Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp là bài luận văn Thạc sĩ của tác giả bởi vì xuất phát từ công cuộc đổi mới năm 1986, để hướng tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, tăng cường thu hút các nguồn lực để phát huy tiềm năng thế mạnh trong nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, để thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, tạo tiền đề hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới, mô hình KCX Tân Thuận được thành lập năm 1991. Dưới đây là đề tài: Quản lý nhà nước Đối với các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh Quảng Ngãi, hy vọng sẽ có ích cho các bạn đọc giả.
Nội dung chính
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội có ảnh hưởng đến phát triển các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Quảng Ngãi thuộc địa bàn Trung bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (Thừa Thiên Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi – Bình Định), có ảnh hưởng lớn và có điều kiện thuận lợi trong việc phát triển, giao lưu kinh tế với các khu vực lân cận. Phía Bắc của Quảng Ngãi giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông là biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum và Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Bình Định. Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.155,78km2, bao gồm 01 thành phố trực thuộc và 13 huyện, trong đó có 06 huyện đồng bằng, 06 huyện miền núi và 01 huyện đảo. Nằm trong khu vực có tuyến giao thông trọng yếu quốc gia đi qua: Đường sắc Bắc – Nam, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 24, đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, có cảng nước sâu Dung Quất và sát với sân bay Chu Lai (thuộc tỉnh Quảng Nam).
- Địa hình và khí hậu thời tiết
Địa hình Quảng Ngãi đa dạng, kéo dài theo hướng Bắc – Nam, hẹp theo chiều dài Đông – Tây, chia thành 3 khu vực chính: Đồng băng, miền núi và hải đảo. Khí hậu, thời tiết Quảng Ngãi có khí hậu nhiệt đới gió màu.
- Tài nguyên
Tài nguyên đất: Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ đầu 2011-2015 và niên giám thống kê năm 2017 của tỉnh Quảng Ngãi, toàn tỉnh có tổng diện tích tự nhiên 515.578,46ha (xem phần phụ lục: Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất năm 2017).
Tài nguyên rừng: Diện tích đất có rừng 299.093,96 ha, chiếm 58,08%. của diện toàn tỉnh.
Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt trên địa bàn tỉnh khá phong phú, bao gồm các nguồn nước từ các sông, suối, hồ. Hệ thống sông trên có tổng lưu lượng bình quân nhiều năm 358,6m3/s.
Tài nguyên Khoáng sản: Quảng Ngãi có nguồn tài nguyên đa dạng, đây cũng là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng và phát triển các KCN trên địa bàn.
2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
- Dân số và lao động việc làm
Dân số trung bình năm 2017 của tỉnh Quảng Ngãi đạt 1.263,57 nghìn người.
- Kinh tế
Quy mô GRDP giá hiện hành năm 2017 đạt 64.241,68 tỷ đồng, tương đương 2.880,79 triệu USD. GRDP bình quân đầu người năm 2017 đạt 50,84 triệu đồng, tương đương 2.280 USD, tăng 170 USD so với năm 2016. (Nguồn: NGTK Quảng Ngãi năm 2015, 2016, 2017 và Báo cáo KT-XH năm 2015, 2016, 2017).
Có thể bạn quan tâm:
2.2. Thực trạng hoạt động của các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Số lượng, vị trí quy mô phân bổ ngành nghề sản xuất kinh doanh trong các Khu công nghiệp
- Số lượng Khu công nghiệp
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 04 KCN (ngoài KKT Dung Quất), tổng diện tích 540,27ha. Trong đó 02 KCN đi vào hoạt động, 01 đang trong quá trình xây dựng, 01 KCN đang tiến hành lập quy hoạch phân khu xây dựng [3,4].
- Vị trí, quy mô phân bổ và ngành nghề sản xuất kinh doanh trong các Khu công nghiệp
- KCN Tịnh Phong được thành lập năm 1997, nằm trên tuyến quốc lộ 1A, cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi 7 km về phía Bắc, cách Khu kinh tế Dung Quất và sân bay Chu Lai khoảng 20 Km về phía Nam, với diện tích quy hoạch 140,72 ha. Đây là KCN tập trung thu hút các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, đồ gỗ xuất khẩu, điện tử, da giày, dệt may, vật liệu tổng hợp…Cung ứng các dịch vụ kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao; các dịch vụ chế tạo, sửa chữa, lắp ráp thiết bị thi công, hàng gia dụng; sản xuất các sản phẩm công nghiệp khác, từng bước thay thế hàng nhập khẩu.
- KCN Quảng Phú được thành lập năm 1999, nằm ở phường Quảng Phú, thành phố Quảng Ngãi, cạnh Ga đường sắt Quảng Ngãi, cách đường quốc lộ 1A 02 km về phía Tây, cách Khu kinh tế Dung Quất và sân bay Chu Lai khoảng 30 km về phía Nam, với diện tích quy hoạch 92,14 ha. Ngành nghề ưu tiên phát triển là công nghiệp chế biến thực phẩm, sản xuất bao bì, thuỷ sản, Bia – rượu, nước giải khát, đường, bánh kẹo, các loại sản phẩm sau đường, đồ gỗ xuất khẩu….
- KCN Phổ Phong được thành lập năm 2010, cách trung tâm TP Quảng Ngãi về phía Nam, với quy mô diện tích là 157,38 ha, Đây là KCN tập trung ưu tiên thu hút các dự án sử dụng nguồn nguyên liệu địa phương như chế biến nông, lâm, thủy sản, các ngành công nghiệp nhẹ ít gây ô nhiễm môi trường.
- KCN Đồng Dinh được Chính phủ phê duyệt năm 2015, cách trung tâm TP Quảng Ngãi về phía Tây khoảng 6km, với quy mô diện tích khoảng 150ha; hiện Ban Quản lý đang lập quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000. Đây là KCN tập trung ưu tiên thu hút các dự án sử dụng nguồn nguyên liệu địa phương như chế biến nông, lâm sản, các ngành công nghiệp nhẹ ít gây ô nhiễm môi trường như may mặc….
Các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tập trung nhiều ngành nghề khác nhau. Mỗi khu thu hút đầu tư sản xuất và sản xuất các loại ngành nghề với mục tiêu khai thác nguồn nguyên liệu, nguồn lao động ở địa phương sẵn có và cân đối sự phát triển công nghiệp giữa các vùng trong toàn tỉnh.
2.2.2. Các dự án đầu tư vào các Khu công nghiệp ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Tính đến hết 31/12/2017, các KCN tỉnh Quảng Ngãi đã thu hút được 98 dự án (kể cả FDI) với tổng số vốn đăng ký là 6.940,804 tỷ đồng, vốn thực hiện 5.636,502 tỷ; đa số dự án có quy mô đầu tư còn ở mức nhỏ và vừa. Các dự án đầu tư vào các KCN hơn 20 năm qua đa số là gia công hàng hóa, sản xuất các mặt hàng có hàm lượng công nghệ thấp như là chế biến, thủy sản, bao bì, đồ gỗ, vật liệu xây dựng, may mặc; về sau có các dự án sản xuất linh kiện điện tử, giày da….
Tiến độ thực hiện một số dự án còn chậm, nhiều dự án kéo dài thời gian triển khai mà không có giải trình; một số dự án còn lãng phí đất công nghiệp, không triển khai đầu tư đưa vào sử dụng,…
Từ năm 2005 đến 2017, Ban Quản lý đã có Quyết định thu hồi và chấm dứt hiệu lực đối với 54 dự án; đồng thời rà soát các dự án triển khai chậm để yêu cầu giải trình lý do để xem xét gia hạn, sau thời gian gia hạn mà chủ dự án không triển khai thì quyết định thu hồi.
Việc đầu tư hạ tầng các KCN từ khi thành lập đến nay phụ thuộc và nguồn ngân sách của trung ương và địa phương, Công ty hạ tầng KCN Tịnh Phong và KCN Quảng Phú chủ sở hữu là UBND tỉnh, không huy động được các nguồn vốn để đầu tư hạ tầng; KCN Phổ Phong năm 2010 kêu gọi được Tập Đoàn Tân tạo đăng ký đầu tư được UBND tỉnh cấp chứng nhận đầu tư đầu kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN, đồng thời cho tiến hành quy hoạch khu đô thị – dịch vụ kết nối liên hoàn, đồng bộ với KCN, mục đích phục vụ cho KCN và khai thác quy đất để tái đầu tư những thực tế không đảm bảo nguồn tài chính triển khai để kéo dài, UBND tỉnh Quyết định thu hồi chứng nhận đầu tư năm 2012; hiện nay vẫn chưa kêu gọi chủ đầu tư hạ tầng KCN này. (Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Ban Quản lý KKT và các KCN Quảng Ngãi).
2.2.3. Công tác quản lý sản xuất kinh doanh
Việc quản lý đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các KCN, BQL đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ, làm cầu nối và đồng hành cùng doanh nghiệp; tạo môi trường lành mạnh và công khai. Đến năm 2017, một số thủ tục hành chính được sử đổi tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp; bên cạnh đó Lãnh đạo Ban Quản lý đã có các buổi gặp mặt và đối thoại để giải quyết các vướng mắt, phát sinh của các doanh nghiệp có nhu cầu tại các KCN. Công tác quản lý sản xuất kinh doanh ngày càng đổi mới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN. Phần nào giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng về các thủ tục hành chính rườm rà, tiết kiệm thời gian công suất và yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh, đêm lại hiệu quả kinh tế cao.
2.2.4. Vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao đời sống người lao động ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Các doanh nghiệp trong KCN đã thu hút ngày càng nhiều lao động trong ngoài tỉnh, cụ thể hiện nay, 02 KCN Tịnh Phong và Quảng Phú đã giải quyết việc làm cho 15.156 lao động. Trong đó, KCN Quảng Phú có 6.189 lao động, KCN Tịnh Phong có 9.057 lao động, có 32 lao động nước ngoài đang làm việc tại các KCN. Cơ cấu và trình độ lao động như sau: Tổng số lao động là 15.156, trong đó lao động nữ 9.863, tỷ lệ là 65,08%; đại học trở lên là 1.689, tỷ lệ là 11,21%; cao đẳng/cao đẳng nghề là 1.544, tỷ lệ là 10,25%; trung cấp/trung cấp nghề là 1.086, tỷ lệ là 7,09%; sơ cấp nghề là 2.212 tỷ lệ là 14,68%; dạy nghề thường xuyên là 835 tỷ lệ là 5,54%; chưa qua đào tạo là 8.537, tỷ lệ là 56,33%. Tính đến thời điểm hiện nay chỉ có 06/64 Doanh nghiệp sử dụng trên 500 lao động ( trong đó : 01/63 doanh nghiệp có trên 2.000 lao động, 02/64 doanh nghiệp có từ 1.000 đến dưới 2.000 lao động, 03/63 doanh nghiệp có số lao động từ 500 đến dưới 1.000 lao động). (Nguồn: Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi cung cấp đã cập nhật thực tế)
Tỷ lệ lao động nữ cao hơn lao động Nam là các doanh nghiệp may mặc, sản xuất điện tử, giày da chiếm hơn 90% số lao động nữ của từng doanh nghiệp; với tỷ lệ lao động đại học trở lên chưa qua đào tạo, tỷ lệ 46,96% là tương đối lớn; nguyên nhân là hầu hết các cơ sở đào tạo trong tỉnh chưa đào đạo đáp ứng với các ngành nghề của các danh nghiệp tại các KCN, sự liên kết giữa các cở sở với các doanh nghiệp để đào tạo chưa thật sự chú trọng, hầu như các doanh nghiệp chủ động tự đào tạo tại chỗ khi tuyển lao động vào trong thời gian thử việc, dẫn đến chất lượng lao động tiếp cận với công việc có phần hạng chế trong thời gian đầu; bên cạnh đó hiện nay việc các doanh nghiệp cạnh tranh tuyển dụng lao động, lý do là nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp tại KKT Dung Quất, đặc biệt là tập Đoàn Hòa Phát.
