Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta là bài luận văn Thạc sĩ của tác giả bởi vì xuất phát từ công cuộc đổi mới năm 1986, để hướng tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, tăng cường thu hút các nguồn lực để phát huy tiềm năng thế mạnh trong nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, để thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, tạo tiền đề hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới, mô hình KCX Tân Thuận được thành lập năm 1991. Dưới đây là đề tài: Quản lý nhà nước Đối với các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh Quảng Ngãi, hy vọng sẽ có ích cho các bạn đọc giả.
Nội dung chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển KT-XH đất nước; trong đó, các KCN đóng góp vai trò quan trọng và là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Qua hơn 25 năm xây dựng và phát triển, mô hình KCN, ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, số lượng các KCN được quy hoạch và thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã phát triển từ chỗ cả nước chỉ có 01 KCN năm 1991; đến cuối năm 2017, hiện nay cả nước có 325 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 95 nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 64 nghìn ha, chiếm khoảng 67% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó, 220 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên gần 61 nghìn ha và 105 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 34 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN đạt 31,8 nghìn ha, tỷ lệ lấp đầy các KCN đạt 51%, riêng các KCN đã đi vào hoạt động, tỷ lệ lấp đầy đạt 73% [5].
Kết quả hoạt động các KCN đã phát huy được lợi thế về kết cấu hạ tầng đồng bộ, thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, theo đó, thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn cả trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hàng năm, số lượng vốn FDI đầu tư vào KCN chiếm khoảng từ 60-70% tổng vốn đầu tư FDI thu hút được của cả nước. Trung bình trong giai đoạn 2011-2015, các KCN thu hút được khoảng 40.000 tỷ đồng vốn đầu tư từ các nhà đầu tư trong nước.
Lực lượng doanh nghiệp trong KCN dần được hình thành và phát triển mạnh, trong đó, có cả những doanh nghiệp được đầu tư từ các Tập đoàn đa quốc gia lớn như: Tập đoàn Hyosung, Samsung, LG (Hàn Quốc), Tập đoàn Robert Bosch (Đức)…, tạo cơ hội để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Các doanh nghiệp trong KCN tạo ra doanh thu lớn, đóng góp khoảng 30% vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tạo việc làm cho khoảng trên 2 triệu lao động, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước.
Những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực nói chung, đối với lĩnh vực KCN, KKT nói riêng. Nhờ đó quản lý nhà nước đối với các KCN có nhiều thành tựu, góp phần quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư, phát triển kinh tế. KCN tập trung với những ưu thế đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý, tài chính, thuế quan … đã trở thành môi trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Ngày 07/10/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 830/TTg về việc thành lập Ban Quản lý các KCN Quảng Ngãi với chức năng là xây dựng và quản lý các KCN tỉnh Quảng Ngãi, gồm: KCN Tịnh Phong, KCN Quảng Phú và KCN Phổ Phong. Mục tiêu phát triển chủ yếu của các KCN là tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài và thực hiện chủ trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước; tạo cơ hội cho quá trình tiếp thu khoa học công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ bên ngoài. Thực tế, trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay, các KCN đã thu hút 98 dự án đầu tư, tổng vốn đăng ký 6.981 tỷ đông, giải quyết 15.156 lao động, đóng góp ngân sách hàng năm khoảng 1.200 tỷ đồng, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung [1,2,3,4].
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, thì quản lý nhà nước đối với các KCN nói chung, các KCN Quảng Ngãi nói riêng còn nhiều hạn chế bất cập như: Một số qui định của pháp luật, cơ chế, chính sách còn chưa phù hợp, chồng chéo, thiếu và chưa đồng bộ; Việc phân cấp, ủy quyền chưa được thực hiện mạnh mẽ, đầy đủ, cơ quan quản lý trực tiếp các KCN (Ban Quản lý) chưa có chế tài xử phạt nên chưa tạo được hành lang pháp lý giúp doanh nghiệp đi đúng hướng. Điều này làm giảm hiệu lực và hiệu quả của quản lý Nhà nước nói chung, trong lĩnh vực quản lý Nhà nước đối với các KCN nói riêng. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài: Quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp trên đia bàn tỉnh Quảng Ngãi có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu của luâṇ văn, tiêu biểu là:
KCN là một trong những mô hình cụ thể của loại hình đặc khu kinh tế trên thế giới và là mô hình kinh tế mới; Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều nhà khoa học đã quan tâm, nghiên cứu, cụ thể là:
- Trương Thị Minh Sâm (2004), “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX“, NXB Khoa học xã hội. Trong cuốn sách này, tác giả đã đánh giá khá chi tiết và toàn diện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN, KCX vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, những thách thức đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, đề xuất một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với vấn đề này ở các KCN, KCX thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
- Vũ Huy Hoàng (2007) “Tổng quan về hoạt động của các KCN”, Kỷ yếu KCN, KCX Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu đưa ra cái nhìn tổng quát nhất về khái niệm, đặc điểm và tình hình hoạt động của các KCN trên cả nước.
- Lê Hồng Yến (2008), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý Nhà nước đối với các KCN ở Việt Nam hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiễn sĩ tại trường Đại học Thương Mại. Luận án đã nghiên cứu thực trạng phát triển các KCN ở các tỉnh phía Bắc, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước đối với các KCN ở Việt Nam hiện
- Hà Thị Thúy (2010),“ Các KCN với sự phát triển kinh tế – xã hội ở Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong luận văn này, thông qua việc phân tích thực trạng những tác động tích cực và tiêu cực của các KCN đối với sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng, tác giả đưa ra các giải pháp để các KCN phát huy tốt vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
- Ngô Quang Đông (2010), “Công tác quản lý nhà nước đối với các KCN ở Bắc Ninh: thực trạng và giải pháp”, luận văn thạc sĩ kinh tế nông nghiệp trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Luận văn đã nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các KCN tại đây. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
- Cao Thị Lan (2013), “Quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”, luận văn thạc sỹ hành chính công trường Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn này được tác giả nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Nguyễn Hồng Hải (2014), “Quản lý nhà nước đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN của tỉnh Hải Dương”, luận văn thạc sỹ hành chính công trường Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN của tỉnh Hải Dương, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN của tỉnh Hải Dương.
- Lê Thị Nhật Diệu (2014), “Quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, luận văn thạc sỹ quản lý công trường Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả trình bày cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để từ đó rút ra những nguyên nhân, hạn chế, tồn tại và đề xuất những giải pháp, kiến nghị để góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng và của cả nước nói
- Trần Thị Kim Tích (2015), “Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực phát triển KKT Dung Quất tỉnh Quảng Ngãi”, luận văn thạc sỹ quản lý công trường Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước về nguồn nhân lực trên địa bàn KKT Dung Quất, tìm ra những mặt tích cực, hạn chế của thực trạng để từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về nguồn nhân lực trên địa bàn KKT Dung Quất.
- Phạm Kim Thư (2016), “Quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn thành phố Hà Nội”, luận án tiến sĩ kinh tế trường Đại học mỏ địa chất Hà Nội. Luận án đưa ra dự báo về bối cảnh quốc tế, trong nước và Thủ đô tác động đến hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các khu công.
