Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử nhằm triển khai về nguồn nhân lực của thương mại điện tử, cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho thương mại điện tử. Tuy nhiên, nhận định cả hai đều còn yếu và thiếu chưa thuận lợi cũng như hành lang pháp lý vẫn còn kẽ hở khiến thương mại điện tử chưa tạo được sự tin tưởng cũng như chưa phát triển mạnh mẽ tác giả đã lựa chọn đề tài này làm bài Luận văn thạc sĩ. Cho nên nếu bạn đang lựa chọn một để tài tương tự đề bài mẫu Một số biện pháp tăng cường ứng dụng và phát triển Thương mại điện tử cho doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng dưới đây, mình mong sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu viết bài luận của mình
Nội dung chính
2.1. Giới thiệu chung về thành phố Hải Phòng
2.1.1 Giới thiệu chung
Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm phía Đông miền Duyên hải Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 km, phía Bắc và Đông Bắc giáp Quảng Ninh, phía Tây Bắc giáp Hải Dương, phía Tây Nam giáp Thái Bình và phía Đông là bờ biển chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam từ phía Đông đảo Cát Hải đến cửa sông Thái Bình. Là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thế về đường biển, đường sắt, đường bộ và đường hàng không, giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong cả nước và các quốc gia trên thế giới. Do có cảng biển, Hải Phòng giữ vai trò to lớn đối với xuất nhập khẩu của vùng Bắc Bộ, tiếp nhận nhanh các thành tựu khoa học – công nghệ từ nước ngoài để rồi lan toả chúng trên phạm vi rộng lớn từ phía bắc khu Bốn cũ trở ra. Cảng biển Hải Phòng cùng với sự xuất hiện của cảng Cái Lân (Quảng Ninh) với công suất vài chục triệu tấn tạo thành cụm cảng có quy mô ngày càng lớn góp phần đưa hàng hoá của Bắc bộ đến các vùng của cả nước, cũng như tham gia dịch vụ vận tải hàng hoá quá cảnh cho khu vực Tây Nam Trung Quốc.
Diện tích tự nhiên là 1.507,57 km2, tính đến tháng 12/2011, dân số Hải Phòng là 1.907.705 người, trong đó dân cư thành thị là trên 847.000 người chiếm 46,1 và dân cư nông thôn là trên 990.000 người chiếm 53,9%, là thành phố đông dân thứ 3 ở Việt Nam, sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (theo số liệu điều tra dân số năm 2009), mật độ dân số 1.207 người/km2. Hải Phòng ngày nay bao gồm 15 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 7 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Đồ Sơn, Dương Kinh) và 8 huyện (An Dương, An Lão, Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Thuỷ Nguyên, Vĩnh Bảo).
2.1.2 Tình hình phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Hải Phòng ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam. Từ năm 2005 đến nay, Hải Phòng luôn đứng trong số 5 tỉnh thành phố đóng góp ngân sách lớn nhất cả nước. Năm 2011, thu ngân sách trên địa bàn thành phố đạt 47.725 tỷ đồng, tăng 19 so với năm 2010. Năm 2012, tổng thu ngân sách Thành phố đạt 56.470 tỷ đồng và năm 2013 tăng 7,15%, đạt trên 60 nghìn tỷ đồng. Cơ cấu các ngành dịch vụ – công nghiệp, xây dựng – nông, lâm, thủy sản tương ứng 54,88 – 35,74% – 9,38%.
Theo kết quả công bố của Cục Thống kê Hải Phòng, tổng mức bán lẻ đạt cả năm 2013 là 58.353,444 tỷ đồng, tăng 13,51 , so với năm 2012.
Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI, Hải Phòng đứng mức 50 trên 63 tỉnh thành phố trực thuộc TW năm 2012, tụt 5 bậc so với năm 2011 và 2 bậc so với năm 2010. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2015, thành phố Hải Phòng xếp ở vị trí thứ 28/63 tỉnh thành.
Hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, Hải Phòng mong muốn hợp tác với các nhà đầu tư giàu kinh nghiệm và mạnh về năng lực tài chính. Mục tiêu của Chiến lược là đến năm 2020 đưa Hải Phòng phát triển nhanh, bền vững, để cơ bản trở thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại trước năm 2020 từ 3 đến 5 năm. Để đạt được mục tiêu này, định hướng của Hải Phòng trong thời gian tới là tập trung huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, phát huy lợi thế về vị trí địa lý, gắn liền với chuyển dịchcơ cấu kinh tế một cách hợp lý, hợp tác chặt chẽ với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước.
Có thể bạn quan tâm:
2.2 Thực trạng phát triển thương mại điện tử tại thành phố Hải Phòng
2.2.1. Các hoạt động hỗ trợ phát triển thương mại điện tử thành phố Hải Phòng
Thời gian qua, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 29/6/2011 về phê duyệt Kế hoạch Phát triển thương mại điện tử thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 – 2015 nhằm hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đến nay, thành phố đã có một số hoạt động hỗ trợ phát triển thương mại điện tử thành phố như sau:
- Triển khai pháp luật về thương mại điện tử
- + Tổ chức tuyên truyền trên địa bàn thành phố để các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nắm vững các quy định của pháp luật về TMĐT.
- + Tổ chức thực thi các quy định pháp luật liên quan tới TMĐT trên địa bàn thành phố.
- + Tổ chức các hoạt động rà soát, kiểm tra hàng năm nhằm nắm vững tình hình phát triển TMĐT trên địa bàn, làm cơ sở cho việc triển khai chính sách và thực thi pháp luật về TMĐT tại địa phương.
- + Tổ chức những hoạt động thanh tra về lĩnh vực TMĐT tại địa phương.
- Phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức về thương mại điện tử
- + Tổ chức các khóa tập huấn chuyên sâu về kỹ năng thương mại điện tử cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn thành phố.
- + Tuyên truyền về TMĐT tới mọi người dân, cộng đồng người tiêu dùng: tuyên truyền lợi ích của TMĐT cho người tiêu dùng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng trên đài phát thanh và truyền hình địa phương.
- + Phối hợp tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông nội dung văn bản pháp luật, chủ trương chính sách của nhà nước về TMĐT, các mô hình ứng dụng TMĐT của các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố.
- Hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn thành phố ứng dụng thương mại điện tử
- + Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng website TMĐT.
- + Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào cổng do các đơn vị ở trung ương xây dựng nhằm quảng bá thương hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
- + Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng TMĐT để xây dựng thương hiệu trên môi trường Internet thông qua hình thức marketing trực tuyến.
- – Xây dựng Cổng thông tin quản lý hoạt động Thương mại điện tử, Sàn giao dịch thương mại điện tử.
2.2.2 Kết quả phát triển TMĐT tại Hải Phòng ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Cơ sở hạ tầng thương mại điện tử bên trong doanh nghiệp và hộ gia đình tại Hải Phòng
Mức độ sẵn sàng ứng dụng TMĐT của doanh nghiệp
Mức độ sẵn sàng ứng dụng thương mại điện tử được điều tra tại các doanh nghiệp và tại các hộ gia đình, người dân lưu trú trên địa bàn Thành phố. Các yếu tố được điều tra bao gồm: tình hình sở hữu các trang thiết bị CNTT & TT, tình hình kết nối mạng Internet, xây dựng mạng riêng, tham gia các sàn giao dịch điện tử, chuẩn bị nguồn nhân lực, kiến thức hiểu biết về thương mại điện tử. Qua xử lí và phân tích dữ liệu cho kết quả sau:
Về tình hình sở hữu máy tính và trang thiết bị CNTT & TT tại doanh nghiệp: Đối tượng các doanh nghiệp siêu nhỏ (dưới 10 lao động bình quân) có dưới 5 máy tính chiếm gần 80% (trong khi tính chung của Việt Nam là 72%). Tỉ lệ doanh nghiệp nhỏ có từ 25 – 50 máy tính chiếm 10,1% (trong khi tính chung của Việt Nam là 9%). Kết quả xử lí và phân tích dữ liệu cũng cho thấy, tỉ lệ các doanh nghiệp nhỏ và vừa có trên 50 máy tính là 7,7% (tỷ lệ các doanh nghiệp lớn có trên 50 máy tính trong kết quả điều tra của Cục Thương mại điện tử năm 2015 là 11%) (xem hình 2 và hình 3).
Về tình hình kết nối Internet tại các doanh nghiệp: Kết quả điều tra cho thấy 97% doanh nghiệp đã kết nối Internet với các hình thức kết nối khác nhau và hình thức kết nối ADSL vừa là hình thức chính được doanh nghiệp sử dụng. Hải Phòng cũng là địa phương đứng thứ 5 trong kết quả điều tra của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin năm 2015. (xem hình 4).
Về tình hình xây dựng mạng riêng tại doanh nghiệp: có 62,8% số doanh nghiệp đã lắp đặt Wifi; 50,5% số doanh nghiệp thiết lập mạng LAN; nhưng chỉ có 1% số doanh nghiệp có mạng Extranet
Về nhân lực có kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm về TMĐT: 75% doanh nghiệp có dưới 3 người; 6% doanh nghiệp có từ 3 – 5 người, chỉ 1% doanh nghiệp có trên 5 người. Tuy nhiên, 3% doanh nghiệp được điều tra là các doanh nghiệp thương mại điện tử; 2% doanh nghiệp có phòng thương mại điện tử và 7% số doanh nghiệp có bộ phận chuyên trách thương mại điện tử (xem hình 6).
Về nhận thức lợi ích và khó khăn của ứng dụng TMĐT: không có doanh nghiệp nào cho rằng ứng dụng TMĐT có hại; 36% doanh nghiệp cho rằng ứng dụng TMĐT chủ yếu là có lợi, và nếu tính tổng số doanh nghiệp cho rằng TMĐT có lợi cho doanh nghiệp là 98%. Đặc biệt có 2% doanh nghiệp cho rằng ứng dụng TMĐT là không có lợi cho doanh nghiệp (xem hình 7). Điểm đáng quan tâm đặc biệt là khi đánh giá lợi ích ứng dụng TMĐT, thay vì cho rằng lợi ích TMĐT ở mức cao nhất (thang điểm 1 – 5), thì hầu hết các kết quả tập trung ở mức độ 3 và 4 (xem hình 8).
Về nhận thức những khó khăn trong ứng dụng TMĐT của doanh nghiệp: có sự phân bố khá đồng đều mức 1, 2 và 4, 5. Đa số các ý kiến đánh giá ở mức độ 3. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại cho rằng mức độ cạnh tranh là yếu tố trở ngại nhất khi ứng dụng TMĐT (xem hình 9).
Mức độ sẵn sàng ứng dụng TMĐT của hộ gia đình và người lưu trú trên địa bàn thành phố Hải Phòng
Về sở hữu máy tính và trang thiết bị CNTT & TT tại các hộ gia đình, và người dân: Nếu tính riêng loại máy tính để bàn, thì có tới 334 số hộ gia đình chiếm 46% số điều tra đã sở hữu máy tính. Số người trả lời cũng cho thấy, có 393 (chiếm 53%) người dân được điều tra đã có điện thoại thông minh; trong đó 276 người (chiếm 38%) sở hữu điện thoại di động có kết nối Internet (hình 10).
