Ngày nay, thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Đảng, chính vì vậy tác giả đã lựa chọn Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên làm bài luận Thạc sĩ cho mình. Qua bài luận văn, tác giả cũng khẳng định Nhà nước luôn tạo cơ hội, điều kiện cho thanh niên được học tập, không ngừng nâng cao trình độ, có tri thức và kỹ năng, vươn lên ngang tầm với thanh niên các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước đều được triển khai chi tiết tại Đề tài Quản lý nhà nước về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị dưới đây.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh của đất nước; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình. Song, do đặc thù của lứa tuổi nên thanh niên cần được sự giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi trước và toàn xã hội bằng những chính sách cụ thể.
Từ khi ban hành Luật Thanh niên năm 2005 đến nay, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự vào cuộc của các bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương và sự phối hợp của các ngành đoàn thể, công tác QLNN về thanh niên, công tác thanh niên đã có những chuyển biến tích cực góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân nói chung và thanh niên nói riêng; các quyền và nghĩa vụ của thanh niên được bảo vệ và thực hiện đúng pháp luật; đời sống vật chất của thanh niên từng bước được nâng cao, phần lớn thanh niên đều có lối sống tích cực, gắn kết với cộng đồng; vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc tham gia phát triển kinh tế – xã hội đã từng bước nâng cao.
Tuy nhiên, trước những biến động phức tạp của tình hình chính trị thế giới, sự tác động nhiều mặt của cơ chế thị trường, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, một bộ phận thanh niên còn thiếu những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho yêu cầu phát triển, hội nhập; sống thiếu lý tưởng, quan niệm về cuộc sống và lối sống đôi lúc còn lệch lạc, ỷ lại, ý thức chấp hành pháp luật kém, dễ bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội, sinh hoạt thiếu văn hoá, vi phạm pháp luật.
Đối với huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua được sự quan tâm tập trung chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp công tác QLNN về công tác thanh niên ngày càng được chú trọng. Qua triển khai, bước đầu đã có một số kết quả nhất định: thanh niên được tạo điều kiện và có cơ hội phát triển cả về thể chất, tinh thần và được cống hiến; công tác thanh niên được chú trọng và quan tâm nhiều hơn; đội ngũ làm công tác thanh niên ngày càng có chất lượng; các chính sách ban hành liên quan đến thanh niên càng mang tính cụ thể hóa…
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều bất cập đó là: nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức về vị trí, vai trò của thanh niên trong giai đoạn hiện nay còn hạn chế, công tác chỉ đạo điều hành QLNN về công tác thanh niên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn khoán trắng cho tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh các cấp; sự phối hợp giữa các ngành liên quan chưa đồng bộ, rõ ràng; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc hiện thực hóa Luật Thanh niên còn hạn chế.
Từ thực trạng trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thanh niên và quản lý nhà nước về công tác thanh niên là lĩnh vực được nhiều nhà khoa học, quản lý chú tâm nghiên cứu. Nhiều đề tài khoa học công trình nghiên cứu đã được công bố liên quan đến đề tài, một số công trình tiêu biểu sau:
Quản lý nhà nước về công tác thanh niên của Nguyễn Vĩnh Oánh (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả xác lập QLNN đối với công tác thanh niên là những hoạt động lập pháp và lập quy của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để chế định ra những quy định về công tác thanh niên; là hoạt động QLNN trong phạm vi những công việc về hành chính của các cơ quan trong bộ máy nhà nước có liên quan đến thanh niên; là hoạt động điều hành của Nhà nước về sự phối hợp tất cả cơ quan, bộ máy hoặc đoàn thể có liên quan đến công tác thanh niên, đặt công tác thanh niên trong sự thống nhất có sự quan tâm toàn diện của Nhà nước.
Quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong tình hình mới của Vũ Trọng Kim (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã làm rõ QLNN về công tác thanh niên là hoạt động xây dựng thể chế có liên quan đến thanh niên, là sự quản lý của các cơ quan nhà nước theo các chế định pháp luật, chính sách để điều chỉnh, phối hợp thống nhất việc triển khai nhiệm vụ công tác thanh niên của các tổ chức, lực lượng trong xã hội nhằm đạt được các mục tiêu của Đảng về công tác giáo dục, bồi dưỡng và phát huy lực lượng thanh niên.
Chính sách thanh niên – thực trạng, đổi mới việc xây dựng và thực hiện, Chu Xuân Việt (2001), Chuyên đề nghiên cứu khoa học của Ủy ban quốc gia về thanh niên. Công trình phản ánh khái quát tình hình các chủ trương, chính sách đối với thanh niên, đánh giá chất lượng đào tạo nghề cho thanh niên và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong đào tạo nghề đối với đối tượng này, góp phần hỗ trợ, giúp đỡ thanh niên trong lĩnh vực việc làm, nâng cao thu nhập. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay của Đoàn Văn Thái (2006), Nxb Thanh niên, Hà Nội. Tác giả đã cung cấp cho nhiều vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn QLNN đối với công tác thanh niên Việt Nam làm cơ sở để người viết nghiên cứu trong luận văn của mình như: khái quát các vấn đề liên quan đến thanh niên như: khái niệm, đặc điểm của thanh niên, công tác thanh niên và QLNN đối với công tác thanh niên; khái quát tình hình thanh niên Việt Nam giai đoạn 2006 cũng như tình hình QLNN đối với công tác thanh niên giai đoạn đó; dự báo tình hình thanh niên Việt Nam giai đoạn tới và đưa ra một số giải pháp QLNN đối với công tác thanh niên trong thời gian tới.
Tổng quan tình hình Thanh niên Việt Nam. Nguyễn Phi Long chủ biên, Nxb,Thanh niên, Hà Nội, 2014. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu về nhiều khía cạnh, đối tượng của thanh niên trong giai đoạn hiện nay như: thanh niên trong cơ cấu dân số, tư tưởng chính trị, định hướng giá trị và lối sống của thanh niên; Đời sống văn hóa tinh thần, phát triển tài năng; Tình hình lao động, nghề nghiệp hay vi phạm pháp luật của thanh niên,… Đồng thời đi sâu khai thác các vấn đề về công tác đoàn viên, thanh niên đưa ra cái nhìn khái quát về tình hình thanh niên, công tác và phong trào thanh niên giai đoạn 2010-2014 với những giải pháp đẩy mạnh công tác hội; phong trào thanh niên trong thời gian tới.