- Nguyễn Mạnh Tuấn (2017), “Quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, luận văn thạc sỹ quản lý công trường Học viện Hành chính Quốc gia.Tác giả phân tích vai trò, thực trạng QLNN đối với quá trình hình thành và phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
- Phạm Xuân Trường (2017), “Quản lý nhà nước về môi trường KCN nghiêp Tây Bắc Đồng Hới tỉnh Quảng Bình”, luận văn thạc sỹ quản lý công trường Học viện Hành chính Quốc gia.Tác giả hệ thống hóa cơ sở khoa học quản lý nhà nước về môi trường KCN; phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về môi trường tại KCN Tây Bắc Đồng Hới tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra những ưu điểm, bất cập, tồn tại, hạn chế để định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về môi trường tại KCN Tây Bắc Đồng Hới tỉnh Quảng Bình.
- Lê Thị Kim Hoa (2017), “Quản lý nhà nước về chất lượng nước thải trong các KCN trên địa bàn tỉnh Nam Định”, luận văn thạc sỹ quản lý công trường Học viện Hành chính Quốc gia.Tác giả hệ thống hóa các quy định QLNN về chất lượng nước thải các KCN; phân tích thực trạng chất lượng nước thải và phân tích thực trạng QLNN về chất lượng nước thải các KCN và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về chất lượng nước thải ở các KCN trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Các tác giả đã hệ thống hoá các lý luận về KCN, KCX, tình hình phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam nói chung, qua đó đánh giá những thành tựu đã đạt được và những hạn chế trong quá trình phát triển các KCN, KCX nói riêng. Ngoài ra còn có một số bài báo phân tích trên tạp chí chuyên ngành khác, nhưng do mục đích khác nhau nên các công trình mới chỉ nghiên cứu ở một khía cạnh nhất định của tình hình QLNN đối với các KCN. Các công trình nghiên cứu nêu trên là những tài liệu tham khảo hữu ích để tác giả nghiên cứu và lựa chọn tính kế thừa cho công trình nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về QLNN đối với các KCN, đánh giá thực trạng QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong những năm qua và hiện nay, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
Hệ thống hóa và luận giải cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với các KCN.
Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua và hiện nay, chỉ ra những mặt đạt được, những mặt chưa đạt được và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế.
Đề xuất các phương hướng, giải pháp, kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý Nhà nước đối với các Chủ thể quản lý là cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và cơ quan quản là Nhà nước ở địa phương; đối tượng quản lý là các KCN và với các công cụ quản lý là chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan mật thiết đến hoạt động quản lý nhà nước đối với các KCN như: xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản lý nhà nước các KCN; tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản lý nhà nước các KCN; thực hiện hoạt động giám sát của các KCN.
- Về không gian: Nghiên cứu hoạt động quản lý Nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi (ngoài Khu kinh tế Dung Quất).
- Về thời gian: nghiên cứu từ năm 1997 (khi khu công nghiệp đầu tiên được thành lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi) đến năm 2017 và định hướng đến năm
5. Phương pháp nghiên cứu ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Phương pháp luận
Nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đối với hoạt động quản lý nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp đánh giá số liệu của các cơ quan nhà nước tại tỉnh Quảng Ngãi để xây dựng các luận cứ cho từng vấn đề.
- Phương pháp hệ thống hóa, thống kê, quan sát, khảo cứu thực tế, phân tích tổng hợp, so sánh để khái quát thành luận điểm có căn cứ lý luận thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Góp phần hệ thống hoá lý luận và kinh nghiệm về quản lý Nhà nước đối với các
- Đánh giá được thực trạng của quản lý Nhà nước đối với các KCN tỉnh Quảng Ngãi hiện nay, chỉ ra được thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập cần giải quyết.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với các KCN tỉnh Quảng Ngãi thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Tên luận văn: “Quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi“.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp Quảng Ngãi.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Có thể bạn quan tâm:
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Những vấn đề lý luận về Khu công nghiệp
1.1.1 Khái niệm, phân loại Khu công nghiệp
* Khái niệm về Khu công nghiệp
Trên thế giới loại hình KCN đã có một quá trình lịch sử phát triển hơn 100 năm nay bắt đầu từ những nước công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ cho đến những nước có nền kinh tế công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,…và hiện nay vẫn đang được các quốc gia học tập và kế thừa kinh nghiệm để tiến hành công nghiệp hóa. Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức về KCN được thừa nhận chung; Tùy điều kiện từng nước mà KCN có những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau và có những tên gọi khác nhau nhưng chúng đều mang tính chất và đặc trưng của KCN. Những quan niệm về KCN còn nhiều tranh luận, chưa có sự thống nhất và còn những quan niệm khác nhau về KCN [35].
Ở Việt Nam khái niệm về KCN đã được trình bày tại nhiều văn bản pháp luật như Quy chế KCN ban hành theo Nghị định số 192-CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ; Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996; Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành theo Nghị định số 36/CP ngày 24/2/1997 của Chính phủ, Luật đầu tư năm 2005. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Định nghĩa ban đầu về KCN được nêu trong Quy chế KCN ban hành theo Nghị định số 192-CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ thì KCN được hiểu là KCN tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống.
Theo Luật đầu tư 2005; Nghị định của Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy định về KCN, KCX, KKT thì khái niệm về KCN được hiểu như sau:
KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Nghị định này.
KCX là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp theo quy định của Nghị định này.
KCN, KCX được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp quy định cụ thể.
Theo Nghị định của Chính phủ số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định về quản lý KCN và KKT thì khái niệm về KCN được hiểu như sau:
KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Nghị định này.
KCN gồm nhiều loại hình khác nhau, bao gồm: KCX, KCN hỗ trợ, KCN sinh thái (sau đây gọi chung là KCN, trừ trường hợp có quy định riêng đối với từng loại hình).
KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp theo quy định của Nghị định này.
KCX được ngăn cách với các khu vực bên ngoài theo các quy định áp dụng đối với khu phi thuế quan quy định tại pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhấp khẩu.
KCN hỗ trợ là KCN chuyên sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, thực hiện dịch vụ cho sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Tỷ lệ diện tích đất cho các dự án đầu tư vào ngành nghề công nghiệp hỗ trợ thuê, thuê lại tối thiểu đạt 60% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của KCN.
KCN sinh thái là KCN, trong đó có các danh nghiệp trong KCN tham gia hoạt động sản xuất sạch hơn và sử dụng hiệu quả tài nguyên, có sự liên kết, hợp tác trong sản xuất để thực hiện hoạt động công sinh công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, môi trường, xã hội của các doanh nghiệp.
Cộng sinh công nghiệp trong KCN là hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp trong một KCN hoặc với doanh nghiệp trong các KCN khác nhằm tối ưu hóa việc sử dụng yếu tố đầu vào, đầu ra như nguyên vật liệu, nước, năng lượng, chất thải, phế liệu,…trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua hợp tác, các doanh nghiệp hình thành mạng lưới trao đổi các yếu tố phục vụ sản xuất, sử dụng chung hạ tầng và các dịch vụ phục vụ sản xuất, cải thiện quy trình công nghệ và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
KCN – đô thị – dịch vụ gồm các khu chức năng: KCN là khu chức năng chính; khu đô thị – dịch vụ có chức năng hỗ trợ, cung cấp dịch vụ tiện ích xã hội cho KCN (có thể bao gồm các phân khu chức năng như: Nhà ở, bệnh viện, trường học, trung tâm nghiên cứu và phát triển, trung tâm ươm tạo doanh nghiệp và một số hạng mục công trình kinh tế – xã hội khác cần thiết cho sự phát triển đồng bộ, bền vững của khu), được đầu tư xây dựng để đảm bảo sự phát triển hiệu quả, bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường của KCN. Quy mô diện tích khu đô thị – dịch vụ tối đa không vượt một phần ba (1/3) quy mô diện tích KCN.
Mở rộng KCN là việc phát triển thêm diện tích ở khu vực có ranh giới lân cận hoặc liền kề, có thể kết nối, sử dụng chung hạ tầng kỹ thuật với KCN đã được hình thành trước đó.
