ dòng họ rất chặt chẽ, trưởng họ có vai trò khá lớn trong mọi vấn đề của dòng họ như cưới xin, ma chay, làm nhà mới, giải quyết bất hòa trong các mối quan hệ. Gia đình người Tày là gia đình phụ hệ, trước đây tồn tại những gia đình lớn gồm nhiều hệ (thường là con trai trưởng). Ngày nay, người Tày ở Bình Liêu có rất ít những gia đình lớn ba, bốn thế hệ cùng sống chung mà chỉ tồn tại các gia đình nhỏ hai thế hệ (bố mẹ và con cái). Con cái sinh ra lấy họ bố, trong cả những trường hợp con trai đi làm rể đời ( có những nhà chỉ sinh con gái mà không có con trai ruột thì một người con rể sẽ ở loại nhà vợ và thờ cúng, hương hỏa cho nhà vợ) thì con vẫn mang họ bố. Đây là một trong những đặc trưng phản ánh rõ nét tính phụ quyền của người Tày. Trong gia đình, vai trò của người bố, người chồng luôn là trụ cột, quyết định mọi việc lớn nhỏ. Sau người bố là con trai trưởng, cũng có vai trò to lớn trong gia đình. Chính vì điều thế mà người Tày rất mong muốn sinh được nhiều con trai. Người vợ trong gia đình có quyền tham gia ý kiến về công việc, là lao động chính trong gia đình, là người trực tiếp nuôi dạy con cái, nhưng quyền quyết định bao giờ cũng thuộc về người chồng.

Quan hệ hôn nhân của người Tày là hôn nhân đối ngẫu, tiến bộ một vợ một chồng theo nguyên tắc ngoại hôn dòng họ. Quan hệ trong gia đình tuy đã giảm bớt một số quy định khắt khe không như trước đây, nhưng con dâu vẫn không được ngồi ăn cơm ngang hàng với bố chồng, anh chồng. Bố chồng, anh chồng không vào buồng của con dau em dâu. Khi nhà có khách, vợ và con gái thường ăn riêng ở mâm bên dưới nhà.

1.3.4.3. Nghi lễ trong sinh đẻ, nuôi dạy con cái. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Trước đây do quan niệm cần nhân lực lao động, làm ra nhiều của cải, để có người nối dõi tông đường, hưởng gia tài nên người Tày thích sinh nhiều con cái, đặc biệt là con trai. Khi người phụ nữ mang thai, với mong muốn đứa trẻ khỏe mạnh, họ kiêng kỵ nhiều thứ, trước khi ăn cơm, người phụ nữ phải uống một chén nước để sau này dễ sinh, nước ối sẽ ra trước khi đứa trẻ ra, không phải đẻ khan.

Việc mang thai khiến người phụ nữ trở nên yếu đuối và mệt nhọc, để bảo vệ bản thân và đứa con, họ phải tuân theo những lời của người đi trước. Khi biết có đám tang đi qua đường mà lỡ gặp họ thì phải đứng nép vào một góc xa bên đường. Nếu đứng quá gần, sợ vía của mình yếu sẽ bị vía của người chết bắt đi. Người Tày thường cho rằng “lúc mang thai vía người đàn bà yếu hơn vía người khác, trường hợp xấu không may về nhà bị ốm thì phải mời thầy mo (pú mo) hoặc bà Then (pú Then) về làm lễ giải hạn. Khi đi đường tránh bước qua dây buộc ngựa, buộc trâu, con dao, cái chày, nếu không làm như vậy sau này sinh con ra sẽ bị dị dạng dài như cái dây thừng và xấu xí như cái chày.khi người phụ nữ đến ngày đẻ thì phải ở bên nhà chồng, không được về nhà mẹ đẻ, sau sinh phải đủ 42 ngày mới được sang nhà ngoại.