2.2.5. Đóng góp của Khu công nghiệp vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh
- Tổng GRDP, VA và diễn biến tăng trưởng kinh tế
Đến năm 2015, tổng GRDP của tỉnh đạt trên 42.723 tỷ đồng, đưa nền kinh tế toàn tỉnh trong giai đoạn 05 năm 2011-2015 đạt tốc độ tăng trưởng 7,8%/năm, cao hơn tăng trưởng của kinh tế cả nước trong cùng thời kỳ (đạt 5,9%/năm)1. Trong đó, riêng VA ngành công nghiệp có mức tăng trưởng 7,2%/năm, thấp hơn so với mức tăng trưởng chung của kinh tế toàn tỉnh (theo giá so sánh 2010). GRDP/người của tỉnh đạt trên 47,7 triệu đồng/người (~2.218 USD) gấp 2,0 lần so với năm 2010 (đạt 24,0 triệu đồng/người) và tương đương 110,5% và 99,5% mức bình quân của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và bình quân của cả nước (đạt 2.228 USD). Năm 2016, GRDP của tỉnh đạt khoảng 44.816 tỷ đồng, tăng 4,9% so với năm 2015, trong đó ngành công nghiệp+xây dựng đạt mức tăng 3,4%, đưa giá trị VA ngành công nghiệp+xây dựng đạt khoảng 24.882 tỷ đồng. (xem phần phụ lục: Bảng 2.2: Tăng trưởng GRDP và VA các ngành kinh tế) ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 tăng 1,3% so với năm 2016, trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,75%, cao hơn mức 4,50% của năm 2016, đóng góp 0,97 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực và công nghiệp giảm 3,96%, thấp hơn nhiều mức tăng 3,39% của năm trước, đóng góp – 1,99 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 8,15%, đóng góp 2,36 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung GRDP. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt thấp nguyên nhân chính là do trong năm Nhà máy lọc dầu Dung Quất tạm ngừng hoạt động gần 2 tháng để bảo dưỡng tổng thể lần 3, theo đó giá trị tăng thêm ngành chế biến, chế tạo giảm mạnh (giảm 5,7%) so với năm 2016, đóng góp -2,72 đểm phần trăm. GRDP giá hiện hành đạt 64.241,68 tỷ đồng, tương đương 2.880,79 triệu USD. GRDP bình quân đầu người năm 2017 đạt 50,84 triệu đồng, tương đương 2.280 USD, tăng 170 USD so với năm 2016. Cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự chuyển dịch nhưng tốc độ chậm, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,97%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 50,36%; khu vực dịch chiếm 30,68% ( Cơ cấu tương ứng của năm 2016 là: 20,30%; 49,81% và 30,42%). (Nguồn: NGTK Quảng Ngãi năm 2015, 2016, 2017 và Báo cáo KT-XH năm 2015, 2016, 2017).
Đánh giá chung, có thể nói các KCN đã góp phần làm cho nền kinh tế tỉnh Quảng Ngãi tăng trưởng nhanh, phát triển theo hướng CNH, HĐH, làm cho quá trình đô thị hóa diễn ra theo hướng tích cực, kinh tế, xã hội, không gian đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị và bộ mặt tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều thay đổi quang trọng.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong giai đoạn 2011-2015, kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì cơ cấu Công nghiệp+XD; Dịch vụ và Nông, lâm, thủy sản. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011- 2015, tăng trưởng kinh tế của tỉnh gắn liền với sự gia tăng của tỷ trọng ngành Dịch vụ. Do ngành Dịch vụ của tỉnh có tốc độ tăng trưởng khá cao (đạt 11,7%/năm) nên tỷ trọng của ngành trong kinh tế tỉnh có xu hướng tăng trong giai đoạn 2011- 2015. Cụ thể năm 2010, tỷ trọng của ngành chiếm khoảng 21,8%, đến năm 2015 tăng lên chiếm 24,5% và đến năm 2016 đạt khoảng 28,9%. (xem phần phụ lục: Bảng 2.3: Cơ cấu theo tổng VA kinh tế). Ngành Nông, lâm, thủy sản của Quảng Ngãi trong giai đoạn phát triển có tỷ trọng tăng/giảm không ổn định theo từng năm. Tuy nhiên, trong 04 năm gần đây (2013-2016) thì ngành có xu hướng tăng dần về tỷ trọng và đến năm 2016 chiếm ~20,7% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Do có nhiều cơ sở công nghiệp được đầu tư và đi vào hoạt động sản xuất, đặc biệt là Nhà máy lọc dầu Dung Quất dần sản xuất ổn định và đạt công suất thiết kế nên ngành công nghiệp đã có mức tăng trưởng khá (đạt 7,2%/năm) đưa tỷ trọng của ngành duy trì chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của tỉnh. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Sự phát triển mạnh mẽ các KCN đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Cùng với việc thành lập và đi vào hoạt động của các KCN kéo theo sự phát triển các dịch vụ mới trên địa bàn tỉnh phục vụ cho đời sống sinh hoạt của người lao động cũng như các doanh nghiệp trong KCN. Đối với tỉnh Quảng Ngãi, từ khi thành lập và phát triển các KCN đến nay đã có sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế khá mạnh mẽ theo hướng phát triển. Cụ thể nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 18,7% năm 2010 lên 19% năm 2017; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 59,3% năm 2010 xuống 52,6% năm 2017; khu vực dịch tăng từ 22,1% năm 2010 lên 28,4% năm 2017. (Nguồn: NGTK Quảng Ngãi năm 2015, 2016, 2017 và Báo cáo KT-XH năm 2015, 2016, 2017).
- Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua cho thấy đóng góp của các KCN vào phát triển kinh tế của tỉnh là tích cực và hiệu quả, có thể thấy sự đóng góp của các KCN vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh qua các năm. Trong giai đoạn từ 2001 – 2017, đóng góp của các dự án hoạt động tại các KCN vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng, từ năm 2001 đạt 07 triệu USD đến năm 2017 là 20 triệu USD tăng ổn định; từ năm 2008 – 2011 giảm, năm 2010 đạt 09 triệu USD; đặt biệt năm 2013 – 2015
tăng cao, năm 2014 và 2015 đạt 54 triệu USD; năm 2016 – 2017 giảm, năm 2017 đạt 42 triệu USD. Điều này cho thấy sự đóng góp tích cực và ngày càng hiệu quả của các doanh nghiệp trong các KCN vào giá trị kim ngạnh xuất khẩu của tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung. (xem phần phụ lục: Bảng 2.4: Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của các KCN).
- Đóng góp vào ngân sách nhà nước
Mặc dù con số đóng góp từ thuế của các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi vào ngân sách nhà nước còn hạn chế, chưa tương xuấn với tiềm năng, diện tích đất của các KCN nhưng hiện tại do nhiều doanh nghiệp trong các KCN mới đi vào hoạt động sản xuất, vẫn còn trong giai đoạn thụ hưởng các chính sách ưu đãi về thuế của nhà nước. tính chung tất cả các KCN trên địa bàn tỉnh, con số đóng góp đã tăng từ 203 tỷ đồng năm 2010 lên 1.020 tỷ đồng năm 2014; năm 2015, 1.191 tỷ đồng; năm 2016, 1.195 tỷ đông; năm 2017, 1.418 tỷ đồng . Có thể thấy sự đóng góp của các KCN đối với ngân sách tỉnh hàng năm đều tăng. Năm sau cao hơn năm trước, năm 2017 là 0,78% và chắc chắn sẽ tăng trong những năm tiếp theo. Đây là kết quả tích cực cho thấy kết quả sản xuất của các doanh nghiệp trong các KCN khá ổn định, có quy mô ngày càng tăng. (xem phần phụ lục: Bảng 2.5: Giá trị nộp NSNN của doanh nghiệp KCN so với giá trị thu ngân sách toàn tỉnh Quảng Ngãi). ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
2.2.6. Vấn đề xử lý chất thải
Theo số liệu cập nhật, mỗi ngày các doanh nghiệp tại 02 KCN: KCN Tịnh phát thải 0,8 tấn/ngày (tương đương 240 tấn/năm); KCN Quảng Phú phát thải 1,4 tấn/ngày (tương đương 433 tấn/năm). Tổng phát thải 2,2 tấn/ngày (tương đương 673 tấn/năm)
Trong tổng số 64 doanh nghiệp đang hoạt động tại 02 KCN Tịnh Phong và Quảng Phú trên địa bàn tỉnh đã ký hợp đồng với Công ty CP Môi trường Đô thị Quảng Ngãi và Công ty CP Môi trường Sơn Tịnh thu gom vận chuyển và xử lý chất thải do các doanh nghiệp KCN này thải ra. Trung bình mỗi tháng, các đơn vị thu go vận chuyển và xử lý khoảng 66 tấn; ngoài ra chất thải rắn của các doanh nghiệp chế biến thủy sản thì bán cho các hộ dân và doanh nghiệp làm thức ăn chăn nuôi,…
Hai đơn vị thu gom chất thải trên chủ yếu là chôn lấp theo quy hoạch tại bãi rác Nghĩa Kỳ, huyện tư Nghĩa và bãi rác Đồng Nà, huyện Sơn Tịnh. Còn chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại các doanh nghiệp KCN hợp đồng với Công ty CP Môi trường Lilama để thu gom và vận chuyển về khu xử lý Bình Nguyên, huyện Bình Sơn để xử lý, chất thải công nghiệp thì xử lý chôn lấp, chất thải nguy hại được xử lý bằng lò đốt. Nhìn chung, thời gian qua việc thu gom vận chuyển xử lý chất thải tại các KCN tốt. (Nguồn: Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng cung cấp và khảo sát thực tế).