Phân KCN là một phần diện tích của KCN với ranh giới xác định, phù hợp với quy hoạch xây dựng của KCN, chuyên sản xuất và thực hiện dịch vụ cho sản xuất trong một số lĩnh vực công nghiệp nhất định.
Dự án đầu tư kết cấu hạ tầng KCN là dự án đầu tư sử dụng đất thuộc KCN để xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật và cho các nhà đầu tư thuê, thuê lại để xây dựng nhà xưởng, tổ chức sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Diện tích đất công nghiệp là diện tích đất của KCN để cho nhà đầu tư thuê, thuê lại thực hiện dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN, được xác định trong quy hoạch chi tiết xây dựng, quy hoạch phân khu xây dựng KCN được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCX hoặc doanh nghiệp sản xuất sản phẩm để xuất khẩu hoạt động trong KCN, KKT.
Doanh nghiệp chế xuất không nằm trong KCN được ngăn cách với khu vực bên ngoài theo các quy định áp dụng đối với khu phi thuế quan tại pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Quy hoạch phát triển KCN, KKT trên phạm vi cả nước là quy hoạch được lập và phê duyệt theo quy định của pháp luật về quy hoạch và quy định của Nghị định này.
Tỷ lệ lấp đầy của KCN là tỷ lệ diện tích đất công nghiệp đã cho nhà đầu tư thuê, thuê lại để hoạt động sản xuất kinh doanh trên tổng diện tích đất công nghiệp của KCN và được tính theo tỷ lệ phần trăm (%).
Công trình xã hội, văn hóa, thể thao KCN, KKT là toàn bộ các công trình phục vụ trực tiếp cho đời sống, hoạt động văn hóa, thể thao của người lao động trong KCN, KKT.
Từ việc nghiên cứu các khái niệm trên, theo tác giả Luận án thống nhất quan niệm, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính phủ.
Tóm lại, KCN là đối tượng đặc thù của quản lý nhà nước về kinh tế trong các giai đoạn phát triển với các đặc điểm về mục tiêu thành lập, giới hạn hoạt động tập trung vào công nghiệp, ranh giới địa lý và thẩm quyền ra quyết định thành lập.
* Phân loại về Khu công nghiệp: ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Có thể phân loại KCN thành hai nhóm chính như sau:
Nhóm 1: Các KCN mang tính truyền thống, được thành lập một cách phổ biến ở Việt Nam (hiện nay có 325 KCN). Các KCN này có những đặc điểm chung như sau:
- Là khu vực được quy hoạch mang tính liên vùng, liên lãnh thổ và có phạm vi ảnh hưởng không chỉ ở một khu vực địa phương.
- Là khu vực được kinh doanh bởi công ty đầu tư cơ sở hạ tầng (công ty phát triển hạ tầng KCN, công ty dịch vụ KCN…). Công ty này có trách nhiệm bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của cả khu trong suốt thời gian tồn tại.
- Trong KCN có thể có hoặc không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài KCN phải có hệ thống dịch vụ phục vụ, nguồn nhân lực làm việc ở
- Là khu vực được quy hoạch riêng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp cũng như các hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
- Sản phẩm của các doanh nghiệp trong KCN có thể tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu.
Nhóm 2: KCX, ở Việt Nam hiện có 3 KCX là: Tân Thuận, Linh Trung 1 và Linh Trung 2).
Khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với KCN.
Ngoài những đặc điểm chung giống như các KCN truyền thống, các KCX còn có một số đặc điểm riêng, đó là: Được ngăn cách với các khu vực bên ngoài theo các quy định áp dụng đối với khu phi thuế quan quy định tại pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhấp khẩu.
1.1.2. Những đặt trưng cơ bản của Khu công nghiệp
Từ các khái niệm và cách phân loại nêu trên có thể thấy đặc trưng cơ bản của các KCN như sau:
Thư nhất, KCN là khu vực được quy hoạch riêng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào hoạt động để sản xuất, chế biến hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp. Đây là khu vực không phải được quy hoạch và thành lập một cách tự phát mà được quy hoạch và thành lập theo các quy định của Chính phủ. Các KCN đã xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống hàng rào KCN, phân biệt với các vùng còn lại thuộc lãnh thổ của Quốc gia. Mọi hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh bên trong hàng rào đó, không chỉ được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật hiện hành mà còn tuân thủ quy chế pháp lý riêng và được hưởng nhiều ưu đãi. Toàn bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN được xây dựng phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ phục vụ KCN, không phục vụ mục đích dân cư sinh sống, kể cả người việt Nam, người nước ngoài làm việc trong KCN. Để phát triển các KCN Nhà nước phải thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hệ thống cơ chế chính sách toàn diện để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào hoạt động.
Trong các KCN không có các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho loại hình sản xuất này.
Thứ hai, hàng hóa của KCN không chỉ phục vụ cho xuất khẩu mà còn phục vụ cho nhu cầu nội địa. Các KCN sản xuất hàng hóa công nghiệp không những để xuất khẩu ra thị trường thế giới mà còn để phục vụ cho nhu cầu nội địa. Đặc điểm này của KCN giúp phân biệt với KCX là khu chỉ sản xuất hàng hóa để xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ cho hàng hóa xuất khẩu. Do có ưu thế tận dụng được thị trường nội địa nên ngay từ thời kỳ đầu đã thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài. Do không bị sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường nước ngoài.
Thứ ba, KCN là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu phát triển của khoa học công nghệ, kinh nghiệm và trình độ tổ chức quản lý của Quốc tế vào quá trình sản xuất. Thực tiễn cho thấy, việc tiếp nhận những thành tựu khoa học, công nghệ trong các KCN có nhiều ưu thế hơn hẵn so với các đơn vị sản xuất, kinh doanh ở ngoài KCN. Bằng cách này, các KCN đã góp phần tạo ra một lượng hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao, góp phần phát triển kinh tế.
1.1.3. Chức năng của Khu công nghiệp
KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vưc công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có dự án đầu tư dài hạn (bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng). Với hạ tầng kỹ thuật được đầu tư đồng bộ và đặt tại vị trí thuận lợi về kết nối giao thông, KCN, KCX là các trọng điểm thu hút đầu tư các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước để phát triển sản xuất công nghiệp của các địa phương. Ngoài ra, tại một số địa phương, KCN, KCX được hình thành gắn với nguồn vùng nguyên liệu của địa phương để phát huy tiềm năng thế mạnh tại chỗ và di dời các cơ sở công nghiệp ô nhiễm trong khu vực đông dân cư để đảm bảo công tác bảo vệ môi trường.
1.1.4. Vai trò của Khu công nghiệp đối với nền kinh tế
Các KCN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, nhất là các nước đang phát triển thì việc phát triển các KCN đã tạo ra được cơ hội phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa rút ngắn bởi có thể kết hợp và học tập được những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ, về tổ chức và quản lý doanh nghiệp, đồng thời tranh thủ được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển.
* KCN đã góp phần vào đổi mới môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam
Việc phát triển các mô hình KCN với ranh giới địa lý xác định, kèm theo các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư đã tạo điều kiện phát huy các lợi thế địa kinh tế và thuận lợi cho áp dụng các quy trình hành chính rút gọn. Qua đó, tạo nên các điểm đầu tư hấp dẫn, góp phần đổi mới môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam. Trước đây, khi chưa có KCN nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, mất nhiều thời gian trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư do các lý do như: chưa có mặt bằng sạch, cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại địa điểm đầu tư chưa có sẵn… Đến nay, thời gian chuẩn bị đầu tư của nhà đầu tư đã được rút ngắn đáng kể do các KCN có thể chủ động chuẩn bị quỹ đất sạch. Đồng thời, việc đền bù, giải phóng mặt bằng trong KCN cũng có nhiều thuận lợi hơn so với bên ngoài KCN do quy hoạch của KCN đã được phê duyệt trước khi cấp đất cho nhà đầu tư. Ngoài ra, một số cơ sở kỹ thuật của KCN như đường giao thông, hệ thống thu gom nước thải…đã được đầu tư trước khi nhà đầu tư đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh; KCN có thể tiếp nhận nhiều lĩnh vực, ngành nghề đầu tư, kinh doanh. Do đó, có thể đáp ứng các nhu cầu đầu tư đa dạng của các nhà đầu tư. Ngoài ra, các mô hình KCN đều có định hướng phát triển và lợi thế thu hút đầu tư riêng nên không tạo ra nhiều áp lực cạnh tranh nội bộ trong thu hút đầu tư.
*Thu hút được lượng vốn lớn đầu tư đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật và sản xuất kinh doanh để phát triển nền kinh tế
KCN với đặc điểm là nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại và thu hút các nhà đầu tư cùng đầu tư trên một vùng không gian lãnh thổ do vậy đó là nơi tập trung và kết hợp sức mạnh nguồn vốn trong và ngoài nước, tạo nguồn vốn lớn cho lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia nói chung và từng địa phương có KCN nói riêng. Với quy chế quản lý thống nhất và các chính sách ưu đãi, các KCN đã tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài; hơn nữa việc phát triển các KCN cũng phù hợp với chiến lược kinh doanh của các tập đoàn, công ty đa quốc gia trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tranh thủ các ưu đãi tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận và khai thác thị trường mới ở các nước đang phát triển. Do vậy, KCN giúp cho việc tăng cường huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho phát triển kinh tế – xã hội và là đầu mối quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và là giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI). Thực tế trong thời gian vừa qua, các KCN đã thu hút được khá nhiều các nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế xã hội của quốc gia nói chung và từng địa phương nói riêng.
* KCN đã thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp, hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực
Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế với xuất phát điểm từ nền kinh tế với ngành nông nghiệp lạc hậu và sản xuất công nghiệp ở quy mô nhỏ. Với việc hình thành các KCN, KKT, sản xuất công nghiệp của Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản, cụ thể ở các điểm sau:
Mặt bằng công nghệ sản xuất của các ngành công nghiệp đã được nâng lên đáng kể. Cùng với sự dịch chuyển của dòng vốn đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào Việt Nam các công nghệ sản xuất và kỹ năng mới, có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Đến nay, các KCN, KKT đã thu hút được một số lượng không nhỏ các dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao, cụ thể như: Dự án sản xuất điện thoại di động thông minh của Tập đoàn Samsung tại KCN Yên Phong, Bắc Ninh và KCN Yên Bình, Thái Nguyên,… Đồng thời, trong khoảng 03 năm trở lại đây, số lượng các dự án có công nghệ cao đầu tư vào các KCN, KKT ngày càng tăng lên. Các tín hiệu cho thấy đây sẽ là xu hướng dài hạn của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN, KKT.
Các KCNC bước đầu đã hình thành một số cơ sở khoa học nghiên cứu ứng dụng, ươm tạo doanh nghiệp tạo cơ sở nâng cao hơn nữa năng lực nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất của Việt Nam. Cụ thể như trung tâm nghiên cứu và phát triển, vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao tại KCNC thành phố Hồ Chí Minh.
Sản xuất công nghiệp đã chuyển dần từ quy mô nhỏ sang sản xuất quy mô lớn, tập trung. Trước khi phát triển các KCN, KKT, các cơ sở sản xuất công nghiệp của Việt Nam chủ yếu là các nhà máy quy mô vừa và nhỏ. Đến nay, trên cả nước đã có nhiều cơ sở sản xuất quy mô lớn hình thành trong các KCN, KKT, cụ thể như nhà máy lọc dầu Dung Quất, KKT Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi,…[5].
Với việc hình thành các KCN, KKT, Việt Nam đang đứng trước cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp chủ lực mũi nhọn, cụ thể là sản xuất điện thoại di động thông minh, dầu khí, thép, đóng tàu với tiền đề là các dự án quy mô lớn đang được đầu tư tại các KCN, KKT. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
*Tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực
Xây dựng và phát triển KCN đã thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc tại các KCN và đã có tác động tích cực tới việc xóa đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong cộng đồng dân cư đồng thời góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên. Phát triển các KCN góp phần quan trọng trong việc phân công lại lực lượng lao động trong xã hội, đồng thời thúc đẩy sự hình thành, phát triển thị trường lao động có trình độ và hàm lượng chất xám cao. KCN là nơi tập trung và thu hút nhiều lao động cho sản xuất, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Hàng năm, giải quyết việc làm thường xuyên cho trên 2 triệu người lao động.
*Thúc đẩy việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng và là hạt nhân hình thành đô thị mới
Xây dựng và phát triển các KCN trong phạm vi từng tỉnh, thành phố, vùng kinh tế và quốc gia là hạt nhân thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN tại các địa phương, cụ thể:
Cùng với quá trình hình thành và phát triển KCN, kết cấu hạ tầng của các KCN được hoàn thiện; kích thích phát triển kinh tế địa phương thông qua việc cải thiện các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực, gia tăng nhu cầu về các dịch vụ phụ trợ, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh, dịch vụ trong khu vực; góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng trong khu vực. Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí;… Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư vào các ngành như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, phát triển thị trường địa ốc, đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN. Phát triển KCN là hạt nhân hình thành đô thị mới, mang lại văn minh đô thị góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho khu vực rộng lớn được đô thị hóa. Các KCN được thành lập trong thời gian qua, ngoài việc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa tại các trung tâm công nghiệp lớn, đã bắt đầu có tác động lan tỏa tích cực trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
*Phát triển KCN góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế
Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. KCN là nơi tập trung số lượng lớn cơ sở sản xuất công nghiệp, do vậy có điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, kiểm soát nguồn tài nguyên, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. KCN là nơi tốt nhất để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường từ nội thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Ngoài ra, KCN còn là động lực thúc đẩy việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, góp phần cơ cấu lại lĩnh vực phân phối, lưu thông và dịch vụ xã hội; tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế mạnh đặc thù của mình, đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ phát triển sản xuất trong từng vùng, miền và cả nước, từ đó tạo ra những năng lực sản xuất, ngành nghề và công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển biến theo hướng một nền kinh tế CNH, thị trường hiện đại, hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới.
*Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ và góp phần tăng nguồn thu ngân sách
Sự phát triển các KCN có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH hướng về xuất khẩu. Hàng hóa sản xuất ra từ các KCN chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số lượng hàng hóa xuất khẩu của địa phương và của cả nước. Khi các KCN mới bắt đầu đi vào hoạt động, lúc này nguồn thu ngoại tệ của các KCN chưa đảm bảo vì các doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được để nhập khẩu công nghệ, dây chuyền, máy móc thiết bị … nhưng cái lợi thu được là nhập khẩu nhưng không mất ngoại tệ. Khi các doanh nghiệp đi vào sản xuất ổn định, có hiệu quả thì lúc đó nguồn thu ngoại tệ bắt đầu tăng lên nhờ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN; các KCN cũng đóng góp đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương và đóng góp chung cho nguồn thu của quốc gia.
* Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại và kích thích sự phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp trong nước
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN sẽ được chuyển giao. Bởi vì, để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và thế giới nhà đầu tư thường đưa vào các KCN những công nghệ tương đối hiện đại và những công nghệ tiên tiến hiện đại của thế giới. Mặc dù trong các KCN, người ta chủ yếu thực hiện sản xuất hàng tiêu dùng, gia công lắp ráp nhưng thực ra, quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra dưới hình thức như: đào tạo công nhân nước chủ nhà sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất. Nhờ đó chúng ta có thể học tập phương thức sản xuất và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật kết tinh trong hàng hóa.
1.2. Quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp
* Khái niệm: Quản lý nói chung là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đặt ra trong sự vận động của sự vật.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người, quản lý xuất hiện như một tất yếu khách quan. Có nhiều dạng quản lý khác nhau trong sự vận động và phát triển của xã hội. Một trong số đó là dạng quản lý rất cơ bản, đặc thù – Quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là một dạng quản lý do nhà nước làm chủ thể định hướng điều hành, chi phối, v.v… để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
QLNN là sự chỉ huy, điều hành để thực thi quyền lực nhà nước, là tổng thể về thể chế, pháp luật, quy tắc tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước, có trách nhiệm quản lý các công việc của nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức, điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của công dân để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội nhất định, theo những thời gian nhất định với hiệu quả cao. Quản lý nhà nước là một tất yếu khách quan, mang tính cưỡng bức, cưỡng chế, mệnh lệnh và tính chính trị rõ nét, đại diện cho cả xã hội.
QLNN đối với các KCN là hoạt động quy hoạch, điều hành, kiểm soát sự phát triển của các KCN và các hoạt động khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển các KCN; QLNN đối với các KCN bao gồm tạo lập môi trường pháp lý ổn định và bình đẳng cho các doanh nghiệp, xác lập chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và biện pháp xúc tiến đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, phối hợp đồng bộ trong việc cung cấp các nguồn nhân tài vật lực đảm bảo thông suốt đầu vào và đầu ra cho doanh nghiệp. QLNN đối với các KCN là tăng khả ngăng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp trong thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Nhà nước có những chính sách thích hợp để thúc đẩy các doanh nghiệp tập trung tìm kiếm thế mạnh và phát huy hết khả năng sản xuất kinh doanh của mình. Nhà nước cung cấp đầy đủ các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực cũng như những thông tin kịp thời, nhanh chóng, chính xác để giúp cho việc xây dựng, phát triển các KCN đạt hiệu quả cao.
1.2.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Một là, Nhà nước là chủ thể quản lý xã hội, quản lý chung mọi hoạt động của đời sống xã hội trong đó có hoạt động của các KCN. Công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý là pháp luật. Do đó Nhà nước quản lý thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật, chính sách. Pháp luật của Nhà nước sẽ điều chỉnh hành vi hoạt động của các KCN và định hướng theo mục tiêu được đặt ra trước của Nhà nước. Pháp luật, chính sách của Nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện để các KCN hoạt động. Sự thông thoáng, ưu đãi của chính sách pháp luật sẽ mang lại nhiều ưu thế cho các KCN phát triển trên mọi mặt và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Hai là, Chỉ có Nhà nước mới có thể “hợp chuẩn hóa” các quy trình, thủ tục trong quá trình hoạt động của các KCN. Nhà nước sẽ là chủ thể đại diện cho các KCN trong mọi quan hệ hợp tác, đầu tư thu hút lao động,…Tức là Nhà nước là chủ thể đủ sức mạnh chính trị, kinh tế để điều chỉnh hoạt động của các KCN theo quy hoạch.
Ba là, Nhà nước là chủ thể có đủ sức mạnh tài chính để đầu tư vào KCN ở một số ngành, lĩnh vực không thể thu hút đầu tư của nước ngoài hay tư nhân và Nhà nước sẽ đảm bảo mọi vấn đề trong an toàn, an ninh cho hoạt động của các KCN.
Bốn là, Nhà nước thực hiện cơ chế xã hội hóa mạnh các hoạt động của các KCN. Các cơ chế đấu thầu, tư nhân hóa, thu hút đầu tư được thực hiện phổ biến tại các KCN và đó là điều kiện hết sức thuận lợi cho sự nâng cao hiệu quản hoạt động của các KCN nói riêng và hiệu quả quản lý Nhà nước nói chung.
Năm là, Nhà nước cung cấp và giới thiệu cho các KCN “đối tác” trong quá trình quản lý của mình. Việc thu hút nhiều nhà đầu tư vào các KCN, chuyển giao công nhệ, kinh nghiệm quản lý, chuẩn bị về lao đông, nhân sự đều tùy thuộc rất lớn vào sự quản lý của Nhà nước.
Sáu là, tiến hành xử lý mọi vi phạm, giải quyết tốt các khếu nại tố cáo liên quan đến hoạt động của KCN, kiểm tra tổng kết tình hình hoạt động… tất cả nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hơn nữa hoạt động của các KCN.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Để đạt được mục tiêu, thực hiện vai trò, chức năng quản lý nhà nước trong việc định hướng, tạo dựng môi trường, điều tiết hỗ trợ và kiểm soát các hoạt động KCN, nội dung chủ yếu của QLNN đối với các KCN gồm:
Một là, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để phát triển các KCN. Tạo điều kiện các KCN hoạt động hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển KT-XH của Quốc gia, vùng, địa phương. Chỉ đạo thực hiện chiến lước, quy hoạch về phát triển các KCN. Trên cơ sở kế hoạch kế hoạch phát triển KT- XH của địa phương, chiến lược phát triển vùng, lãnh thổ, chiến lược phát triển công nghiệp, chiến lược mậu dịch Quốc tế, địa phương xây dựng chiến lược phát triển các KCN. Khi xây dựng chiến lược phát triển KCN phải nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự nhiên và xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế chung. Để làm được như vậy, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước phải có chất lượng, ổn định trong thời gian dài, việc điều chỉnh không làm thay đổi mục tiêu và định hướng chiến lược.
Hai là, ban hành và thực thi pháp luật có liên quan để phát triển các KCN. Quy định và hướng dẫn việc thành lập, xây dựng, phát triển và quả lý hoạt động của các KCN; đồng thời hoàn thiện các văn bản pháp luật về chuyên ngành qua từng thời kỳ để tạo cơ sở pháp lý đồng bộ và điều chỉnh có hiệu quả hoạt động của KCN cũng như các doanh nghiệp trong KCN.