Trước đây, người Tày có tập quán ngồi sinh trong buồng, có bà đỡ đến đỡ, mẹ và các chị em chăm soc giúp. Sau khi sinh, nhau thai và cuống rốn được thả xuống suối với quan niệm làm như vậy để đứa trẻ mát và dễ nuôi. Ngày nay, đa phần chị em đến các trạm y tế để sinh và được chăm sóc sau sinh để tránh những rủi ro đáng tiếc. Ngay sau khi người phụ nữ sinh thì nhờ người nam giới khỏe mạnh, tháo vát, làm ăn giỏi đi lên nhà thăm hỏi đứa trẻ với mong muốn rằng sau này đứa trẻ cũng khỏe mạnh và giỏi giang như thế. Sau khi đứa trẻ ra đời được ba ngày thì cúng vía và lập bàn thợ bà Mụ. Sinh nở xong 2 đến 3 tuần, thậm chí hơn 1 tháng, bà mẹ mới được tắm bằng nước lá đun sôi, nếu tắm sớm khi cơ thể còn yếu thì sau này sức khỏe không đảm bảo, sợ nước, sợ lạnh.

Khi đứa trẻ được một tháng tuổi, người Tày có tục làm đầy tháng cho đứa trẻ. Theo tập tục cổ truyền của đồng bào Tày ở đây lễ đầy tháng là nghi lễ không thể bỏ qua đối với bất kì đứa trẻ nào được sinh ra. Người Tày làm lễ cho cháu bé trai vào ngày 25 tính từ ngày sinh và cho cháu bé gái từ ngày 30. Ngày lễ mang ý nghĩa là mừng cháu bé khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn, mừng phúc đức cho gia đình đồng thời mang ý nghĩa là báo với bà Mụ là đứa con của bà Mụ ban cho đã được ra đời khỏe mạnh, xin bà tiếp tục phù hộ bảo vệ, che chở cho đứa trẻ ngày càng chóng lớn, trưởng thành. Khi đứa trẻ tròn một năm tuổi thì làm lê đầy năm mời họ hàng gần gũi đến làm cỗ ăn mừng. Trong quá trình nuôi dưỡng nếu đứa trẻ bị ốm việc đầu tiên là mời thầy cúng giải bệnh xem đó là ma nào làm hại và làm mâm cơm cúng ma đó. Bên cạnh đó, người Tày còn nhiều kinh nghiệm trong việc dùng thuốc nam để chữa trị cho đứa trẻ nhưng hiện nay, phần lớn khi đứa trẻ bị bệnh đều được đưa đến trạm xá để điều trị.

*Nghi lễ cưới xin.

Hôn nhân của người Tày được quy định khá sớm vì vậy mà đồng bào thường kết hôn ở tuổi 16 đến 18. Ngày nay tuổi kết hôn được nâng cao lên theo quy định của luật hôn nhân và gia đình. Trước đây để có tiến hành nghi lễ hôn nhân phải trải qua rất nhiều thủ tục rườm rà phức tạp. Ngày nay các nghi lễ đã được giảm bớt nhưng về cơ bản người Tày vẫn giữ được những nét truyền thống trong hôn nhân. Các nghi lễ trong hôn nhân bao gồm