Về kết nối mạng Internet của người dân: Tỉ lệ số hộ gia đình kết nối Internet trên 5 năm là 329 hộ chiếm 32%, và nếu tính thời gian kết nối trên 3 năm thì có đến 373 hộ chiếm 57%. Khoảng dưới 15% hộ gia đình có sở hữu máy tính hoặc thiết bị khác chưa kết nối Internet.
Về sử dụng thư điện tử và sở hữu điện thoại di động: Theo kết quả điều tra, tỉ lệ người dân sở hữu số điện thoại di động khá cao chiếm 82,8%, trong đó sử dụng thư điện tử (email) lại khá thấp, đạt 42,8% (mặc dù đối tượng điều tra lại tập trung chủ yếu các quận nội thành là Ngô Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng và Hải An). Các huyện ngoại thành có tỉ lệ khá thấp chiếm 20% số phiếu điều tra, và chiếm 16% số người sở hữu số điện thoại di động; và chỉ chiếm 10% số người có sử dụng địa chỉ email. Như vậy có sự khác biệt rõ ràng, khu vực nội thành tỉ lệ sở hữu số điện thoại di động và địa chỉ thư điện tử cao hơn so với khu vực ngoại thành (xem Bảng 1 và hình 12).
2.2.3 Tình hình ứng dụng TMĐT tại Hải Phòng ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
2.2.3.1 Ứng dụng TMĐT tại các doanh nghiệp
Về các loại chương trình ứng dụng TMĐT đã hoặc sẽ thực hiện: có tới 327/556 chiếm 58,8% số doanh nghiệp được điều tra chưa có kế hoạch thực hiện TMĐT trong tương lai gần, thậm chí có tới 19/556 chiếm 3,4% doanh nghiệp khẳng định sẽ không thực hiện trong tương lai. Tuy nhiên vẫn có 104/556 doanh nghiệp (chiếm tỉ lệ 37,8%) là đang có và sẽ thực hiện ứng dụng TMĐT trong tương lai (xem hình 13).
Về xây dựng, thiết kế và triển khai website TMĐT: Mặc dù tỉ lệ các doanh nghiệp có website TMĐT chỉ chiếm 19,4% nhưng tỉ lệ doanh nghiệp có website dưới những hình thức khác chiếm tỉ lệ lớn hơn nhiều (41%).
Về thời gian xây dựng website: Các doanh nghiệp có website chủ yếu xây dựng trong thời gian từ 2005 đến 2010 (50,2%) và giai đoạn từ 2011 trở lại đây (38,9%), trước đó có một tỉ lệ nhỏ các doanh nghiệp đã có website (10,9%) (xem hình 15).
Về loại hình website của doanh nghiệp: Theo khảo sát này, các doanh nghiệp xây dựng website chủ yếu sử dụng với mục đích giới thiệu về doanh nghiệp (86,5%), website có chức năng TMĐT có tỉ lệ rất hạn chế (6,9%) (xem hình 16).
Về tính năng của các website của doanh nghiệp: 100% website của các doanh nghiệp đều có tính năng giới thiệu thông tin doanh nghiệp, tuy nhiên chỉ có 29 website doanh nghiệp (tỉ lệ 12,8%) có tính năng đặt hàng trực tuyến (thấp hơn so với tỉ lệ điều tra bình quân của cả nước), nhưng 18 website (tỉ lệ 8%) có tính năng thanh toán trực tuyến đạt mức tương đương của cả nước
Về phương thức đặt hàng đã sử dụng: thư điện tử và điện thoại được sử dụng nhiều nhất là 343 doanh nghiệp (chiếm tỉ lệ 62%) và 278 doanh nghiệp (chiếm tỉ lệ 51%). Các hình thức đặt hàng khác như mạng xã hội, website TMĐT cũng được sử dụng với tỉ lệ quy đổi tương ứng là 13,4% và 10,8%.
Hình thức trao đổi dữ liệu điện tử được sử dụng là 3,2% (xem hình 19).
Về các phương thức thanh toán doanh nghiệp chấp nhận: trong sáu phương thức được sử dụng thì tiền mặt và chuyển khoản qua ngân hàng được dùng nhiều nhất với tỉ lệ quy đổi tương ứng là 78% và 84% doanh nghiệp sử dụng. Ngoài ra, các hình thức thanh toán điện tử khác có được sử dụng kết hợp nhưng mức độ thấp hơn, như thẻ ATM và thẻ tín dụng có tỉ lệ 14,5% và rất thấp là ví điện tử có 1,6%.
Về các hình thức tư vấn khách hàng đang sử dụng: chủ yếu là số điện thoại hotline với 550/556 doanh nghiệp (chiếm tỉ lệ 98,9%) sử dụng, kế tiếp là thư điện tử có tỉ lệ quy đổi là 57,7%; và qua công cụ chat online là 32,7%; qua mạng xã hội có 20,1%.
Về các phương thức giao hàng đang thực hiện: với hai hình thức chiếm vị trí chủ yếu là do nhân viên công ty thực hiện 229/556 có tỉ lệ 41,2% và người mua tự thực hiện 258/556 có tỉ lệ 46,4%. Giao nhận qua bưu điện và đại lí giao nhận cũng được sử dụng kết hợp với các phương thức giao hàng khác nhưng mức độ còn khá thấp, tỉ lệ tương ứng quy đổi là 8,1% và 12,2%.
Về tình hình sử dụng các phần mềm tại doanh nghiệp: các phần mềm kế toán, quản lí nhân sự vẫn là những phần mềm được nhiều doanh nghiệp sử dụng nhất, với tỉ lệ 70% và 20,3%. Đáng lưu ý là các phần mềm khác như phần mềm marketing SEO, SEM đã được nhiều doanh nghiệp lựa chọn với tỉ lệ 27,3% và chỉ đứng sau phần mềm kế toán. Phần mềm quản lí khách hàng CRM và lập kế hoạch nguồn lực doanh nghiệp có tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng rất thấp, đều dưới 10%. ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Về tỷ trọng doanh số bán hàng qua kênh Internet trên tổng doanh số bán hàng: Tỷ trọng doanh số bán hàng qua kênh Internet của các doanh nghiệp cũng có sự chênh lệch đáng kể. Tỉ trọng doanh số bán dưới 15% chiếm đa số tới 66%. Khoảng 10% số doanh nghiệp có tỷ trọng doanh số bán trên 50%. thấp (8%) các doanh nghiệp đã tham gia sàn giao dịch TMĐT (xem hình 25), so với tỉ lệ chung của Việt Nam là từ 12 – 14% (xem hình 26). Tỉ lệ các doanh nghiệp sẽ tham gia SGD điện tử năm 2015 cũng rất thấp là 6,1%.
Cục TMĐT và CNTT, Bộ Công Thương đã tiến hành khảo sát tình hình ứng dụng TMĐT tại 3.270 doanh nghiệp trong cả nước, trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực với quy mô các doanh nghiệp tham gia khảo sát gồm loại: Doanh nghiệp lớn (trên 300 lao động); Doanh nghiệp vừa và nhỏ (dưới 300 lao động). Theo quy mô, các doanh nghiệp tham gia khảo sát gồm 90% doanh nghiệp lớn và 10% doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo kết quả điều tra cho thấy, 100% doanh nghiệp tham gia khảo sát có trang bị máy tính. Trong đó, 10% số lượng doanh nghiệp trang bị từ 50 máy tính trở lên, số khác chiếm 16% trang bị từ 21 đến 50 máy tính, 19% doanh nghiệp có từ 11 đến 20 máy tính (xem hình 56).
- Mức độ sử dụng Internet
100% doanh nghiệp được khảo sát đều kết nối Internet, trong đó 78% sử dụng đường truyền ADSL, 22% sử dụng đường truyền riêng. So với năm 2014 tỷ lệ này chênh lệch không đáng kể.
Về kết nối theo địa bàn, Cần Thơ là thành phố có tỷ lệ kết nối ADSL cao nhất cả nước, chiếm 98%, tiếp theo là Hà Nội chiếm 85%, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 82% và Hải phòng chiếm 67% (xem hình 57).
- Mức độ sử dụng email
Email là một trong những phương tiện được sử dụng phổ biến nhất trên Internet. Theo kết quả điều tra cho thấy, 100% doanh nghiệp sử dụng email phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình, cao hơn 3% so với năm 2014 (97%). Về sử dụng email phục vụ hoạt động kinh doanh theo quy mô doanh nghiệp, cho thấy chiếm 29% doanh nghiệp vừa và nhỏ trả lời sử dụng email ở mức độ 11-20% phục vụ mục đích kinh doanh; 23% trả lời email được sử dụng trên 50% cho mục đích này. Đối với doanh nghiệp lớn, chiếm 26% cho rằng email được sử dụng ở mức độ 21-50% cho kinh doanh; số khác chiếm 17% cho rằng mức độ sử dụng email phục vụ kinh doanh ở doanh nghiệp họ nằm ở tỷ lệ trên 50.
- Bảo vệ an toàn thông tin trao đổi và giao dịch
Cũng theo cuộc khảo sát, cho thấy 86% doanh nghiệp sử dụng phần mềm diệt virus, 53% doanh nghiệp sử dung tường lửa và 26% sử dụng các biện pháp phần cứng để đảm bảo an toàn thông tin. Tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng chữ ký số năm 2015 tăng nhanh, chiếm 31% so với 23% năm 2014.
Về tỷ lệ các biện pháp bảo mật theo quy mô doanh nghiệp, khảo sát cho thấy: Chiếm 90% doanh nghiệp lớn sử dụng chương trình diệt virus trong khi tỷ lệ này ở doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm 85%; 51% doanh nghiệp lớn và 32% doanh nghiệp nhỏ sử dụng chữ ký số và chứng thực số; 62% doanh nghiệp lớn và 53% doanh nghiệp nhỏ biết sử dụng tường lửa để bảo vệ mạng nội bộ. Điều này, chứng tỏ các doanh nghiệp đã có sự quan tâm và đầu tư tới các giải pháp bảo mật nhằm bảo mật các thông tin trao đổi trong nội bộ tổ chức và các truyền phát với bên ngoài.
- Nhân lực TMĐT
Thống kê các năm cho thấy có một sự tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng các cán bộ chuyên trách về TMĐT. Khảo sát năm 2015 của Cục TMĐT và CNTT cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về TMĐT chiếm 65%, tăng 14% so với năm 2014, và năm 2014 tăng 28% so với năm 2013. Cũng theo kết quả thống kê về nhân lực theo lĩnh vực hoạt động cho thấy: hai lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ chuyên trách về TMĐT cao nhất là tài chính ngân hàng, bất động sản và giải trí cùng chiếm tỷ lệ 80%. Lĩnh vực bán buôn, bán lẻ chiếm tỷ lệ thấp nhất về số lượng cán bộ chuyên trách TMĐT (58%); CNTT, truyền thông và Giáo dục, đào tạo có tỷ lệ khá cao lần lượt là 76% và 79%. Nhìn chung, các doanh nghiệp đã có sự quan tâm đáng kể tới việc tận dụng các lợi thế của TMĐT trong tìm kiếm khách hàng, đối tác kinh doanh, thu hút khách hàng… Vì vậy, những năm gần đây, các doanh nghiệp luôn có sự bổ sung đội ngũ chuyên trách về TMĐT hoạt động như một bộ phận chức năng riêng.
- Về đào tạo CNTT và TMĐT cho nhân viên
Hình thức phổ biến là đào tạo tại chỗ với tỷ lệ 53%, chiếm 26% số doanh nghiệp cử nhân viên đi đào tạo, 14% doanh nghiệp tự mở lớp cho nhân viên.
Năm 2015, tỷ lệ doanh nghiệp không áp dụng bất kỳ một hình thức đào tạo CNTT hoặc TMĐT nào cho nhân viên giảm xuống còn 27% so với các năm trước (2013 là 49% và 2014 là 31%).
Ngược lại, tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng hình thức cử nhân viên đi học và tự mở lớp đào tạo năm 2015 tăng so với những năm trước đó, tương ứng với các tỷ lệ 26% và 14%. Hình thức đào tạo tại chỗ vẫn là hình thức được nhiều doanh nghiệp lựa chọn trong 2 năm gần đây, với các tỷ lệ lần lượt là 54% năm 2013 và 53% năm 2014.
- Tính năng website của doanh nghiệp
Theo biểu đồ ở hình 17 ta thấy: Tỷ lệ website các doanh nghiệp có chức năng giới thiệu doanh nghiệp đạt 96%; Chức năng giới thiệu sản phẩm đạt 92%; Chức năng chăm sóc khách hàng đạt 56%. Tuy nhiên các chức năng thanh toán trực tuyến thấp nhất, đạt 18% số lượng các website của doanh nghiệp khảo sát và đặt hàng trực tuyến thấp thứ hai đạt 41%. Như vậy, chứng tỏ các website của doanh nghiệp vẫn còn một tỷ lệ quá nhỏ đạt tới sự phát triển tương đối hoàn thiện, còn lại đa phần chỉ dừng lại ở những tính năng cơ bản, mức độ ứng dụng chưa cao.
Mời bạn tham khảo thêm:
2.2.3.2. Sử dụng Internet và thương mại điện tử trong hộ gia đình và người lưu trú tại Hải Phòng ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Về thời gian sử dụng Internet: tính thời gian sử dụng trên 60 phút có tới 73% người trả lời. Và mục đích sử dụng Internet rất đa dạng. Đáng chú ý là có tới 60% người dân đã quan tâm đến tìm kiếm thông tin mua sắm hoặc mua sắm trên Internet. Tỉ lệ sử dụng Internet trong kinh doanh và tìm kiếm cơ hội kinh doanh là thấp nhất trong các mục đích sử dụng Internet của người dân.
Về hoạt động mua sắm qua mạng Internet: Tỉ lệ phân bố khá đều của những người đã từng mua sắm qua mạng, trong đó những người mua hàng dưới 1 tuần là 100 người chiếm 13,9% nhóm trả lời phiếu điều tra; nhóm mua sắm trong thời gian từ 3 – 6 tháng là 57 người chiếm 7,9% và cao nhất là nhóm mua sắm thời gian từ 6 tháng đến 1 năm là 107 người chiếm 14,9%. Các tỉ lệ mua sắm qua mạng Internet phân theo thời gian biến động trong khoảng 7,9% đến 14,9%.
Về phương thức thanh toán mua sắm qua Internet: có sự đồng nhất với kết quả điều tra từ phía doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng, theo đó hình thức thanh toán bằng tiền mặt là 348 người chiếm 48% số người được điều tra và chuyển khoản qua ngân hàng là 192 người chiếm 26,7% là hai vị trí đứng thứ nhất và thứ hai. Kết quả điều tra này khá tương đồng về thứ hạng với công bố điều tra từ kết quả của Cục TMĐT và CNTT trên cả nước; tuy nhiên tỉ lệ này có thấp hơn (xem hình 30 và hình 31).
Về sản phẩm đã đặt mua qua mạng Internet: Các sản phẩm mà người dân đặt mua qua mạng Internet cũng rất đa dạng. Theo kết quả điều tra, đồ dùng cá nhân, quần áo được lựa chọn nhiều nhất có 319 người chiếm 44,3% số người được điều tra đặt mua, tiếp đến là đồ dùng gia đình có 210 người chiếm 29,2%, và đồ điện tử, điện thoại là 132 người chiếm 18,3%. Kết quả điều tra này cũng khá tương đồng với kết quả điều tra khác được công bố mới nhất hiện nay, và kết quả điều tra được công bố trong Báo cáo Thương mại điện tử năm 2015.
So sánh tỉ lệ sản phẩm đặt mua qua mạng Internet của thành phố Hải Phòng với kết quả điều tra công bố trong Báo cáo TMĐT 2015 về một số mặt hàng cho thấy, hầu hết các tỉ lệ mua sắm các mặt hàng qua Internet ở Hải Phòng đều thấp hơn tỉ lệ cả nước.
Về nguồn/địa phương mua hàng hóa: có tỉ lệ bằng nhau mua hàng tại các website ở Hải Phòng và các địa phương khác trên cả nước. Kết quả điều tra cũng cho thấy, người dân có xu hướng đặt mua hàng của các doanh nghiệp trong nội thành thành phố Hải Phòng và các tỉnh thành phố khác ở Việt Nam là chính, với tỉ lệ 41,7%, còn đặt mua từ website nước ngoài chỉ chiếm tỉ lệ 11,1%.
Về lí do mua sắm qua mạng Internet và không mua sắm qua mạng Internet: Từ bảng 2 cho thấy, lí do liên quan đến tiết kiệm thời gian đi lại được người dân lựa chọn nhiều nhất (61,1% từ mức 4 trở lên), sau đó mới đến lí do chi phí rẻ hơn (41,4%), tính tiện lợi (40,5%). Tuy nhiên, bảng 3 cũng chỉ ra nhiều lí do khiến người dân thấy ngại khi mua sắm qua mạng. Theo đó, những vấn đề về lừa đảo, chất lượng hàng hóa và sự chậm trễ trong giao hàng là những lí do người dân cảm thấy lo lắng nhất.
Nếu so sánh những lí do mua sắm qua mạng từ kết quả điều tra này với công bố của Báo cáo TMĐT Việt Nam, để thấy khẳng định yếu tố giá cả chỉ đứng vị trí thứ hai, quy trình mua hàng phức tạp không phải là trở ngại lớn (thang điểm 4 và 5), mà tập trung mức 2 và 3 (trung bình và dưới mức trung bình). (xem hình 36 và 37).
2.3 Những thuận lợi và khó khăn, bất cập trong việc xây dựng biện pháp tăng cường phát triển TMĐT cho doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng
2.3.1. Thuận lợi trong việc xây dựng biện pháp tăng cường phát triển TMĐT cho doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Cũng như các nước có nền kinh tế đang phát triển khác, mặc dù trình độ công nghệ thông tin của Việt Nam vẫn bị tụt hậu không phải chỉ so với các nước phương Tây mà còn so với các nước châu Á và trong khu vực nhưng với chiến lược kiểu nhảy vọt, đi tắt đón đầu ta vẫn có thể hoà nhập và bắt kịp nhịp độ phát triển kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam ẩn chứa rất nhiều tiềm năng lớn, vì thế thu hút được nhiều sự quan tâm của các hãng công nghệ thông tin trên thế giới. Những yếu tố trong và ngoài nước đã, đang và sẽ có những tác động tích cực đến quá trình hình thành và phát triển của thương mại điện tử nước ta như quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, các chính sách của nhà nước liên quan đến việc phát triển thương mại điện tử, tình hình kinh tế xã hội, v.v…
2.3.1.1 Sự thuận lợi từ quá trình hội nhập và toàn cầu hóa
Thương mại điện tử là hình thái phát triển cao của hội nhập và toàn cầu hóa. Do đó, hợp tác quốc tế về thương mại điện tử đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển thương mại điện tử cho các quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã tham gia rất nhiều tổ chức kinh tế – thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ chức chuyên trách về thương mại của Liên hợp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, UN/CEFACT, hợp tác đa phương và song phương với các tổ chức và quốc gia tiên tiến về thương mại điện tử cũng như các nước có kim ngạch thương mại lớn với Việt Nam như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật bản, v.v… Đây là điều kiện thuận lợi góp phần giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế nói chung và thương mại điện tử nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ như hiện nay.
2.3.1.2 Sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước
Trong những năm đổi mới và phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã nhận rõ vị trí quan trọng của thương mại điện tử trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Theo Chỉ thị 58/CT-TW của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa”, phát triển thương mại điện tử là một trong các dự án ưu tiên của Chính phủ. Như vậy, thương mại điện tử nước ta sẽ có những thuận lợi cơ bản về chính sách hỗ trợ của Nhà nước như: các chính sách hỗ trợ vốn, thuế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất các sản phẩm điện tử, v.v….
2.3.1.3 Yếu tố con người
Mặc dù Việt Nam là nước nghèo, kinh tế chậm phát triển nhưng thành tựu về giáo dục đào tạo trong nhiều thập kỷ qua đã tạo nên mặt bằng tri thức xã hội khá phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Người Việt Nam có khả năng nắm bắt và tiếp thu nhanh khoa học – kỹ thuật và công nghệ cao. Phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đều cho rằng đào tạo bổ sung cho công nhân Việt Nam thường ngắn hơn so với các nước láng giềng. Đó là một trong những cơ sở quan trọng cho việc phát triển sản xuất và phát triển thương mại điện tử nước ta.
2.3.1.4 Sự phát triển của các ngành liên quan
Sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung cũng như sự phát triển của các ngành liên quan như ngân hàng, phát thanh truyền hình, logistic v.v… cũng sẽ tạo ra những thuận lợi cơ bản để phát triển sản xuất và cải thiện điều kiện thị trường tiêu thụ cho thương mại điện tử . Ví dụ như ngành Ngân hàng đã linh hoạt nhiều trong giao dịch, thẻ và trong sự liên kết với nhau; ngành Bưu chính Viễn thông đã có nhiều dịch vụ phục vụ tốt cho nhu cầu buôn bán trên mạng (dịch vụ chuyển phát, thu tiền nhận hàng)…
2.3.1.5 Pháp luật
Mặc dù chậm hơn yêu cầu, nhưng tới cuối năm 2008 khung pháp lý cho thương mại điện tử tại Việt Nam có thể nói đã tương đối hoàn thiện, với nền tảng chính là những văn bản quy phạm pháp luật thuộc hệ thống Luật Giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, Luật Công nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng tạo nên một hành lang pháp lý khá thuận lợi cho việc triển khai các khía cạnh liên quan đến hạ tầng công nghệ thông tin của hoạt động ứng dụng thương mại điện tử. Ngoài Luật và những Nghị định khung, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn phát triển, các cơ quan quản lý nhà nước cũng đang tiếp tục nghiên cứu để ban hành các văn bản dưới Luật nhằm điều chỉnh từng lĩnh vực ứng dụng thương mại điện tử đặc thù. Việc xây dựng hành lanh pháp lý đã và đang góp phần tạo dựng môi trường an toàn thuận lợi cho thương mại nói chung và thương mại điện tử nói riêng ngày càng phát triển
2.3.2 Khó khăn, bất cập trong việc xây dựng biện pháp tăng cường phát triển thương mại điện tử cho doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Ở nước ta, mối quan tâm đến thương mại điện tử đang tăng lên hàng ngày bởi thương mại điện tử là điều kiện cần thiết và bắt buộc trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên trong điều kiện như nước ta hiện nay, việc triển khai và áp dụng thương mại điện tử còn gặp khó khăn trên nhiều phương diện.