Ba là, ban hành và thực thi các chính sách có liên quan đến phát triển các KCN. Nhà nước ban hành, hướng dẫn, phổ biến và tổ chức thực hiện chính sách và tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật có liên quan đến việc thành lập, đầu tư, xây dựng phát triển và hoạt động của KCN. Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin về KCN; tổ chức thực hiện xúc tiến đầu tư vào các KCN. Nhà nước ban hành các chính sách liên quan đến phát triển các KCN như: Ưu đãi về thuế, đất đai, vay vốn tín dụng,… nhằm phát triển các KCN theo đúng định hướng. Nhà nước ban hành những chính sách để thực hiện và hoàn thiện chúng qua từng thời kỳ nhằm tạo cơ sở pháp lý đồng bộ và điều chỉnh có hiệu quả hoạt động của KCN cũng như của từng doanh nghiệp trong KCN. Nhà nước xây dựng và áp dụng các biện pháp ưu đãi kinh tế xuất phát từ lợi ích của nước nhà và lợi ích lâu dài của nhà đầu tư. Các biện pháp ưu đãi kinh tế áp dụng tại KCN: bình đẳng, các bên cùng có lợi, được thể chế hóa về mặt pháp lý. Đồng thời các biện pháp này cũng được điều chỉnh linh hoạt về mặt pháp lý để theo kịp những biến động, thay đổi tình hình chính trị, kinh tế – xã hội. Các ưu đãi về kinh tế hấp dẫn, tính cạnh tranh cao nhưng cũng cần phải đảm bảo tính ổn định lâu dài để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Ngoài ra còn thực hiện dịch vụ công như: hướng dẫn các nhà đầu tư cách thức lập hồ sơ dự án, tổ chức việc cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép và thực hiện các thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ hỗ trợ có liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân trong KCN. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Bốn là, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN. Nhằm định hướng hoạt động của các KCN theo quy định của pháp luật và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN, kiểm soát và xử lý các vi phạm của doanh nghiệp trong việc thực hiện quy định pháp luật của nhà nước và quy chế hoạt động của KCN. Hướng dẫn, hỗ trợ, đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, giám sát, thanh tra, giải quyết khếu nại tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành và phát triển các KCN. Hiện tại quy định của nhà nước đối với tổ chức bộ máy Ban quản lý KCN, KKT không có bộ phận thanh tra; việc thanh tra hoạt động tại các KCN, Ban quản lý KCN, KKT phối hợp với thanh tra chuyên ngành và thanh tra nhà nước để thực hiện.
Năm là, chức bộ máy QLNN đối Khu công nghiệp. Nhà nước quy định cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý các KCN, quy định chức năng nhiệm vụ cưa từng cơ quan, cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý đối với các KCN. Nhằm đăm bảo các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý các KCN được thực thi có hiệu quả trên thực tế. Đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cơ quan QLNN về KCN để nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các KCN.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp
Việc bảo đảm hiệu quả hoạt động QLNN đối với các KCN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Một là, ý thức của chủ doanh nghiệp và cán bộ, công nhân làm việc tại các danh nghiệp KCN trong việc thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với các KCN.
Hoạt động QLNN đối với các KCN chủ yếu dựa vào việc ban hành các chính sách, pháp luật để đưa hoạt động của các KCN vào khuôn khổ và phát triển theo định hướng chung, góp phần vào sự phát triển nền kinh tế xã hội. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động QLNN đối với các KCN thì ý thức tự giác chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với các KCN của chủ doanh nghiệp và của cán bô, công nhân làm việc tại các danh nghiệp KCN là rất quan trọng. Nếu doanh nghiệp chỉ quan tâm đến hoạt động sản xuất và lợi nhuận mà không có ý thức chấp hành tốt các chính sách của Nhà nước thì hoạt động QLNN đối với KCN sẽ không mang lại hiệu quả cho Nhà nước và cho sự phát triển của XH.
Hai là, đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan QLNN đối với KCN. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Hoạt động QLNN đối với KCN được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan QLNN đối với KCN. Đây là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của hoạt động quản lý. Đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực quản lý điều hành sẽ giúp việc ban hành, hoạch định các chính sách, pháp luật đối với KCN phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra và việc quản lý, điều hành các KCN hoạt động có hiệu quả hơn.; còn ngược lại sẽ kiềm hãm sự phát triễn, không kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN cũng như không có chính sách hỗ trợ hợp lý, tạo điều kiện cho các KCN hoạt động hiệu quả, đêm lại hiệu quả kinh tế thấp, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội cần phải giải quyết.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp và bài học cho Quảng Ngãi.
1.3.1. Kinh nghiệm tại Đài Loan ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Một là, nhằm thực hiện chính sách phát triển công nghiệp và quản lý môi trường, trong thời gian đầu, Đài Loan phát triển các KCX, tiếp theo là các KCN, KCNC. Kinh nghiệm quản lý nhà nước các KCN của Đài Loan trước hết, là chính sách phát triển công nghiệp đồng bộ; có cơ quan chuyên nghiên cứu quy hoạch, xây dựng và phát triển KCN của quốc gia, lập được quy hoạch KCN thoả mãn các yêu cầu; chọn được các loại hình công nghiệp cần đầu tư. Chọn vị trí và quy mô hợp lý về đất đai để phát triển KCN; thực hiện đồng bộ từ việc thủ tục đến thiết kế quy hoạch, thiết kế xây dựng, bảo trì và phát triển KCN; tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư vào KCN, giải quyết đồng bộ các khâu từ thủ tục pháp lý, tài chính và đầu tư kinh doanh phát triển.
Hai là, chính quyền Đài Loan rất chú trọng công tác quy hoạch phát triển KCN và chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong nước vào các KCN. Ở Đài Loan, công tác này được tổ chức khá chặt chẽ. Việc phát triển KCN được chú ý từ khi đưa ra chủ trương phát triển, qui hoạch phát triển và đấu thầu xây dựng các KCN. Tiến hành đánh giá theo định kỳ 3 năm một lần hoạt động của các KCN. Có chính sách điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ khu công nghiệp theo hướng bền vững và có hiệu quả. Cơ cấu sử dụng đất hợp lý, theo kinh nghiệm của Đài Loan là: đất cho xây dựng nhà máy: 60%; đất dành cho xây dựng khu dân cư: 2,2-3%; đất dành cho các công trình BVMT: 33% bao gồm đất cho các công trình vui chơi, giải trí, đất trồng cây xanh.
Ba là, sự phát triển mạnh các dịch vụ trong KCN, KCX. Các mô hình dịch vụ quản lý hoạt động có hiệu quả trong các KCN, KCX ở Đài Loan là: Hoạt động của trung tâm kho vận trong KCN, KCX, chuyên chở tốt; thời gian làm việc tất cả mọi thời gian trong năm và trong ngày; cung cấp dịch vụ nhanh, tiện nghi; chi phí dịch vụ mang tính cạnh tranh, hàng hoá chuyên chở đều có bảo hiểm; hệ thống thông tin đáng tin cậy.
Bốn là, bộ máy quản lý nhà nước các KCN ở Đài Loan đảm nhận những chức năng có liên quan đến phát triển các KCN. Ngoài những chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của KCN, Ban quản lý các KCN còn thực hiện 2 chức năng: kiểm tra việc xây lắp nhà máy và vệ sinh môi trường; giám sát phúc lợi công cộng [34].
1.3.2. Kinh nghiệm tại Thái Lan
Thái Lan phát triển mô hình KCN, KCX từ năm 1970. Mô hình KCN, KCX của Thái Lan là mô hình KCN tập trung tổng hợp, bao gồm KC N, KCX và các khu dịch vụ.