  • Lễ dặm hỏi: nhà trai xin ngày, tháng, năm sinh của cô gái sau đó nhờ thầy tử vi xem số mẹnh cô gái có hợp với chàng trai hay không. Nếu hợp thì nhà trai đến xin lễ dặm, nếu không hợp phải báo cho nhà gái biết.
  • Lễ trầu cau: nhà trai nhờ một người nam giới có uy tín trong dòng họ sang nhà gái bàn việc trặm năm cho đôi trẻ. Tại lễ này nhà trai xin bản lục mệnh của cô gái được ghi chép cẩn thận trên giấy hồng điền đủ 12 cung như cung bản mệnh, cung phụ mẫu… khi bản lục mệnh của cô gái được trao cho nhà trai thì coi như hai bên đã công nhận sự đính hôn của đôi trẻ. Nếu sau này vì một lý do nào đó hai bên không cưới gả con cho nhau được thì nhà trai phải trả lại tấm giấy lục mệnh cho nhà gái, kèm theo gánh lễ vật để nhà gái mời khách đến dự lễ hủy bỏ lễ dặm hỏi trước đây và cô gái mới được quyền lấy người khác.
  • Lễ kê khai: thường được diễn ra trước lễ cưới 2 đến 3 tháng để hai gia đình có thời gian chuẩn bị chu đáo cho hôn lễ. Nhà gái sẽ mời họ hàng đến bàn bạc về lễ thách cưới. Sau đó sẽ đưa cho nhà trai một bản kê khai các lễ vật cân mang đến.
  • Đám cưới: nghi lễ trong đám cưới của người Tày khá cầu kỳ nhưng vì quan niệm của họ nếu thiếu nó cô dâu chú rể sẽ khó có một cuộc sống hạnh phúc. Nếu làm cho gia tiên và các vị thần linh phật lòng thì không phải chỉ những người trong nhà gặp phải những điều xui xẻo mà việc sinh nở, hay cuộc sống gia đình của cô dâu sẽ không tránh khỏi những bất trắc. Theo phong tục, gia đình có con gái từ 10 tuổi trở lên phải trồng bông dệt vải, khi cô dâu về nhà chồng phải chuẩn bị cho ông bà nội, ngoại, bố mẹ chồng, cô, dì, chú, bác bên chồng mỗi gia đình một đôi gối, một cái chăn bông. Nếu anh em chưa có gia đình thì mỗi người sẽ được cô dâu tặng một cái chăn và một cái gối. Đồng thời, cô dâu cũng phải chuẩn bị đầy đủ mọi dụng cụ phục vụ sinh hoạt và lao động sản xuất để đem về nhà chồng. Cô dâu trong ngày cưới mặc áo dài đen, váy đen, vấn tóc trong vành khăn. Nhưng ngày nay, cô dau đã mặc trang phục cưới như người Trước khi nhà trai đi đón dâu phải làm lễ cúng gia tiên.
  • Lễ lại mặt: ba ngày sau đám cưới, đôi vợ chồng mang lễ lại mặt đến nhà gái, đến nhà gái chú rể phải tự tay nấu 4 đến 5 mâm cơm cảm ơn họ hàng nhà gái để một lần nữa nhận biết họ hàng. Kết thúc buổi lễ lại mặt đôi vợ chồng trẻ mới được động phòng và bắt đầu cuộc sống lứa đôi. Ý nghĩa của lễ lại mặt là để gia đình nhà gái yên tâm họ đã gả con gái cho người có thể ngờ cậy.

Đám cưới chính là sự thừa nhận của hai cộng đồng bản làng với cuộc hôn nhân của đôi nam nữ. Ngày nay người Tày có sự thay đổi về mặt nhận thức và quan niệm sống. Vai trò của người phụ nữ đã được đề cao. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu nhau, tự do hôn nhân trên cơ sở tình yêu đôi lứa chứ không còn bị ràng buộc khắt khe như trước nữa. Trong cuộc sống mới, tục cưới xin của người Tày ở đây có nhiều thay đổi nhưng vẫn lưu giữ đưọc những nét văn hóa truyền thống đặc trưng của địa phương.

1.3.4.4. Nghi lễ mừng thọ ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

Là nghi lễ dành cho những người cao tuổi, tổ chức nhiều vào những dịp xuân trong năm. Với ý nghĩa cầu chúc cho ông, bà luôn mạnh khỏe, sống xum vầy cùng con cháu. Đây là một trong những sinh hoạt truyền thống tốt đẹp, thể hiện sự quan tâm của con cháu và cộng đồng đối với những người cao tuổi. Nghi lễ mừng thọ gồm:

  • Dựng lương: trong nhà dựng một đàn cúng dưới chân bàn thờ, bên cạnh lập một cái lầu váng cao chừng 40 cm để đựng gạo và tiền do con cháu mang đến.
  • Chuyển lương: bà Then niệm chú vào thúng gạo rồi xúc gạo vào bát kèm theo vàng mã và ít tiền lẻ đưa cho con cháu truyền tay nhau để vào lầu váng.
  • Dâng rượu, đốt đèn: ông, bà ngồi bên lầu váng con cháu dâng rượu, bà Then đọc lời cầu các thần chứng giám. Hết một chầu hát Then, các con thứ vái rồi rót rượu trước lầu. Sau đó, người ta đốt đèn tượng trưng tinh anh phát sáng, tinh thần minh mẫn.
  • Hoàn phúc: lầu váng đã đầy gạo, số lương dư trong thúng lẫn với những đồng tiền được bà Then ban lại cho con cháu coi như lộc của ông bà, cha mẹ.
  • Làm lường: (buộc lương) anh con rể lần lượt dùng ba sợi chỉ ba màu se sẵn buộc lầu váng vào cây thượng lương để xin cho ôn bà được sống lâu.
  • Trồng cây mệnh: cây mai hoặc cây chuối được tượng trưng cho sức khỏe của ông bà sẽ được mang ra vườn trồng và chăm sóc chu đáo.

*Nghi lễ tang ma.

Đám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiểu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Khi gia đình có người chết con cháu phải nhịn ăn đến khi khậm liệm xong. Gia đình có tang mà người chết là bố mẹ đẻ bên chồng thì cả hai vợ chồng đều phải đi đưa tang, nếu người phụ nữ đang mai thai vẫn phải đi chung nhưng khi hạ huyệt thì phải đứng cách xa, nếu có thể thì xin về trước. Khi quay trở về con cháu không được khóc. Thầy cúng sẽ ở lại sau cùng để làm các thủ tục cúng yên mộ, không cho vong quay trở về theo con cháu.

Sau ba năm chôn cất làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên, hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

1.3.4.5 Văn hóa ẩm thực.

Món ăn thức uống của mỗi dân tộc thực sự là một sáng tạo văn hóa độc đáo của dân tộc đó và trở thành văn hóa truyền thống phản ánh trình độ văn hóa, văn minh của dân tộc, trình đọ phát triển sản xuất, trình độ kỹ thuật của xã hội trải qua các thế hệ.

Bình Liêu không chỉ có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp mà tộc người Tày nơi đây còn có những món ăn hấp dãn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Gạo là lương thực chính của người Tày, trước kia người Tày ăn nếp là chính nên hầu như gia đình nào cũng có chõ xôi. Nay trong các bữa ăn gạo tẻ thường được sử dụng nhiều hơn, còn gạo nếp chỉ đồ xôi, làm một số loại bánh vào dịp lễ tết, đặc biệt phải kể đến món:

*Xôi đỏ đen (đăm đeng).

Không chỉ có hau màu đỏ đen như tên gọi, loại xôi này còn có rất nhiều màu sắc hấp dẫn, bắt mắt do bàn tay khéo léo của người phụ nữ Tày làm nên. Đây được coi là món ăn truyền thống cho những dịp lễ tết, giỗ chạp..

Sở dĩ món xôi này trở nên độc đáo là bởi cách chế biến riêng của nó. Xôi được làm từ thứ gạo nếp ngon, hạt tròn to, thơm, loại gạo chỉ có trên nương rẫy, mỗi năm một vụ cấy hái. Song để có những màu sắc sặc sỡ đẹp mắt lại càng công phu. Người ta đem gạo nếp ngâm với nước màu lấy từ cây trong rừng, gạo đó khi vớt lên đã ngấm màu cho vào chõ đồ chín là được. Xôi có màu đỏ, tím, vàng, đen, trắng…. rất thơm và dẻo. Độc đáo ở chỗ tất cả các màu sắc ấy không tạo ra từ phẩm màu mà là lấy từ hương sắc cỏ cây. Nguyên liệu tạo màu cho xôi là loại lá mà người Tày gọi là lá cẩm. Để xôi có đủ màu người ta phải lên rừng hái rất nhiều loại lá nữa. Xôi đăm đeng có mùi hương rất riêng, phảng phất hương vị núi rừng và không hề lẫn với loại xôi khác, hạt xôi bóng, không ướt, khi nguội se lại nhưng vẫn mềm, không cứng. Có thể ăn kèm với muối lạc. Người Tày quan niệm trong những ngày lễ, ngày tết việc ăn xôi đăm đeng sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

