Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và những định hướng phát triển du lịch các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé.
Nội dung chính
1. Năm phụng vụ và niên lịch Công giáo
1.1 Năm phụng vụ
Năm phụng vụ Công giáo được tính theo Tây lịch. Theo quan niệm Công giáo, trong chu kỳ một năm giáo hội diễn giải toàn bộ màu nhiệm chúa Ki Tô ( sinh, truyền đạo, lập giáo hội, chịu chết, phục sinh, trở về trời) và kính nhớ ngày sinh trên trời của các thánh.
Trong chu kỳ một năm giáo hội chia ra các mùa, mỗi mùa có những Chúa nhật là ngày phụng vụ.
Ngày phụng vụ.
Ngày phụng vụ được kéo dài từ nửa đêm hôm trước cho đến nửa đêm hôm sau. Nhưng việc cử hành ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng bắt đầu từ chiều ngày hôm trước
Chúa (chủ) nhật. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Ngày đầu mỗi tuần, gọi là ngày của Chúa hay Chúa nhật. Ngày này giáo hội họp mừng mầu nhiệm vượt qua (hay là màu nhiệm phục sinh-sống lại). Vì thế, Chúa nhật được coi là ngày lễ quan trọng nhất. Vì vậy, Chúa nhật chỉ nhường chỗ cho các lễ trọng và các ngày lễ kính Chúa. Chúa nhật mùa vọng, mùa Chay, mùa phục sinh chiếm vị trí ưu tiên. Khi gặp các Chúa nhật này, các lễ trọng sẽ mừng vào ngày thứ hai, trừ khi các lễ đó trùng với Chúa nhật lễ Lá hay Chúa nhật Phục sinh.
Chúa nhật trong tuần Bát nhật giáng sinh, mừng lễ thánh gia thất. Chúa Nhật sau mồng 6 tháng giêng mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Chúa nhật sau lễ Thánh thần hiện xuống mừng lễ trọng kính Chúa Ba ngôi.
Chúa nhật cuối mùa thường niên, mừng lễ trọng kính Chúa Giêsu Ki Tô, Vua Vũ trụ.
Nơi nào các lễ Hiển linh, Thăng thiên, Mình và máu Thánh Chúa Ki Tô không còn là lễ buộc nữa sẽ mừng vào Chúa nhật như ngày riêng của các lễ đó như sau:
- Lễ Hiển linh mừng vào Chúa nhật từ mồng hai đến mồng tám tháng giêng.
- Lễ Thăng thiên mừng vào Chúa nhật VII phục sinh.
- Lễ trọng Kính Mình và Máu Thánh Chúa Ki Tô vào Chúa nhật sau lễ chúa Ba Ngôi.
1.2 Các lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
1.2.1 Lễ trọng (lễ lớn)
Lễ trọng là lễ đặc biệt, được cử hành từ giờ kinh chiều ngày hôm trước. Có hai lễ trọng đặc biệt là lễ Phục sinh và Giáng sinh. Hai lễ này kéo dài tám ngày liên tục. Lễ trọng là lễ kỷ niệm những sự kiện lớn liên quan đến cuộc đời Chúa Giêsu.
1.2.1.1 Lễ phục sinh
Lễ Phục sinh (Easter) được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Công giáo là lễ thường diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện Phục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá, được người Kitô tin là xảy ra vào khoảng thời gian này trong năm 30- 33 SCN. (Phục sinh cũng được dùng để chỉ một mùa trong năm phụng vụ gọi là Mùa Phục sinh, kéo dài 50 ngày từ lễ Phục sinh đến Lễ Hiện xuống ).