Chính sách quản lý nhà nước các KCN nhất quán, có sự phân cấp cho các vùng và địa phương. Các phương án quy hoạch KCN được thực thi bằng các chính sách ưu đãi khác nhau theo từng vùng. Khi đầu tư vào các KCN Thái Lan, các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi về thuế, phí, giá và cơ chế quản lý một cửa. Các ưu đãi về tài chính được xác định theo vùng ưu đãi đầu tư. Các KCN của Thái Lan được chia thành 3 vùng: vùng 1 bao gồm Băng cốc và 5 tỉnh lân cận; vùng II bao gồm 12 tỉnh tiếp theo và vùng III bao gồm 58 tỉnh còn lại. các ưu đãi tài chính được tập trung nhiều nhất cho vùng III. Vùng III là vùng ưu đãi nhất. Đồng thời, Thái Lan cũng quy hoạch ngành theo vùng ưu đãi đầu tư. Nhiều ngành công nghiệp không được phép đầu tư vào Vùng I mà chỉ được phép đầu tư vào vùng II hoặc vùng III. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Thái Lan quan tâm ngay từ đầu việc cung cấp đầy đủ cơ sở hạ tầng cơ bản có lợi cho các KCN, nhất là ở các thành phố mới; phân phối lại thu nhập cùng với các điều kiện vật chất khác; vấn đề ô nhiễm môi trường trong các KCN được xử lý một cách có hệ thống và đồng bộ, hạn chế thành lập các KCN tại các khu trung tâm du lịch; người lao động làm việc trong các KCN được đào tạo liên tục và ngày càng nâng cao tay nghề; các công nghệ được tập trung vào một số KCN là điều kiện cho sự chuyển giao khoa học công nghệ giữa các nhà công nghiệp. Đặc biệt, Thái Lan quy hoạch đồng bộ từ vùng công nghiệp, quy hoạch tổng thể KCN, quy hoạch không gian KCN. Phát triển KCN luôn luôn có hệ thống hạ tầng xã hội khép kín bảo đảm cho ăn, ở, sinh hoạt của người lao động. Thủ tục quản lý đơn giản thuận tiện cho các nhà đầu tư. Có bộ máy xúc tiến chương trình phát triển đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương. Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở kỹ thuật để hình thành các trung tâm công nghiệp [35].
1.3.3. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước
* Bình Dương
Sau khi tái lập tỉnh, Bình Dương đã khởi lập KCN đầu tiên vào tháng 9 năm 1995, đó là KCN Sóng Thần với diện tích quy hoạch 180 ha. Đến cuối năm 2004 ngoài KCN Việt Nam – Singapo (thành lập năm 1996, với diện tích 292 ha) thuộc Trung ương quản lý, Bình Dương đã có 12 KCN được thành lập với diện tích quy hoạch 1.934,73 ha. Tiếp đó, trong 6 tháng đầu năm 2005, Chính phủ đã cho phép Bình Dương lập mới 3 KCN với diện tích 810,5 ha, đang trong quy hoạch KCN Mỹ Phước III, diện tích 890 ha. Đồng thời, dự án Khu liên hợp “Công nghiệp-dịch vụ-đô thị Bình Dương” với qui mô 4.196 ha đã được Chính phủ phê duyệt. Trong Khu liên hợp này có 5 KCN với diện tích 1.298 ha. Trải qua gần 20 năm kiên trì xây dựng các KCN, đến năm 2015 toàn tỉnh Bình Dương đã có 28 KCN với tổng diện tích trên 9.500 ha, chiếm 9,5% về số lượng và 11,3% về diện tích KCN của cả nước. Đến nay tổng diện tích đất đã cho thuê của các KCN thuộc phạm vi quản lý của ban là 2.572 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 50,5%, cao hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước [35].
Qua hơn 20 năm phát triển các KCN, Bình Dương đã rút ra bài học có ý nghĩa quan trọng là: thường xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch; tổ chức xây dựng hợp lý và có hiệu quả hệ thống các cơ sở hạ tầng KCN; tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; xúc tiến, quảng bá và thu hút các dự án đầu tư hoạt động trong KCN, trong đó tỉnh đặc biệt chú trọng công tác QLNN đối với hoạt động của các doanh nghiệp, trong đó Bình Dương chú trọng công tác hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp triển khai thực hiện những quy định của Nhà nước… đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp trong việc chấp hành những quy định của pháp luật; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa liên thông” tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dự án.
Về công tác tổ chức quản lý xây dựng: Hiện trong các KCN có 172 công trình đang xây dựng (2015), BQL đã hoàn thành nhiều phần việc: Cấp giấy phép xây dựng; tổ chức kiểm tra; cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình; tiến hành xác nhận hợp đồng thuê lại đất; xác nhận hợp đồng thế chấp đất và tài sản trên đất; xác định hợp đồng chuyển nhượng. Nhờ hoàn tất khối lượng công việc quản lý trên đây, BQL góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hỗ trợ các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý tiếp tục thực hiện các dự án đi vào hoạt động hiệu quả. ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Trong sản xuất, kinh doanh thường phát sinh không ít vướng mắc, khó khăn, các doanh nghiệp luôn yêu cầu BQL trợ giúp, nhất là về các thủ tục cần thiết để doanh nghiệp sớm chính thức đi vào hoạt động. Qua những buổi làm việc với doanh nghiệp, đoàn công tác của BQL đã hướng dẫn doanh nghiệp thủ tục được hỗ trợ vay vốn để trả nợ lương người lao động, nợ bảo hiểm xã hội và hướng dẫn giải quyết các chế độ cho người lao động thôi việc. Đối với công tác quản lý lao động, vấn đề chủ yếu cần được giải quyết trong thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp KCN là việc kiểm tra, thanh tra và hướng dẫn thực hiện một số điều của Bộ Luật lao động. Trong đó, bộ phận quản lý lao động thuộc BQL thường xuyên theo dõi, đôn đốc các doanh nghiệp thực hiện những quy định về sử dụng lao động, như cấp sổ lao động, cấp mới và gia hạn Giấy phép lao động cho người nước ngoài; hướng dẫn và đôn đốc doanh nghiệp xây dựng nội quy lao động, ký kết thỏa ước lao động.
Về công tác kiểm tra giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật Lao động trong các doanh nghiệp, nắm tình hình và có biện pháp giải quyết các tranh chấp lao động. Tỉnh Bình dương còn đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, ban hành quy trình xử lý công việc và công khai thủ tục hành chính, các loại phí và lệ phí theo quy định; hoàn thành việc xây dựng tổ chức công việc theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2008.
*Hải Phòng
Được thành lập sớm, từ 1994, trên địa bàn thành phố Hải Phòng có 3 KCN được thành lập (Nomura – Hải Phòng, Đình Vũ, Đồ Sơn) với tổng diện tích đất tự nhiên 467 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 292.000 USD. Đến năm 2007, Hải Phòng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thêm 4 KCN. Tuy nhiên, đến hết năm 2006, các KCN trên địa bàn mới chỉ thu hút được trên 70 dự án với tổng vốn FDI hơn 800 triệu USD, tổng vốn đăng ký trong nước khoảng 1.280 tỷ đồng; quy mô dự án nhỏ, thiết bị, công nghệ trung bình; lao động làm việc trong các doanh nghiệp KCN 8.000 người. Nhận thức và đánh giá được vai trò, vị trí quan trọng của các KCN đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ mới, từ năm 2007, Hải Phòng đã có những biện pháp, giải pháp quản lý tích cực, đẩy mạnh và nâng cao công tác quản lý nhà nước các KCN. Tính lũy kế đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, trong các Khu công nghiệp và Khu kinh tế tại Hải Phòng có 203 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 7,916 tỷ USD; 99 dự án có vốn đầu tư trong nước còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 46.822 tỷ VNĐ. Đạt được các thành tựu trên là do Hải Phòng đã thực hiện các biện pháp quản lý sau:
Về hoạch định, quy hoạch các Khu công nghiệp ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Quy hoạch KCN đổi mới và thay đổi lớn: Đề án điều chỉnh, xây dựng mới các KCN của thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tiếp đến ngày 27/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận bổ sung KCN Cầu Cựu của thành phố Hải Phòng, diện tích 106 ha vào Quy hoạch phát triển các KCN Việt Nam. Như vậy, đến nay trên địa bàn thành phố Hải Phòng có 17 KCN được quy hoạch với tổng diện tích đất khoảng 10.000 ha. Đặc biệt, ngày 10/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 06/2008/QĐ-TTg thành lập KKT Đình Vũ – Cát Hải với quy mô 21.640 ha (nay được điều chỉnh bổ sung thành
22.140 ha) [36]. Đây là KKT có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng một KKT tổng hợp được vận hành theo quy chế riêng biệt; là một trung tâm kinh tế biển, đa ngành, đa lĩnh vực, bao gồm: kinh tế hàng hải (trọng tâm là phát triển dịch vụ cảng, phát huy lợi thế thương hiệu cảng Hải Phòng có lịch sử hơn 100 năm, kết hợp với cảng quốc tế Lạch Huyện sắp tới), trung tâm công nghiệp, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại; là “cửa sổ hướng ngoại và hội nhập”, là hạt nhân, động lực phát triển kinh tế của Hải Phòng, Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước.