Tính đến nay, KCN Quảng Phú có trạm xử lý nước thải công suất 4.500m3/ngày đêm được xây dựng và đưa vào vận hành năm 2011; lượng nước thải thực tế tại KCN là 3.500m3/ngày đêm, chủ yếu của 17 doanh nghiệp chế biến thủy sản. Tất cả nước thải của các doanh nghiệp này đều được ký hợp đồng với Công ty hạ tầng KCN để đấu nối thu gom về trạm xử lý. Tuy nhiên, quá trình xử lý của nhà máy chưa vượt công suất thiết kế nhưng đã gây ô nhiễm đặc biệt là mùi làm cho nhân dân trong khu vực bút xúc, tập trung đông người, làm mất an ninh trật tư; khiếu nại đến các cấp chính quyền; nguyên nhân là công nghệ xử lý, quy trình vận hành xử lý chưa đảm bảo; hiện tại Công ty hạ tầng KCN Quảng Phú xử lý khắc phục tạm thời để ổn định trấn an người dân bằng quy trình xử lý (tăng hàm lượng hóa chất), còn về lâu dài hiện vẫn chưa có phương án xử lý.
KCN Tịnh Phong đang triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải bằng nguồn ngân sách; các doanh nghiệp tại KCN này tự xử lý theo cảm kết kế hoạch bảo vệ môi trường hoặc đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường đã được cơ quan chức năng phê duyệt trước khi thải ra môi trường. Như vậy, cho thấy hạ tầng KCN này chưa đồng bô, theo quy định thì KCN tỷ lệ lập đầy 60% phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, thực tế KCN này đã lấp đầy 82%; trách nhiệm của Công ty hạ tầng chưa thực hiện đầy đủ; nguyên nhân là Công ty hạ tầng KCN chủ sở hữu là UBND tỉnh đầu tư chưa bố trí nguồn kinh phí kịp thời để đầu tư; đồng thời Công ty hạ tầng KCN chưa huy động từ các nguồn khác để đầu tư chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách. Trong những năm đến, lượng chất thải rắn tại các KCN trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng lên theo số lượng doanh nghiệp đầu tư vào các KCN.
2.3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Nội dung chủ yếu QLNN đối với các KCN đã xác định ở chương I, chương này, luận văn tổng quan việc thực hiện QLNN với một số nội dung như sau:
2.3.1. Thực trạng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Nhận thức vai trò quan trọng của công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các KCN dựa trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của quốc gia, của tỉnh, chiến lược phát triển vùng, lãnh thổ, chiến lược phát triển công nghiệp và nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự nhiên và xã hội trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực và lợi thế cạnh tranh của tỉnh Quảng Ngãi với các địa phương khác trong việc phát triển KCN, tỉnh Quảng Ngãi đã tiến hành xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2030 trên địa bàn theo định hướng. Nhìn chung, bước đầu tạo được bước đi phù hợp điều kiện tự nhiên, khả năng nguồn lực của tỉnh, thu hút đầu tư của từng thời kỳ.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi đã đưa ra 02 nội dung chính về mạng lưới vị trí quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành nghề sản phẩm công nghiệp để thu hút đầu tư phát triển các KCN cụ thể như sau:
*Về quy hoạch mạng lưới ngành nghề sản phẩm công nghiệp để thu hút đầu tư vào các KCN:
- Phát triển công nghiệp sạch, ít gây ô nhiễm, các khu công nghiệp tập trung, di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp với quy hoạch vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập Ngoài việc sản phẩm được tiêu thụ trong nước, xuất khẩu mà còn là sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho KKT Dung Quất.
- KCN Tịnh Phong diện tích 140,72ha ưu tiên phát triển công nghiệp điện tử – công nghệ thông tin, cơ khí, sản xuất ôtô, công nghiệp vật liệu mới, vật liệu xây dựng, dệt may, da giày.
- KNC Phổ Phong diện tích 157,387ha ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu địa phươn, chế biến nông, lâm, thủy sản công nghệ hiện đại với nguyên liệu đầu vào từ vùng phát triển nông nghiệp thuộc các huyện phía Nam tỉnh Quảng Ngãi, phát triển công nghiệp hỗ trợ (dệt may, da giày, cơ khí chế tạo, điện tử, sản xuất và lắp ráp ôtô,..).
- KCN Đồng Dinh diện tích 150ha ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu địa phương, chế biến nông, lâm nghiệp với nguyên liệu đầu vào từ vùng phát triển nông nghiệp thuộc các huyện phía Tây tỉnh Quảng Ngãi chủ lực, công nghiệp sinh học phục vụ nông nghiệp, dệt may…
- KCN Quảng Phú diện tích 92,17ha ưu tiên phát triển công nghiệp thực phẩm (xem phần phụ lục: Bảng 2.6: Danh mục ngành nghề theo chiến lược phát triển của tỉnh Quảng Ngãi). ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Tuy nhiên, về quy hoạch bố trí ngành nghề, đến nay chưa có KCN nào được xây dựng theo mô hình KCN chuyên ngành (máy móc, điện tử) đồng bộ, hiện đại. Ưu điểm của KCN chuyên ngành là các Công ty có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, các sản phẩm có thể cung cấp trao đổi với nhau.
*Về mạng lưới vị trí quy hoạch xây dựng các KCN
Cho đến nay, tỉnh Quảng Ngãi đã thực hiện tương đối tốt công tác quy hoạch và phối hợp hợp xây dựng quy hoạch, điển hình là:
- Thông qua chương trình Quy hoạch ngành: Quy hoạch tổng thể phát triển KCN tỉnh Quảng Ngãi năm 2010 đến năm 2020, tầm nhìn đến năm Xây dựng các báo cáo định kỳ và đột xuất liên quan đến quy hoạch KCN theo chỉ đạo của Chính phủ; Báo cáo rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN theo Chỉ thị 07 của Thủ tướng Chính phủ;
- Phối hợp làm việc với đơn vị kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,…tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch các KCN phù hợp với quy hoạch chung và quy hoạch phân khu; tham gia công tác quy hoạch các KCN trong Đề án phát triển công nghiệp;
- Tiến hành kiểm tra và hướng dẫn doanh nghiệp trong các KCN hoàn thiện các thủ tục đảm bảo công tác quản lý về quy hoạch và xây dựng được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Hướng dẫn, tiếp nhận và giải quyết các hồ sơ trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng của các doanh nghiệp thứ cấp đầu tư xây dựng tại các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Quy hoạch phân bố các KCN công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi Phía Bắc KCN Tịnh Phong, phía Nam KCN Phổ Phong, phía Tây KCN Đồng Dinh, trong TP Quảng Ngãi KCN Quảng Phú, hiện nay chủ yếu bám theo các trục quốc lộ trọng yếu như:
Dọc theo quốc lộ 1 có KCN Tịnh Phong, nằm ở phía Nam có KCN Phổ Phong giáp với quốc lộ 24, KCN Đồng Dinh, KCN Quảng Phú gần hệ thống ga xe lửa, ở đây có các cảng nước sâu Dung Quất, đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi thuận tiện cho các phương tiện vận tải đường thuỷ, đường bộ hoạt động. Về đường hàng không, KCN chỉ cách sân bay Chu Lai khoảng 30km; với mạng lưới giao thông này, việc cung ứng nguyên vật liệu và vận chuyển hàng hoá xuất khẩu rất tiện lợi và nhanh chóng.
Tuy nhiên, việc phân bố và quy hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa thực sự hợp lý, một số KCN điển hình như:
KCN Quảng Phú nằm trong thành phố, quy hoạch KCN này thiếu sự đồng bộ, hàng rào KCN không tách rời khỏi khu dân cư mà vẫn bị lẫn với đường đi lại của dân cư xung quanh. Hoạt động của KCN ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân cư, nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường.
Khu công nghiệp Tịnh Phong khi xây dựng quy hoạch không tính hết đến các yếu tố liên quan đến công tác bảo vệ môi trường nên đến nay vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường KCN và dân cư vùng lân cận.
Khu công nghiệp Phổ Phong, do không huy động được nguồn vốn đầu tư hạ tầng KCN nên hiện tại hệ thống hạ tầng bên trong KCN chưa được đầu tư, gây khó khăn cho một số nhà đầu tư đăng ký đầu tư vào KCN này.
2.3.2. Ban hành và thực thi pháp luật có liên quan đối với hoạt động phát triển các Khu công nghiệp ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Văn bản QPPL là cơ sở, công cụ pháp lý để QLNN có hiệu quả. Các văn bản QPPL phù hợp với thực tiễn, phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, phù hợp với nền kinh tế thị trường thì sẽ tạo điều kiện thúc đẩy và mở đường cho kinh tế – xã hội phát triển. Ngược lại, nếu VBQPPL ban hành không phù hợp thực tiễn, quy luật khách quan, điều ước quốc, nền kinh tế thị trường,… sẽ kìm hãm sự phát triển KT-XH của quốc gia nói chung, của một địa phương hoặc một lĩnh vực nói riềng.
Trong thời gian qua Nhà nước đã xây dựng ban hành nhiều VBQPPL có liên quan đến lĩnh vực phát triển công nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy các KCN phát triển, có tác dụng rõ rệt trong công tác quản lý, thu hút đầu tư, huy động các nguồn lực, phân cấp thuận lợi cho chính quyền địa phương chủ động trong quả lý hoạt động các KCN, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư xây dựng dự án và hoạt động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cụ thể là VBQPPL liên quan về QLNN đối với KCN.
- Nghị định 36/1997/NĐ-CP ngày 24/4/1997 ban hành về quy chế KCN, KCX, KCNC. Nghị định này được ban hành nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động việc hình thành, xây dựng, phát triển Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao đã quy định một cách khá chi tiết về trình tự, thủ tục cũng như thẩm quyền quyết định thành lập một KCN; đối tượng đầu tư vào KCN; quyền và nghĩa vụ doanh nghiệp KCN cũng như doanh nghiệp phát triển hạ tầng; các vấn đề liên quan đến người lao động; các vấn đề liên quan đến người lao động; quản lý tài chính và ngoại hối,…Đồng thời, quy chế cũng đã quy định nhiều chính sách khuyến khích đầu tư thông thoáng giảm dần sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo khung pháp lý thuận lợi hơn cho đầu tư hạ tầng KCN, đầu tư phát triển sản xất kinh doanh trong KCN.
- Luật Đầu tư 2005 thay thế cho Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước; Luật Doanh nghiệp 2005 thay thế cho Luật Doanh nghiệp nhà nước ra đời, đánh dấu mốc quan trọng tiến tới mặt bằng pháp lý chung giữa đầu tư trong và ngoài nước. Luật Đầu tư có hiệu lực, theo đó, các ưu đãi về thuế được sữa đổi theo hướng quy định KCN là địa bàn ưu đãi đầu tư, dự án đầu tư trong KCN là dự án thuộc danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng chính sách ưu đãi áp dụng đối với địa bàn và lĩnh vực phù hợp với quy định của Luật Đầu tư.