Trong đạo Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo ngày lễ Phục sinh tất cả rơi vào một Chủ nhật giữa ngày 22 tháng 3 và ngày 25 tháng 4. Ngày kế tiếp, thứ hai được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kỳ, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ thập niên 1980. Lễ Phục sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregorian hay lịch Julian (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa). Thay vào đó nó dựa trên lịch mặt trăng nhưng không giống hệt lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, lễ Phục sinh được quyết định tổ chức vào cùng một chủ nhật trên toàn giáo hội, nhưng có lẽ chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng (không may là hiện không tìm thấy nguyên văn các quyết định của Công đồng). Thay vào đó, việc chọn ngày dường như tham khảo từ giáo hội ở Alexandria (Ai Cập), một thành phố nổi danh về sự thông thái vào lúc đó. Thành phố này tổ chức lễ Phục sinh vào chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3. Trong suốt thời Trung cổ, cách tính này được diễn đạt ngắn gọn là Lễ Phục sinh xảy ra vào chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên hoặc sau ngày xuân phân. Giáo hội Công giáo dùng cách riêng để tính ngày Phục sinh cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang phương pháp Alexandria khi đổi sang lịch Julian bởi Dionysius Exiguus (không có bằng chứng rõ ràng về việc này cho đến thế kỉ 9). Hầu hết giáo hội trên các đảo của nước Anh dùng phương pháp Rôma cuối thế kỉ 3 cho đến khi họ áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội trên lục địa châu Âu ở phía tây dùng cách tính Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, và cuối cùng họ cũng chuyển sang dùng phương pháp Alexandria. Vì các giáo hội Tây phương (Công giáo, Tin lành, Anh giáo) hiện nay dùng lịch Gregorian để tính ngày, còn các giáo hội Chính thống Đông phương dùng lịch Julian, nên ngày lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau.
Trong Công giáo, lễ Phục Sinh đánh dấu việc kết thúc 40 ngày chay tịnh – giai đoạn ăn kiêng và sám hối để chuẩn bị cho lễ Phục Sinh bắt đầu vào Thứ tư Lễ Tro và chấm dứt vào khuya Thứ bảy Tuần Thánh. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Tuần trước ngày Phục Sinh là tuần rất đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo gọi làTuần Thánh: Chủ nhật trước đó là Chúa nhật Lễ Lá, và ba ngày cuối cùng trước ngày Phụcsinh gọi là Tam Nhật Thánh, bao gồm: Thứ năm Tuần Thánh(Thứ năm Rửa Chân), Thứ sáu Tuần Thánh (Thứ sáu Tốt Lành) và Thứ bảy Tuần Thánh (Thứ bảy Yên Tĩnh). Chúa nhật Lễ Lá, Thứ năm Tuần Thánh và Thứ sáu Tuần Thánh tập chú và việc tưởng nhớ đến các sự kiện Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, bữa Tiệc Ly và Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá. Thứ sáu Tuần Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh đôi khi được gọi là Tam Nhật Phục sinh (hay Tam Nhật vượt qua). Ở một số nước, lễ Phục sinh kéo dài 2 ngày, với ngày thứ hai gọi là “Thứ hai Phục sinh”. Nhiều giáo hội bắt đầu lễ Phục sinh vào cuối buổi tối ngày Thứ bảy Tuần Thánh với lễ Vọng Phục Sinh hay Canh thức Vượt Qua.
Mùa Phục Sinh bắt đầu từ Chúa Nhật Phục Sinh và kéo dài đến lễ Hiện xuống vào 50 ngày sau đó.
Quan điểm Công giáo cho rằng Chúa Giêsu tự nguyện hiến mình như là một hành động tuân phục trọn vẹn để đền tội cho sự bất tuân của Adam, do đó ngài tẩy sạch nhân loại khỏi vết ố của nguyên tội (tội tổ tông). Sự hiến tế của Chúa Giêsu là hành động của tình yêu làm vui lòng Thiên Chúa, là lớn hơn tội lỗi loài người đã xúc phạm Thiên Chúa, vì vậy hễ ai tin Chúa Giêsu và tuân giữ mạng lịnh của ngài sẽ nhận lãnh sự cứu chuộc trong danh ngài.
Tín hữu Công giáo tin rằng một người có thể bị vuột mất ân điển nếu tiếp tục phạm tội sau khi được cứu rỗi. Một người có thể được phục hồi vào ân điển qua thánh lễ ăn năn và hoà giải (xưng tội). Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Khi nói đến phong tục lễ Phục sinh, không thể không nghĩ đến những quả trứng sặc sỡ với các nét vẽ trang trí, biểu tượng cho sức sống mới bừng dậy trong mùa xuân. Những quả trứng sôcôla hoặc trứng nhuộm không thể thiếu trên bàn tiệc Phục sinh.Trong những ngày trước lễ Phục Sinh, trong cửa hàng, ngoài chợ, nhiều người tìm mua những hộp thuốc màu để vẽ trứng. Ai nhiều thời gian và kiên nhẫn cũng có thể nhuộm trứng bằng các màu sắc của cây cỏ tự nhiên. Như màu xanh của lá rau, màu đỏ của trái dâu, màu vàng của phấn hoa. Lũ trẻ con lại thích nhất là vớ lấy những cây bút lông hoặc bút dạ. Những vỏ trứng đã rút ruột – tốt nhất là màu trắng – được tô vẽ một cách đầy trìu mến bằng màu nước hoặc bút dạ sẽ được tết thêm dải băng xinh để trang trí cho vòng hoa Phục sinh ở nhà.
1.2.1.2 Lễ giáng sinh
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, hay Noel (từ tiếng Pháp Noel, là viết tắt từ gốc Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta) là một ngày lễ quốc tế kỷ niệm ngày Chúa Giê-su sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc giáo. Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6.
Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12. Tuy nhiên, những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Juliêng để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory.
Nguyên thủy, lễ giáng sinh là của những người theo đạo Kitô giáo, nhằm kỷ niệm ngày sinh ra của người lãnh đạo tôn giáo mình, người mà họ cho là Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng dần dần, theo thời gian và qua các lễ hội của phương Tây, người ta tổ chức lễ Giáng sinh ngày càng linh đình. Kết quả là bây giờ, lễ Giáng sinh được xem là một ngày lễ quốc tế, với ông già Noel, cây Giáng sinh và cây thông noel. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chuá, Noel là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ : chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noel… Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noel trở thành một buổi lễ của trẻ em : một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn. Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình : ” Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế ” : đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noel cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu…
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
1.2.2 Lễ kính Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lễ kính là lễ mừng trong giới hạn một ngày. Trong chu kỳ một năm, Giáo hội có những lễ kính bà Maria ( mẹ Chúa Giêsu), kính các vị thánh, khoảng 80 vị thánh trên vài ngàn vị. Các địa phận hay giáo hội mỗi nước, hoặc dòng tu… lại đặt ra những lễ kính riêng.
1.2.3 Lễ nhớ
Lễ nhớ gồm lễ nhớ buộc và lễ nhớ không buộc. Những lễ nhớ buộc gặp ngày thường trong mùa chay thì chỉ có thể mừng như lễ nhớ không bắt buộc. Một ngày có nhiều lễ nhớ không bắt buộc thì chỉ mừng một lễ nhớ. Các ngày thứ 7 mùa thường niên không có lễ nhớ buộc, có thể mừng lễ nhớ không bắt buộc kính Đức Mẹ.
Những ngày trong tuần:
Là những ngày sau Chúa nhật mỗi tuần. Những ngày đó được cử hành khác nhau.
Ngày thứ Tư lễ Tro và các ngày trong Tuần Thánh từ thứ hai đến chiều thứ năm chiếm vị trí ưu tiên trên mọi cử hành khác.
Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 12, và mọi ngày trong tuần thuộc mùa Chay chiếm vị trí ưu tiên trên các lễ nhớ bắt buộc.
Các ngày trong tuần thuộc các mùa khác sẽ nhường bước cho mọi lễ trọng, mọi lễ kính và sẽ dung hòa với các lễ nhớ.
1.3 Tuần Thánh Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Nhà thờ Công giáo thực hành nghi lễ làm phép lá, tưởng niệm việc chúa Giesu đã cùng các môn đệ vào đền thờ Giêrusalem một cách trọng thể để làm ứng nghiệm lời tiên tri. Chủ nhật lễ Lá còn gọi là chủ nhật Thương khó vì trong lễ có bài đọc phúc âm tường thuật về sự thương khó Chúa Giêsu.
Trong nghi thức lễ Lá, ngay từ thời Đắc Lộ, tín đồ vùng đồng bằng Bắc Bộ đã có thói quen đem lá dừa đến nhà thờ vì có tích Chúa Giêsu vào thánh Giêrusalem được tín hữu trải áo và lá dọc đường Chúa đi.Cuối lễ tín đồ mang lá về cắm ở nhà mình cho đến lễ Lá năm sau mới đem đốt để thay vào đó lá mới.
- Trong tuần thánh có những ngày lễ riêng.
- Lễ truyền phép Mình thánh vào thứ năm.
- Lễ Chúa Giêsu chịu chết vào thứ sáu.
- Vọng Phục sinh vào thứ bảy.
- Phục sinh vào chủ nhật.
Lễ truyền phép Mình Thánh còn gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu xác lập bi tích mình và máu Chúa.
Từ xa xưa, các xứ họ đạo có nghi thức rửa chân ở nhà thờ để tưởng niệm bữa tiệc ly.Nước rửa có lá thơm. Việc rửa chân hoàn toàn có tính chất tượng trưng. Trong Tuần Thánh mỗi xứ đạo, tùy điều kiện mà có những hình thức tưởng niệm khác nhau.
Ngày thứ sáu tuần Thánh kỷ niệm chúa Giêsu chịu chết cũng có nhiều hình thức diễn xướng nơi nhà thờ Công giáo. Người ta diễn lại cảnh Chúa Giêsu bị điệu đến núi Calvaire để chịu án đóng đinh trên thập giá; Cai pha lột áo Chúa; Đức Maria lòng quặn đau chứng kiến cảnh con mình bị hành quyết. Tiếp theo là cảnh hạ xác Chúa, đưa đi táng xác. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Tuần thánh là một trong những trung tâm điểm của năm phụng vụ Công giáo nói chung và mùa chay nói riêng. Trong một thời gian ngắn tín hữu vừa tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem một cách trọng thể làm ứng nghiệm lời tiên tri, vừa tưởng niệm Chúa Giêsu lập bi tích Thánh thể, chịu chết và sống lại. Những sự kiện ban đầu là bi thương về sau là mừng rỡ hoan ca. Sự tích về cái chết sống lại của Chúa Giêsu dù được phúc âm miêu tả sống động bao nhiêu, dù giáo lý được linh mục giảng giải sống động bao nhiêu, dù giáo lý được linh mục giảng giải kỹ càng đến bao nhiêu, nó vẫn chỉ là sách vở, thật khó hình dung mường tượng. Nó chỉ thực sự sống động bởi hình thức sống đạo, lối diễn tả qua các ca vè vãn, kịch, tuồng, qua lối diễn tả bằng hình thức sân khấu hóa ( bắt đóng đinh, đưa đi táng xác…) lôi diễn tả bình dân dễ hiểu, dễ vào, dễ đánh động tâm thức dân gian.
Lối diễn tả ấy được truyền từ năm này sang năm khác, từ đời này qua đời khác, ai cũng phải hát, ai cũng được diễn thật dễ nhớ. Khi Tuần Thánh qua đi người ta lại mong ngóng cho một năm phụng vụ mới, một Tuần Thánh mới ở đó những người năm ngoái là “ khán giả” thì năm nay họ được đổi chỗ là “diễn viên” họ có dịp được thi thố tài năng, được khẳng đinh mình trước cộng đồng.
1.4 Chu kỳ năm phụng vụ (hay còn gọi là mùa phụng vụ). Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Chu kỳ năm phụng vụ: giáo hội tưởng niệm chúa Giêsu và kết thúc bằng giờ kinh chiều Chúa nhật Phục sinh; Trung tâm của Tam nhật là đêm Canh thức vượt qua được gọi là Mẹ của mọi lễ canh thức.
1.4.1 Mùa Phục Sinh
Gồm 50 ngày (ngũ tuần) từ Chúa nhật Phục sinh đến Chúa nhật Hiện xuống. Nó được gọi là Đại Chúa Nhật. Mùa Phục Sinh kỷ niệm sự kiện Chúa sống lại.
Tám ngày đầu mùa Phục sinh là tuần bát nhật Phục sinh và được cử hành như các ngày lễ trọng kính Chúa.
1.4.2 Mùa Chay
Bắt đầu từ thứ tư lễ Tro đến trước thánh lễ Tiệc ly, Các Chúa nhật mùa này gọi là Chúa Nhật I, II, III, IV, V mùa Chay. Chúa nhật thứ VI, bắt đầu tuần Thánh, gọi là Chúa nhật lễ Lá tưởng niệm cuộc thương khổ của Chúa Giêsu.
Mùa Chay chuẩn bị cử hành lễ Vượt qua. Đây là mùa các tự tòng gia nhập đạo, tín đồ thực hành bí tích thanh tẩy và sám hối.
1.4.3 Mùa Giáng sinh Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Bắt đầu từ giờ kinh chiều I lễ Chúa Giáng sinh cho đến hết Chúa nhật lễ Hiển linh, hoặc Chúa nhật sau ngày 6 tháng giêng.
- Lễ vọng Giáng sinh cử hành vào chiều ngày 24-12 trước và sau giờ kinh chiều I.
- Lễ Giáng sinh được cử hành 3 thánh lễ: Đêm, rạng đông, ban ngày.
- Lễ giáng sinh kỷ niệm Chúa Giêsu ngôi hai giang thế làm người.
- Lễ Giáng sinh có tuần bát nhật Giáng sinh được tính từ ngày 25-12 đến 1-1 năm sau.
1.4.4 Mùa Vọng
Bắt đầu từ giờ kinh chiều ngày Chúa nhật, nhằm ngày 30-11 hoặc ngày nào gần nhất, kết thúc trước giờ kinh chiều chiều I lễ Chúa Giáng sinh. Mùa Vọng theo quan niệm Công giáo là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng sinh, và mùa các tín hữu trông đợi Chúa Ki Tô đến lần II trong ngày tận thế.
1.4.5 Mùa thường niên
Ngoài các mùa trên, các tuần còn lại thuộc vào mùa thường niên bắt đầu từ thứ hai kế tiếp Chúa nhật sau ngày 6 tháng giêng và kéo dài đến hết thứ ba trước mùa Chay; Rồi lại bắt đầu từ thứ hai sau Chúa nhật lễ Hiện xuống và kết thúc trước giờ kinh chiều I Chúa nhật mùa Vọng.
Mùa thường niên không cử hành những sự kiện lớn của Chúa Ki Tô, nhưng lại tôn kính toàn bộ mầ nhệm Chúa Ki Tô trong các ngày Chúa nhật.
2. Các nghi lễ thường được cử hành trong lễ hội Công giáo. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
2.1 Hát thánh kinh, đọc sách và đọc kinh
Mỗi tôn giáo đều có nghi lễ thờ phụng. Nghi lễ được biểu đạt với các hình thức khác nhau, như: cúng, bái, niệm, tế, hát chầu Thánh… Công giáo cũng có nghi lễ thờ phụng như hát kinh, hát thánh ca, đọc sách Thánh. 2.1.1 Hát thánh kinh
Trong những hình thức diễn xướng của nhà thờ Công giáo Việt Nam trước hết phải kể đến hát: Bao gồm hát thánh kinh ( hát kinh thánh), hát thánh ca.
Hát thánh kinh:
Đó là những bài hát trong kinh thần vụ, rút ra từ kinh thánh, nhưng không phải là thánh vịnh. Một dạng hát của các bài hát được hát ở nhà thờ Công giáo mà tín đồ quen gọi là thánh ca là những bài hát được sáng tác trên nguồn cảm xúc lấy từ kinh thánh, thánh vịnh hoặc hạnh tích các thánh Công giáo hoặc nội dung bày tỏ sự tôn vinh Thiên Chúa, Mẹ Maria hoặc các thánh…
Để phục vụ thánh lễ, mỗi nhà thờ Công giáo thường có một hội hát. Hội hát phục vụ trong các buổi lễ lớn, những buổi chầu thánh thể, những lễ mồ, lễ cưới. Đặc biệt còn có những bài hát cho mùa phụng vụ, cho các tháng như tháng ba: kính ông thánh Giuse, tháng năm: kính Đức trinh nữ, tháng sáu: kính Trái tim.
Bài hát cho từng mùa cũng có những sắc thái riêng mang những nỗi niềm tâm tư tiêu biểu cho từng giai đoạn phụng vụ của một năm.Xin đơn cử: Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
- Mùa vọng: lạy tạo hóa các tinh tú.
- Giáng sinh: lạy Đức Chúa Giêsu cứu chuộc.
- Mùa chay: cờ vua phấp phới.
- Phục sinh: tới tiệc vương đế con chiên.
- Nhạc điệu của các bài hát là nhạc điệu bình ca.
- Hình thức thể hiện là xướng ca,đáp ca hay đối ca.
Về nhạc cụ, có hai loại hình mà giáo dân quen gọi là nhạc Tây và nhạc Nam. Nhạc Tây gồm: Phong cầm, banjô, altô ; nhạc Nam gồm: Đàn nguyệt, đàn tam, nhị, hồ, sáo (bát âm).
Cùng với thời gian, dòng thánh nhạc Công giáo đã dần dần xác định được vị trí của mình. Bước đầu hình thành một đội ngũ nhạc sĩ Công giáo. Ở nhiều làng quê, xứ đạo Công giáo khôi phục lại ban nhạc Nam, trong đó có bát âm tấu những bản nhạc dân ca tạo cho thánh lễ hoặc các cuộc đi kiệu mang đậm nét dân tộc.
2.1.2 Đọc sách và đọc kinh Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Đọc sách: Đọc sách trong nhà thờ là một thói quen có từ lâu đời của các cộng đồng giáo dân xứ đạo. Nguồn gốc ban đầu của nó là các giáo sĩ nước ngoài không được tự do hoạt động, vả lại, có nhiều cộng đồng, mà số lượng giáo sĩ thì ít nên phải có người đọc lịch lễ Công giáo và đọc các thư chung của giáo sĩ gửi bổn đạo. Ngoài ra ở các nhà thờ các giáo dân còn đọc các sách ngắm…
Về cách đọc sách , không đọc theo lối thông thường mà phải đọc theo các cung giọng khác nhau tùy theo loại sách nào, đọc vào mùa nào. Tác giả Nguyễn Khắc Xuyên chia sách đọc và cung sách ra làm bốn: sách đọc ở một vài trường tu, sách đọc ở nhà thờ họ đạo, sách ngắm vào những dịp lễ riêng và sách ngắm mùa chay thánh. Sách ngắm mùa chay khá da dạng. Đó là sách tuần chín ngày kính ông thánh Phanchicô Xavie; sách giảng sự thương khó Đức Chúa Giêsu…
Đọc kinh: Nếu như đọc sách có cung giọng thì đọc kinh cũng có cung giọng.
Ngày nay mỗi địa phận đều có sách kinh hoặc sách kinh bổn của địa phận. Sách được soạn và in bằng tiếng Việt. Việc thể hiện lời kinh phải theo những giọng dành riêng cho từng thứ kinh, dành riêng cho từng mùa phụng vụ, mùa vui, mừng cho quanh năm, mùa thương cho mùa chay thánh.
Về giai điệu: Có ba giai điệu thông thường thể hiện theo ba loại kinh: một là kinh Kính mừng; hai là kinh ngắm lễ hàng ngày; ba là kinh cảm ơn rước lễ. Mỗi kinh tùy theo mùa được đọc với những cung khác nhau. Ví dụ kinh Kính mừng, kinh Lạy cha đọc cung buồn trong mùa Chay, cung vui dành cho mùa sinh nhật, phục sinh, hiện xuống. Có những kinh chỉ đọc một cung như kinh cầu chịu nạn, đọc cung thương, cung giọng đều đều trên hai nốt nhạc, âm sắc thường bị biến, tạo nên cung giọng buồn rầu, não nề.
2.2 Múa hát dâng hoa Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Một phong tục lâu đời của người Âu châu coi tháng Năm là tháng của hoa. Dần dần tháng Năm, tháng hoa được gắn với hình ảnh Maria. Trong tháng ấy hàng ngày giảng giải nguyện ngắm hát mừng ngợi khen Đức Bà; Nơi thì đi kiệu xa viếng nhà thờ Đức Bà đã làm phép lạ mà xem lễ cùng chịu lễ ở đấy nơi thì hàng ngày bổn đạo, dù kẻ khô khan, dù người
ngoan đạo đều đến nhà thờ như hội, chẳng khác gì như ngày lễ trọng vậy; Kẻ nọ thì đem những hoa thơm tho tốt lành để trên bàn thờ Đức Bà, là hình bóng nhân đức Đức Bà đã xông như hương thơm vào trong lòng làm cho kẻ cậy trông được vui mừng; Người kia dâng nến, sáp, tiền nong để sắm sửa màn, ảnh, kiệu, tượng, làm bàn thờ riêng Đức Bà; Mọi người hợp hợp một lòng cầu nguyện ngợi khen kính mến. Từ rất sớm trong phụng tự, giáo hội Công giáo Việt Nam đã thực hành nhiều nghi lễ tôn kính Đức Maria với các hình thức như đi kiệu Đức Bà, múa hát dâng hoa… xứ Phát Diệm ( Kim Sơn, Ninh Bình) cho thấy, thời kