Ngày nay, thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Đảng, chính vì vậy tác giả đã lựa chọn Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên làm bài luận Thạc sĩ cho mình. Qua bài luận văn, tác giả cũng khẳng định Nhà nước luôn tạo cơ hội, điều kiện cho thanh niên được học tập, không ngừng nâng cao trình độ, có tri thức và kỹ năng, vươn lên ngang tầm với thanh niên các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước đều được triển khai chi tiết tại Đề tài Quản lý nhà nước về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị dưới đây.
Nội dung chính
2.1. Tình hình kinh tế xã hội tác động đến quản lý nhà nước về thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội Đặc điểm tự nhiên
Huyện Triệu Phong nằm phía Đông – Nam Quảng Trị, có toạ độ địa lý 16,48 – 16,54 độ vĩ Bắc; 107,12-108,18 độ kinh Đông, là địa bàn có nhiều tuyến giao thông quan trọng đi qua: Quốc lộ 1A; Tỉnh lộ 580 nối từ Quốc lộ 1A đến Cảng Cửa Việt; Quốc Lộ 49C nối từ QL1A qua Thị xã Quảng Trị đi qua hai xã phía nam Huyện, đến huyện Hải Lăng và đến giáp Thừa Thiên Huế. Diện tích tự nhiên 353,04 km2, bao gồm 18 xã và một thị trấn. Dân số 96.000 người, chiếm khoảng 16,8% dân số của cả tỉnh Quảng Trị. Thị trấn Ái Tử là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội của huyện, cách Thành phố Đông Hà 7 km về phía Nam, Thị xã Quảng Trị 6 km về phía Bắc. Huyện Triệu Phong có vị trí địa lý :
- Phía Bắc giáp với Thành phố Đông Hà và huyện Gio Linh
- Phía Nam giáp với huyện Hải Lăng và Thị xã Quảng Trị
- Phía Tây giáp với huyện Đakrông và huyện Cam Lộ
- Phía Đông giáp với Biển Đông, với chiều dài bờ biển 18
Ở vị trí nói trên, Triệu Phong có điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội với các địa phương trong và ngoài tỉnh thông qua tuyến đường hành lang kinh tế Đông Tây.
Sau khi Tỉnh Quảng Trị sát nhập với Quảng Bình và Thừa Thiên thành tỉnh Bình Trị Thiên, huyện Triệu Phong cũng sáp nhập với huyện Hải Lăng, thị xã Quảng Trị thành huyện Triệu Hải. Đến ngày 01/5/1990 huyện Triệu Phong được tái lập, trở lại với tên gọi của chính mình.
2.1.2. Tình hình kinh tế-chính trị-xã hội ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Về kinh tế
Nền kinh tế tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm 2012-2017 là 10,4%. Quy hoạch sản xuất nông nghiệp được thực hiện gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Sản xuất công nghiệp – TTCN có nhiều chuyển biến tích cựcThương mại – dịch vụ tiếp tục có bước phát triển, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng. Công tác quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng được chú trọng, chất lượng quy hoạch được nâng lên. Xây dựng nông thôn mới được chỉ đạo mạnh mẽ, đạt được kết quả bước đầu. Công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân được chú trọng. Phong trào huy động nội lực, hiến đất, hiến công, đóng góp tiền của xây dựng cơ sở hạ tầng được các địa phương hưởng ứng tích cực. Công tác quản lý tài chính, thu chi ngân sách được thực hiện đúng luật. Thu ngân sách trên địa bàn đạt và vượt kế hoạch đề ra, tăng bình quân hàng năm 16,2%.
- Về văn hóa – xã hội
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, thông tin, truyền thông tập trung hướng về cơ sở, đẩy mạnh công tác xã hội hóa; tạo được động lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Thiết chế văn hóa cơ sở được quy hoạch, xây dựng; các giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội dân gian, di tích lịch sử từng bước được quản lý, phục dựng, bảo tồn, trùng tu, tôn tạo, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Thể dục, thể thao có bước phát triển; một số môn thể thao thế mạnh có quan tâm đầu tư, duy trì được thành tích cao trong các giải thi đấu cấp tỉnh và quốc gia. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, trọng tâm là xây dựng đơn vị văn hóa, gia đình văn hóa đạt được kết quả tốt, ngày càng đi vào chiều sâu, có tác dụng tích cực trong đời sống xã hội. Công tác thông tin, truyền thông được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức, loại hình, nội dung. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo được chú trọng đầu tư phát triển. Hệ thống giáo dục từ mầm non đến phổ thông khá hoàn chỉnh, quy mô phù hợp. Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình có nhiều cố gắng. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình có tiến bộ. Quy mô dân số ổn định, chất lượng dân số từng bước được nâng lên. Công tác truyền thông đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sàng lọc trước sinh và sơ sinh được triển khai có hiệu quả. Chính sách đối với người có công với cách mạng, an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững được các cấp, các ngành và toàn xã hội quan tâm chăm lo. Năng lực, chất lượng đào tạo nghề có bước chuyển biến. Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề được đầu tư; ngành nghề đào tạo ngày càng đa dạng và phong phú. Chương trình giảm nghèo bền vững tiếp tục được triển khai tích cực, đạt được kết quả quan trọng.
- Về quốc phòng – an ninh
Quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định. Các cấp, các ngành đã thường xuyên tổ chức quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, làm tốt công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, xác định rõ trách nhiệm, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, làm thất bại âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, những quan điểm lệch lạc, sai trái. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Các lực lượng vũ trang huyện duy trì tốt việc nắm chắc tình hình và chế độ trực chỉ huy, trực ban, trực sẵn sàng chiến đấu; thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống bão lụt – tìm kiếm cứu nạn; tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa và đẩy lùi tệ nạn xã hội; bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các hoạt động lễ hội trong các ngày lễ lớn của quê hương, đất nước.
Thế trận an ninh nhân dân được củng cố vững chắc. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, đấu tranh phòng, chống tội phạm tiếp tục đẩy mạnh. Tình hình an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo đảm bảo; an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh thông tin, văn hóa tư tưởng ổn định. Các loại tội phạm được phát hiện kịp thời và đấu tranh có hiệu quả; các biện pháp bảo đảm an toàn trật tự, an toàn giao thông được triển khai đồng bộ, tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí.
- Công tác xây dựng chính quyền
Chất lượng hoạt động của HĐND cấp xã có sự chuyển biến tích cực. Tổ chức các kỳ họp, tiếp xúc với cử tri có sự đổi mới; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Việc thảo luận, quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương được chú trọng. Chức năng giám sát được tăng cường; mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri được duy trì khá tốt.
Bộ máy chính quyền các cấp được quan tâm xây dựng vững mạnh; công tác quản lý, điều hành có sự chuyển biến tiến bộ. Đã tập trung xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, đạt được kết quả rõ nét. Đội ngũ cán bộ các phòng, ban được kiện toàn. Phong cách, lề lối làm việc có sự thay đổi theo hướng tăng cường trách nhiệm cá nhân, nâng cao đạo đức công chức, công vụ. Cải cách hành chính gắn với áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 được đẩy mạnh. Thực hiện việc tiếp nhận và trả kết quả qua “một cửa liên thông” khá nhanh chóng, hiệu quả, từng bước cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính và dịch vụ công.
Cải cách tư pháp được quan tâm, hoạt động của các cơ quan tư pháp tiếp tục có sự chuyển biến khá rõ nét, công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt nhiều kết quả tốt. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở được được duy trì thường xuyên. Công tác tiếp công dân, thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường; một số vụ việc tồn đọng kéo dài được xử lý dứt điểm.
- Công tác xây dựng Đảng ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Công tác chính trị tư tưởng được chú trọng. Các cấp ủy đảng đã quan tâm chăm lo bồi dưỡng, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kịp thời quán triệt, phổ biến rộng rải các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy đến các cấp, các ngành, đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân; phương pháp triển khai có sự đổi mới, tỷ lệ tham gia, chất lượng học tập có nâng lên. Công tác thông tin tuyên truyền về tình hình thời sự, chính trị, xã hội được tiến hành với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, góp phần định hướng tư tưởng, củng cố niềm tin, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, đồng thuận trong xã hội, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên được quan tâm kiện toàn, củng cố, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong tình hình hiện nay.
Công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên có bước tiến bộ rõ nét. Các tổ chức trong hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Công tác cán bộ được triển khai đồng bộ, đạt được kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ được xây dựng ổn định về số lượng, nâng cao về chất lượng. Hầu hết, đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ được tiến hành thường xuyên; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ được nâng lên. Công tác đào tạo, bồi dưỡng gắn với bố trí, sử dụng cán bộ được quan tâm chăm lo, đảm bảo dân chủ, đúng quy trình, tạo sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu được tăng cường, có sự chuyển biến tích cực. Các tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở được củng cố, sắp xếp phù hợp với đặc điểm địa phương.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tập trung chỉ đạo, phục vụ tốt công tác xây dựng Đảng. Việc quản lý hồ sơ, xây dựng cơ sở dữ liệu đảng viên được duy trì nền nếp. Các chế độ chính sách đối với cán bộ, đảng viên được thực hiện kịp thời, đầy đủ.
2.1.3. Những tác động ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Tỉnh Quảng Trị nói chung, huyện Triệu Phong nói riêng là vùng đất luôn gánh chịu thiên tai, bảo lũ, đất đai khô cằn cũng là nơi trọng điểm của chiến tranh hậu quả di chứng để lại rất nặng nề điều này có tác động rất lớn đến việc thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội, đời sống học tập, lao đông, vật chất tinh thần của thanh niên, làm ảnh hưởng lớn đến việc ban hành, tổ chức thực hiện Chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên. Hậu quả để lại rất nặng nề, đây cũng là thách thức lớn cho việc QLNN về công tác thanh niên đặc biệt là trong việc xác định các chính sách đặc thù của thanh niên, tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư, khắc phục hậu quả, cũng là cơ hội cho thanh niên vươn lên trong lao, động học tập, không ngừng vươn xa.
Là huyện nghèo, thuần nông, công nghiệp, thương mại kém phát triển điều này có tác động rất lớn gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm, đào tạo nghề; dẫn đến nạn thất nghiệp, không có việc làm trong thanh niên nông thôn; thanh niên phải đi làm ăn xa, ảnh hưởng đến việc đoàn kết tập hợp, tập hợp thanh niên… Điều này tác động rất lớn cho việc thực hiện các nội dung trong QLNN về công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Thách thức đặt ra trước mắt cần chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Cần áp dụng các mô hình công nghệ cao trong nông nghiệp, chính sách khởi nghiệp trong thanh niên, điều này đòi hỏi thanh niên phải có trình độ nghiên cứu để xây dựng một số đề án phù hợp nhằm khắc phục tình trạng trên.
Hiện nay, nhận thức của Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, hệ thống chính trị về vai trò của nhà nước, QLNN về công tác thanh niên ở một số địa phương trên địa bàn huyện Triệu Phong còn mờ nhạt. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đối với việc ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, văn bản quy phạm pháp luật chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác QLNN về công tác thanh niên. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới cần phải kiện toàn, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao nhận thức cho đội ngũ này.
Có thể bạn quan tâm:
2.1.4. Tình hình thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Về số lượng, cơ cấu, phân bố
Hiện nay, huyện Triệu Phong có 26.285 thanh niên chiếm khoảng 30% dân số trong toàn huyện, trong đó thanh niên nông thôn có 25.334 thanh niên (chiếm 96,3%); thanh niên công nhân, thanh niên công chức viên chức có 1.243 thanh niên (chiếm 4,7 %); thanh niên đô thị có 951 thanh niên (chiếm 3,7 %); thanh niên lực lượng vũ trang có 411 thanh niên (chiếm 1,6 %); thanh niên học sinh sinh viên có 7.387 thanh niên (chiếm 28,1%); thanh niên tín đồ các tôn giáo có 2.957 thanh niên (chiếm 11,2%)
Thanh niên Triệu Phong luôn phát huy truyền thống đoàn kết, giàu lòng yêu nước, sống có lý tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước, luôn đồng tình ủng hộ và tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Trình độ học vấn của thanh niên ngày được nâng cao, hăng hái trong công tác và học tập; ngày càng xuất hiện nhiều mô hình tập thể, cá nhân thanh niên tiên tiến, những tài năng trẻ, những tấm gương sản xuất kinh doanh, lập thân, lập nghiệp trong kỹ thuật và công nghệ, văn hóa, thể thao, bảo vệ an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội…
Thanh niên trong độ tuổi chiếm khoảng 28% dân số trong toàn huyện, qua phân tích nguồn dữ liệu cho thấy thanh niên trong độ tuổi từ 21-30 chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số thanh niên là 17.664, phần lớn là thanh niên nông thôn (chiếm 96,3%) chính vì vậy đây là một thách thức lớn đối với huyện trong các vấn đề về giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho thanh niên hiện nay. Bởi thế đòi hỏi huyện phải có những giải pháp cụ thể và thích hợp để phát huy thế mạnh tổng thể trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của huyện trong thời gian đến. (Phụ lục 1)
- Về trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật
Về trình độ học vấn: Theo kết quả điều tra lao động, việc làm hằng năm cho thấy, thanh niên ở các cấp đã có chiều hướng gia tăng tích cực hơn so với trước; từ kết quả điều tra phổ cập giáo dục hằng năm của Phòng Giáo dục và Đào tạo cho thấy thanh niên có trình độ học vấn thấp đã giảm đáng kể qua các năm. Nhìn chung trình độ học vấn hiện nay của thanh niên trong huyện đã có sự cân bằng, dần đã giảm thiểu tình trạng mất cân đối giữa các vùng trong huyện.(Phụ lục 2)
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Trong nhưng năm qua vấn đề tạo điều kiện cho thanh niên nâng cao trình độ chuyên môn đã được chính quyền, tổ chức đoàn, hội khuyến học… các cấp trong toàn huyện, tỉnh quan tâm và triển khai có hiệu quả bằng các hoạt động hổ trợ học sinh, sinh viên đi đầu trong phong trào xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện để thanh niên hăng say thi đua học tập, nghiên cứu khoa học nhân rộng các sân chơi bổ ích, rèn luyện tư duy sáng tạo, độc lập bằng nhiều hoạt động thiết thực phù hợp với từng đối tượng học sinh, sinh viên… Trên địa bàn tỉnh và lân cạnh hiện nay có các cơ sở các Trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày càng được nâng cao về mọi mặt, UBND các cấp đã quan tâm đến vấn đề đào tạo, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao và đã có nhiều chương trình đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động, trong đó tập trung chủ yếu là đối tượng thanh niên.
Qua phụ lục 3 đã cho thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật của thanh niên đã có sự gia tăng giai đoạn từ năm 2014-2017, theo đó tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng từ năm 2014 là 5337 người đến năm 2017 là 7122 người. Vấn đề về thực trạng lao động thanh niên Triệu Phong có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng hằng năm nhưng chưa cân đối so vơi nhu cầu thực tế của địa phương mặc dù công tác đào tạo tăng hơn, nhưng cơ cấu giữa các chuyên ngành được đào tạo chưa thật sự cân đối so với nhu cầu địa phương, một số chuyên ngành đào tạo còn thiếu so với nhu cầu thực tế như chế biến nông sản, kỹ sư cơ khí, thợ kỹ thuật, ngành nông nghiệp…
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của đa số lao động thanh niên trong các lĩnh vực được hình thành trong quá trình phát triển hiện nay, tuy nhiên trong thực tế một số ngành nghề chất lượng đào tạo còn hạn chế việc đào tạo còn mang tính chắp vá do chưa được quy hoạch, đào tạo chính quy, thiếu ổn định, thiếu thực tế, kỹ năng, kỹ thuật, kỹ xão lao động chưa cao. Số lượng lao động lớn chủ yếu tập trung ở các ngành như Y tế, giáo dục, tài chính, ngân hàng, còn tình trạng thừa thấy, thiếu thợ, bố trí lao động không đúng với chuyên môn đào tạo công tác tại một số lĩnh vực, thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật… Vấn đề này là một thách thức lớn trong thời gian đến, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay huyện nhà đang kêu gọi các dự án lớn từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp, khu kinh tế mới hình thành một bài toán đặt ra cho lực lượng lao động trong độ tuổi thanh niên của huyện.
- Việc làm của thanh niên ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Vấn đề tạo việc làm cho thanh niên trong giải quyết việc làm luôn được các cấp chính quyền quan tâm, chú trọng, đây là một yếu tố then chốt tạo sự gắn bó giữa thanh niên với tổ chức đặc biệt là thanh niên nông thôn chiếm đa số lực lượng thanh niên trong toàn huyện hiện nay. Để thực hiện tốt nhiệm vụ giải quyết việc làm cho thanh niên trong thời gian qua, địa phương đã triển khai thực hiện tốt đồng bộ nhiều chính chính sách về đạo tạo nghề và giải quyết việc làm như: Chính sách dạy nghề cho thanh niên nông thôn, chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để giải quyết việc làm. Việc đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn từ năm 2007 đến năm 2017, UBND huyện chỉ đạo các xã, thị trấn đã phối hợp với cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện mở 485 lớp đào tạo nghề gồm: may, đan lát, trồng lúa, hoa kiểng, rau màu, ẩm thực…… cho hơn 21.000 lượt thanh niên. Huyện đoàn đã phối hợp mở 11 lớp dạy nghề như: nuôi Heo Nái, trồng cỏ nuôi Bò, nuôi Gà vườn, chăm sóc cây cảnh, lái xe, trồng ném trên cát cho hơn 450 ĐVTN. Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân trên 19 tỷ đồng cho hộ thanh niên vay vốn phát triển sản xuất. Qua đó, nhiều thanh niên đã tranh thủ được nguồn vốn, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỷ thuật và mạnh dạn đầu tư vào các ngành nghề, dịch vụ, thương mại như: dịch vụ Internet, photocopy, in ấn, dịch vụ phục vụ đám cưới, cơ khí, mộc dân dụng, mộc mỹ nghệ, nuôi bò, nuôi lợn siêu nạc, gà Đông tảo, trồng rau sạch, trồng rừng, trồng cao su tiểu điền, nuôi tôm, nuôi cá nước ngọt, xây dựng các mô hình trạng trại…đã đem lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình như các mô hình trang trại tổng hợp VACR của thanh niên có thu nhập bình quân từ 100 – 500 triệu đồng/năm, đây thực sự là những gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên năng động, dám nghĩ, dám làm, đi đầu trong làm kinh tế.
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
2.3.1. Ban hành, tổ chức thực hiện chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Để thực hiện Luật thanh niên đã ban hành các văn bản: Nghị quyết số 25- NQ/TW này 25/7/2008 của hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết 45/NQ-CP ngày 11/9/2009 ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần 7 BCH trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định số 103/2008/QĐ-CP ngày 21/7/2008 của Chính phủ về hỗ trợ thanh niên học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2008-2015; Quyết định số 2160/QĐ- TTg ngày 26/11/2010 của thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án ” Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015; Quyết định 2474/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 vể Phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020; …
Nhằm thực hiện có hiệu quả những nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên tỉnh Quảng Trị trên cơ sở những văn bản quy định của Trung ương, tỉnh Quảng Trị đã thể chế hóa, đồng thời ban hành một số văn bản qui định chế độ, chính sách riêng của địa phương nhằm phát huy vai trò của thanh niên, cụ thể như:
Quyết định số 874/QĐ – UBND ngày 21/5/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị về việc phê duyệt Chương trình phát triển thanh niên tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2012 – 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị;
Chính sách bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ trẻ, có phẩm chất, năng lực theo Nghị quyết số 12/2013/NQ-HĐND ngày 31/5/2013 của HĐND tỉnh về việc quy định một số chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút và tạo nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2013 – 2020;
Quyết định số 23/2013/QĐ-UBND ngày 26/9/2013 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định về chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút và tạo nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2013 – 2020; ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Kế hoạch số 4080/KH-UBND ngày 29/11/2013 của UBND tỉnh Quảng Trị về việc triển khai thực hiện Chương trình phát triển thanh niên tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2013-2015;
Quyết định số 3282/QĐ-UBND ngày 27/11/2017 của UBND tỉnh Quảng Trị về ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn II (2016 – 2020) tỉnh Quảng Trị;
Các văn bản trên với mục tiêu tổng quát: Xây dựng thế hệ thanh niên Quảng Trị phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước, có đạo đức cách mạng, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có trình độ học vấn, nghề nghiệp việc làm; có văn hoá, sức khoẻ, kỹ năng sống và ý chí vươn lên; xung kích, sáng tạo làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến; hình thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh. Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Dựa trên các văn bản chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh Quảng Trị về lĩnh vực quản lý nhà nước về thanh niên, theo đó, các sở ban ngành, UBND các huyện, thành phố của tỉnh cũng đã cụ thể hóa thành các kế hoạch về công tác thanh niên theo ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi mình quản lý và tình hình kinh tế – xã hội tại địa phương.
Trên cơ sở đó UBND huyện đã ban hành các văn bản:
Quyết định 304/QĐ-UBND ngày 22/3/2013 về việc phê duyệt Chương trình phát triển thanh niên huyện Triệu Phong giai đoạn 2012 – 2020.
Kế hoạch số 124/KH-UBND ngày 27/01/2014 về việc triển khai thực hiện Chương trình phát triển thanh niên huyện Triệu Phong giai đoạn 2013- 2015;
Kế hoạch số 646/ KH-UBND ngày 01/8/2012 về viêc triển khai thực hiện chế độ trợ cấp đối với TNXP đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến theo Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg;
Kế hoạch thực hiện Chiến lược PTTN Việt Nam giai đoạn II (2016 – 2020) huyện Triệu Phong. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 11–CTHĐ/HU của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVIII thực hiện Nghị quyết số 25 – NQ/TW của BCH Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
– Kế hoạch số 32/KH-PBGDPL của Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật – Ủy ban Nhân dân huyện Triệu Phong về việc Thực hiện Đề án” Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên” trên địa bàn huyện Triệu Phong;…
Đồng thời hàng năm đều có kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Nhìn chung đến nay, các cơ quan, ban ngành huyện, UBND các xã, thị trấn đều đã triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch của tỉnh, huyện.
Theo báo cáo số liệu thống kê danh mục các văn bản chỉ đạo điều hành thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về thanh niên của Sở Nội vụ qua các năm cho thấy, việc ban hành hành các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên là khá đầy đủ, đã triển khai hầu hết các nội dung hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương.
UBND huyện Triệu Phong đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, UBND các xã, thị trấn tổ chức rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách có liên quan đến thanh niên của các cơ quan, đơn vị và địa phương. Đồng thời trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Sở Nội vụ và các cơ quan chuyên môn, tiến hành tổ chức khảo sát, đánh giá tình hình thanh niên cơ quan, địa phương xây dựng cơ sở dữ liệu về thanh niên huyện Triệu Phong.
Hàng năm, UBND huyện Triệu Phong ban hành văn bản về triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong năm, cụ thể theo nội dung Kế hoạch về thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên và công tác phát triển thanh niên trong năm đó. Để công tác triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên được hiệu quả, các phòng ban, ngành, các đoàn thể chính trị tại huyện đã xây dựng Quy chế phối hợp về triển khai các hoạt động về công tác thanh niên huyện Triệu phong giai đoạn 2013-2015, định hướng đến năm 2020.
Qua thực tiễn nghiên cứu cho thấy việc thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng, các Nghị quyết, chiến lược, chương trình của Chính phủ về thanh niên và công tác thanh niên, tỉnh Quảng Trị nói chung và huyện Triệu Phong nói riêng đã có nhiều nổ lực thông qua ban hành các văn bản triển khai thực hiện. Do đó kết quả của QLNN về thanh niên và công tác thanh niên ở đây khá đồng bộ, hiệu quả. Tuy vậy, trong thực tiễn sự tác động của các chủ trương chưa thực sự mạnh mẽ đến xã hội, Chủ trương chưa cụ thể hóa một cách đồng bộ, thiếu cụ thể, chưa sát với tình hình thực tế của từng địa phương để thanh đổi nhận thức của thanh niên, ngay cả trong đội ngũ cán bộ công chức, viên chức tham gia QLNN về lĩnh vực này. Kết quả khảo sát 100 cán bộ, công chức, viên chức có tham gia QLNN về công tác thanh niên trên đại bàn huyện Triệu Phong cho thấy 42 người (42,0%) cho rằng các văn bản thể chế chương trình công tác thanh niên đã đầy đủ, kịp thời, cụ thể nhưng có đến 58 người (58,0%) cho rằng các văn bản cụ thể hóa chưa đầy đủ, chưa kịp thời và còn thiếu sự hướng dẫn cụ thể.
- Công tác tuyên truyền, vận động ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Qua khảo sát đánh giá nhận thức của của CBCCVC với tư cách là chủ thể QLNN về công tác thanh niên với một số vấn đề như: Nội dung QLNN về công tác thanh niên; sự cần thiết của QLNN về công tác thanh niên; chủ thể QLNN về công tác thanh niên; các điều kiện đảm bảo QLNN về công tác thanh niên; mục tiêu của Chiến lược phát triển thanh niên cho thấy mức độ nhận thức khá cao, họ đã hiểu rõ trong quá trình thực thi công vụ của mình. (Bảng 2.1)
Cụ thể 70% hiểu rõ nội dung, 73% hiểu rõ mục tiêu, 69 % hiểu rõ các điều kiện đảm bảo QLNN về công tác thanh niên. Tuy nhiên vẫn còn không ít CBCCVC tham gia thực hiện công tác QLNN về công tác thanh niên nhưng chưa hiểu, hiểu chưa đến nơi đến chốn mục tiêu 14%, nội dung 16% , sự cần thiết của QLNN về công tác thanh niên 13%, chủ thể QLNN về công tác thanh niên 21%, các điều kiện đảm bảo QLNN về công tác thanh niên 19%, nguồn lực thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên 15% Điều đó cho chúng ta thấy rằng thực trạng chính quyền một số nơi còn trong chờ ỷ lại nhà nước trong thực hiện đầu tư đối với công tác thanh niên, chưa huy động nguồn lực từ xã hội hóa hay chưa coi trọng vai trò của thanh niên trong QLNN về công tác thanh niên. Qua đó cũng lý giải được rằng công tác thanh niên một số nơi chưa thực sự thành công, còn mạng nặng tính phong trào.
Đối với thanh niên, với tư cách là đối tượng quản lý, đồng thời là lực lượng được hưởng lợi từ chính sách công tác thanh niên, chiến lược phát triển thanh niên thì mức độ nhận thức còn nhiều hạn chế, đối tượng này chưa thực sự hiểu hết nhưng nội dung nội dung liên quan đến QLNN về công tác thanh niên tại địa phương
Từ kết quả (Bảng 2.2) cho thấy có đến 44.5% chưa hiểu rõ nội dung, 41% chưa hiểu rõ sự cần thiết của QLNN về công tác thanh niên, 51% chưa hiểu rõ chủ thể QLNN về công tác thanh niên, 54% chưa hiễu rõ các điều kiện đảm bảo QLNN về công tác thanh niên, 48.5% chưa hiễu rõ nguồn lực thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên, 47% chưa hiễu rõ nguồn lực thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên. Từ đó thấy được công tác tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách liên quan đến công tác thanh niên của chính quyền các cấp chưa được chú trọng, chưa thực sự triển khai sâu rộng, công tác vận động thanh niên tham gia thiếu thường xuyên, thiếu cụ thể. Qua đó thanh niên chưa chủ động phát huy thế lực, năng lực, công sưc của mình, chưa tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội…, thậm chí còn xem đây là trách nhiệm của nhà nước dẫn đến làm cho hiêu quả của công tác thanh niên có những hạn chế nhất định
- Phân tích kết quả cho thấy: ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Có 91/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 45.5% không hài lòng với việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên hiện nay. Điều đó cho thấy rằng việc thực hiện một số chính sách chưa được cụ thể hóa ở một số địa phương, mốt số chương trình đề ra nhưng chưa được tổ chức thực hiện, sự phối hợp giữa các ban ngành thiếu chặt chẽ. Các chính sách cho thanh niên chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế và tình hình phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Hầu hết công chức phụ trách công tác thanh niên tại các phòng, ban, ngành và UBND các xã, thị trấn đều phải kiêm nhiệm nhiều công tác khác nhau. Do đó, việc xây dựng cơ chế, chính sách cho thanh niên còn mờ nhạt, chưa được quan tâm đúng mức, chưa đi vào chiều sâu và chất lượng chưa cao.
2.3.2. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức làm công tác thanh niên
- Xây dựng tổ chức bộ máy QLNN về công tác thanh niên
Thực hiện các quy định của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ và Bộ Nội vụ, UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành Quyết định về bổ sung chức năng nhiệm vụ cho Sở Nội vụ, đã ban hành Quyết định về thành lập phòng công tác thanh niên trực thuộc Sở Nội vụ để tham mưu UBND tỉnh QLNN về CTTN.
Ngoài ra để việc triển khai thực hiện Thông tư 04/2011/TT-BNV ngày 16/02/2011 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc UBND cấp huyện về công tác thanh niên. Phòng Nội vụ đã bố trí 01 biên chế chuyên trách để thực hiện nhiêm vụ QLNN về thanh niên.
Đối với cấp xã: Thực hiện Thông tư số 06/TT-BNV ngày 30/10/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức cấp xã. UBND tỉnh đã ban hành các quyết định về giao số lượng chức danh cán bộ công chức cấp xã và bổ sung chức năng QLNN về thanh niên trên địa bàn cho UBND cấp xã.
Chất lượng đội ngũ công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện tính đến ngày 31/12/2017 được đánh giá trên các số liệu thống kê của Phòng Nội vụ huyện (Phụ lục 4) tổng số công chức hiện có là 94 người. Trong đó số công chức có trình độ Đại học, Thạc sĩ là 88 người chiếm tỷ lệ 93,5%. Qua nghiên cứu trình độ chuyên môn đội ngũ công chức năm 2017, cho ta thấy, phần lớn đội ngũ công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện Triệu Phong đã chuẩn hóa về mặt trình độ chuyên môn, còn lại 5,6% có trình độ trung cấp chủ yếu do tuổi đời lớn gần nghĩ hưu do đó không có nhu cầu để đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn.
Với trình độ chuyên môn của nhóm này, trong quá trình giải quyết công việc, năng lực chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ trong lúc thực thi công vụ sẽ còn hạn chế nên việc nắm bắt các văn bản, những quy định của Pháp luật liên quan đến công việc còn thiếu kịp thời, đôi lúc lung túng trong khi áp dụng pháp luật vào một số trường hợp cụ thể và vẫn còn tình trạng công chức có trình độ đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Việc chuẩn hóa ngạch chuyên viên, chuyên viên chính cho cán bộ công chức, viên chức sao cho phù hợp với vị trí việc làm là điều rất quan trọng. Các khóa bồi dưỡng QLNN nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công vụ góp phần triển khai các văn bản QLNN một cách hiệu quả, để bổ sung những năng lực cần thiết cho công chức, giúp học có khả năng hoàn thành tốt chức trách của mình. Qua (Phụ lục 4) số liệu thống kê cho thấy số lượng công chức đã qua bồi dưỡng QLNN từ chuyên viên trở lên có đến 71,3% cán bộ, công chức, nhưng vẫn còn gần 30% cán bộ, công chức chưa được bồi dững trình độ QLNN. Điều này có ảnh hưỡng không nhỏ trong hoạt động điều hành công việc của CBCC.
Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã liên quan đến QLNN về công tác thanh niên tính đến ngày 31/12/2017 dựa trên các số liệu thống kê của Phòng Nội vụ huyện gồm 18 xã và 01 thị trấn. Tổng số công chức cấp xã của huyện là 205 người, bao gồm các chức danh: Trưởng Công an, Trưởng Quân sự, Văn phòng – Thống kê, Địa chính – Xây dựng, Tài chính – Kế hoạch, Tư pháp – Hộ tịch, Văn hóa – Xã hội.
Qua (Phụ lục 5) cho thấy trong tổng số 205 công chức cấp xã, trong đó có trình độ đại học là 149 người chiếm tỷ lệ 72,7% công chức có trình độ trung cấp, sơ cấp và chưa qua đào tạo là 43 người chiếm tỷ lệ 21%. Qua phân tích số liệu cho thấy trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công chức xã ở trình độ đại học chiếm tỷ trọng lớn. Số lượng công chức xã có trình độ đại học ngày càng tăng và ở trình độ trung cấp ngày càng giảm dần. Tóm lại, so với yêu cầu công tác vẫn còn một khoảng cách nhất định, do phần lớn công chức cấp xã có trình độ đào tạo với loại hình đào tạo từ xa, phần lớn chuyên ngành Luật, chuyên ngành về Hành chính còn rất ít. Điều này ảnh hưởng đến nhận thức và hành động của công chức cấp xã đối với công tác QLNN về công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Để củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ QLNN về thanh niên, theo Thông tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31/10/2014 của Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh; Phòng Nội vụ thuộc UBND cấp huyện. Ngay sau khi có hướng dẫn của Sở Nội vụ tỉnh Quảng Trị về nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên, UBND huyện tiếp tục bố trí 01 công chức phụ trách công tác thanh niên tại Phòng Nội vụ. Các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện và các ban ngành cũng đã phân công 01 lãnh đạo và 01 công chức phụ trách công tác thanh niên tại đơn vị mình. Tại các xã, thị trấn đã phân công 01 lãnh đạo và 01 công chức VP-TK phụ trách công tác quản lý nhà nước về thanh niên.
Công tác thanh niên là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị, tuy nhiên cấp xã là cấp cơ sở, có vai trò hết sức quan trọng, là nơi tiếp nhận và truyền đạt, triển khai và tổ chức thực hiện đến từng đối tượng thanh niên về mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thanh niên, nắm bắt tình hình thực tế, tâm tư, nguyện vọng của thanh niên. Vì vậy chất lượng cán bộ công chức các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước, đăc biệt là cán bộ có liên quan thực hiện QLNN về công tác thanh niên có vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định thành công của chương trình. Trong điều kiện trình độ nhận thức của thanh niên ngày càng nâng cao, tính chất quản lý ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi việc QLNN cần phải khoa học, nên cán bộ phụ trách cần phải có trình độ, cập nhật kiến thức để giải quyết được hoặc ít ra cũng biết được thủ tục và cách giải quyết nhiều vấn đề khác nhau trực tiếp phát sinh ở cơ sở để hướng dẫn cho thanh niên thực hiện, hạn chế sự lúng túng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ của các cấp trong triển khai thực hiện Chương trình. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Qua thống kê trình độ cán bộ công chức liên quan trực tiếp đến QLNN về công tác thanh niên ở (Bảng 2.3)cho thấy: Có 100% cán bộ công chức có trình độ đại học trở lên ở cấp huyện, trong khi đó đối với cấp xã chỉ có 53,3% còn lại là trình độ cao đẳng, trung cấp. Với trình độ bộ máy phụ trách tại huyện Triệu Phong cơ bản đáp ứng yêu cầu của công việc quản lý điều hành. Tuy nhiên đội ngũ công chức cấp xã trực tiếp thực hiện các nội dung Chương trình một cách cụ thể khá yếu cần tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cụ thể. Cần đẩy mạnh thực hiện Quyết định số 23/2013/QĐ-UBND ngày 26/9/2013 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định về chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút và tạo nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2013 – 2020.
- Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên
Thực hiện Quyết định số 303/QĐ-BNV ngày 09/4/2012 của Bộ Nội vụ về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh niên các cấp, các ngành giai đoạn 2011- 2015. UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành Quyết định số 405/QĐ-UBND ngày 03/4/2013 phê duyệt Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Trị năm 2013 và Quyết định số 349/QĐ- UBND ngày 28/3/2013 của UBND tỉnh phê duyệt Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã năm 2013 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ và giao Sở Nội vụ phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng mềm cho cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện, xã, trong đó tập trung chủ yếu cho đối tượng cán bộ, công chức trẻ. Đến nay, đã mở 02 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về thanh niên cho 340 công chức trực tiếp tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, huyện và công chức Văn phòng – Thống kê cấp xã và Bí thư, Phó Bí thư huyện Đoàn, Đoàn trực thuộc. Tại huyện, UBND huyện Triệu Phong đã phối hợp với Sở Nội vụ mở lớp tập huấn cho 105 công chức trực tiếp tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên của các phòng, ban chuyên môn thuộc UBND huyện, Chủ tịch UBND xã, Phó Chủ tịch UBND xã và công chức Văn phòng – Thống kê cấp xã, nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức trực tiếp tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên. Bên cạnh đó, Huyện đoàn Triệu Phong cũng đã thường xuyên mở các lớp huấn luyện kỹ năng, nghiệp vụ công tác Đoàn và phong trào thanh niên cho đội ngủ ban chấp hành Đoàn các xã, thị trấn và Đoàn trực thuộc. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Qua hoạt động tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ công chức làm công tác thanh niên, bước đầu đã góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác thanh niên cũng như hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Cán bộ công chức làm công tác thanh niên, đặc biệt là cán bộ Đoàn, Hội các cấp đã thể hiện vai trò thủ lĩnh trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên; tích cực vận động đoàn viên, thanh niên xung kích đi đầu, đảm nhận thực hiện những việc khó việc mới, đã có nhiều công trình, phần việc thanh niên được triển khai thực hiện có hiệu quả, mang lại lợi ích dân sinh thiết thực.
Kết quả khảo sát cán bộ, công chức về mức độ tự cập nhật các kiến thức, kinh nghiệm, văn bản liên quan đến công tác thanh niên cho thấy trong tổng số 100 người được khảo sát có 68 người (68%) thường xuyên cập nhật; 23 người (23%) ít cập nhật; 9 người (9%) không cập nhật.
Về mức độ tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến lĩnh vực công tác thanh niên trong tổng số 100 người được khảo sát có 16 người (16%) cho rằng họ được tham gia tập huấn đào tạo, bồi dưỡng định kỳ hằng năm; 31 người (31%) chỉ được tham gia tập huấn đào tạo, bồi dưỡng khi có dự án tài trợ; 27 người (27%) chưa được tham gia tập huấn đào tạo, bồi dưỡng dưới mọi hình thức.
Khảo sát về mức độ hào hứng, gắn bó với nhiệm vụ QLNN về công tác thanh niên trong tổng số 100 người được khảo sát có 29 người (29%) rất hào hứng, rất yêu thích; 38 người (38%) yêu thích công việc này; 8 người (8%) không yêu thích công việc này
Khảo sát về mức độ hiểu biết về Luật thanh niên trong tổng số 100 người được khảo sát có 34 người (34%) đã hiểu rõ, hiểu sâu Luật thanh niên; 29 người (29 %) hiểu ở mức độ sơ sài; 37 người (37%) chưa bao giờ đọc.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, công chức xã vốn đã yếu kém nhiều mặt, nhất là vấn đề đào tạo ban đầu, ít được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ về QLNN nên kỹ năng giải quyết các công việc, thực thi nghiệp vụ QLNN có liên quan ở cơ sở có nhưng hạn chế nhất định. Kết quả khảo sát bộc lộ công tác đào tạo, đào tạo bồi dưỡng, hiểu biết về chính sách, pháp luật CBCCVC tham gia trực tiếp công tác thanh niên chưa được chú trọng đúng mức. Tỷ lệ đào tạo, bồi dưỡng, xữ lý nghiệp vụ, cập nhật kiến thức kỹ năng… liên quan đến lĩnh vực này còn rất thấp. Do đó ảnh hưởng lớn đến kết quả về công tác thanh niên, thậm chí vai trò QLNN về công tác thanh niên thiếu chú trọng, phó mặt cho Đoàn, Hội thanh niên. Cho nên dẫn đến việc hài lòng của thanh niên trong lĩnh vực này còn thấp.
2.3.3. Quản lý nhà nước về thực hiện chính sách đặc thù cho thanh niên ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Chính sách vay vốn đào tạo nguồn nhân lực
Chính sách hỗ trợ vay vốn đối với học sinh, sinh viên thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục, với những đối tượng học sinh, sinh viên thuộc diện khó khăn, qua đó cũng cho thấy vai trò của nhà nước trong việc phân phối lại thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội
Đề thay đổi cũng như giải quyết các vấn đề còn tồn đọng ngày 27 tháng 9 năm 2007 chính phủ ra quyết định số: 157/2007/QĐ-TTg mới thay thế cho nghị định 107/2007/QĐ-TTg trong đó đã có nhiều điều hoản rõ ràng, cụ thể và hợp lý hơn trước. Ví dụ như tăng số tiền vay từ 300.000 lên 800.000 đồng / tháng và lãi suất 0.5%/tháng. Ngoài ra quy định rõ thời gian trả nợ là 9 năm( với sinh viên học hệ 4 năm). Bên cạnh đó chính phủ cũng có những văn bản quy định hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quá trình cho vay và giải ngân vốn tại địa phương thông qua ngân hàng chính sách. Các thủ tục vay vốn rất đơn giản, không cần thế chấp. Tiếp đó mức vay được điều chỉnh lên lên 1.250.000 đồng / tháng, rồi đến 1.500.000 đồng/tháng kể từ ngày 15/6/2017.
Trong thời gian qua công tác QLNN về thực hiện chính sách vay vốn đào tạo nguồn nhân lực được các cơ quan, đơn vị tại Triệu Phong được thực hiện tốt theo quy định. Chính sách cũng thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong việc giải quyết vấn đề bỏ học và những khó khăn xoay quanh vấn đề vật chất phục vụ học tập của học sinh, sinh viên. có ý nghĩa cả về kinh tế, chính trị và xã hội, hợp lòng dân, tạo được sự đồng thuận cao của các ngành, các cấp, cả cộng đồng. Điều đó khẳng định chủ trương của Đảng, chính sách của Chính phủ về tín dụng đối với học sinh sinh viên là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát triển của xã hội.
Tuy vậy sự phối hợp giữa các cấp ủy chính quyền và Ngân hàng Chính sách còn thiếu chặt chẽ ở một số địa phương. Vì vậy, một số địa phương còn chưa chú trọng đến việc quản lý, sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và đặc biệt là về trách nhiệm trả nợ tiền vay khi đến hạn
Ngoài ra, tình trạng ỷ lại vào tín dụng chính sách của một bộ phận người dân ở một số địa phương có xu hướng gia tăng. Điều này đặt ra việc thực hiện các giải pháp đồng bộ, nhằm nâng cao ý thức của người dân, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổ trưởng Tổ tiết kiệm-vay vốn, phát huy hơn nữa vai trò của các hội, đoàn thể và sự tham gia cụ thể, hiệu quả, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các ngành liên quan. Hiện nay, quy định không buộc học sinh sinh viên phải báo cáo kết quả vay vốn cho nhà trường, công tác phối hợp giữa các ngân hàng chính sách xã hội với các trường chưa đồng bộ nên trường chưa có đầy đủ thông tin hai chiều về việc triển khai chương trình. Bộ phận quản lý gặp khó khăn trong việc theo dõi và nắm bắt số liệu chính xác để tổng hợp, báo cáo hàng năm.
Phân tích kết quả cho thấy: ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Có 154/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 77% hài lòng với việc thực hiện chính sách về vay vốn đào tạo nguồn nhân lực trong thanh niên hiện nay. Qua đó thấy được rằng sự quan tâm của Chính phủ đã đưa lại cơ hội học tập, nâng cao trí tuệ cho các bạn trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.
- Chính sách vay vốn giải quyết việc làm và khởi nghiệp
Tính đến cuối năm 2017, số thanh niên trong độ tuổi lao động của huyện Triệu Phong là 26,3 ngàn người, chiếm hơn 44% lực lượng lao động. Tuy nhiên, chất lượng lao động thấp (chỉ có 20,7% thanh niên nông thôn đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ), việc làm thiếu bền vững (43,2% thanh niên nông thôn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp; 51,1% thanh niên nông thôn là lao động tự làm và lao động gia đình không hưởng lương), hơn 2/3 số người thất nghiệp là thanh niên, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên cao gấp 3 lần tỷ lệ thất nghiệp chung. Mức độ thất nghiệp của thanh niên có xu hướng tăng dần theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Trước những khó khăn, hạn chế trên, các ngành liên quan đã kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác hỗ trợ khởi nghiệp và tạo việc làm bền vững cho thanh niên. Bên cạnh đó, cần giải pháp gỡ bỏ các rào cản thủ tục hành chính về vốn vay đối với thanh niên, thúc đẩy việc thực hiện chương trình thanh niên khởi nghiệp giai đoạn 2016-2021; kết nối giữa thanh niên khởi nghiệp, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước; hoàn thiện các chính sách, pháp luật liên quan đến khởi nghiệp, việc làm, đặc biệt là chính sách cho vay tín dụng… Cần xây dựng kế hoạch, định hướng trong việc thúc đẩy phát triển mạng lưới các đơn vị cố vấn, tư vấn, cung cấp các dịch vụ quản trị cho các doanh nghiệp trẻ khởi nghiệp.
Qua bảng số liệu ở (Phụ lục 6) cho thấy về vấn đề vay đối với hộ thanh niên được quan tâm hổ trợ bằng cách cha mẹ người đại diện cho thanh niên trong gia đình đứng ra vay vốn giúp thanh niên phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm. Bên cạnh đó việc thanh niên trực tiếp vay vốn đang còn nhiều hạn chế về số lượng, vay vốn cho thanh niên khởi nghiệp chưa được triển khai thực hiện. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Phân tích kết quả cho thấy:
Có 150/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 75% không hài lòng với việc thực hiện chính sách về vay vốn giải quyết việc làm, khởi nghiệp thanh niên hiện nay. Điều đó cho thấy chính sách tín dụng giành cho đối tượng là thanh niên chưa được tiếp cạnh, một số thủ tục, điều kiện, hồ sơ vay vốn khá rờm rà làm cho thanh niên ngại tiếp cận để vay vốn… Cần tăng cường tuyên truyền, trợ giúp của các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời thay đổi một số quy định, để thanh niên dễ tiếp cận được nguồn vốn.
- Chính sách hướng nghiệp và đào tạo nghề cho thanh niên
Hướng nghiệp và đào tạo nghề là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị để bảo đảm yêu cầu nguồn nhân lực trong thời gian tới. ngành GDĐT thực hiện phân luồng học sinh với dự kiến sau tốt nghiệp THCS, 70,0% học sinh vào học lớp 10 THPT, 30,0% còn lại vào học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề. Việc phân luồng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục bậc THPT, đồng thời những học sinh có sức học hạn chế tìm cho mình hình thức học nghề. Công tác phân luồng và hướng nghiệp cho học sinh, trong thời gian qua đã được các nhà trường quan tâm, tuy nhiên kết quả đạt được chưa được như kỳ vọng. Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông cũng được các trường học quan tâm, song còn mang tính hình thức. Tâm lý của nhiều học sinh và phụ huynh chọn một con đường là thi vào đại học và chọn ngành có lương cao hoặc các ngành thi dễ đỗ. Thống kê số lượng tuyển sinh năm 2017, mặc dù có giảm 10,0% so với năm 2016, nhưng vẫn có gần 39,0% thí sinh đăng ký dự thi các ngành quản lý kinh tế, tài chính, ngân hàng. Trong khi đó, những ngành như: Sư phạm, y, dược, nông lâm ngư nghiệp, kỹ thuật rất cần lao động, nhưng lại ít thí sinh dự thi. Có thể nói, hướng nghiệp cho học sinh hiện nay chưa gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn cho thấy việc học sinh tự lựa chọn nghề nghiệp một cách cảm tính, tự phát thường không phù hợp với xu thế phát triển sản xuất và ngành nghề lao động mà xã hội đặt ra vậy, giáo dục phải có những tác động trong quá trình hướng nghiệp, phải hướng học sinh lựa chọn nghề nghiệp theo được nhu cầu của thị trường lao động và định hướng phát triển kinh tế hiện nay.
Thực tế tại Triệu Phong đang phải đối mặt với sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo sau phổ thông hiện nay. Trong số những người từ 15 tuổi trở lên đang theo học các trường chuyên nghiệp trên toàn quốc, có tới hơn 53,0% hiện đang theo học các trường đại học và trên đại học. Nếu gộp cả số người đang học cao đẳng với nhóm đang học ở trình độ đại học và trên đại học thì đội ngũ này sẽ chiếm gần 80,0%. Sự mất cân bằng trong cơ cấu đào tạo sau phổ thông dẫn đến hệ quả tất yếu là định hướng đào tạo cho thanh niên không theo sát nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Có hai lý do cho sự mất cân bằng này là: Áp lực “vào đại học” luôn là tâm lý đè nặng trong xã hội ta hiện nay; Các trường trung cấp chuyên nghiệp chưa hấp dẫn được đối với người theo học. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Phân tích kết quả cho thấy:
Có 106/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 53% không hài lòng với việc thực hiện chính sách hướng nghiệp, đào tạo nghề thanh niên hiện nay. Qua đó chứng tỏ rằng trong thời gian qua công tác hướng nghiệp, đào tạo nghề được các cơ quan ban ngành ở huyện quan tâm triển khi thực hiện, song thực tế công tác hướng nghiệp chưa đi vào chiều sâu, còn mang nặng hình thức, công tác đào tạo nghề khả năng, đa phần chỉ dừng lại ở sơ cấp nghề do trung tâm GDNN-GDTX thực hiện theo hình thức ngắn hạn. Điều đó chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của thanh niên tại địa phương.
- Chính sách thực hiện nghĩa vụ Quân sự
Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ quân sự là trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp … Những công dân đến tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự cần thực hiện tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc.
Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, mỗi gia đình cần động viên, giáo dục, khuyến khích con em mình nhận thức đúng về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với đất nước, tích cực tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi quy định. Mỗi đoàn viên thanh niên huyện Triệu Phong luôn ý thức được vai trò và trách nhiệm của bản thân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, từng bước hiện thực khẩu hiệu hành động: “Tuổi trẻ Việt Nam xây hoài bão lớn, rèn đức, luyện tài, đoàn kết, sáng tạo, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Từ đó, xác định rõ trách nhiệm của bản thân trong việc rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng để phục vụ Tổ quốc và Nhân dân. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Mức hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự từ ngày 12/02/2017 được thực hiện theo quy định tại Thông tư 43/2016/TT- BLĐTBXH hướng dẫn chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, công an, thanh niên tình nguyện hoàn thành dự án phát triển kinh tế – xã hội bắt đầu có hiệu lực thi hành.