*Bánh chưng dài

Thường được gói vào ngày tết, hàng năm cứ khoảng ngày 27- 28 tết nguyên đán là đồng bào Tày ở Bình Liêu lại gói bánh chưng dài. Gạo để gói bánh phải là loại gạo nếp thơm, nhân bánh có thể là thịt lợn, đỗ xanh hoặc chỉ là lá màu để làm xôi. Lá dong để gói bánh không cần lá to, chỉ là loại lá dong bánh tẻ và khi gói không cần khuôn. Khi chuẩn bị hết nguyên liệu xong, xếp lá dong quay đầu đuôi sau đó đổ một bát gạo nếp lên rồi cho nhân tiếp đó lại cho gạo, cuối cùng lăn tròn và buộc lại cho chắc. Chiếc bánh có đường kính khoảng 8cm. Bánh luộc khoảng 10 tiếng rồi vớt ra để ráo nước. Bánh chưng có màu xanh của lá dong, mùi thơm của gạo và vị béo của thịt lợn. Gia đình nào cũng gói nhiều bánh chưng, ít thì hơn chục cái, nhiều thì hail, ba chục cái vì bánh chưng dài để được lâu và ít bị lại gạo nên người ta gói nhiều để có thể ăn qua rằm tháng giêng, khi đó bánh chưng đem rán lên ăn rất ngon.

*Bánh coóc mò.

Cũng là loại bánh làm từ gạo nếp nhưng nhân chỉ là lá màu. Bánh được gói bằng lá chít, được gói nhiều vào dịp lễ tết nhưng ngày thường nhiều gia đình vẫn gói để ăn. Bánh có hình chóp nhọn, dài từ 7 đến 10 cm, khi ăn có mùi thơm của gạo nếp và nhân lá.

*Bánh gio.

Làm bánh do đòi hỏi người làm phải khéo tay, gio để làm bánh phải được lọc thật trong, rồi đổi gạo xuống ngâm 6- 8 tiếng mới có thể gói bánh. Hình dáng bánh gio giống hệt bánh chưng dài nhưng được gói vào tết Đoan Ngọ (5/5 âm lịch). Khi ăn bánh gio thì xắt lát nhỏ và chấm với mật ong rừng nguyên chất cũng là đặc sản nổi tiếng của Bình Liêu. Bánh gio ngon, dẻo, dai, có vị đặc trưng mát lành, và để được rất lâu.

*Bánh mật (tề nồng ệp).

Là bánh làm từ bột gạo nếp và đường phèn (đường mật). Bột gạo nếp được hòa với nước đường phèn đã được đun sôi để nguội, nhào thật kỹ rồi cho vào khuôn sau đó đem hấp cách thủy. Bánh ngon là loại bánh có màu nâu cánh gián, mịn, độ ngọt vừa phải, dẻo, dai. Bánh này ăn nguội một chút, nếu để sau 2- 3 ngày thì bánh sẽ bị cứng, rán lên rất ngon.

*Bánh gật gù.

Là loại bánh tráng tươi, cuốn thành từng cuộn, bánh được tráng bằng bột gạo tẻ, người tráng múc bột đã hòa với nước đổ lên mặt vải bưng kín chiếc miệng nồi hơi, rồi xoa cho bột trải đều ra. Chu vi của chiêc bánh khoảng 40- 50 cm, người ta cuộn lại thành chiếc bánh tròn, dài khoảng 25- 30 cm. Nếu cuộn ngắn và to quá thì bánh không gật gù, nếu nhỏ và dài thì chiếc bánh gật không gù lên đòi hỏi sự khéo léo của người thợ làm bánh. Bánh ăn ngon nhất là sau khi tráng khoảng 1 tiếng, được chấm với nước mắm cốt có hành, tỏi, ớt hoặc chấm với xì dầu.

*Khau nhục.

Là huyện biên giới giáp Trung Quốc nên số người Hoa đã có mặt và sinh sống ở Bình Liêu khá đông, khi sống ở Bình Liêu họ mang theo những tập tục, lề lối và cả món ăn truyền thống trong đó có khau nhục. Món khau nhục màu nâu được đặt trong cái đĩa sâu lòng, lùm xùm như đĩa xôi. Khi nấu nó được đặt trong cái bát tô, hấp chín thì bày ra đĩa bằng cách úp ngược lại. Đó là những miếng thịt ba chỉ cắt miếng dày khoảng 2cm dài 10 cm, nhừ, mềm nhưng vẫn còn nguyên miếng, không nát. Khi ăn kèm với xôi trắng hoặc cơm nóng. Khau nhục tưởng chừng rất mỡ nhưng lại không béo, thơm hương vị thuốc bắc đậm đà vừa ăn.

*Nằm quắt.

Là món ăn truyền thống của người Tày, thường làm trong cỗ cưới hoặc lễ tết. Được làm từ chân giò và móng lợn, chặt to bản, đem ướp các loại gia vị như gừng, tỏi, tiêu… cho ngấm sau đó thêm chút rượu rồi đun cho tới khi sến sệt nước là được. Món nằm quắt ngon là khi chuyển sang màu vàng ngà, bóng và nhừ vừa phải. Món này ăn cùng xôi trắng và cơm nóng.

1.3.4.6. Các yếu tố văn hóa phi vật thể khác. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

*Tết của người Tày

Tết đến xuân về là đồng bào các tộc người trong huyện lại nô nức chuẩn bị một cái tết đàm ấm, vui vẻ, khác với người dận miền xuôi, người miền núi có phong tục đón tết rẩ đặc trưng mang đậm nét văn hóa của tộc người mình. Với người Tày cũng vậy, họ có một cách rất đặc trưng của riêng mình.

Tết nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăn tết từ ngày 28 tháng chạp âm lịch. Những ngày nay gái trai trong bản khẩn trương trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà để cho gian nhà mới mẻ và ấm cúng hơn. Bước sang ngày 29 người Tày bắt đầu làm thịt lợn và chế biến các món ăn: giò, chả, thịt nướng… Tết đến dù nghèo đến đâu cũng phải có bánh chưng tự gói và buộc lấy. Người Tày làm bánh chưng dài, ngày 27 hay 28 các gia đình đã gói bánh… bàn thờ được lau chùi, người ta buộc bốn cây mía vào bốn góc bàn thờ, quan niệm đó là cái gậy để tổ tiên chống.

Đêm giao thừa là dịp mà các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau để trò chuyện, cùng nhau thưởng thức những món ăn đặc biệt hơn ngày thường và chúc nhau những lời chúc năm mới hạnh phúc, thịnh vượng. Chuẩn bị đón tết còn là cơ hội cho trai, gái trong bản rủ nhau xuống chợ mua sắm cho mình những bộ quần áo mới để đi chơi xuân. Ngày tết cũng là cơ hội để cho cả người già, trẻ em, thanh niên nam nữ kéo nhau đi xem các lễ hội vui xuân.

Người Tày coi mùng một tết là tết riêng của gia đình nên họ kiêng sáng mùng 1 không cho bất kì người nào vào nhà. Ngày này, họ đóng kín cửa, không ai sang nhà ai. Họ chọn người xông nhà là người có đạo đức trong bản, người có phúc lớn, kị nhất là người có tang hoặc bị ma gà ám. Tuy ở trong nhà nhưng ai cũng mặc áo mới và rửa mặt, tay chân bằng nước có ngâm lá bưởi, lá chanh, lá mùi… đun sôi cho thơm để trừ mọi uế tạp. Mọi người không nói to, văng tục mà nhẹ nhàng, ngọt ngào với mong ước cả năm tới gia đình luôn có không khí đầm ấm, yên vui.

Sáng mùng hai tết họ thăm nhau nhà nhau, và đi lễ tết bên ngoại. Lễ tết bên ngoại tức là sang tết bố mẹ bên vợ để tỏ lòng biết ơn bố mẹ đã sinh thành và nuôi nấng vợ thành người. Nếu chàng rẻ nhiều tuổi thì có thể không đi nhưng vợ và các con nhất định phải đi. Tết của người Tày kết thúc vào khoảng sáng mùng 3, tuy nhiên có những tộc người họ thường chơi dài đến hết tháng giêng. Mùng 7 họ ra đồng làm một chút mang tính hình thức là chính. Đến ngày 15, họ ăn tết lại gần giống như ăn rằm tháng giêng của người Việt, nhưng người Tày gọi đó là ăn tết lại.

*Lễ hội Lồng Tồng.

Lễ hội Lồng Tồng được coi là lễ hội xuống đồng, đây là một lễ hội truyền thống của đồng bào người Tày, cũng là nét quy tụ những sắc thái đặc trưng nhất của các tộc người như Dao, Nùng, Sán Chỉ… đây được coi là hoạt động tín ngưỡng cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Lễ hội thường được tổ chức vào tháng giêng, tháng hai âm lịch, nơi tổ chức là tại các ruộng to nhất, tốt nhất. Trước ngày hội các gia đình đều quét dọn trước nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Vào ngày lễ, mỗi gia dình trong bản chuẩn bị một mâm lễ theo khả năng. Lễ khấn cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt được các thầy tào tiến hành.

Trong phần hội thường có các nội dung như: thi cày, thi cấy với sự tham gia của nam nữ trong bản, ngoài ra còn có thi tung còn, đẩy gậy, kéo co.. thu hút đông đảo bà con trong huyện và các huyện khác đến xem, tạo không khí vui tươi, tưng bừng.

*Tết cơm mới.

Đây là một nghi lễ nông nghiệp truyền thống của người Tày, thường được tổ chức vào tháng 10, tháng 11 âm lịch hàng năm và đã trở thành một nét đẹp văn hóa độc đáo cần được lưu giữ và bảo tồn. Đây còn là phong tục truyền thống đã được lưu truyền tự nhiên từ đời này sang đời khác.

Tết cơm mới với ý nghĩa tổng kết một năm sản xuất dâng thành quả cho trời đất, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, con cháu khỏe mạnh và bày tỏ sự tôn kính với ông bà tổ tiên đã mất.

Đồ lễ cúng là những sản vật do người dân tự săn bắt, nuôi trồng được và chế biến theo nguyên tắc riêng, độc đáo. Món ăn khộng thể thiếu là cơm nếp được nấy từ gạo mới, gia chủ mời anh em họ hàng, bạn bè thân thiết cùng tới dùng bữa. ( Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch )

1.4. Tiểu kết chương I.

Là một huyện ở vùng biên giới, đời sống của tộc người còn khó khăn tuy nhiên lại có những điều kiện thuận lợi rất lớn. Dù không có những di tích lịch sử nổi tiếng nhưng thiên nhiên lại ban tặng cho Bình Liêu những thắng cảnh, phong cảnh nên thơ trữ tình. Hàng năm, mỗi độ xuân về, tộc người nơi đây lại nô nức với các lễ hội của mình. Vào những ngày này, các đồng bào của các tộc người lại được quây quần, bày tỏ tình cảm thân ái, ôn lại truyền thống, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất.

Chương I   đã khái quát đôi nét về huyện Bình Liêu nói chung, khái quát về sự hình thành và thực trạng đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội của tộc người Tày nói riêng. Những nét đặc trưng văn hóa đặc sắc được thể hiện trong đời sống thường ngày. Dựa trên cơ sở đó để đưa ra đánh giá về những thuận lợi cũng như hạn chế trong việc phát triển du lịch văn hóa tộc người nơi đây.

Mời bạn tham khảo thêm:

Khóa luận: Tín ngưỡng văn hóa Then người Tày phát triển du lịch

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] → Khóa luận: Khai thác văn hóa Then của người Tày phục vụ du lịch […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993