- Ngày 22 tháng 6 năm 2006, Chình phủ đã ban hành Nghị định 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Nghị định này quy đinh một số vấn đề liên quan đến đầu tư về Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP đã phân cấp mạnh công tác quản lý đầu tư vào các KCN cho các địa phương, theo đó, Ban quản lý thực hiện chức năng QLNN một cách toàn diện trên lĩnh vực đầu tư trong nước và nước ngoài đối với KCN (từ khâu hướng dẫn, tiếp nhận, thẩm tra, cấp giấy chứng nhận đầu tư đến khâu theo dõi, hỗ trợ, kiểm tra, thanh tra mà không bị giới hạn bởi quy mô vốn hoặc tính chất của dự án như trước). Tuy nhiên, một số vấn đề khác như: nội dung, quyền hạn, trách nhiệm QLNN đối với các KCN, KCX, KKT, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến Ban quản lý các KCN, KCX, KKT chưa có quy định điều chỉnh. Bên cạnh đó, một số vấn đề liên quan đến ưu đãi đầu tư, thủ tục đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng kinh doanh và kết cấu hạ tầng KCN chưa được quy đinh cụ thể thống nhất; thủ tục đầu tư thành lập KCN đã có trong quy hoạch chưa được quy định rõ ràng. Do vậy, quá trình triển khai đã xuất hiện những bất cập. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
- Nhằm khắc phục những bất cập trên, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của nhà đầu tư vào KCN, Chính phũ đã ban hành Nghị đinh 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế. Nghị định đã quy đinh rõ trình tự, thủ tục thành lập, mở rộng KCN theo tinh thần đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương. Thống nhất cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư, xóa bỏ mọi phân biệt đối xử, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng và sân chơi bình đẳng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài trong việc đầu xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng, đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ trong Tăng quyền tự chủ về đầu tư kinh doanh cho công ty phát triển hạ tầng, mở rộng phương thức huy động các nguồn vốn, phương thức tham gia của các doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh công trình hạ tầng kỹ thuật, hình thức đầu tư và hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng KCN. Khuyến khích, hỗ trợ đầu tư và yêu cần gắn kết chặt chẽ giữa phát triển KCN với bảo vệ môi trường, phát triển bến vững và đồng bộ với việc xây dựng khu đô thị, khu dân cư, nhà ở cho công nhân, công trình dịch vị công cộng…Nghị định 29/2008/NĐ-CP ra đời tạo điều kiện pháp lý quan trọng trong việc thực hiện chương trình cải cách hành chính, hoàn thiện và chuẩn hóa mô hình tổ chức và hoạt động của Ban quản lý, thực sự tạo ra cơ chế một cửa, tại chỗ tại Ban quản lý. Điều này đã hỗ trợ tích cực cho các nhà đầu tư trong quá trình triển khai, thực hiện dự án tại các KCN và rút ngắn đáng kể thời gian thực hiện các thủ tục hành chính để từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các KCN.
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, điều chỉnh chính sách ưu đãi về tài chính đối với KCN, theo đó, quy định mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp được áp dụng chung đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, các dự án đầu tư mới trong KCN và các dự án đầu tư mở rộng trong KCN sẽ không được hưởng ưu đãi về thuế suất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Luật số 32/2013/QH13 sữa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014; Nghị đinh số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, trong đó: Điều chỉnh giảm mức thuế suất phổ thông từ mức 25% xuống mức 22% kể từ ngày 01/01/2014 và xuống mức 20% kể từ ngày 01/01/2016. Riêng đối với doanh nghiệp có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất 20% kể từ ngày 01/7/2013.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định 164/2013/NĐ-CP hoàn thiện thêm một bước khung pháp lý liên quan đến hoạt động của các KCN, KKT; bổ sung nội dung ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào KCN, KCX tại Luật số 32/2013/QH13 về sữa đổi bổ sung một số điều luật của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp… Cụ thể là: các dự án đầu tư vào KCN được miễn thuế 2 năm, giảm 50% trong 4 năm tiếp theo kể từ khi có thu nhập chịu thuế (ngoài ưu đãi theo lĩnh vực, địa bàn) trừ các KCN tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội thuận lợi. Ưu đãi đầu tư được căn cứ theo dự án đầu tư, thống nhất với quy định của Luật Đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước trong việc xác định thuế Bên cạc đó, Luật cũng đã bổ sung ưu đãi đối với đầu tư mở rộng, nếu đáp ứng các tiêu chí về quy mô vốn đầu tư thì được chọn hưởng ưu đãi thuế theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có) hoặc được miễn giảm thuế đối với phần thu thập tăng thêm do đầu tư mở rộng.
- Quyết định số 74/2013/QĐ-TTg ngày 5/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành quy chế thí điểm chuyển đổi Công ty phát triển hạ tầng KCN hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu thành công ty TNHH một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu. Quyết định được ban hành là cơ sở, căn cứ để tiến hành chuyển đổi góp phần khắc phục những hạn chế của mô hình đơn vị sự nghiệp có thu, phát huy mọi khả năng của công ty phát triển hạ tầng KCN trong việc thưc hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật; đồng thời, giảm dần sự phụ thuộc vào vốn nhà nước trong đầu tư xây dựng hạ tầng các KCN tại các địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và tiến hành đa dạng hóa sở hữu ở những công ty này. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hoạt động của các KCN, KKT; Nhà nước đã ban hành các VBQPPL như: Luật đầu tư năm 2014, Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015, Nghị định số 114/2015/NĐ-CP ngày 9/11/2015, Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 có hiệu lực từ ngày 10/7/2018 thay thế các Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008, Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013, Nghị định số 114/2015/NĐ-CP ngày 9/11/2015 và pháp luật chuyên ngành về đất đai, thương mại, lao động, xây dựng, thuế và một số pháp luật khác có liên quan và rất nhiều văn bản Luật khác do trung ương ban hành nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về khu công nghiệp đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp trong quá trình công hóa hiện đại hóa đất nước.
Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành ban hành một số Luật, Nghị định và các văn bản liên quan đến hoạt động của các KCN theo hướng ngày càng hoàn thiện, minh bạch, cụ thể và tính khả thi cao, đã tạo điều kiện để quản lý hoạt động các KCN hiệu quả hơn, giúp hoàn thiện hệ thống bộ máy quản lý KCN. Có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút đầu tư vào các KCN, KKT nói riêng và cả nước nói chung.
2.3.3. Ban hành và thực thi chính sách có liên quan đến sự phát triển các Khu công nghiệp
Chính sách là một trong những công cụ để Nhà nước quản lý các mặt của đời sống xã hội; căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh, đã ban hành một số cơ chế đặc thù nhằm quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào các KCN trên địa bàn, cụ thể hóa và ban hành thêm các cơ chế ưu đãi cả về hành chính, tài chính và hỗ trợ phát triển hạ tầng ngoài hàng rào KCN thông qua việc ban hành các Quyết định, Quy chế cho từng trường hợp cụ thể như:
- Ban hành các văn bản quy định một số chính sách hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, ban hành điều lệ KCN. Quy định và hướng dẫn việc hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý hoạt động của các KCN Quảng Ngãi
- Xây dựng và áp dụng một số biện pháp ưu đãi kinh tế xuất phát từ lợi ích của nước nhà và lợi ích lâu dài của nhà đầu tư, bao gồm: (1) Hỗ trợ về tài chính như vay vốn ưu đãi, thuê đất; (2) Hỗ trợ doanh nghiệp một phần tiền thuê đất; (3) Hỗ trợ xây dựng hạ tầng trong KCN bao gồm hỗ trợ việc đền bù giải phóng mặt bằng… để giảm giá cho thuê lại đất có hạ tầng; (4) Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; (5) Hỗ trợ chi phí quảng cáo, tiếp thị, vận động xúc tiến đầu tư; (6) Hỗ trợ các doanh nghiệp di dời vào KCN để chỉnh trang đô thị, bảo vệ môi trường….
Trên cơ sở chính sách của Trung ương như Luật đầu tư ngày 29/11/2005, Luật doanh nghiệp ngày 29/11/2005, Luật đất đai số 13/2003/QH11, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12; Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 14/12/2008, Nghị định số 29/2008/NĐ- CP ngày 14/3/2008, Nghị định 108/2006/NĐ- CP ngày 22/9/2006, Nghị định 101/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 28/1/2006,.. UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành Quyết định số 16/2012/QĐ- UBND ngày 29 tháng 6 năm 2012 ban hành Điều lệ KCN Tịnh Phong và KCN Quảng Phú. Điều lệ này được xây dựng trên căn cứ pháp lý:
Những văn bản trên làm nhiều quy định trong Điều lệ nhưng đã trở thành lạc hậu, trái với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành hoặc có những hành vi mới phát sinh mà Điều lệ chưa bao quát, điều chỉnh được.
Hiện nay, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành một hệ thống các chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển các KCN.
- Chính sách giải phóng mặt bằng ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Trong quá trình phát triển đất nước theo hướng CNH, HĐH, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công công và phát triển kinh tế xã hội là một quá trình tất yếu, trong đó vấn đề thu hồi đất để xây dựng các KCN có tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Để bù đắp cho người dân bị thu hồi đất một phần thiệt thòi. Nhà nước quan tâm đến đời sống của người có đất thu hồi thông qua cơ chế bồi thường bằng đất, bằng tiền, bằng nhà, quy định ổn định đời sống nơi tái định cư; nâng mức bồi thường đất ở, đất nông nghiệp, chú trọng đào tạo chuyển đổi ngành nghề cho người dân, ưu tiên gia đình nông dân có đất thu hồi thì con cháu của họ được vào làm việc tại các doanh nghiệp trong KCN,…
Về chính sách giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để phát triển công nghiệp, Trung ương ban hành một số chính sách áp dụng cho từng thời kỳ, giai đoạn cụ thể để phù hợp với thực tiến, và định hướng phát triển. Luận văn chỉ đề cập chính sách giải phóng mặt bằng khi Luật đất đai ngày 26/9/2013 có hiệu lực, trên cơ sở quy định của Trung ương (xem phần phụ lục: Các chính sách của trung ương về GPMB), tỉnh Quảng Ngãi quy định mức giá, vị trí, hệ số đất áp dụng cho đền bù, giải phóng mặt bằng và một số chính sách liên đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng phát triển trên toàn tỉnh nói chung và các KCN, KKT Dung Quất nói riêng. Cụ thể tại văn bản (xem phần phụ lục: Các chính sách của tỉnh Quảng Ngãi về GPMB). UBND tỉnh đã chỉ đạo hệ thống chính trị tập trung công tác giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án đầu tư trên toàn tỉnh nói chung, KCN nói riêng để các nhà đầu tư thực hiện dự án đúng tiến độ. Bên cạnh đó các chính sách rất quan tâm đến vấn đề tái định cư, tạo công ăn việc làm mới cho người dân bị thu hồi đất.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện những văn bản này vẫn còn một số bất cập như: các chính sách còn mang nặng tính cưởng chế trong huy động đất cho phát triển KCN. Buộc người có đất phải hy sinh lợi ích cá nhân, đặt lợi ích xã hội lên hết, Nhà nước sẵn sàn cưỡng chế giải tỏa; các thủ tục thu hồi đất, lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phê duyệt phức tạp, ở mỗi khâu có nhiều cơ quan ban ngành tham gia. Điều này ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng bàn giao cho các chủ đầu tư dự án để phát triển các KCN thường diễn ra chậm, kéo dài.
- Chính sách quy hoạch
Trên cơ sở Quy hoạch của Chính phủ, Bộ ngành (xem phần phụ lục: Các chính sách của trung ương về quy hoạch), tỉnh Quảng Ngãi cụ thể hóa một số Nghị quyết của Tỉnh ủy, Nghị quyết của HĐND tỉnh, UBND ban hành nhiều chính sách liên quan đến công tác Quy hoạch phát triển các KCN trên địa bàn như phê duyệt đề án đẩy mạnh phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020; điều chỉnh bổ sung quy hoạch chi tiết xây dựng các KCN: Tịnh Phong, Quảng Phú, Phổ Phong cho phù hợp với thực tiễn .(xem phần phụ lục: Các chính sách của tỉnh Quảng Ngãi về quy hoạch). ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Nhìn chung các chính sách về quy hoạch đã phần nào xác định được mục tiêu phát triển các KCN mà Nhà nước cần đạt tới, qua đó đưa ra các giải pháp để triển khai, thực hiện nhằm đảm bảo các KCN phát triển theo quy hoạch, định hướng phát triển. Tuy nhiện, thực tế cho thấy, trong thời gian qua, công tác quy hoạch các KCN luôn đi chậm so với yêu cầu thực tiễn, làm cho quy hoạch còn mang tính hình thức, mà không mang tính định hướng, KCN xen lẫn giữa khu dân cư, không quy hoạch đồng bộ các công trình xã hội phục vụ KCN, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các KCN nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
- Chính sách khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ, thu hút đầu tư
Việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặt biệt là thu hút đầu tư vào các KCN, KCX, KKT có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển các KCN nói riêng và nền kinh tế nói chung. Để đạt được mục tiêu này, Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư nói chung (xem phần Phụ lục : Các chính sách của Trung ương về khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ, thu hút đầu tư). Trên cơ sở đó UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Cụ thể là: hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN, đào tạo lao động, công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung KCN, giá cho thuê đất, công tác vận động xúc tiến đầu tư, chi phí thành lập danh nghiệp và quảng cáo sản phẩm, thủ tục hành chính,..(xem phần Phụ lục : Các chính sách của Trung ương về khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ, thu hút đầu tư). Do vậy, Ban Quản lý trong quá trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án không theo Cụm công nghiệp phân lô. Bởi vì, do hạ tầng không đồng bộ, đầu tư theo hình thức “cuốn chiếu“, đầu tư đến đâu kêu gọi các dự án đến đó; các dự án đầu tư vào KCN chủ yếu là trong nước, nước ngoài có quy mô nhỏ và vừa, dẫn đến phải điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với thực tiễn.
Nhìn chung hệ thống các chính sách là một kênh quan trọng để tỉnh Quảng Ngãi thực hiện tốt công tác quản lý đối với các KCN. Từ đó sẽ hình thành nên nhiều chính sách mới có tác dụng tích cực hỗ trợ sự phát triển mạnh mẽ của các KCN trên địa bàn tỉnh. Thực tế đã chứng minh bằng kết quả hoạt động của các KCN kết quả hoạt động của các KCN trong thời gian quan, nhất là sự thông thoáng trong cơ chế chính sách và sự đơn giản hóa gọn nhẹ trong các thủ tục đầu tư vào tỉnh Quảng nói chung và các KCN nói riêng.
2.3.4. Thực trạng công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động của các Khu công nghiệp Quảng Ngãi.
Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động và giải quyết khiếu nại tố cáo là vấn đề không thể thiếu trong quản lý Nhà nước đối với các KCN. Các KCN được đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và cụ thể là các Ban Quản lý thuộc UBND tỉnh. Do đó công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động và giải quyết khếu nại, tố cáo là hoạt động quan trọng. Các KCN hoạt động tốt hay không là cũng phụ thuộc một phần vào công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động. Tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/3/2008 có quy định Ban Quản lấp cấp I mới được thành lập Bộ phận thanh tra trực thuộc Ban quản lý các KCN, thực hiện việc thanh tra toàn diện đối với các hoạt động của các Khu công nghiệp, đây là một bước đột phát đáng kể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp. Tuy nhiên, đối với Ban Quản lý các KCN trước đây nay là Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi hiện nay không đảm bảo điều kiện để thành lập Bộ phận thanh tra KCN. Vì vậy, để thực hiện chức năng này, Thanh tra Ban Quản lý chỉ phối hợp với Thanh tra chuyên ngành của các Sở, ngành liên quan thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra các hoạt động của các KCN nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN, kiểm soát và xử lý các vi phạm của doanh nghiệp trong việc thực hiện quy định của pháp luật của nhà nước và quy chế KCN. Chính vì vậy, mặc dù UBND tỉnh đã ban hành Quyết định quy định quy chế thanh tra, kiểm tra nhưng các đơn vị vẫn không thông qua một đầu mối là Ban Quản lý mà thực hiện việc thanh tra chồng chéo, theo kế hoạch của đơn vị, gây mất thời gian cho doanh nghiệp KCN. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Hiện tại, công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động của KCN đã thực hiện dưới hình thức phối hợp, cụ thể sau:
- Tiếp nhận các đơn khiếu nại tố cáo có liên quan tới các hoạt động SXKD trong KCN. Từ năm 2015 đến năm 2017, Ban Quản lý đã tiếp nhận và giải quyết 16 đơn đề nghị giải quyết, kiến nghị phản ánh liên quan đến doanh nghiệp SXKD gây ô nhiễm môi trường trong KCN Tịnh Phong và Quảng Phú; tranh chấp lao động trong KCN Quảng Phú, BTGP mặt bằng tại KCN Tịnh Phong.
- Phối hợp với các sở, ngành liên quan thực hiện công tác kiểm tra giám sát việc chấp hành pháp luật về các lĩnh vực đầu tư xây dựng, tài nguyên – môi trường, phòng chống cháy nổ, vệ sinh, an toàn lao động, pháp luật về lao động để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả. Trong năm 2015, Ban Quản lý đã phối hợp kiểm tra việc kiểm tra sau cấp phép xây dựng cho 20 doanh nghiệp tại các KCN Tịnh Phong và Quảng Phú.
- Triển khai tập huấn tại BQL về Luật Tố tụng hành chính, Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo; kiện toàn thành viên Tổ tiếp công dân BQL các KCN, Rà soát, hoàn thiện các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của BQL với 60 bộ thủ tục hành chính (áp dụng cho KKT Dung Quất và các KCN). Đến tháng 12/2017, sau khi tiến hành kiểm tra và rà soát các dự án tại các KCN, Ban Quản lý đã tiến hành thu hồi 54 dự án chậm tiến độ, gia hạn, điều chỉnh dự án, thu hồi một phần diện tích của dự án để mời gọi các dự án đầu tư mới phù hợp.
Tuy nhiên hoạt động thanh tra, kiểm tra các KCN thời gian qua cũng gặp không ít hạn chế do bị giới hạn do sự chồng chéo giữa các văn bản Luật và không có chế tài xử lý vi phạm. Nên chức năng thanh tra của Ban Quản lý chỉ ở mức độ là cơ quan phối hợp, chưa có thẩm quyền quyết định các hình thức xử phạt, thanh kiểm tra.
2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp Quảng Ngãi ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
–Quan hệ trực thuộc tổ chức và quản lý trực tiếp:
-Quan hệ phối hợp của các cơ quan:
-Quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn quản lý Nhà nước:
Bộ máy quản lý nhà nước đối với KCN Quảng Ngãi được thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương thông qua cơ chế phân cấp uỷ quyền để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN.
Các cơ quan quản lý nhà nước Trung ương: Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương tham gia vào quá trình quản lý nhà nước đối với KCN thông qua các công cụ quản lý chủ yếu như: xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính sách; hướng dẫn quy trình, nghiệp vụ đối với Ban quản lý các KCN;
– Các cơ quan quản lý nhà nước địa phương:
UBND tỉnh Quảng Ngãi, là cơ quan chủ quản của Ban Quản lý các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, chịu trách nhiệm quản lý và giải quyết các vướng mắc thuộc thẩm quyền đối với các KCN trên địa bàn; Sở KH&ĐT tỉnh, là cơ quan phối hợp thực hiện việc hình thành và phát triển các KCN tỉnh; BQL các KCN Quảng Ngãi là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước các KCN, có nhiệm vụ báo cáo định kỳ và hàng năm theo quy định của pháp luật về tình hình: Hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý nhà nước các KCN về UBND tỉnh, Vụ Quản lý KCN và KCX – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan trực thuộc Chính phủ có liên quan.
Ban quản lý các KCN Quảng Ngãi được thành lập theo Quyết định số 830/TTg ngày 07/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ, là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước các KCN theo cơ chế “Một cửa”.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản lý các KCN Quảng Ngãi được xác định theo quy định tại Nghị định 29/2008/NĐ-CP (chương 5) ngày 14/03/2008 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao, Nghị định 164/2013/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế; Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND ngày 01/3/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi, như sau:
+ Chức năng: Ban quản lý là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ngãi thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”; vận động xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp; phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
+ Nhiệm vụ, quyền hạn: Chủ trì tổ chức thẩm định và phê duyệt thiết kế cơ sở, thiết kế bản vẽ thi công đối với những dự án đầu tư vào các khu công nghiệp; Cấp chứng chỉ quy hoạch, Giấy phép xây dựng đối với các công trình xây dựng trong KCN. Điều chỉnh quy hoạch chi tiết KCN theo uỷ quyền của Bộ Xây dựng.
- Kiểm tra việc xây dựng các KCN theo dự án và quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt; phối hợp với Sở Xây dựng quản lý nhà nước về chất lượng các công trình xây dựng trong
- Báo cáo và đề xuất phương án xử lý với cơ quan có thẩm quyền các trường hợp không thực hiện đúng Dự án hoặc quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt.
- Xây dựng điều lệ KCN trên cơ sở điều lệ mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành để trình UBND Thành phố phê duyệt; tổ chức hướng dẫn thực hiện Điều lệ
- Cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các dự án đầu tư trong nước không sử dụng vốn ngân sách, chủ trì phối hợp với các Ngành liên quan thẩm định trình UBND tỉnh quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách vào các KCN (nhóm B,C); cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư nước ngoài và các giấy phép, chứng chỉ thuộc thẩm quyền hoặc theo uỷ quyền.
- Kiểm tra việc thực hiện giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đầu tư và phối hợp với các cơ quan QLNN trong việc kiểm tra, thanh tra việc chấp hành luật của các doanh nghiệp KCN, doanh nghiệp phát triển hạ tầng
- Quản lý các hoạt động dịch vụ trong Là đầu mối phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của các KCN.
- Xây dựng kế hoạch vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN trình UBND Thành phố phê duyệt và thực hiện.
- Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu các khu công nghiệp trên địa bàn trình tỉnh Quảng Ngãi.
- Báo cáo định kỳ và hàng năm về tình hình hoạt động, xây dựng, đầu tư, phát triển và quản lý nhà nước các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định.
Thực hiện quản lý nhà nước về lao động đối với các doanh nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp hoặc Khu chế xuất. Bộ máy tổ chức của Ban gồm có: 1 Trưởng ban có, 3 Phó Trưởng ban và 06 phòng ban chuyên môn.
Tuy nhiên, thực hiện Quyết định số 1915/QĐ-TTg ngày 04/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi trên cơ sở hợp nhất Ban Quản lý KKT Dung Quất và Ban Quản lý các KCN Quảng Ngãi; Ngày 12/12/2016, UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 63/2016/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng Ngãi. Theo đó, chức năng quản lý Nhà nước của Ban Quản lý mới đối với KCN Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên và cơ cấu tổ chức được tổ chức lại theo Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 03 tháng 09 năm 2015, cụ thể gồm có: 1 Trưởng ban có, 3 Phó Trưởng ban và 08 phòng ban chuyên môn và 03 đơn vị sự nghiệp. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Ban quản lý các KKT Dung Quất và KCN Quảng Ngãi là cơ quan quản lý trực tiếp KKT Dung Quất và các KCN ngoài KKT Dung Quất, trực tiếp giải quyết các vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền và là đầu mối phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước khác giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền. Các Bộ, Ngành trung ương tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các vấn đề thuộc ngành và ủy quyền cho Ban quản lý trong việc giải quyết một số vấn đề liên quan đến hoạt động của KKT và các KCN. Về cơ bản, cơ chế “ủy quyền”, “phân quyền” đã phát huy tác động tích cực, Ban quản lý các đã được trao nhiều quyền hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước các KCN, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư nên đã tạo được niềm tin của nhà đầu tư vào chính sách của nước ta nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng
2.3.6. Thực trạng công tác thu hút và quản lý đầu tư vào các Khu công nghiệp tại Quảng Ngãi.
Tính đến hết 31/12/2017, các KCN tỉnh Quảng Ngãi đã thu hút được 98 dự án (kể cả 07 FDI, vốn đăng ký 67,75 triệu USD) với tổng số vốn đăng ký là 6.941 tỷ đồng (xem phần phụ lục: Bảng 2.7: Tình hình thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp Quảng Ngãi tính đến 31/12/2017), bên cạnh việc tiến hành cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp thì hoạt động quản lý sau đầu tư cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Thời gian qua, Ban Quản lý đã thực hiện khá tốt vai trò quản lý về đầu tư, công tác hậu kiểm các dự án sau cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Đã tiến hành đôn đốc, rà soát các dự án ngừng hoạt động SXKD, dự án chưa xây dựng, dự án đang thực hiện đầu tư và chậm tiến độ để theo dõi. Đến nay đã rà soát, kiểm tra tiến độ đầu tư trên 90 dự án và theo thống kê giai đoạn 2005-2017, Ban Quản lý đã thu hồi 54 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 1.500 tỷ đồng, đã mời gọi đầu tư lấp đầy vị trí đã thu hồi.
Nhìn chung, đến nay các dự án đăng ký đầu tư vào các KCN cơ bản triển khai đúng nội dung đăng ký đầu tư. Tiến độ và tỷ lệ giải ngân các dự án FDI trong các KCN Quảng Ngãi đạt tỷ lệ rất cao khoảng 62%. Tuy nhiên tỷ lệ các dự án gia công, lắp ráp còn nhiều, số lượng dự án có trình độ công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng 10% tổng số dự án đầu tư vào KCN. Sự có mặt của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN đã góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, mặt khác sự phát triển của các KCN Quảng Ngãi đã có tác động lan tỏa và ảnh hưởng tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu của tỉnh Quảng Ngãi, của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Bên cạnh những thành tựu trên, UBND tỉnh đã tích cực triển khai nhiều hoạt động nhằm tăng cường hỗ trợ và xúc tiến đầu tư như: ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
- Xây dựng và ban hành kế hoạch hoạt động xúc tiến đầu tư và dịch vụ thông tin doanh nghiệp qua các giai đoạn.
- Tăng cường tuyên truyền quảng bá, giới thiệu và cưng cấp thông tin về môi trường đầu tư, tiềm năng và cơ hội đầu tư vào các KCN tỉnh Quảng Ngãi.
- Định kỳ, Ban Quản lý thường xuyên tổ chức hội nghị giao ban công tác xúc tiến đầu tư và dịch vụ – thông tin doanh nghiệp với doanh nghiệp;
- Ban Quản lý cũng thường xuyên tham gia các hoạt động về thông tin của Cục Đầu tư nước ngoài, Vụ Tài chính Tiền tệ, Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; cập nhật cơ sở dữ liệu thông tin doanh nghiệp tại các KCN tỉnh Quảng Ngãi;
- Với mục đích nâng cao trình độ cho cán bộ, Ban Quản lý cũng đã cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo ngắn ngày về kỹ năng xúc tiến đầu tư giải quyết tranh chấp về thương mại – đầu tư quốc tế, pháp luật và thực thi các cam kết của WTO và ASEAN, công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu
- Trong thời gian vừa qua, Ban Quản lý đã chủ trì tổ chức thực hiện tiếp đón, tiếp xúc với các nhà đầu tư để hỗ trợ tư vấn cho các nhà đầu tư tìm kiếm, lựa chọn cơ hội mở rộng dự án đầu tư và hình thành dự án đầu tư trong đó có hơn 19 lượt nhà đầu tư đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Pháp,…
- Thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư: Căn cứ trên những quy hoạch đã được phê duyệt. Các doanh nghiệp đầu tư mới hoặc đầu tư thứ cấp sau khi hoàn thiện hồ sơ đầu tư sẽ gửi trực tiếp đến Ban Quản lý các KCN Quảng Ngãi xử lý theo thẩm quyền.
- Cũng giống như quy trình thẩm định dự án đầu tư và kinh doanh hạ tầng. Ban Quản lý có trách nhiệm: Tiếp nhận đủ số lượng bộ hồ sơ, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ theo, quy trình “một cửa tại chỗ”; thực hiện hoặc phối hợp với các Sở ngành của tỉnh để thực hiện thẩm định hồ sơ đầu tư theo đúng qui định, cấp Giấy chứng nhận đầu tư hoặc chủ trương đầu tư, xin chủ trường đầu tư tùy theo tính chất, mục tiêu, quy mô dự án đăng ký đầu tư.
*Về quản lý hoạt động của khu công nghiệp và của doanh nghiệp
Quản lý doanh nghiệp: Các phòng chức năng của Ban quản lý các KCN thường xuyên, đôn đốc, kiểm tra tại các doanh nghiệp; trực tiếp tổ chức Hội nghị đối thoại doanh nghiệp để kịp thời giải đáp thắc mắc, nắm bắt khó khăn và tâm tư, nguyện vọng của các doanh nghiệp từ đó đưa ra những điều chỉnh cho phù hợp. Ban Quản lý đã phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư và các các Sở, Ban Ngành khác để cùng làm việc với đơn vị kinh doanh kết cấu hạ tầng và các doanh nghiệp thứ cấp tại các KCN để tìm hiểu những vướng mắc của các doanh nghiệp nhằm đưa ra các kiến nghị trình UBND, các Bộ, Ngành, Chính phủ để giải quyết hoặc có các giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Ban Quản lý đã tổ chức các buổi tập huấn phổ biến nội dung chính sách và Nghị quyết số 13/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường cho các doanh nghiệp, phối hợp với Sở Công thương tập huấn cho các doanh nghiệp về sử dụng năng lượng tiết kiệm. Quản lý hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu: Ban Quản lý thường xuyên quản lý chặt chẽ, thúc đẩy hoạt động thương mại – xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong KCN thông qua một số việc làm như:
Tuyên truyền, phố biến chính sách thương mại; tập huấn, hướng dẫn và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc khó khăn của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy hoạt động SXKD, tăng cường xuất khẩu. Theo dõi, giám sát, kiểm tra và đôn đốc doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật trong quá trình triển khai hoạt động xuất nhập khẩu. Triển khai tốt việc kết nối quản lý cấp CO điện tử (ECOSYS) do Bộ Công Thương chủ trì. Hướng dẫn áp dụng cấp CO điện tử tới các doanh nghiệp KCN. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Quản lý về môi trường: Ban Quản lý đã phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các doanh nghiệp trong các KCN; đôn đốc các Công ty hạ tầng KCN và các doanh nghiệp trong các KCN thực hiện quan trắc và báo cáo môi trường; các doanh nghiệp KCN “tăng cường công tác đánh giá tác động môi trường (ĐTM), đề án bảo vệ môi trường”.
Quản lý về lao động: Ban Quản lý đã thực hiện chức năng QLNN về lao động thông qua những nhiệm vụ cụ thể đã và đang triển khai:
Kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định của pháp luật Lao động và các luật liên quan đến vấn đề sử dụng lao động; xem xét, thẩm định xây dựng và đăng ký nội quy lao động; kịp thời chấn chỉnh, yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật lao động. Đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch nguồn nhân lực cho các KCN đến năm 2020; thực hiện xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực trong KCN đến năm 2020, tầm nhìn 2030; trong đó đã đi điều tra gần 80 doanh nghiệp về cầu lao động và nhu cầu đào tạo nghề phục vụ các KCN. Một số các hoạt động mang tính phối hợp khác như cùng thanh tra Sở Lao động – Thương binh xã hội, tổ chức các đoàn kiểm tra, thanh tra tại một số doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động và các doanh nghiệp chưa thực hiện theo đúng quy định của pháp luật lao động.