Bên cạnh các sách, đề tài công bố, nhiều bài báo liên quan đến đề tài cũng được đăng trên các tạp chí chuyên ngành, như:
Trương Tấn Sang, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản, số tháng 8/2008. Tác giả xác định thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc. Từ những ngày đầu cách mạng, Đảng và Bác Hồ đã đề cao vai trò, vị trí quan trọng của thanh niên; xác định thanh niên là đội quân xung kích của cách mạng. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thành bại của cách mạng. Qua mỗi thời kỳ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, thanh niên đều hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Vũ Đăng Minh, Một số kiến nghị về việc kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác thanh niên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 3/2010. Tác giả nêu ra một số cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành tổ chức bộ máy QLNN về công tác thanh niên. Từ những cơ sở khoa học và thực tiễn, cần thiết phải xác định rõ mô hình, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy QLNN về công tác thanh niên phù hợp với tính chất và đặc thù của đối tượng quản lý là thanh niên và công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đó đưa ra mục tiêu, quan điểm của việc hình thành tổ chức bộ máy QLNN về công tác thanh niên.
Nguyễn Hồng Kiên, Quản lý nhà nước về công tác thanh niên hiện nay, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 7/2013. Bài báo cho rằng Công tác thanh niên là một loại hoạt động xã hội hàm chứa sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội và thanh niên, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của thanh niên và yêu cầu phát triển của xã hội. Bài báo đưa ra những định hướng giúp thanh niên tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình, đồng thời đề cao việc hoàn thiện QLNN đối với công tác thanh niên bằng chính sách, luật pháp, cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy bằng kiểm tra, giám sát.
Các công trình tác giả luận văn tham khảo tập trung nghiên cứu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên ở những giác độ khác nhau, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên ở bình diện tương tự, được nghiên cứu trên địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thì chưa có công trình nào trùng lặp. Những công trình tham khảo này là những tài liệu quý báu để tác giả tham khảo, kế thừa tiếp tục nghiên cứu những vấn đề mà các công trình trên chưa có điều kiện nghiên cứu cụ thể tại địa bàn Triệu Phong.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn QLNN về công tác thanh niên, luận văn phân tích, nhận xét đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh niên, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện QLNN về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện tốt mục đích nghiên cứu đề ra, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Một là, hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của QLNN về công tác thanh niên.
- Hai là, phân tích thực trạng QLNN về công tác thanh niên ở huyện Triệu Phong và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
- Ba là, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động QLNN về công tác thanh niên ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong đó tập trung nghiên cứu khảo sát đối với nội dung QLNN về công tác thanh niên, việc QLNN về thực hiện một số chính sách đặc thù của thanh niên trên địa bàn huyện Triệu Phong.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Trên địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ năm 2013 đến nay và định hướng đến
- Phạm vi nghiên về nội dung: Hoạt động QLNN về công tác thanh niên
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp nghiên cứu được lựa chọn trên cơ sở phương pháp luận Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Cơ sở lý luận là tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về thanh niên, QLNN về công tác thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Phương pháp điều tra, thu thập, phân tích số liệu; Phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch; Phương pháp so sánh, đánh giá; Phương pháp thống kê…
- Phương pháp điều tra xã hội học: Số mẫu: Nhóm câu hỏi thực trạng, nguyên nhân, giải pháp. Số địa bàn nghiên cứu: 19 xã, thị trấn. Đối tượng nghiên cứu: CBCCVC các cơ quan cấp huyện, cấp xã; TN học sinh, TN nông thôn, TN công chức, viên chức, TN sinh viên, TN công nhân. Phương pháp xử lý số liệu: Mã hóa số liệu, sữ dụng phần mềm
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần làm rõ thêm các cơ sở lý luận của việc QLNN về công tác thanh niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần hoàn thiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác này, cũng như nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về QLNN về công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác QLNN về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị và một số huyện có đặc điểm, tình hình tương tự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương:
- Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về công tác thanh niên.
- Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Có thể bạn quan tâm:
Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
1.1.1. Thanh niên, Công tác thanh niên
- Thanh niên
Khái niệm về thanh niên được các nhà khoa học, nhà quản lý cũng như các tổ chức liên quan xác định ở nhiều góc độ khác nhau.
Liên hợp quốc định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi chủ yếu dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hoàn cảnh xã hội so với các nhóm lứa tuổi khác. Song, Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em lại xác định trẻ em đến dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam, thanh niên là một khái niệm dùng để chỉ một nhóm nhân khẩu – xã hội với một độ tuổi xác định, với những tâm sinh lý đặc thù và có một vai trò quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ góc độ pháp luật, Điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 xác định: “Thanh niên là công dân Việt Nam từ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”.
Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là một độ tuổi, ở giữa lứa tuổi trẻ em và tuổi trưởng thành. Ở giai đoạn này, sự phát triển về thể chất đạt đến đỉnh cao, tuy nhiên, các yếu tố tâm lý mới được định hình và ổn định một cách tương đối. Thanh niên có sự khác biệt lớn về nhiều mặt (tuổi, nơi sinh sống, nghề nghiệp, v.v), do đó, các đặc điểm tâm lý của thanh niên rất phong phú, đa dạng, tuy nhiên, chúng có một tính chất chung, đó là tính trẻ.
Từ góc độ nghề nghiệp, trong thanh niên có nhiều nhóm nhỏ khác nhau. Nhóm trẻ tuổi nhất đang chuẩn bị kết thúc những năm học phổ thông, mối quan tâm lớn nhất của họ là lựa chọn nghề, chọn trường để tiếp tục học cao hơn, hoặc bước vào nghề; một bộ phận khác đang ngồi trên ghế các trường cao đẳng, đại học, tiếp thu kiến thức và kỹ năng chuyên môn ở trình độ cao để trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, một bộ phận khác mới bước vào hoạt động nghề nghiệp, đang ứng phó với những khó khăn, thử thách ban đầu của hoạt động này; bên cạnh đó, một bộ phận thanh niên đã khẳng định được vị trí nghề nghiệp của mình, có những cống hiến nhất định cho xã hội.