Về tổ chức thực hiện triển khai quy hoạch
Tập trung tăng cường quan hệ phối hợp công tác hài hoà, đồng bộ giữa các cơ quan quản lý của thành phố, chính quyền, quận, huyện với Ban Quản lý các KCX & CN Hải Phòng (nay là Ban quản lý KKT Hải Phòng), cải cách thủ tục hành chính, giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến KCN như GPMB, Kết quả xây dựng KCN và thu hút đầu tư tăng nhanh: Trong 4 năm 2007- 2011, có 7 Công ty xây dựng cơ sở hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư (gấp hơn 2 lần của 13 năm trước đó), nâng tổng số các KCN được thành lập và đi vào hoạt động là 10 khu với tổng diện tích gần 4.000 ha, tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng quy đổi 1,26 tỷ USD, loại hình công ty xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN đa dạng hơn (có 4 công ty liên doanh với nước ngoài, 1 công ty 100% vốn nước ngoài, 5 công ty 100% vốn trong nước). Trong số này có 2 KCN đã lấp đầy diện tích giai đoạn I và đang triển khai giai đoạn II (Nomura – Hải Phòng, Đình Vũ). Năm 2015, có 93 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được Ban Quản lý KKT tế Hải Phòng điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trong đó có 16 dự án điều chỉnh tăng tổng vốn đầu tư 192,776 triệu USD; 08 dự án có vốn đầu tư trong nước được Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trong đó có 03 dự án điều chỉnh tăng tổng vốn đầu tư 6.551 tỷ VNĐ [35].
1.3.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Ngãi ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công trong quản lý nhà nước đối với các KCN của một số nước, vùng lãnh thổ Châu Á và một số địa phương của Việt Nam, có thể rút ra các bài học sau cho tỉnh Quảng Ngãi như sau:
Một là, sớm quy hoạch, tạo điều kiện phát triển các KCN là con đường thích hợp để CNH, HĐH kinh tế địa phương. Kinh nghiệm các nước và các địa phương cho thấy, để thúc đẩy KCN phát triển, chính quyền nhà nước và các địa phương cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, nhất là thông qua việc hoạch định chiến lược phát triển KCN, chính sách đất đai, chính sách tài chính tín dụng, hỗ trợ thủ tục hành chính. Quy hoạch KCN phải kết hợp với quy hoạch ngành lãnh thổ trên cơ sở quy hoạch tổng thể gắn với quy hoạch vùng, gắn các KCN với các khu đô thị và dịch vụ.
Địa phương nào có chính quyền năng động thì KCN ở đó không những phát triển nhanh mà còn hoạt động hiệu quả. Để tạo điều kiện phát triển các KCN, chính quyền các tỉnh thường chú trọng hỗ trợ về đất, vốn, thủ tục hành chính và xúc tiến đầu tư. Kinh nghiệm của nhiều tỉnh cho thấy, sự thân thiện của các nhà quản lý nhà nước, quy hoạch công khai, rõ ràng, ổn định, sự hợp tác của người lao động và cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đảm bảo là yếu tố quyết định sự phát triển thành công của các KCN ở địa phương.
Hai là, kinh nghiệm các nước và các địa phương chỉ cho tỉnh Quảng Ngãi thấy rằng, trong việc thực hiện quản lý nhà nước đối với các KCN cần tập trung vào các vấn đề chính sau:
Bảo đảm sự thống nhất trong quản lý bằng việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BQL KCN các cấp. Hệ thống QLNN phải gọn nhẹ và có hiệu lực. Cần có những cơ chế chính sách ổn định lâu dài để nhà đầu tư yên tâm trong việc đầu tư vào các KCN. Công khai các thủ tục hành chính, giải quyết yêu cầu của các nhà đầu tư nhanh và đúng theo quy định của nhà nước. Cần có các chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các DN vi phạm pháp luật. Có sự quan tâm, thân thiện của các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành trong tỉnh đối với nhà đầu tư trong KCN. Phải có đội ngũ công chức toàn tâm, toàn ý, có trình độ năng lực thực thi công việc quản lý nhà nước trong các KCN.
Ba là, những địa phương đạt được thành công nhất định trong việc quản lý nhà nước đối với các KCN thường phải hội tụ được các điều kiện sau: Tình hình chính trị, xã hội và kinh tế vĩ mô ổn định, chính quyền địa phương quan tâm khuyến khích DN hoạt động theo nguyên tắc thương mại thích hợp. Có cơ chế quản lý linh hoạt, có hiệu quả cao, thủ tục hành chính đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh được ở mức cao nhất tệ quan liêu, hành chính gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Thực thi một số biện pháp khuyến khích ưu đãi cho các DN hoạt động trong KCN, nhất là thuế. Thu hút được lượng lao động dồi dào, có kỹ năng. Có địa điểm thuận lợi, chi phí đầu tư có sức cạnh tranh. Có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tốt, gần trung tâm đô thị và CN có khả năng hậu thuẫn cho hoạt động kinh tế, được các ngành khác hỗ trợ.
Bốn là, quá trình quản lý nhà nước đối với các KCN là một quá trình phức tạp, đa dạng, phong phú. Mỗi địa phương có phương hướng và cách đi khác nhau, song đều có điểm chung là nỗ lực phát huy được lợi thế so sánh, mạnh dạn đi vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, thực hiện sự mở cửa rộng rãi theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời quan tâm đến thị trường trong nước. Chính sách ưu đãi các nhà đầu tư đến KCN không thể vượt rào ra ngoài các quy định chung của Chính phủ, nhưng có thể vận dụng linh hoạt để tăng sức hấp dẫn thu hút mạnh những nhà đầu tư chiến lược theo đúng những ngành sản xuất, kinh doanh mà quy hoạch chung của tỉnh yêu cầu.
Tiểu kết chương 1 ( Luận văn: Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp nước ta )
Trong chương này luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề sau:
Đã hệ thống hóa và làm rõ khái niệm về KCN, vai trò của KCN đối với nền kinh tế. Đã hệ thống hóa và làm rõ khái niệm quản lý nhà nước đối với các KCN; Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với các KCN. Từ đó luận văn đã phân tích rõ nội dung của quản lý nhà nước đối với các KCN theo quy trình quản lý, bao gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, ban hành và thực thi pháp luật, ban hành và thực hiện chính sách quản lý nhà nước đối với các KCN, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp.
Luận văn đã giới thiệu khái quát về quản lý nhà nước tại một số nước, vùng lãnh thổ châu Á, như: Đài Loan, Thái Lan, đây là các nước có chế độ chính trị, điều kiện tự nhiên khác nhau và đều có các KCN phát triển mạnh, đa dạng các loại hình. Ngoài ra luận văn cũng đã giới thiệu sơ lược về công tác quản lý nhà nước về đầu tư tại các địa phương của Việt Nam, như: Hải Phòng, Bình Dương. Từ đó rút ra bài học có thể áp dụng cho tỉnh Quảng Ngãi trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com