Những hoạt động trên đã phát huy vai trò tích cực, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tạo môi trường làm việc ổn định cho người lao động. Đồng thời chủ động phòng ngừa và hạn chế đình công, lãng công, ngừng việc tập thể,…
*Về quản lý phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong các Khu công nghiệp trên địa bàn:
Cho đến nay, 02 KCN Tịnh Phong và Quảng Phú đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong KCN, đấu nối với hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào và đã tiến hành cho các nhà đầu tư thứ cấp thuê lại. Riêng KCN Phổ Phong thì vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện hệ thống giao thông nội bộ vì KCN này được đầu tư theo hình thức cuốn chiếu, vừa đầu tư hạ tầng, vừa kêu gọi thu hút đầu tư vào KCN. KCN Đồng Dinh đang trong giai đoạn lập quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000. Cụ thể như sau:
Mạng lưới giao thông: Đến hết 31/12/2017, đã có 02 KCN Tịnh Phong và Quảng Phú đã hoàn chỉnh hệ thống đường giao thông trong KCN, điển hình là KCN Tịnh Phong có hệ thống đường giao thông được quy hoạch và xây dựng đồng bộ, đảm bảo cho nhu cầu hoạt động sản xuất, vận chuyển hàng hóa, chất thải và sinh hoạt.
Cấp điện: Trong các KCN Quảng Ngãi hiện nay chỉ có 01 KCN đã xây dựng trạm biến thế riêng, đó là KCN Tịnh Phong có trạm biến thế điện 100/ 22KV, công suất 50MVA. Còn 02 KCN còn lại đều sử dụng trạm biến thế chung của lưới điện quốc gia và tiến hành đấu nối tới chân hàng rào của doanh nghiệp.
Cấp nước: Hiện nay KCN Tịnh Phong và Quảng Phú đều có hệ thống nước sạch được đấu nối đến chân hàng rào nhà máy. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Hệ thống thoát nước và hệ thống sử lý nước thải: Tính đến năm 2017, chỉ có 01 KCN xây dựng khu xử lý nước thải tập trung là KCN Quảng Phú, công suất 4.500m3/ngày/đêm; KCN Tịnh Phong đang triển khai xây dựng, giai đoạn I công suất 1.000m3/ngày/đêm.
Hạ tầng ngoài hàng rào: Các công trình hạ tầng kỹ thuật trong KCN như hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước…cần phải đấu nối với các công trình hạ tầng bên ngoài KCN. Hạ tầng ngoài hàng rào KCN ngoài đường giao thông, cấp điện, cấp nước… còn có các công trình hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, chợ, nhà ở, khu vui chơi giải trí… vì thế nếu không có sự quan tâm đúng mức đến hạ tầng bên ngoài thì KCN khi đi vào hoạt động sẽ gây nên những tác động phức tạp về mặt xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của KCN. Hậu quả của việc chưa đồng bộ hoá các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN chẵng những gây trở ngại cho các doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động mà còn làm cho các nhà đầu tư e ngại đầu tư vào KCN. Tuy nhiên thực tế hiện nay, công việc này còn gặp nhiều khó khăn do thiếu sự phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, nhiều KCN triển khai xây dựng hạ tầng và thu hút đầu tư nhưng phải mất hàng năm, liên hệ với nhiều cơ quan Nhà nước và đôi khi phải tự bỏ tiền để đầu tư một số công trình ngoài hàng rào và điều đó dẫn đến hạn chế tính hấp dẫn của KCN và lỡ cơ hội thu hút đầu tư.
Như vậy, hiện nay về hạ tầng kỹ thuật-xã hội của các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cho đến nay chỉ được đầu tư có hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào là tương đối hoàn chỉnh, 02 KCN còn lại hạ tầng trong và ngoài hàng rào chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ. Điển hình nhất của sự thiếu đồng bộ đó là KCN Phổ Phong đến nay việc xây dựng cơ sở hạ tầng chưa được đảm bảo, chưa có đường trục chính, hệ thống giao thông bên trong KCN chưa được đầu tư, … vấn đề đặt ra đối với sự không đồng bộ này do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do chưa thu hút được nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn ngân sách nhà nước (xem phần phụ lục: Bảng 2.8. Tổng hợp nguồn vốn đầu tư hạ tầng các Khu công nghiệp Quảng Ngãi giai đoạn 2001-2017).
Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp: Dịch vụ kho vận hải – hải quan: Do quy mô các KCN tương đối nhỏ, khoảng cách không xa nên tại KCN Tịnh Phong đã có Chi cục Hải Quan thực hiện thủ tục hải quan cho các doanh nghiệp KCN Quảng Ngãi.
Dịch vụ tài chính- ngân hàng: Đến nay các hoạt động giao dịch của các doanh nghiệp KCN điều thực hiện tại các trụ sở chính đặt tại thành phố Quảng Ngãi. Chưa có phòng giao dịch tại các KCN.
Hệ thống dịch vụ sinh hoạt: Hầu hết các KCN đều chưa có trạm bưu điện, trạm Internet do vậy rất khó khăn cho người lao động trong KCN khi có nhu cầu thông tin liên lạc. Ngoại trừ KCN Tịnh Phong trước năm 2008 có một đại lý bưu điện tại lô trung tâm của KCN .Các KCN đều chưa quan tâm đến quy hoạch xây dựng hệ thống trường học, nhà trẻ, bệnh viện, chợ, nhà văn hóa, nhà vệ sinh công cộng,… cùng với việc hình thành các KCN để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của người lao động làm việc trong các KCN;
2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua
2.3.1. Kết quả đạt được ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Hơn 20 năm thành lập, hoạt động quản lý nhà nước đối với các KCN Quảng Ngãi đã không ngừng được đổi mới, tăng cường theo hướng ngày càng rõ đầu mối và thực quyền hơn, việc phân cấp quản lý nhà nước bước đầu đã có sự thay đổi về chất nên đã hỗ trợ tích cực cho quá trình hình thành, hoạt động của các doanh nghiệp KCN trên địa bàn. Về cơ bản, cơ chế “phân cấp”, “ủy quyền” đã phát huy tác động tích cực, Ban quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi đã được trao nhiều quyền hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước các KCN, góp phần nâng cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư nên đã lấy lại niềm tin của nhà đầu tư vào chính sách của nước ta.
- Về tính phù hợp, khả thi của chiến lược, quy hoạch kế hoạch quản lý nhà nước các Khu công nghiệp
Ban Quản lý coi trọng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch kế hoạch quản lý nhà nước các KCN. Ban Quản lý đã xác định phát triển KCN là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, phát triển công nghiệp cũng như phát triển nông thôn. Việc quy hoạch và xây dựng các KCN đã tạo ra sự phấn khởi, tin tưởng của các hộ sản xuất, các DN đối với chính sách phát triển kinh tế của tỉnh. Khó khăn lớn nhất là mặt bằng sản xuất cũng dần từng bước được giải quyết với sự hỗ trợ tích cực của chính quyền các địa phương. Các hộ sản xuất đã tích cực chủ động đầu tư phát triển ngành nghề, mở rộng quy mô sản xuất.
Ban Quản lý đã chủ động điều chỉnh quy hoạch cục bộ, chi tiết một số KCN nhằm phù hợp với công năng trong quá trình phát triển của KCN; chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan tham gia giải quyết chồng lấn KCN, tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch các KCN phù hợp với quy hoạch chung và quy hoạch phân khu; tham gia công tác quy hoạch các KCN, quy hoạch phát triển ngành công nghiệp, từ đó tạo điều kiện để các KCN hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng phục vụ công tác thu hút đầu tư. Đặc biệt là việc xử lý nước thải trong KCN là một yếu tố rất quan trọng, nếu làm không tốt sẽ ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn và gây ra khiếu kiện của người dân.
- Về hiệu lực và hiệu quả của công tác chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch và chính sách biện pháp quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp
Bộ máy quản lý nhà nước Ban Quản lý đã tập trung chỉ đạo nhằm phát huy hiệu quả những KCN đang hoạt động, đồng thời xây dựng mới một số khu phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển tổng thể kinh tế – xã hội, đảm bảo sự đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật, các công trình hạ tầng xã hội phục vụ bộ phận dân cư xung quanh KCN, người lao động trong KCN.
- Về thực hiện cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư: ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với một số dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Ban Quản lý đã thực hiện có hiệu quả thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với việc xem xét thẩm tra nhu cầu sử dụng đất, điều kiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Việc áp dụng đồng thời các thủ tục nêu trên đã giúp cắt giảm đáng kể thời gian thực hiện thủ tục hành chính do nhà đầu tư không phải tiến hành lần lượt từng thủ tục liên quan đến việc sử dụng đất như quy định trước đây,…
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế hoạt động quản lý nhà đối với các Khu công nghiệp Quảng Ngãi
* Những hạn chế
Một là, những khó khăn, hạn chế trong quá trình triển khai quy hoạch và phát triển các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
– Công tác quy hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa thực sự phù hợp: Từ việc xác định quy hoạch tổng thể, đến việc hình thành các KCN Quảng Ngãi đã phần nào phản ánh sự bất hợp lý giữa quy hoạch phát triển KCN với quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ và địa phương, chưa tính đến tác động lan tỏa khi KCN hoạt động. Việc bố trí địa điểm xây dựng KCN chú trọng nhiều đến việc lựa chọn vị trí thuận lợi như cạnh các tuyến quốc lộ, ga tàu lửa, gần trục lộ giao thông chính tuy nhiên không tính hết đến khả năng phát triển của đô thị trong tương lai. Nguyên nhân là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển đô thị dài hạn với quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp. Vì thế nên khi đô thị mở rộng, KCN Quảng Phú đã nằm trong phạm vi nội đô, ngay sát khu dân cư tập trung và không phù hợp với chủ trương xây dựng KCN là để di dời các cơ sở công nghiệp ra khỏi nội đô và xa khu dân cư tập trung. Việc phân bố và quy hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa thực sự hợp lý, KCN Quảng Phú thực chất trước đây là một cụm các nhà máy được quy hoạch lại thành KCN do vậy quy hoạch KCN này thiếu sự đồng bộ, hàng rào KCN không tách rời khỏi khu dân cư mà vẫn bị lẫn với đường đi lại của dân cư xung quanh.
Mặt khác, phát triển KCN không đồng bộ với việc đảm bảo các điều kiện cho KCN hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là sự thiếu đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào Khu công nghiệp bao gồm hệ thống giao thông ngoài hàng rào KCN, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống xử lý nước thải…và chưa coi trọng phát triển đồng bộ các công trình hạ tầng xã hội, nhất là xây dựng khu dân cư, nhà ở cho công nhân, trạm y tế, khu vui chơi giải trí do vậy đã gây ra tình trạng quá tải cho khu vực xung quanh nơi đặt KCN.
Việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như xây dựng đường giao thông, hệ thống thoát nước… luôn phụ thuộc vào quy hoạch phát triển của địa phương nên luôn chậm hơn so với tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong KCN. Do vậy đây cũng là nguyên nhân làm hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào chưa đồng bộ. Hiện tại, các KCN chưa tiến hành cung cấp các dịch vụ văn hoá – xã hội và xây dựng khu nhà ở tập trung cho cán bộ, công nhân KCN thuê.
- Khó khăn lớn trong quá trình quy hoạch và xây dựng KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng cho các hộ dân, đơn vị thuộc phạm vi quy hoạch KCN. Những khó khăn này đã dẫn đến tình trạng không có mặt bằng để thi công, kéo dài tiến độ, quá trình đầu tư xây dựng công trình manh mún, làm tăng chi phí đầu tư các hạng mục công trình. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
- Công tác xây dựng và phát triển KCN chỉ tập trung vào xây dựng hạ tầng cơ sở thu hút đầu tư, giải quyết việc làm mà chưa quan tâm đến thiết chế văn hóa cơ sở phục vụ đời sống sinh hoạt của người lao động trong KCN, đặc biệt là các công trình phúc lợi xã hội.
Hai là, Chính sách về quản lý Khu công nghiệp
Trong giai đoạn đầu mới thành lập, những quy định về quản lý KCN chưa hoàn thiện làm cho cơ quan có chức năng quản lý KCN gặp nhiều khó khăn. Từ khi Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về KCN, HCX, KKT được ban hành và Nghị định 164/20…/NĐ-CP ngày ….. đã làm rõ vai trò quản lý Nhà nước của BQL, xác định cơ chế giao quyền và ủy quyền về quản lý KCN và Doanh nghiệp KCN. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai thực hiện nhiệm vụ gặp một số trở ngại do chưa có quy định thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật như việc ủy quyền trên một số lĩnh vực cũng còn nhiều bất cập, Luật đầu tư và Luật bảo vệ môi trường còn chống chéo, về lâu dài cần phải được hoàn thiện để công tác quản lý Nhà nước đối với các KCN đi và khuôn khổ.
Ba là, công tác thu hút và quản lý đầu tư còn một số hạn chế
- Đa số các dự án đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có quy mô nhỏ, và hàm lượng công nghệ không cao. Hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra chậm; mặt dù được làm việc trong các doanh nghiệp nước ngoài được tiếp xúc với kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới, hiện đại nhưng người Việt Nam chưa đảm nhận những vị trí quản lý chuyên môn, vận hành thiết bị và chịu trách nhiệm về kỹ thuật.
- Các danh nghiệp đầu tư không thực hiện hoặc thực hiện chế độ thông tin báo cáo không thường xuyên làm ảnh hưởng lớn đến việc nắm bắt thông tin về các dự án đầu tư của cơ quan Nhà nước.
Bốn là, công tác đào tạo và tuyển dụng lao động
Công tác đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động nói chung và của các doanh nghiệp trong các KCN nói riêng, tính cạnh tranh trong thu hút và giới thiệu việc làm vào các doanh nghiệp chủ yếu là lao động phổ thông có trình độ chuyên môn thấp; chưa có uy tín trong việc thu hút và giới thiệu nguồn chất lượng cao.
Năm là, phân cấp, ủy quyền và chức năng nhiệm vụ của Ban Quản lý Khu công nghiệp, Khu kinh tế.
Việc phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT trong một số lĩnh vực còn chưa thực hiện đầy đủ, nhất quán do có sự không thống nhất với các quy định của pháp luật chuyên nghành, chưa có các bộ ngành hướng dẫn cụ thể hoặc chủ trương phân cấp, ủy quyền chưa được địa phương quán triệt và thực hiện.
Ban Quản lý không có chức năng thanh tra, chỉ phối với các cơ quan chuyên môn để kiểm tra do đó không có chế tài về xử phạt.
Sáu là, công tác bảo vệ môi trường, xử lý nước thải tại các KCN còn nhiều hạn chế. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Tỷ lệ các KCN, doanh nghiệp trong KCN có hệ thống xử lý nước thải, khí thải và chất thải rắn còn thấp so với yêu cầu quản lý về môi trường. Hệ thống văn bản pháp luật, các quy định về kiểm soát và xử lý vấn đề môi trường KCN khá nhiều nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đảm bảo vấn đề môi trường KCN. Vấn đề quản lý môi trường còn lỏng lẻo, việc xử lý chưa nghiêm. Vẫn còn tồn tại một số điểm “nóng” về môi trường tại KCN Quảng Phú về ô nhiễm mùi do hoạt động chế biến thủy sản gây ra.
Bảy là, cải cách thủ tục hành chính tuy đã có bước chuyển biến tích cực, nhưng vẫn chưa thật sự đồng bộ, việc giải quyết các vướng mắc nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cũng chưa tốt. Cơ chế “một cửa, tại chỗ” tuy đã được quan tâm và thực hiện công khai đầy đủ các thủ tục hành chính nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do sự phối hợp chưa đồng bộ giữa bộ phận “một cửa” với các phòng chức năng của Ban quản lý.
* Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân của những tồn tại trong QLNN về các KCN có nhiều.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu:
Một là, công tác quy hoạch phát triển các KCN tuy đã được chú trọng xây dựng để định hướng phát triển, tuy nhiên quy hoạch các KCN vẫn chưa đảm bảo, trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch, giải phóng mặt bằng để phát triển các KCN còn nhiều bất cập.
- Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển các KCN Quảng Ngãi chưa thực sự dựa trên những phân tích, đánh giá đúng đắn về thực trạng kinh tế – xã hội của tỉnh gắn với sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và của cả nước trong từng thời kỳ, chưa tuân thủ các quy luật khách quan trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nên chưa khai thác được lợi thế so sánh của Quảng Ngãi với các địa phương khác;
- Nhà nước chưa thực hiện tốt giữa chính sách giá đất với các chính sách khác nhằm đảm bảo chia sẻ lợi ích giữa người bị thu hồi đất, người lấy đất và Nhà nước. Việc thống nhất đơn giá bồi thường, hỗ trợ, TĐC đối với các hộ dân cũng như tổ chức phải di dơi kéo dài. Quỹ đất bố trí tái dịnh cư hạn chế làm ảnh hưởng đến việc di dời bàn giao mặt bằng. Chính sách khuyến khích tuyên truyền vận động ngươi bị thu hồi đất giao đất còn hạn chế. Bên cạnh đó ý thức chấp hành của một số người dân, hộ gia đình chưa tốt, làm chậm bàn giao mặt bằng. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
- Các chủ đầu tư hạ tầng hạn chế về vốn, năng lực nên tiến độ đầu tư hạ tầng ở các KCN còn chậm. Việc huy động của doanh nghiệp đầu tư hạ tầng còn nhiều khó khăn.
Hai là, chính sách về quản lý các Khu công nghiệp
- Chưa được rà soát, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh thường xuyên, liên tục cho phù hợp thực tiễn. Việc cụ thể hóa và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển KCN còn chậm, thiếu sự đồng bộ giữa các ngành, các cấp. Hệ thống các chính sách, pháp luật quy định về hoạt động các KCN còn chưa hoàn thiện, nhiều quy định chưa ràng, chồng chéo trong thực hiện.
Ba là, công tác thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp
- Chú trọng về số lượng, tăng tỷ lệ lấp đầy, chưa chú trọng chọn lựa chất lượng dự án, do đó đa số các dự án đầu tư có quy mô nhỏ và hàm lượng công nghệ không Sự thay đổi chủ đầu tư các KCN dẫn đến khó khăn trong việc chuẩn bị kế hoạch tài chính và chuyển kinh phí thực hiện dự án của các đơn vị là chủ đầu tư.
Mặc dù Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành hệ thống biễu mẫu báo cáo về KCN nhưng do Nghị định 29/2008/NĐ-CP chưa có chế tài cũng như biểu mẫu cụ thể để yêu cầu doanh nghiệp KCN phải báo cáo nên đã gây khó khăn trong công tác tổng hợp thông tin và báo cáo.
Bốn là, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế
Một phần xuất phát từ vấn đề chung của ngành giáo dục, đào tạo nhưng cũng còn do nguyên nhân từ việc thiếu quan tâm từ phía chính quyền địa phương, doanh nghiệp trong việc đào tạo người lao động địa phương.
Năm là, Việc phân cấp ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT trong một số lĩnh vực còn chưa thực hiện đầy đủ, nhất quán do có sự không thống nhất với các quy định của pháp luật chuyên nghành, chưa được các bộ ngành hướng dẫn cụ thể hoặc chủ trương phân cấp, ủy quyền chưa được địa phương quán triệt và thực hiện.
Ban Quản lý KCN, KKT không được giao thực hiện chức năng thanh tra như các cơ quan chuyên ngành, nên hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước không cao, nhiều trường hợp phát hiện vi phạm của các doanh nghiệp trong KCN, KKT nhưng không có chế tài xử phạt.
Sáu là, Công tác quản lý bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức
- Nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường tại các địa
phương còn hạn chế; Ý thức trách nhiện của doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường chưa cao. Sự thiếu chặt chẽ và không rõ ràng trong việc phân công nhiệm vụ của BQL và các ngành chức năng liên quan trong quy chế phối hợp đã tạo ra lỗ hổng trong công tác QLNN đối với các sai phạm gây ô nhiễm môi trường của một số doanh nghiệp trong KCN.
Tiểu kết chương 2 ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước với các khu công nghiệp )
Trong chương này luận văn đã làm rõ các vấn đề sau:
Luận văn đã trình bày thực trạng hoạt động của các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; thực trạng quản lý nhà nước đối với các KCN Quảng Ngãi theo bao gồm: Thực trạng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; Ban hành và thực thi pháp luật; Ban hành và thực thi chính sách; thực trang công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát; thực trạng công tác thu hút và quản lý đầu tư vào các KCN tại Quảng Ngãi.
Dựa trên các số liệu thống kê khảo sát, tác giả đã chỉ rõ thực trạng quản lý nhà nước đối về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi; đã đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi theo hệ thống các tiêu chí quản lý bao gồm: tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính phù hợp và tính bền vững của quản lý nhà nước.
Ngoài các thành tựu đạt được như công tác Phân cấp, ủy quyền, giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa tại chỗ”. Luận văn đã đưa ra các điểm yếu của công tác quản lý nhà nước các KCN Quảng Ngãi bao gồm: Công tác quy hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa thực sự hợp lý; Công tác tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch quản lý đối với các KCN chưa thực sự hiệu quả, công tác thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm và cải cách thủ tục hành chính chưa triệt để.
Luận văn đã đánh giá điểm mạnh điểm yếu của quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi, từ đó chỉ ra các nguyên nhân chủ quan, khách quan của các điểm yếu làm cơ sở để kiến nghị, đề xuất các giải pháp của luận văn.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Giải pháp nâng cao quản lý đối với các khu công nghiệp
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com