Từ những phân tích và cách nhìn nhận như trên có thể rút ra kết luận: Thanh niên là chỉ một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, ở một độ tuổi nhất định, có mặt trong tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, các lĩnh vực của đời sống xã hội, có những đặc điểm chung về tâm lý, sinh lý, nhận thức xã hội, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cả trong hiện tại lẫn tương lai. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Công tác thanh niên
Tương tự khái niệm thanh niên, khái niệm công tác thanh niên được nhiều học giả, nhiều tổ chức chính trị-xã hội nêu ra ở những giác độ khác nhau. Tuy nhiên theo Điều 4, Chương 1, Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23/7/2007 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên 2005 thì: Công tác thanh niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu và trưởng thành, đồng thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc [11, tr. 2].
Như vậy, hiểu theo một cách chung nhất như đã nói ở trên thì công tác thanh niên được hiểu là phát huy, sử dụng thanh niên để hướng thanh niên theo các yêu cầu của xã hội; là quan tâm giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, tạo điều kiện cho sự phát triển của thanh niên, đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của thanh niên. Đây là một loại hoạt động xã hội hàm chứa sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội và thanh niên, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của thanh niên và yêu cầu phát triển của toàn xã hội nói chung.
Công tác thanh niên là bộ phận quan trọng trong công tác quần chúng của Đảng, bao gồm toàn bộ những hoạt động của Đảng, Nhà nước và các chủ thể xã hội khác. Trong đó, có Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội sinh viên Việt Nam nhằm tác động một cách đồng bộ để giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu và trưởng thành; đồng thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong quá trình đấu tranh giành độc lập, cũng như xây dựng đất nước, nhìn nhận, đánh giá, coi trọng vị trí vai trò của thanh niên, công tác thanh niên cũng như các vấn đề của thanh niên trong tiến trình phát triển. Đây chính là tiền đề, là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để định ra chiến lược, vạch ra đường lối, nội dung giải pháp giáo dục, bồi dưỡng, quản lý thanh niên thành lực lượng chính trị hùng hậu kế tục sự nghiệp của Đảng, Nhà nước ta cũng như trở thành nguồn nhân lực chủ đạo trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.
1.1.2. Quản lý nhà nước về công tác thanh niên ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
– Quản lý nhà nước
Khái niệm quản lý có nhiều cách tiếp cận khác nhau, với ý nghĩa thông thường và phổ biến hiện nay, quản lý được hiểu là hoạt động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo mục tiêu nhất định đã đề ra.
QLNN xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là công cụ của Nhà nước. Nội hàm của QLNN thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay QLNN xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thanh niên là một đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước, do đó, QLNN về công tác thanh niên cũng phải được xem xét trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước khi làm rõ nội hàm của khái niệm này cần lưu ý những điểm sau:
- Thứ nhất, Điều 12, Hiến pháp 1992 ghi rõ “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”; Điều 8, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Do đó, QLNN về công tác thanh niên trước hết là hoạt động lập pháp, lập quy của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đề ra những chế định về công tác thanh niên.
- Thứ hai, do các cơ quan nhà nước, tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình, đều có nhiệm vụ quản lý công tác thanh niên theo góc độ và mức độ khác nhau, nên QLNN trong lĩnh vực công tác thanh niên là hoạt động QLNN trong phạm vi những công việc hành chính của các cơ quan trong bộ máy nhà nước có liên quan đến thanh niên.
- Thứ ba, do công tác thanh niên được các tổ chức Đảng, Đoàn Thanh niên, các đoàn thể, các tổ chức xã hội…tiến hành, nên quản lý nhà nước về công tác thanh niên là hoạt động điều hành của Nhà nước về thống nhất phối hợp với tất cả các cơ quan, bộ máy hoặc đoàn thể có liên quan đến công tác thanh niên trong thể chế Nhà nước. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Thứ tư, theo cơ chế tổng hợp vận hành của đất nước ta: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; và theo quan điểm của Đảng: Công tác thanh niên là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì sự thống nhất cao mà QLNN phải xác lập như đã nói ở điểm trên là sự thống nhất theo mục tiêu của Đảng về giáo dục, bồi dưỡng và phát huy lực lượng thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về phương pháp quản lý, Nhà nước thực hiện việc quản lý về công tác thanh niên bằng phương pháp mệnh lệnh mang tính quyền lực bắt buộc đối với chủ thể quản lý; bằng phương pháp vận động, thuyết phục, tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ cho thanh niên hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình và tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo trật tự xã hội và sự phát triển của xã hội theo đúng ý đồ của Nhà nước.
Như vậy: “QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì ổn định và phát triển xã hội” [45].
QLNN được đề cập trong đề tài này là khái niệm QLNN theo nghĩa rộng; QLNN bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của nhà nước. Hoạt động QLNN chủ yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước ủy quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.
Đặc điểm của QLNN mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. QLNN được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”. QLNN mang tính tổ chức và điều chỉnh; tính khoa học, tính kế hoạch. QLNN là những tác động mang tính liên tục, ổn định lên các quá trình xã hội và các hệ thống hành vi xã hội. QLNN về công tác thanh niên: Là QLNN đối với toàn bộ hoạt động liên quan đến đối tượng thanh niên bằng quyền lực, thông qua Hiến pháp, pháp luật và cơ chế chính sách nhằm đảm bảo cho sự phát triển của văn hóa dân tộc. QLNN về công tác thanh niên được hiểu là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và thi hành pháp luật đối với các hoạt động liên quan đến thanh niên.
Từ quan niệm trên, QLNN về công tác thanh niên có những đặc điểm cơ bản: ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Một là, hệ thống QLNN về thanh niên là cơ quan công quyền của nhà nước, được hình thành và tổ chức thống nhất, có tính thứ bậc và hệ thống chặt chẽ. Hiện tại tổ chức bộ máy QLNN về thanh niên có 3 cấp: Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
- Hai là, đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về thanh niên có tính chuyên môn hóa, nghề nghiệp cao. Do vậy đội ngũ này phải đáp ứng những điều kiện, tiêu chuẩn và nguyên tắc trong thi hành công vụ theo quy định của Luật Cán bộ, công chức.