Theo đó, các đối tượng nêu trên có nhu cầu đào tạo nghề trình độ sơ cấp đáp ứng điều kiện và được cấp thẻ đào tạo nghề được cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiếp nhận, tổ chức đào tạo và chi hỗ trợ như sau: Chi hỗ trợ đào tạo theo Điều 10 Thông tư 152/2016/TT-BTC; Mức hỗ trợ tiền ăn: 30.000 đồng/người/ngày thực học; Mức hỗ trợ tiền đi lại: 200.000 đồng/người/khóa học nếu địa điểm đào tạo ở xa nơi cư trú từ 15km trở lên.
Qua bảng số liệu ở (Phụ lục 7) cho thấy số lượng thanh niên chỉ có 30,4 % tham gia đào tạo nghề; gần 40% thanh niên xuất ngũ chưa có việc làm ổn định; chỉ có 10,4% thanh niên sau khi xuất ngũ được bố trí vào các cơ quan, tổ chức. Điều đó cho chúng ta thấy được rằng quyền lợi của thanh niên xuất ngũ được hưởng chính sách trợ cấp về đào tạo nghề, tuy nhiên việc tranh thủ chính sách này của thanh niên còn quá thấp. Các cơ quan tổ chức thiếu quan tâm, bố trí thanh niên hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương.
Phân tích kết quả cho thấy:
Có 106/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 53% không hài lòng đối với Chính sách thực hiện nghĩa vụ quân sự . Điều đó thể hiện công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách giúp thanh niên hiểu được quyền và trách nhiệm của thanh niên khi tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự chưa thấu đáo.
Trong thời gian tới muốn nâng cao ý thức chấp hành Luật NVQS, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là ở các xã khó khăn. Các cấp, ngành, địa phương quan tâm làm tốt chính sách hậu phương quân đội, như hỗ trợ gia đình quân nhân khó khăn; tổ chức dạy nghề và bố trí việc làm cho quân nhân sau khi xuất ngũ trở về địa phương… Cơ quan quân sự các cấp cần thường xuyên cập nhật những văn bản pháp luật, các chỉ thị, nghị quyết của cấp có thẩm quyền để kịp thời triển khai, áp dụng vào tình hình thực tế của địa phương; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật ở cơ sở.
- Chính sách phòng chống tệ nạn xã hội ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Hiện nay, công tác phòng, chống tệ nạn xã hội đang được toàn xã hội quan tâm và chú trọng thực hiện. Là lực lượng xung kích, các cấp bộ Đoàn trên địa bàn huyện trong những năm vừa qua đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng tổ chức các hoạt động tuyên truyền, xây dựng các mô hình và giải pháp phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội (TNXH) góp phần nâng cao nhận thức của ĐVTN về tác hại của ma túy, mại dâm, HIV/AIDS… Qua đó nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp trong công tác quản lý, giáo dục ĐVTN, từng bước đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Công tác phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm luôn được các cấp bộ đoàn trong toàn huyện xác định là nhiệm vụ trọng tâm, do đó đã có nhiều hoạt động nâng cao nhận thức của ĐVTN và nhân dân trong phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Chính quyền, Đoàn thanh niên các cấp đã tổ chức tuyên truyền thông qua các hội thi, chương trình giao lưu, tọa đàm; xây dựng mô hình can thiệp tại cộng đồng, xây dựng các CLB thanh niên tham gia công tác phòng, chống ma túy, HIV/AIDS. Tuy vậy hiện nay tệ nạn ma túy trong thanh niên có xu thế ngày càng gia tăng.
Qua bảng số liệu ở (Phụ lục 8) cho thấy có 10/11 (chiếm tỷ lệ 91%) người tham gia cai nghiện tai nhà, có 11/11 (chiếm tỷ lệ 100%) người nghiện ma túy không được tham gia dạy nghề, tạo việc làm, vay vốn điều đó chứng tỏ rằng công tác thực hiện chính sách cho người bị nghiện ma túy chưa được chú trọng.
Phân tích kết quả cho thấy:
Có 144/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 72% không hài lòng với việc thực hiện chính sách về phòng chống tệ nạn trong thanh niên hiện nay. Để khắc phục tình trạng trên cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, thực hiện các chủ trương chính sách, quan tâm đầu tư kinh phí thực hiện chương trình phòng chống tệ nạn xã hội chung và may túy nói riêng. Vận động các gia đình có người bị nghiện ma túy đưa đối tượng cai nghiện vào cơ sở cai nghiện vì cai nghiện tại cộng đồng tỷ lệ thành công vô cùng thấp. Trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư xây dựng các khu vui chơi giải trí lành mạnh cho thanh thiếu niên góp phần giảm thiểu tệ nạn xã hội.
2.3.4. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và đầu tư xây dựng các khu vui chơi giải trí cho thanh niên ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Vui chơi giải trí là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của con người, đặc biệt là đối với thanh niên. Các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh ngoài việc rèn luyện cho thế hệ trẻ những phẩm chất cơ bản về trí tuệ, đạo đức, thể chất còn đóng vai trò quan trọng không kém so với các hoạt động thiết yếu khác như bổ sung dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe thế hệ trẻ. Thực tế, khu vui chơi, giải trí lành mạnh cho thanh niên ở địa phương còn lắm trăn trở. Thời gian qua, các cấp, ngành đặc biệt quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất văn hóa, thể thao, trong đó có việc đầu tư khu vui chơi cho thanh thiếu niên. Nhiều dự án dành cho thanh thiếu niên đã được xây dựng trên địa bàn huyện như: Trung tâm thể dục, thể thao huyện; Trung tâm văn hóa thông tin huyện; sân bóng đá cỏ nhân tạo; trung tâm văn hóa của các xã, thị trấn; nhà văn hóa thôn, khu dân cư; khu vui chơi sân thể dục thể thao ở các trường học…
Các hoạt động vui chơi dành cho thanh thiếu niên trên địa bàn huyện thường tập trung tại các khu trung tâm. Phần lớn các khu này sử dụng sân bãi cơ quan, công trình văn hóa và mang tính đơn giản, tạm bợ. Trong hệ thống giáo dục hiện nay, các trường học trên địa bàn huyện đều được trang bị cơ sở vật chất tối thiểu để phục vụ cho tổ chức hoạt động giáo dục, vui chơi, giải trí cho học sinh. Ngoài các mô hình sân chơi như: bãi tập thể dục, thư viện, sân bãi có cây xanh bóng mát, một số trường học có nguồn ủng hộ từ các đoàn thể, xã hội, doanh nghiệp đã xây dựng thêm phòng đồ chơi, trò chơi vận động ngoài trời, hoa kiểng… Đặc biệt, Ban Thường vụ huyện Đoàn và Nhà Thiếu nhi huyện thường xuyên tổ chức các hoạt động vui chơi, tranh tài cho thanh thiếu nhi trên địa bàn toàn huyện.
Qua phân tích số liệu ở (Phụ lục 9) cho thấy việc đầu tư xây dựng được quan tâm đầu tư nhiều ở thị trấn, xã Nông thôn mới, các trường học huy động được nguồn xã hội hóa của phụ huynh học sinh, các nhà hão tâm; các xã vùng khó ít được chú trọng đầu tư
Phân tích kết quả cho thấy:
Có 110/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 55% không hài lòng với việc đầu tư xây dựng khu vui chơi giải trí lành mạnh cho thanh niên hiện nay. Điều đó cho thấy rằng, công tác phối hợp giữa các ngành về đầu tư xây dựng các khu vui chơi, giải trí cho thanh thiếu niên còn thiếu đồng bộ, chưa có sự quan tâm đúng mức, đặc biệt là địa bàn các xã vùng khó khăn. Đa số các địa phương ngoài sân trường, nhà văn hóa được tận dụng làm khu vui chơi ngoài trời cho thanh thiếu niên, các xã chưa có khu vui chơi đặc trưng riêng. Nếu so với thanh thiếu niên ở thị trấn thì lực lượng này ở nông thôn thiếu thốn hơn rất nhiều về mặt giải trí. Trong thời gian tới các xã cần kêu gọi đầu tư cho lĩnh vực này. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Thực tế cho thấy, các hoạt động phục vụ cho thanh thiếu niên đều là hình thức dịch vụ. Nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực này không nhỏ nhưng thu hồi chậm, lợi nhuận thấp nên tư nhân chưa mạnh dạn đầu tư. Bên cạnh đó, dù công tác xã hội hóa đầu tư xây dựng cơ sở vui chơi cho thanh thiếu niên đã được các xã quan tâm, nhưng còn ràng buộc bởi quy định phải là doanh nghiệp mới được ưu đãi về thuế. Điều này đã làm hạn chế việc thu hút vốn.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ tại các cơ sở vui chơi giải trí chủ yếu là kiêm nhiệm (giáo viên, cán bộ đoàn, công chức văn hóa – xã hội), kinh nghiệm, kỹ năng và năng lực chuyên môn còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc hướng dẫn các kỹ năng về tổ chức, hoạt động vui chơi giải trí cho thanh thiếu niên trên các địa bàn.
Tại các địa phương, việc quy hoạch đầu tư còn mang tính chất lồng ghép, chưa có sự phân định chi tiết. Một số công trình của địa phương được đầu tư xây dựng, lồng ghép vào phục vụ vui chơi giải trí cho thanh thiếu niên như: nhà văn hóa xã, thôn, trung tâm văn hóa – thể thao xã, hội trường văn hóa xã, thị trấn nhưng thiếu các thiết bị vui chơi phù hợp lứa tuổi nên không thu hút viêc đến sinh hoạt, vui chơi.
Cần có chính sách ưu đãi về thuế cho cá nhân, tổ chức không phải là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vui chơi giải trí thanh thiếu niên; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm làm công tác này trên địa bàn huyện, xã; đầu tư thiết bị đồ chơi ngoài trời đúng chuẩn, có chất lượng, nhằm đảm bảo sử dụng lâu dài; đầu tư xây dựng nhà tập đa năng cho các đơn vị trường học.
2.3.5. Hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên
Để thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa tỉnh Quảng Trị và các tỉnh của Lào ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết 06-NQ/TU, ngày 12/12/2006, Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 25/7/2017; trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã ban hành các Đề án, Kế hoạch để đẩy mạnh khai thác tiềm năng, lợi thế Hành lang kinh tế Đông Tây, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, trong đó có nước bạn Lào. UBND tỉnh, các ngành chức năng đã xây dựng kế hoạch chi tiết nhằm triển khai hợp tác hiệu quả với các tỉnh bạn Lào; cung cấp thông tin liên quan đến lĩnh vực thương mại, công nghiệp cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp của tỉnh bạn Lào đến khảo sát, tìm kiếm cơ hội liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh tại Quảng Trị. Tỉnh đã tổ chức nhiều đoàn công tác khảo sát, hợp tác đầu tư trồng rừng phát triển vùng nguyên liệu tại Lào và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xuất, nhập khẩu còn tồn đọng hàng hóa tại 02 tỉnh Salavan và Savanakhet. Hợp tác và hỗ trợ các huyện của bạn có chung biên giới phát triển thương mại biên giới, quy hoạch hệ thống chợ dọc đường biên giới nhằm tăng cường giao thương của nhân dân 2 nước; tham dự hội nghị biên mậu thường niên với nước bạn Lào; nghiên cứu xây dựng cơ sở hạ tầng như: kho hàng hoá, các trung tâm phân phối những mặt hàng mà tỉnh có lợi thế tại các tỉnh bạn Lào. Thường xuyên tổ chức các đoàn tham gia hoạt động xúc tiến, quảng bá, hội nghị, hội thảo du lịch, thương mại và đầu tư với các tỉnh bạn Lào. Tiếp tục thực hiện mô hình “Một cửa – một lần dừng”về vận chuyển người, hàng hóa qua lại biên giới tại cặp Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và Đensavẵn. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cập nhật tình hình hoạt động và hỗ trợ các doanh nghiệp Quảng Trị SXKD, hợp tác đầu tư hiệu quả tại Lào. Tính đến nay, tỉnh Quảng Trị có 5 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 167 triệu USD tại hai tỉnh bạn Lào; nhiều doanh nghiệp của tỉnh đã đầu tư, triển khai thành công bước đầu nhiều dự án trên đất bạn, như: Tổng công ty TNHH MTV Thương mại Quảng Trị, Công ty TNHH MTV Cao su Quảng Trị… ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Trong điều kiện còn khó khăn về nguồn lực nhưng hàng năm, Quảng Trị cũng đã trích ngân sách hơn 04 tỷ đồng cho để hỗ trợ công tác giáo dục, đào tạo; hỗ trợ kinh phí trên 12 tỷ đồng giúp bạn nâng cấp và xây dựng một số cơ sở giáo dục, y tế, công trình phúc lợi xã hội tại một số địa bàn khó khăn của hai tỉnh bạn.
Việc hợp tác trên lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực giữa tỉnh Quảng Trị và các tỉnh bạn Lào tiếp tục chuyển biến tích cực. Hình thức hợp tác đào tạo chủ yếu vẫn tập trung vào trao đổi giáo viên giữa các trường, đào tạo lý luận chính trị, hành chính, tiếng Việt cho cán bộ, học sinh, sinh viên của 2 tỉnh bạn. Trường Chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng Trị tiếp tục hợp tác với Trường Chính trị và quản lý nhà nước của 2 tỉnh Savannakhet và Salavan hỗ trợ nhau về trao đổi nghiệp vụ và đào tạo lý luận chính trị trung cấp cho cán bộ của 2 tỉnh. Từ năm 2008 đến nay, đã đào tạo 6 khóa Trung cấp Lý luận chính trị-hành chính cho 300 học viên tỉnh Savannakhet và Salavan; Quảng Trị là tỉnh đầu tiên của cả nước thực hiện chủ trương của Ban Bí thư về giúp các tỉnh có chung đường biên giới đào tạo cán bộ cho bạn. Trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị tiếp nhận đào tạo tiếng Việt cho cán bộ, học sinh, sinh viên các tỉnh của Lào.
Tỉnh Đoàn Quảng Trị đã tổ chức Chương trình gặp gỡ hữu nghị thanh niên 3 tỉnh Quảng Trị – Savannakhet – Salavan lần thứ V- 2016 là một sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của tuổi trẻ 3 tỉnh, là dịp để tăng cường giáo dục cho đoàn viên thanh niên về tình cảm gắn bó, nghĩa tình sâu nặng giữa hai dân tộc, giữa tuổi trẻ hai nước Việt – Lào anh em; là điều kiện thuận lợi để trao đổi kinh nghiệm công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cũng như giao lưu văn hóa, thể thao góp phần phát huy vai trò xung kích của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Sau lễ khai mạc, đã diễn ra chương trình hội đàm với chủ đề “Hỗ trợ nghề nghiệp, việc làm cho thanh niên”. Tại buổi hội đàm, lãnh đạo Đoàn thanh niên, đoàn viên thanh niên 3 tỉnh đã trao đổi nhiều nội dung liên quan đến vấn đề tư vấn nghề nghiệp, tạo việc làm cho thanh niên; động viên, hỗ trợ nhân dân và tuổi trẻ trên tuyến biên giới phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Hoạt động trên đã đạt được những kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào việc xây dựng đường biên giới Việt – Lào hòa bình, hữu nghị và phát triển. Nhiều ý kiến, tham luận tại buổi hội đàm đã nêu các nội dung, giải pháp để tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa các cơ sở đoàn nhằm phát huy vai trò của thanh niên trong phát triển kinh tế – xã hội…
Từ năm 2013 đến nay UBND huyện Triệu Phong đã giao phần lớn cho Đoàn Thanh niên, Hội LHTN Việt Nam huyện tiếp nhận, triển khai, thực hiện đối với các tổ chức quốc tế như: ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Tổ chức tầm nhìn thế giới Hàn Quốc, cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA): Dự án hoạt động trên lĩnh vực bảo vệ môi trường, sản xuất nông sản sạch, thực phẩm động vật sạch, thum gom xữ lý rác thải, biogas, biếp tiết kiệm điên năng, triển khai các lớp tập huấn, đào tạo bồi dưỡng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, tổ chức các hội thi, hội thảo trao đổi kinh nghiệm. tổng kinh phí hàng năm gần 10 tỉ đồng, đồng thời giải quyết việc làm, đào tạo bồi dưỡng cho trên 1000 thanh niên 8 xã thuộc dự án gồm: (Triệu Trạch, Triệu Tài, Triệu Sơn, Triệu Thượng, Triệu An, Triệu Trung, Triệu Vân và Triệu Ái)
Tổ chức Renew, Max về khắc phục môi trường, C AI, SEEDS… đã tài trợ để xây dựng nhà nhân ái, tặng hơn 1000 chiếc xe đạp, xe lăn, hàng trăm suất học bổng, hàng chục hội thi, diễn đàn… cho các thanh thiếu niên trên địa bàn huyện. Qua các hoạt động giao lưu quốc tế đã tạo cơ hội giao lưu, trao đổi, hiểu biết lẫn nhau giữa thanh niên các nước với thanh niên huyện Triệu Phong nói riêng, thanh niên Việt Nam nói chung. Đồng thời phối hợp với các ngành chức năng trang bị kiến thức hiểu biết về tình hình trong nước và thế giới, hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng cho thanh niên trong quan hệ đối ngoại và hội nhập.
Ngoài ra công tác xuất khẩu lao động ngày càng được đẩy mạnh đến nay có hơn 600 thanh niên ra nước ngoài tham gia lao động, học tập tạo cơ hội tốt cho việc giao lưu hợp tác quốc tế trong trong lĩnh vực trao đổi kinh nghiệm, giải quyết việc làm góp phần phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Phân tích kết quả cho thấy:
Có 122/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 61% không hài lòng với nội dung Hợp tác Quốc tế của thanh niên hiện nay. Qua đó chứng tỏ được rằng vấn đề này tuy được quan tâm đẩy mạnh việc giao lưu hợp tác trong các tầng lớp thanh niên, bên cạnh đó có một số hạn chế như một số tổ chức, dự án chỉ đầu tư nhất định đối với một số địa phương, còn các nơi khác không thể tiếp cận được. Các dự án hoạt động đa phần chưa thành lập ban điều hành trong công tác quản lý và thực hiện ở quy mô cấp huyện.
2.3.6. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Qua quá trình kiểm tra, rà soát tình hình triển khai và thực hiện Luật Thanh niên, các chính sách pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên cho đến nay chưa ghi nhận một vụ việc khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên. Riêng trình kiểm tra, rà soát tình hình triển khai và thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam tại các cơ quan thuộc huyện và UBND các xã, thị trấn để có cơ sở đánh giá báo cáo sơ kết giai đoạn I (2012-2015), và báo cáo hằng năm về thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2012-2020 trên địa bàn huyện Triệu Phong.Thực tế trên địa bàn huyện Triệu Phong hầu hết các cơ quan và các xã, thị trấn đều bám sát nội dung các chỉ tiêu, mục tiêu Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2012- 2020 trên địa bàn huyện ban hành kèm theo Quyết định số 304/QĐ-UBND ngày 18/01/2013 UBND huyện. Kết quả 100% cơ quan, đơn vị và UBND các xã, thị trấn có xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ thực hiện Chiến lược, và Kế hoạch hằng năm.
Qua kết quả kiểm tra cho thấy việc thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu trong kế hoạch của từng cơ quan, đơn vị, địa phương chưa cao, đối với cấp xã việc tổ chức thực hiện chưa đồng bộ, sự vào cuộc của các phòng, ban chuyên môn trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ theo lĩnh vực, ngành mình phụ trách còn chậm và thiếu sự phối hợp trong triển khai thực hiện; nguồn kinh phí hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về thanh niên còn nhiều hạn chế, công tác chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền chưa quyết liệt, có nơi chưa kịp thời; công chức trực tiếp tham mưu triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên ở phòng Nội vụ huyện và công chức Văn phòng – Thống kê tại xã, thị trấn kiêm nhiệm thêm rất nhiều nhiệm vụ nên hiệu quả mang lại chưa cao.
Phân tích kết quả cho thấy:
Có 130/200 ý kiến, chiếm tỷ lệ 65% không hài lòng với việc thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện chính sách, pháp luật cho thanh niên hiện nay. Điều đó cho thấy rằng các cấp các ngành ngoài việc ban hành, thực thi chính sách thì việc đánh giá chính sách thiếu thường xuyên, thể hiện qua việc thiếu thành tra, kiểm tra niên một số chế độ chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên có lúc có nới chưa được triển khai thực hiện đồng bộ.
2.4. Đánh giá chung quản lý nhà nước về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
2.4.1. Những kết quả đạt được ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Được sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, UBND huyện, sự vào cuộc của các ban, ngành, đoàn thể, vai trò tham mưu của Phòng Nội vụ, Ban Thường vụ Huyện đoàn trong thời gian qua đã có sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên và CTTN của huyện đến sự phát triển của tổ chức thanh thiếu niên, nhi đồng, tin tưởng và phân công nhiều nội dung quan trọng cho các tổ chức này trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của huyện nói chung và CTTN nói riêng.
UBND huyện đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để triển khai các chủ trương chính sách, pháp luật về CTTN của Chính phủ, UBND tỉnh trên địa bàn huyện như: Kế hoạch thực hiện luật thanh niên, chiến lược phát triển thanh niên của huyện phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, chỉ đạo thực hiện lồng ghép các chỉ tiêu phát triển thanh niên vào các chương trình, kế hoạch hằng năm của các cơ quan, đơn vị.
Trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ QLNN về CTTN, đặc biệt là từ khi triển khai Luật thanh niên, các chương trình, kế hoạch phát triển thanh niên giai đoạn 2012 – 2020, 2013 – 2015, 2016 – 2020 của huyện và tỉnh. UBND huyện đã có sự vào cuộc và sự chủ động của các ngành, đặc biệt là sự chủ động của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh các cấp trong huyện, đã thể hiện được vai trò và sự chủ động trong công tác tham mưu cho cấp ủy và phối hợp với chính quyền cùng cấp tạo điều kiện thuận lợi giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền lợi hợp pháp của thanh niên.
UBND huyện luôn coi trọng CTTN, đặt CTTN là vấn đề trọng tâm trong chính sắch phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực; đầu tư ngân sách chăm lo cho thanh niên trên một số mặt cơ bản như: Lao động, giải quyết việc làm, lao động sản xuất và kinh doanh, đào tạo nghề, ưu tiên quy hoạch cán bộ trẻ, ủng hộ tài năng trẻ trong học tập, nghiên cứu khoa học, thực hiện nghĩa vụ quân sự, phòng chống tệ nạn mặc dù chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thnah niên; có chính sách nâng cao đời sống tinh thần cho thanh niên.
UBND huyện đã tạo điền kiện về mặt cơ chế để khuyến khích, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của thanh niên trong tham gia phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc thông qua các phong trào hành động cách mạng của huyện đoàn và các tổ chức thanh niên do Đoàn làm nồng cốt. Quan tâm đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, các thiết chế văn hóa thể thao cho thanh thiếu niên, nhi đồng. Cơ chế phối hợp giữa chính quyền, mặt trận, các tổ chức đoàn thể trong triển khai thực hiện pháp luật, chính sách thanh niên và CTTN đã được xây dựng cơ bàn và thực hiện tốt.
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Những hạn chế
Ngoài những kết quả đạt được như đã nêu ở trên, QLNN về CTTN ở huyện Triệu Phong vẫn còn những hạn chế sau:
- Một là, việc ban hành tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên và CTTN tại huyện Triệu Phong còn chậm, chưa được đồng bộ, nhiều nội dung, chính sách chưa triển khai kịp thời so với tiến độ đề ra. Các cơ quan tham mưu công tác QLNN chưa thật sự quan tâm và giải quyết kịp thời những yêu cầu bức xúc của thanh niên như công tác đào tạo, giải quyết việc làm…; Việc đầu tư các thiết chế văn hóa cho thanh niên còn hạn chế; công tác chăm lo sức khỏe, tư vấn sức khỏe cho thanh niên chưa được chú trọng.
- Hai là, bộ máy QLNN về CTTN tuy đã được thành lập theo sự chỉ đạo của cấp trên, tuy nhiên quá trình hoạt động chưa thật sự mang lại hiệu quả. Đối với UBND huyện đã giao cho phòng Nội vụ là cơ quan thường trực tham mưu UBND huyện về công tác QLNN đối với CTTN nhưng vẫn chưa phát huy hết chức năng nhiệm vụ được giao, việc tham mưu các chương trình, kế hoạch chiến lược vẫn còn chậm so với tiến độ đề ra. Chưa chủ động tham mưu để UBND huyện chỉ đạo các phòng ban hành các nội dung thuộc lĩnh vực phụ trách về QLNN đối với CTTN.
- Ba là,công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm CTTN tuy đã có quan tâm và đầu tư bằng việc tổ chức các lớp tập huấn hàng năm nhưng chưa được nhiều, hiệu quả mang lại chưa cao, chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế vì các lớp tập huấn chỉ diễn ra trong thời gian ngắn nội dung còn đơn điệu, chủ yếu mang tính lý luận chưa thật sự phù hợp với tình hình thực tế, chưa có những lớp đào tạo dài ngày mang tính chuyên sâu gắn với đi thực tế học tập từ những đơn vị là tốt công tác này.
- Bốn là, công tác tuyên truyền phổ biến Luật Thanh niên, các chương trình phát triển thanh niên của Trung ương, tỉnh, huyện còn chậm so với thời gian quy định, hình thức tuyên truyền chưa phong phú chủ yếu bằng các đề cương văn bản, thông qua các kênh thông tin điện tử.
- Năm là, Mặc dù trong thời gian qua trong huyện chưa xãy ra các vụ việc khiếu nại tố cáo liên quan đến việc triển khai thực hiện chính sách đối với thanh niên, tuy nhiên công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ thực hiện khi có các vụ việc diễn ra mà công tác thanh tra kiểm tra còn có nhiệm vụ là kiểm tra việc triẻn khai thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình kế hoạch đã triển khai và thực hiện đến đâu, thực hiện như thế nào từ đó mới có cơ sở đề ra các biện pháp, giải pháp khắc phục thực hiện tốt hơn trong thời gian tiếp theo, hoạt động này trong thời gian qua vẫn chưa được chú trọng. ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
- Sáu là,công tác hợp tác quốc tế thanh niên mặc dù đã triển khai và được sự tham gia của thanh niên, tuy nhiên chưa có sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền, sự vào cuộc của các ngành, chưa được triển khai sâu rộng đến từng đối tượng thanh niên, chỉ dừng lại ở một số vùng của dự án có sự hợp tác quốc tế.
Nguyên nhân
- Một là, hệ thống chính sách pháp luật về CTTN đang trong quá trình hoàn thiện, Luật thanh niên và Nghị định hướng dẫn thị hành tồn tại một số bất cập, chậm đi vào cuộc sống nên chưa tạo hành lang pháp lý vững chắc cho thực tiễn trong quá trình QLNN về CTTN ở chính quyền địa phương.
- Hai là, cơ quan QLNN về công tác thanh niên mới được thành lập trong thời gian ngắn, văn bản hướng dẫn về tổ chức, bộ máy QLNN về CTTN ở chính quyền các cấp cũng vừa mới triển khai còn lung túng chưa hoàn thiện
- Trong thời gian không có cơ quan chuyên trách, tham mưu cho chính quyền các cấp QLNN về CTTN; nhiều nội dung nhiệm vụ thuộc chức năng QLNN về CTTN nhưng thường do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đảm nhận nên hiệu lực, hiệu quả mang lại chưa cao. Đội ngũ công chức làm nhiệm vụ QLNN về CTTN của các phòng, ban chủ yếu kiêm nhiệm, chưa được đào tạo về công tác QLNN về CTTN do đó trong tham mưu, đề xuất xây dựng văn bản và thực hiện chính sách pháp luật đối với thanh niên còn thụ động, lúng túng.
- Ba là, nhận thức của một số cấp ủy Đảng, lãnh đạo cũng như cán bộ công chức trong các cơ quan nhà nước ở các cấp vẫn chưa thực sự quan tâm và coi trọng CTTN, coi CTTN là nhiệm vụ của tổ chức Đoàn hoặc của cấp ủy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo thiếu thường xuyên, liên tục; đánh giá thanh niên chưa khách quan và thiếu tin tưởng vào thanh niên.
- Bốn là, công tác thực hiện chính sách đặc thù cho thanh niên còn nhiều hạn chế, bất cập, một số quy chế chậm được thay đổi để tạo điều kiện cho thanh niên dễ tiếp cận các chính sách quyền lợi của mình; công tác xã hội hóa cho các hoạt động của thanh niên chưa cao, còn trong chờ, ỷ lại vào nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
- Năm là, trong giai đoạn hiện nay, phương thức tổ chức, hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ở địa bàn dân cư chậm đổi mới và thích ứng trước sự biến nhanh của tình hình thanh niên; điều kiện phương tiện, chất lượng đội ngũ còn bất cập, trình độ năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu, trình độ tham mưu cho cấp ủy, chính quyền còn yếu, ở đâu chất lượng công tác Đoàn chưa cao thì ở đó các nội dung công tác thanh niên nói chung, QLNN về CTTN dường như bị xem nhẹ.
Tiểu kết chương 2 ( Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước công tác thanh niên )
Triệu Phong với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội… có những thuận lợi, khó khăn nhất định có tác động mạnh mẽ đến QLNN về công tác thanh niên. Về số lượng, cơ cấu phân bố về trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật, viêc làm của thanh niên có một số vấn đề cần phải phân giải. Qua phân tích thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh niên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đối với các nội dung cơ bản là: Tổ chức thực hiện chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên; Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức làm công tác thanh niên; quản lý nhà nước về thực hiện chính sách đặc thù cho thanh niên (chính sách vay vốn đào tạo nguồn nhân lực; chính sách vay vốn giải quyết việc làm và khởi nghiệp; chính sách hướng nghiệp và đào tạo nghề cho thanh niên;chính sách thực hiện nghĩa vụ Quân sự; chính sách phòng chống tệ nạn xã hội); quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và đầu tư xây dựng các khu vui chơi giải trí cho thanh niên; công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên; hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên. Công tác QLNN về công tác thanh niên bên cạnh những kết quả đạt được trên nhiều phương diện khác nhau, song vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần có giải pháp khắc phục, hoàn thiện.
Mời bạn tham khảo thêm:

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com