2.3.2.1 Nhận thức về thương mại điện tử chưa cao
Việc thuyết phục lòng tin và thói quen của người tiêu dùng Việt Nam cũng là một vấn đề khó khăn khi mà đa số người dân Việt Nam đều đã quen với phương thức mua bán “tiền trao cháo múc”. Hơn nữa, ở Việt Nam phần lớn người làm việc trên máy tính là nam giới, trong khi đa số công việc mua bán là do phụ nữ đảm nhận và việc đi mua sắm tại các siêu thị hiện đang là thú vui của nhiều người. Về vấn đề thanh toán có thể thấy người Việt Nam chưa quen sử dụng thẻ tín dụng. Việc trao đổi, thanh toán bằng thẻ tín dụng tại các ngân hàng trong nước còn khá nhiêu khê. Thêm nữa là nhận thức về thương mại điện tử giữa khu vực thành thị và nông thôn đang có khoảng cách khá xa. Muốn nâng cao nhận thức về thương mại điện tử của người dân Việt Nam nói chung đồng nghĩa với việc phải chú trọng nâng cao nhận thức về TMĐT cho khu vực nông thôn.
2.3.2.2 Cơ sở pháp lý về thương mại điện tử còn nhiều bất cập
Lĩnh vực quản lý vĩ mô còn nhiều bất cập, còn nhiều đầu mối. Hệ thống pháp luật hiện nay vẫn còn thiếu những quy định, chế tài cụ thể về bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường mạng cũng như bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong quá trình giao dịch thương mại điện tử. Hệ thống chính sách còn nhiều vấn đề chưa hợp lý gây hạn chế phát triển ngành như: chính sách ưu đãi tín dụng đầu tư, chính sách thuế, chính sách đào tạo, chính sách công nghệ,… Cán cân thanh toán ngoại tệ vẫn nghiêng về nhập siêu. Môi trường đầu tư còn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài những khó khăn trên, Việt Nam cũng sẽ không tránh khỏi những khó khăn chung mà những nước đi trước chưa giải quyết được. Đó là việc đánh thuế qua giao dịch trên Internet, nếu không có một cơ chế thống nhất thì việc thất thu thuế là điều đương nhiên và lượng thất thu sẽ là con số khổng lồ.
2.3.2.3 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ cho thương mại điện tử chưa hiện đại
Một trong những khó khăn chủ yếu của Việt Nam là vấn đề về cơ sở hạ tầng, bao gồm đường truyền hẹp, khả năng truy cập Internet hạn chế do chi phí cao, mức phổ biến máy tính trong dân chúng chưa cao do thu nhập thấp và thiếu sự cạnh tranh bình đẳng trong ngành Bưu chính viễn thông. Trong đó, trở ngại dễ thấy nhất là nước ta còn thiếu đường truyền trực tiếp (leased line). Hiện nay mức giá sử dụng đường truyền trực tiếp của Việt Nam khá cao so với các nước khác. Hơn nữa, Chính phủ cũng khó có thể đưa ra quyết định mở rộng đường truyền truy cập thông tin do không thể kiểm soát nổi những loại thông tin nào cần được ngăn chặn.
2.3.2.4 Quy mô nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của thương mại điện tử
Ở Việt Nam, việc sử dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp còn ở trình độ trung bình. Sở dĩ có tình trạng chất không theo kịp lượng trong phát triển nguồn nhân lực trong những năm qua, có phần không nhỏ thuộc về kinh phí đầu tư. Thực tế các cơ sở đào tạo vừa lo đào tạo, vừa lo tìm kiếm nguồn kinh phí nên kinh phí đầu tư riêng cho ngành công nghệ thông tin còn nhỏ giọt, đủ để tồn tại chứ chưa thể nói đầu tư đến tầm chiến lược.
Hơn nữa, lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu phát triển còn yếu, chưa hỗ trợ mạnh cho sản xuất. Việt Nam có tiềm năng về con người nhưng chưa tận dụng được lợi thế này. Có thể nhận thấy đào tạo thương mại điện tử tại các trường đại học và cao đẳng đã phát triển khá nhanh những năm gần đây. Tuy nhiên, còn khá nhiều vấn đề cần phải quan tâm giải quyết để đào tạo chính quy thực sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Ví dụ: Mặc dù các doanh nghiệp có nhu cầu cao đối với cán bộ thương mại điện tử nhưng chức danh và vị trí công việc này chưa được xác định rõ cũng như chưa được thừa nhận rộng rãi, vì vậy các sinh viên có xu hướng đăng ký học chuyên ngành quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin… hơn là chuyên ngành thương mại điện tử để dễ tìm việc sau khi tốt nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả: Một mặt, các trường khó đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực thương mại điện tử cho doanh nghiệp, mặt khác các trường sẽ khó đầu tư lớn về cơ sở vật chất và giảng viên cho ngành đào tạo này. Một vấn đề đáng chú ý khác là hầu như chưa có trường nào triển khai hình thức đào tạo trực tuyến (e-Learning) cho các ngành học, trong đó có thương mại điện tử. Đào tạo trực tuyến có rất nhiều lợi ích và phát triển mạnh trên thế giới trong những năm gần đây và bản thân nó cũng là một hoạt động thương mại điện tử cụ thể. Đào tạo trực tuyến để giảng dạy thương mại điện tử có thể có nhiều lợi ích to lớn cho cả hoạt động đào tạo và kinh doanh dịch vụ.
2.3.2.5 Tính an toàn bảo mật của thương mại điện tử chưa cao ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Hoạt động thương mại điện tử diễn ra trong một không gian kinh tế khác biệt so với các phương thức kinh doanh truyền thống. Những hành vi gian lận thương mại và cạnh tranh không lành mạnh về thương mại điện tử cũng được thực hiện theo nhiều phương thức mới mẻ và tinh vi, do đó khó áp dụng các chế tài truyền thống khi xử lý.
Cho đến nay, bảo vệ thông tin cá nhân và quyền riêng tư về thông tin cá nhân trên môi trường điện tử vẫn còn là khá mới tại Việt Nam. Trong các cuộc điều tra của từ năm 2010 đến năm 2015, vấn đề an toàn bảo mật hầu như được xếp là trở ngại lớn nhất cho phát triển thương mại điện tử Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến đã có chính sách bảo vệ thông tin cá nhân cho khách hàng. Trong đó, tỷ lệ các doanh nghiệp lớn quan tâm tới việc bảo vệ thông tin cá nhân cao hơn đáng kể so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kết quả khảo sát trên mới phản ảnh tình hình từ phía doanh nghiệp. Từ góc độ người tiêu dùng trực tuyến, kết quả không được khả quan như vậy. Theo khảo sát người tiêu dùng trực tuyến của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin năm 2015, có tới 42% người tiêu dùng lo ngại bị lộ thông tin cá nhân trong mua sắm trực tuyến.
* Nhận xét chung
Hiện nay, thương mại điện tử là tiêu điểm chú ý không chỉ của các học giả mà còn của nhiều nhà hoạch định chiến lược phát triển quốc gia. Trong tương lai, những tiện nghi mà công nghệ thông tin sẽ đem đến cho con người với giá cả ngày càng rẻ hơn, chức năng ngày càng thông minh hơn sẽ là những công cụ giúp cho thương mại điện tử gần gũi với đời sống của người dân trên thế giới. Việt Nam là nước đang phát triển nhưng cũng không thể bỏ qua xu thế này bởi chúng ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, để có thể phát triển thương mại điện tử một cách hiệu quả và nhanh chóng, Việt Nam sẽ phải vượt qua rất nhiều thách thức.
Những thách thức trong xây dựng chính sách và chiến lược
- Thứ nhất, tốc độ phát triển trong thương mại điện tử tạo ra sức ép rất lớn cho các quá trình xây dựng chính sách truyền thống.
- Thứ hai, các vấn đề xuyên suốt một phạm vi rộng về thể chế, kinh tế, luật pháp và kỹ thuật thường được giải quyết mang tính tổ chức theo cách riêng rẽ bởi các thực thể khác nhau.
- Thứ ba, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với việc những bên tham gia có những nhận thức rất khác nhau cũng như chênh lệch khá lớn về hạ tầng và các yếu tố thương mại điện tử trong phạm vi quốc gia.
- Thứ tư, thương mại điện tử diễn ra trên bình diện toàn cầu nên nó đòi hỏi có sự điều phối và thống nhất quốc tế trong cách tiếp cận để có thể khai thác hiệu quả và tận dụng hết tiềm năng của nó.
Những thách thức trong tiến trình thực hiện ( Luận văn: Thực trạng hoạt động phát triển thương mại điện tử )
Trước xu thế phát triển mới, thách thức đối với chúng ta là khoảng cách tụt hậu giữa Việt Nam và thế giới. Ngoài ra, để ứng dụng thương mại điện tử an toàn và có hiệu quả, Việt Nam cần phải có hệ thống hạ tầng cơ sở thương mại điện tử vững chắc. Quan trọng nhất là hệ thống luật pháp phải được điều chỉnh theo hướng thừa nhận giá trị pháp lý của các giao dịch điện tử và những cơ chế thích hợp để thực thi khi thừa nhận. Công nghệ thông tin bao gồm kỹ thuật máy tính, quản trị nguồn lực thông tin và bảo mật hệ thống cũng phải được hoàn thiện. Cơ sở thanh toán điện tử, cơ sở tiêu chuẩn hoá công nghiệp cũng phải được phát triển song song. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam còn cần phải vượt qua rào cản về chuyên môn và ngôn ngữ để nắm bắt được tất cả thông tin liên quan trên mạng. Nhà nước và cơ quan hữu quan còn phải thiết lập hệ thống bảo vệ chống các phần mềm tha hoá, độc hại được truyền qua mạng, bảo đảm an toàn trong kinh doanh và an ninh quốc gia. Thách thức còn ở chỗ cơ hội bên ngoài vốn mở ra cho tất cả các nước và luôn là đối tượng giành giật trong cuộc cạnh tranh mà phần thắng sẽ thuộc về quốc gia nào đã chuẩn bị tốt nhất các điều kiện để đón nhận cơ hội. Với xu thế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc phát triển thương mại điện tử là con đường tất yếu cho Việt Nam. Con đường đó ngắn hay dài, nhanh hay chậm hoàn toàn phụ thuộc vào công tác chuẩn bị của Việt Nam. Việc trước mắt là phải xây dựng nền tảng vững chắc, ổn định và thuận tiện cho sự phát triển của thương mại điện tử.
Mời bạn tham khảo thêm:
→ Luận văn: Giải pháp nâng cao phát triển thương mại điện tử

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com