- Ba là, quản lý nhà nước về công tác thanh niên mang tính toàn diện đối với mọi đối tượng thanh niên (công dân từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi) khác với chức năng tư vấn của Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam (cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên – Điều 6 Luật Thanh niên 2005); quản lý đoàn viên, hội viên của tổ chức Đoàn thanh niên và Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam…
- Bốn là, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan QLNN về thanh niên có sự khác biệt cơ bản với tính chất hoạt động của các cơ quan, tổ chức tư vấn phối hợp liên ngành trong việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với công tác thanh niên trong sự phối hợp và huy động sự tham gia cộng đồng trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi nguồn lực xã hội trong công tác thanh niên. Kết hợp hài hòa giữa phương pháp mệnh lệnh hành chính với phương pháp vận động, thuyết phục là những đặc điểm đặc thù của công tác thanh niên ở nước ta.
Những đặc thù của QLNN về công tác thanh niên
- Thứ nhất, QLNN về công tác thanh niên là một dạng quản lý xã hội đặc thù, mang tính quyền lực nhà nước đối với một đối tượng đặc biệt là thanh niên; là quá trình tác động của hệ thống các cơ quan nhà nước đối với công tác thanh niên bằng chính sách, luật pháp, cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy, bằng kiểm tra, giám sát; đồng thời cũng thông qua các chính sách, luật pháp và tổ chức bộ máy.
- Thứ hai, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với công tác thanh niên trong sự phối hợp và huy động sự tham gia cộng đồng trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi nguồn lực xã hội trong công tác thanh niên.
- Thứ ba, sự tham gia của các chủ thể xã hội trong QLNN đối với công tác thanh niên; sự phong phú trong nội dung và phương pháp quản lý đối với công tác thanh niên của Nhà nước.
- Thứ tư, sự kết hợp hài hòa giữa phương pháp mệnh lệnh hành chính với phương pháp vận động, thuyết phục là những đặc điểm đặc thù của công tác thanh niên ở nước ta.
1.1.3. Chủ thể quản lý nhà nước về công tác thanh niên ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Theo Luật Thanh niên niên 2005 quy định các chủ thể QLNN về công tác thanh niên gồm:
Tại khoản 2, điều 5: Chính phủ thống nhất QLNN về công tác thanh niên; Các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng QLNN về công tác thanh niên theo sự phân công của Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện QLNN về công tác thanh niên ở địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ [33, tr. 2]. Ngoài ra, tại điều 3, chương I Nghị định 120/NĐ-CP ngày 23/7/2007 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tạo điều kiện cho thanh niên thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của thanh niên theo quy định của pháp luật và phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh để huy động thanh niên xung kích, tình nguyện tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [11, tr. 2].
Tại Chương IV Nghị định số 120/NĐ-CP ngày 23/7/2007 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên; Nghị định 78/2017/NĐ-CP ngày 03/7/017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật thanh niên cũng quy định trách nhiệm của các chủ thể QLNN về công tác thanh niên đối với:
– Chính phủ:
- Bộ Nội vụ:
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ khác:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
- Ủy ban nhân dân cấp huyện:
- Ủy ban nhân dân cấp xã:
1.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về công tác thanh niên
1.2.1. Thực hiện chức năng quản lý của cơ quan hành chính nhà nước về công tác thanh niên ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Hiện nay, hệ thống QLNN về thanh niên là cơ quan ngôn quyền của nhà nước đã được hình thành và tổ chức thống nhất, có hệ thống và thứ bậc chặt chẽ. Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về thanh niên có tính chuyên môn hóa, nghề nghiệp cao. Do vậy, đội ngũ này phải đáp ứng những điều kiện, tiêu chuẩn và nguyên tắc trong thi hành công vụ theo quy định của Luật Cán bộ công chức. QLNN về công tác thanh niên mang tính toàn diện đối với mọi đối tượng thanh niên. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan QLNN về công tác thanh niên có sự khác biệt cơ bản với tính chất hoạt động của các cơ quan, tổ chức tư vấn phối hợp liên ngành trong việc thực hiện chính sách đối với thanh niên.
Những yêu cầu của QLNN về công tác thanh niên đặt ra là: Có khả năng tác động tới đối tượng quản lý; đa dạng, thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau; có tính hiện thực, khả năng đem lại hiệu quả cao; phải mềm dẻo và linh hoạt, có tính sáng tạo; hợp tác sâu rộng; phù hợp với đường lối chính trị quy định chương trình quản lý trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Đáp ứng với nhu cầu phát triển của thanh niên trong quá trình hội nhấp quốc tế
Công tác thanh niên không chỉ mang tính dân tộc, quốc gia mà hiện nay nó còn mang tính khu vực và quốc tế sâu sắc do sự lan tỏa và ảnh hưởng của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, đòi hỏi phải có chiến lược cụ thể hơn đối với công tác thanh niên trong thời gian tới để định hướng cho sự hội nhập. Thực tiễn cho thấy, định hướng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng trong thời gian qua trong công tác thanh niên chưa được thực hiện tốt, thanh niên Việt Nam còn bỡ ngỡ, bị động và chưa đủ bản lĩnh để hội nhập.
Hiện nay, thanh niên đã tham gia hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh – quốc phòng. Trong nhiều lĩnh vực, thanh niên giữ vai trò chủ chốt. Điều này cho thấy, vai trò, nhiệm vụ của thanh niên đã ngày càng được tăng cường, song công tác thanh niên lại chưa đáp ứng được. Thực tế hiện nay có rất nhiều tổ chức xã hội mới thành lập có sự tham gia của thanh thiếu niên nhưng lại thiếu vắng hẳn sự có mặt của tổ chức thanh niên.
Nhu cầu hội nhập quốc tế để được học hỏi, trao đổi nâng cao trình độ, năng lực của thanh niên là chính đáng, nhưng việc hội nhập, giao lưu, học hỏi của thanh niên đang còn thiếu sự định hướng, quản lý của các cơ quan, tổ chức. Điều này làm cho những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài rất dễ nảy sinh và lây lan trong thanh niên Việt Nam, đặc biệt là về đạo đức, lối sống. Đây là một thách thức không nhỏ đổi với việc đào tạo và rèn luyện thanh thiếu niên.
1.2.3. Đảm bảo hài hòa giữa quản lý về mặt nhà nước và bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ cho thanh niên ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Đội ngũ cán bộ, bộ máy làm công tác thanh niên có xu hướng công chức hóa, hành chính hóa và hầu hết là kiêm nhiệm, rất hiếm cán bộ chuyên trách hiểu và có chuyên môn về công tác thanh niên. Thiếu cán bộ được đào tạo, rèn luyện, chuẩn hóa chuyên về công tác thanh niên là một thách thức lớn, khó khăn lớn đối với công tác thanh niên trong bối cảnh hội nhập.
Điều kiện vật chất phục vụ công tác thanh niên bị thu hẹp trong mối tương quan với các mặt công tác khác, đặc biệt là các hoạt động của cơ quan nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, việc di cư tìm kiếm việc làm diễn ra phổ biến, nhiều nơi có tình trạng “chi đoàn không có thanh niên”, do thanh niên thường xuyên di chuyển nên không có điều kiện để tham gia hoạt động trong các tổ chức của mình. Mặt khác, công tác thanh niên hiện cũng chưa “phủ khắp” các đối tượng, vùng miền, thành phần kinh tế.
QLNN đối với công tác thanh niên là một dạng quản lý xã hội đặc thù, mang tính quyền lực nhà nước đối với một đối tượng đặc biệt là thanh niên, mà những vấn đề của nó liên quan trực tiếp đến tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, tăng cường QLNN đối với công tác thanh niên là sự cần thiết khách quan.
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên
Xác định QLNN về công tác thanh niên là nội dung quan trọng, Nghị quyết Hội nghị TW 7, khóa X đã xác định: “Củng cố, kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam đủ mạnh và giao cho Ủy ban một số nhiệm vụ quyền hạn để tham mưu cho Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Ở các bộ, ngành Trung ương và UBND cấp tỉnh, cấp huyện có bộ phận chuyên trách theo dõi công tác thanh niên để làm chức năng quản lý nhà nước về thanh niên tại các lĩnh vực, địa bàn và theo sự phân công, phân cấp của Chính phủ. Thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở tỉnh, thành phố làm nhiệm vụ tham mưu cho chủ tịch UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở địa phương. Giao cho Chính phủ cụ thể hoá và tổ chức thực hiện mô hình tổ chức này”. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Theo Điều 5, Luật Thanh niên (Luật số 53/2005/QH11 của Quốc hội), nội dung QLNN về công tác thanh niên bao gồm:
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên.
Để triển khai nhiệm vụ này cần thực hiện các công việc cụ thể sau:
- Nghiên cứu, dự báo và lập kế hoạch về tình hình thanh niên.
- Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến QLNN đối với công tác thanh niên: rà soát các văn bản pháp luật đã có, điều chỉnh, bổ sung, ban hành những văn bản pháp luật còn thiếu liên quan đến công tác thanh niên; bổ sung, điều chỉnh các chính sách và cơ chế liên quan đến QLNN đối với công tác thanh niên.
- Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên.
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức cán bộ QLNN về công tác thanh niên: sắp xếp tổ chức bộ máy QLNN đối với công tác thanh niên; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hành chính nhà nước.
- Quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về QLNN đối với công tác thanh niên.
Trên thực tế hiện nay, Nhà nước chậm thể chế hoá và triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên; thiếu những chính sách nhất quán, đồng bộ, lâu dài đối với thanh niên; chưa có chính sách cụ thể để bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng tài năng trẻ, việc thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên còn hạn chế. Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa làm tốt trách nhiệm chăm lo, bồi dưỡng, phát huy thanh niên thuộc lĩnh vực được phân công. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Nhìn chung, hoạt động QLNN đối với công tác thanh niên còn nhiều bất cập, tổ chức bộ máy QLNN về công tác thanh niên và cơ chế phối hợp liên ngành thực hiện công tác thanh niên chưa cụ thể. Nhận thức của một số cấp, ngành và địa phương, của đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước về tầm quan trọng và sự cần thiết phải tăng cường QLNN đối với công tác thanh niên chưa cao. Hệ thống chính sách chưa đồng bộ, công tác giáo dục – đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, phòng chống tệ nạn xã hội, hoạt động văn hóa, thể thao, truyền thông báo chí cũng còn nhiều thiếu sót. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực công tác thanh niên chưa được quan tâm, chú trọng và chưa có kết quả. Thực tế đó, đòi hỏi Nhà nước phải hoàn thiện các nội dung về QLNN đối với công tác thanh niên trong tình hình mới hiện nay.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết nghiên cứu nội dung QLNN đối với công tác thanh niên tại huyện Triệu Phong theo các nội dung sau:
- Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên.
- Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ QLNN đối với công tác thanh niên.
- Quản lý nhà nước về thực hiện các chính sách đặc thù của thanh niên.
- Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và đầu tư xây dựng các khu vui chơi giải trí cho thanh niên.
- Quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên.
1.4.Các nhân tố tác động đến quản lý nhà nước về công tác thanh niên
1.4.1. Nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Công tác thanh niên là một bộ phận quan trọng trong công tác quần chúng, bao gồm toàn bộ những hoạt động của Đảng, Nhà nước, Đoàn Thanh niên và xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, trưởng thành, phát huy mọi tiềm năng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, có thể hiểu, CTTN là sự tác động tổng hợp của các chủ thể xã hội vào đối tượng cụ thể la thanh niên theo nhưng mục tiêu xác định của Đảng cầm quyền và được thể chế băng pháp luật của Nhà nước. Vì vậy có thể nói CTTN là một hoạt động xã hội giữa các chủ thể xã hội và thanh niên nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triền của thanh niên và yêu cầu phát triển của xã hội, đồng thời cũng là hoạt động của Nhà nước tác động đến thanh niên, các tổ chức thanh niên theo pháp luật. Theo Nghị định 120/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành môt số Điều của Luật Thanh niên giải thích: “Công tác thanh niên” là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu và trưởng thành, đồng thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[11]
Công tác thanh niên là một loại hoạt động xã hội hàm chứa sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội và thanh niên, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của thanh niên và yêu cầu phát triển của xã hội; là quá trình tạo ra môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội và là trường học cộng sản cho thanh niên học tập, rèn luyện và trưởng thành; là quá trình đưa thanh niên vào hoạt động thực tiễn cách mạng, đồng thời định hướng giúp thanh niên tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình. QLNN đối với công tác thanh niên là một dạng quản lý xã hội tổng hợp, mang tính quyền lực nhà nước đối với một đối tượng đặc trưng là thanh niên; là quá trình tác động của hệ thống các cơ quan nhà nước đối với công tác thanh niên và thanh niên bằng chính sách, luật pháp, cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy, bằng kiểm tra, giám sát, đồng thời cũng bằng các chính sách, luật pháp, Nhà nước huy động mọi tổ chức, mọi nguồn lực xã hội tham gia thực hiện các nhiệm vụ công tác thanh niên.
1.4.2. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Theo Thông tư số 04/2011/TT-BNV ngày 10/2/2011 của Bộ Nội vụ quy định tại khoản đ, điều 1: Sở Nội vụ có Phòng Công tác thanh niên phụ trách tham mưu, đề xuất chương trình, kế hoạch chỉ đạo thực hiện và theo dõi công tác thanh niên cấp tỉnh [8, tr. 1]. Ngoài ra, các Sở, ngành các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phân công cán bộ, công chức của các sở, ban, ngành trực tiếp tham mưu, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật đối với thanh niên và công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh. Bố trí từ 02 đến 05 biên chế chuyên trách cho Phòng công tác thanh niên thuộc Sở Nội vụ; còn các sở, ngành khác phân công công chức kiêm nhiệm. Cấp huyện: Phòng Nội vụ có phân công 01 công chức chuyên trách. Cấp xã: phân công 01 công chức Văn phòng – Thống kê kiêm nhiệm.
Như vậy theo quy định bố trí, sắp xếp biên chế cán bộ, công chức như trên thì cơ bản về số lượng đã có thể thực thi nhiệm vụ. Về chất lượng của đội ngũ này cũng cần phải được quan tâm, theo Quyết định số 1923/QĐ-BNV ngày 28/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ QLNN về công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh niên các cấp, các ngành giai đoạn 2011-2015. Đội ngũ cán bộ, công chức phụ trách công tác này phải được bồi dưỡng, đào tạo theo chương trình của Vụ công tác thanh niên xây dựng.
Do đó, bộ máy QLNN về công tác thanh niên tại các cơ quan, đơn vị hiện nay khi mới được thành lập cần tập trung nghiên cứu và chủ động hơn trong công tác tham mưu, đề xuất ban hành, hướng dẫn, đôn đốc và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật cho thanh niên. Các sở, ngành ở địa phương cần hiểu rõ hết chức năng, nhiệm vụ QLNN về công tác thanh niên của mình để phân định được trách nhiệm, thẩm quyền của từng cơ quan, đơn vị. Đối với cấp xã là cấp trực tiếp thực hiện thì cần có chuyên trách thực hiện để đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đến từng thanh niên. Cấp huyện cần tạo điều kiện cho công chức chuyên trách có điều kiện tiếp cận với thanh niên để phát huy hết các nội dung, chương trình của Nhà nước dành cho thanh niên. Cần thiết phải trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh niên để kịp thời nắm bắt và thống nhất thực hiện trong cả nước.
Có thể nói, yếu tố quan trọng nhất trong thực hiện công tác QLNN về thanh niên chính là đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh niên ở các cấp, các ngành. Yêu cầu đặt ra là Nhà nước phải làm sao để xây dựng được đội ngũ cán bộ vừa mạnh về số lượng, vừa giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có đủ những kỹ năng để tiếp cận thanh niên và có năng lực quản lý tốt công tác này. Một khi đã có một hệ thống pháp luật về công tác thanh niên hoàn chỉnh, có đầy đủ cơ sở, thiết bị, nguồn lực dành cho công tác thanh niên nhưng lại thiếu đi năng lực quản lý, điều hành và sử dụng không hợp lý các điều kiện trên thì hiệu lực, hiệu quả mang lại cũng chỉ mang tính tương đối. Ngược lại, tuy các điều kiện trên chưa đảm bảo nhưng với năng lực quản lý cao của Nhà nước, của cán bộ làm công tác thanh niên được sử dụng hợp lý, phù hợp vẫn có thể phát huy tối đa hiệu quả quản lý và có thể khai thác triệt để các nguồn lực.
Như vậy nếu tổ chức, cán bộ yếu thì rất khó thực hiện thành công, cũng như việc tham mưu xây dựng và thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chiến lược, chương trình, kế hoạch đối với QLNN về công tác thanh niên đã đề ra.
1.4.3. Công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về công tác thanh niên với các ban, ngành và tổ chức chính trị-xã hội ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Cần lồng ghép chính sách thanh niên trong các chính sách phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương; đưa các chỉ số của thanh niên và công tác thanh niên vào chỉ số thống kê quốc gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các ngành, các cấp; coi việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển thanh niên là một trong những chỉ số đánh giá sự tăng trưởng của từng địa phương, đơn vị và cả nước. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan QLNN với các tổ chức chính trị – xã hội trong chăm lo, giáo dục thanh niên, đặc biệt là trong định hướng về học tập, nghề nghiệp, việc làm, lối sống và phòng chống các tệ nạn nhằm xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho sự phát triển của thanh niên. Triển khai thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở các tỉnh, huyện, xã để tăng cường công tác thông tin, phối hợp liên ngành trong QLNN về công tác thanh niên; có cơ chế để Hội đồng này tham gia vào quá trình ra quyết định của chính quyền về các vấn đề có liên quan đến thanh niên.
Nếu công tác phối hợp giữa cơ quan QLNN về công tác thanh niên với các ban, ngành và tổ chức chính trị-xã hội được thực hiện tốt thì các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chiến lược, chương trình, kế hoạch sẽ được giám sát, tổ chức thực hiện có hiệu quả, có tính khả thi cao. Vì vậy tổ chức chấm điểm đánh giá, phân loại CBCCVC hằng năm là việc làm hết sức cần thiết, không thể thiếu được.
1.5.Kinh nghiệm quản lý nhà nước về công tác thanh niên một số địa phương trong cả nước và bài học rút ra cho huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
1.5.1. Huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Luật Thanh niên vẫn chưa đi vào cuộc sống mà nguyên nhân chủ yếu là do việc hướng dẫn thi hành Luật Thanh niên còn chung chung, thiếu cụ thể về mặt trách nhiệm của QLNN về ngành, lĩnh vực. Kết quả khảo sát đánh giá tác động của Luật Thanh niên trên địa bàn huyện Tư Nghĩa cho thấy có đến 26% thanh niên không hề biết đến hoặc nhớ đến Luật Thanh niên, 25% có biết qua tuyên truyền. Vì vậy, những vấn đề cơ bản về công tác thanh niên và QLNN về thanh niên có thể vẫn còn khá xa lạ với một bộ phận thanh thiếu niên và các cơ quan quản lý. Thế nên, Sở Nội vụ tỉnh Quảng Ngãi đã thường xuyên tổ chức khóa bồi dưỡng nghiệp vụ QLNN về công tác thanh niên cho cán bộ làm công tác QLNN về thanh niên cho các huyện, thành phố,các xã, thị trấn.
Chính quyền huyện Tư Nghĩa xác định: Để hiểu về công tác thanh niên và quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Trước hết phải hiểu được sự phân loại về thanh niên. Trên thực tế hiện nay có bảy cách phân loại thanh niên như sau: Phân loại theo giai cấp; Phân loại theo nghề nghiệp; Phân loại theo nơi cư trú; Phân loại thanh niên theo lứa tuổi; Phân loại theo các thành phần kinh tế; Phân loại theo nhóm đặc thù; Phân loại thanh niên theo nhóm yếu thế
Bên cạnh đó cần xác định QLNN về công tác thanh niên có các đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất: Hệ thống QLNN về thanh niên là cơ quan ngôn quyền của nhà nước được hình thành và tổ chức thống nhất, có hệ thống và thứ bậc chặt chẽ.
- Thứ hai: Đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về thanh niên có tính chuyên môn hóa, nghề nghiệp cao. Do vậy, đội ngũ này phải đáp ứng những điều kiện, tiêu chuẩn và nguyên tắc trong thi hành công vụ theo quy định của Luật Cán bộ công chức.
- Thứ ba: QLNN về công tác thanh niên mang tính toàn diện đối với mọi đối tượng thanh niên ( công dân Việt Nam từ đủ 16 đến 30 tuổi).
- Thứ tư: Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan QLNN về công tác thanh niên có sự khác biệt cơ bản với tính chất hoạt động của các cơ quan, tổ chức tư vấn phối hợp liên ngành trong việc thực hiện chính sách đối với thanh niên. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Thực tế cho thấy, do đặc trưng của hệ thống chính trị cũng như do đặc thù, tầm quan trọng đặc biệt của đối tượng thanh niên và công tác thanh niên nên Nhà nước không thể thực hiện chức năng quản lý thanh niên một cách độc lập mà phải tiến hành trong sự phối hợp chặt chẽ với các chủ thể xã hội khác, đặc biệt là với các tổ chức thanh niên, các đoàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, QLNN về công tác thanh niên không chỉ là quá trình áp dụng các chế định pháp luật bắt buộc phải thực hiện đối với thanh niên và tổ chức thanh niên, mà do đặc thù lứa tuổi nên đồng thời là quá trình vận động, thuyết phục, tư vấn, hướng dẫn và giáo dục. Nói cách khác, trong QLNN đối với công tác thanh niên, bên cạnh việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính (đôi khi chỉ là thứ yếu), Nhà nước còn sử dụng (có khi là chủ yếu) phương pháp giáo dục, thuyết phục, tư vấn và vận động, Vì vậy, cần có sự quan tâm đến các thế hệ thanh niên và công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
1.5.2. Tỉnh Yên Bái
Theo Nghị quyết 25 của BCH Trung ương Đảng về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác TN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đã khẳng định: “Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa hồng vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quan trọng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội”.
Trong đó nhấn mạnh trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả QLNN về thanh niên và công tác thanh niên: “Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật chính sách, chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hoá trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các ngành”. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh được thể hiện ở những đặc tính cơ bản được tỉnh Yên Bái quan tâm xác định đó là:
Thứ nhất, chủ thể quản lý là các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng QLNN đối với công tác thanh niên; đối tượng quản lý không chỉ là thanh niên mà còn là các chủ thể xã hội trực tiếp hay gián tiếp tác động đến thanh niên và các chủ thể xã hội tiến hành công tác thanh niên. Các ngành căn cứ chức năng nhiệm vụ của mình đều tiến hành công tác thanh niên (thông qua việc ban hành, triển khai thực hiện, giám sát thực hiện và xử lý các vi phạm luật pháp, chính sách thanh niên hoặc liên quan đến thanh niên). ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Thứ hai, các cấp, các ngành, các tổ chức đều có nhiệm vụ tiến hành công tác thanh niên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong quá trình đó, bằng luật pháp, chính sách, cơ chế, tổ chức bộ máy và nguồn lực, Nhà nước quản lý, điều phối các chủ thể xã hội trong tiến hành công tác thanh niên. QLNN đối với công tác thanh niên thông qua các chủ thể xã hội hay có sự tham gia của các chủ thể xã hội như: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các tổ chức chính trị – xã hội khác và các đoàn thể nhân dân.
Thứ ba, QLNN đối với công tác thanh niên là một dạng quản lý đối với một lực lượng xã hội cụ thể, mà những vấn đề của nó liên quan trực tiếp đến tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cho nên, đây là một loại quản lý tổng hợp, đa diện và rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự phối hợp hài hòa, thống nhất rất cao giữa các ngành, giữa các bộ phận trong cùng một ngành, giữa các cấp, giữa các chủ thể tiến hành công tác thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ tư, đây không chỉ là quá trình áp dụng các chế định pháp luật bắt buộc phải thực hiện đối với thanh niên và tổ chức thanh niên, mà do đặc thù lứa tuổi, cũng đồng thời là quá trình vận động, thuyết phục, tư vấn, hướng dẫn và giáo dục. Nói cách khác, trong QLNN đối với công tác thanh niên, bên cạnh việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính, Nhà nước còn sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục, tư vấn và vận động.
1.5.3. Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị
Hải Lăng là huyện đồng bằng ven biển, nằm ở cực Nam của tỉnh Quảng Trị, lực lượng thanh niên chiếm gần 30% dân số toàn huyện. Trong nhiều năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, huyện Hải Lăng rất quan tâm đến thanh niên và công tác thanh niên của huyện. Tình hình thanh niên của huyện có nhiều chuyển biến tích cực cả về ý thức chấp hành nghiêm luật pháp, thái độ chính trị, đạo đức lối sống, đặc biệt tính năng động sáng tạo, phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện, tính tự giác được nâng lên.
QLNN về công tác thanh niên ở huyện Hải Lăng có những ưu điểm là: các cấp chính quyền đã từng bước quan tâm chỉ đạo các ngành triển khai thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên theo ngành, lĩnh vực quản lý. Trên cơ sở kế hoạch công tác thanh niên hàng năm của huyện Hải Lăng và tỉnh Quảng Trị, các cấp, các ngành đã chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung phù hợp với ngành lĩnh vực quản lý, cụ thể như: công tác giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống, lý tưởng đạo đức và lối sống phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng thanh niên; Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên được chú trọng tạo điều kiện cho thanh niên được tham gia các chương trình tư vấn, giới thiệu việc làm và tiếp xúc với các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội việc làm phù hợp, có thu nhập ổn định. Nhu cầu hưởng thụ văn hóa văn nghệ, vui chơi giải trí của thanh niên được chính quyền các cấp đẩy mạnh; Các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từng bước được củng cố, kiện toàn bộ máy, định hướng nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực. Các cơ sở Đoàn đã tổ chức và tạo nhiều sân chơi bổ ích, phong trào hành động phù hợp đã thể hiện rõ vai trò là chỗ dựa vững chắc cho thanh niên. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua, hoạt động QLNN về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Hải Lăng vẫn còn những hạn chế, cụ thể: những kết quả đạt được chủ yếu được thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cấp, các ngành, các lĩnh vực và tổ chức Đoàn thanh niên. Thiếu các văn bản chính sách cụ thể trên từng ngành lĩnh vực điều chỉnh trực tiếp đến đối tượng thanh niên, đội ngũ công chức làm công tác thanh niên vẫn đang kiêm nhiệm, công tác phối hợp giữa chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong triển khai thực hiện pháp luật, chính sách thanh niên và công tác thanh niên có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Các chính sách cho thanh niên chưa đáp ứng nhu cầu thực tế và tình hình phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay
1.5.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho việc quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
QLNN về công tác thanh niên của huyện Triệu Phong hiện nay đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, từ tỉnh, huyện đến xã, để hoàn thiện công tác này thì trong thời gian tới các cấp ủy đảng, chính quyền cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có những giải pháp chủ yếu sau đây.
Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp về vị trí, vai trò của thanh niên và công tác thanh niên thời kỳ mới
Huyện ủy cần nâng cao nhận thức và đề cao trách nhiệm của các chủ thể tiến hành công tác thanh niên, trước hết là cấp ủy, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của thanh niên và tầm quan trọng của công tác thanh niên.
Các cấp ủy đảng phải nhận thức đúng đắn các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và công tác thanh niên. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Công tác vận động thanh niên không chỉ là công việc của Đảng, của Đoàn mà là của toàn xã hội. Do đó, các cấp ủy đảng cần tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Cần nâng cao nhận thức cho thanh niên về vị trí, nhiệm vụ của mình đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Từ đó, thanh niên có ý thức tự vươn lên, nỗ lực học tập, rèn luyện, tích cực tham gia phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.
Hai là, thực hiện kiện toàn bộ máy, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ làm việc tại cơ quan QLNN về công tác thanh niên các cấp.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức QLNN về công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp để nâng cao khả năng tham mưu, đề xuất tổ chức thực thi chính sách thanh niên. Ủy ban nhân dân huyện giao trách nhiệm cho các cơ quan liên quan và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện QLNN về công tác tới các cấp chính quyền; nghiên cứu trình Hội đồng nhân dân các dự án huy động thanh niên tham gia xây dựng kinh tế – xã hội ở địa phương.
Ba là, phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các ban, ngành và chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách đối với thanh niên.
Cần lồng ghép chính sách thanh niên trong các chính sách phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương; đưa các chỉ số của thanh niên và công tác thanh niên vào chỉ số thống kê của huyện, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các ngành, các cấp; coi việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển thanh niên là một trong những chỉ số đánh giá sự tăng trưởng của từng địa phương, đơn vị. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội trong chăm lo, giáo dục thanh niên, đặc biệt là trong định hướng về học tập, nghề nghiệp, lối sống và phòng chống các tệ nạn nhằm xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho sự phát triển của thanh niên. Triển khai thành lập Hội đồng công tác thanh niên cấp huyện, xã để tăng cường công tác thông tin, phối hợp liên ngành trong QLNN về công tác thanh niên; có cơ chế để Hội đồng này tham gia vào quá trình ra quyết định của chính quyền về các vấn đề có liên quan đến thanh niên. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Bốn là, xây dựng cơ chế đảm bảo quyền của thanh niên trong việc tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát các chính sách liên quan đến thanh niên.
Các cơ quan, tổ chức trước khi quyết định những chủ trương, chính sách liên quan đến thanh niên phải có trách nhiệm lấy ý kiến của thanh niên hoặc tổ chức thanh niên. Đồng thời, tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội và có biện pháp sử dụng các kênh thông tin của các tổ chức, cá nhân (nhất là đối tượng thanh niên) trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách đối với thanh niên. Tổ chức cho thanh niên tham gia xây dựng chính sách để từ đó gắn kết chính sách với cuộc sống.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, định kỳ sơ, tổng kết việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách thanh niên.
Cần kịp thời tổ chức triển khai thực hiện, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho thanh niên. Thúc đẩy xã hội hóa nguồn lực thực hiện để tranh thủ sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của các ngành, các cấp và toàn xã hội cho công tác này. Bên cạnh đó, cần tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh phí và các nguồn lực khác của các tổ chức quốc tế trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách thanh niên.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở làm rõ nêu những vấn đề lý luận cơ bản về thanh niên, công tác thanh niên, Quản lý, QLNN về công tác thanh niên. Chương 1 xác định chủ thể, nội dung cơ bản của QLNN về công tác thanh niên. ( Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Chương 1 còn làm rõ sự cần thiết QLNN về công tác thanh niên cũng như xác lập các yếu tố tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến QLNN về công tác thanh niên.
Ngoài ra, thông qua việc nêu kinh nghiệm QLNN về công tác thanh niên ở những địa phương tương đồng như: huyện Tư Nghĩa, tỉnh Yên Bái, huyện Hải Lăng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho QLNN về công tác thanh niên của huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, Chương 1 đã khái quát những nội dung cơ bản về lý luận và thực tiễn của QLNN về công tác thanh niên làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu cũng như xây dựng các giải pháp ở các chương tiếp theo.
Mời bạn tham khảo thêm:

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] → Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động quản lý nhà nước công tác thanh niên […]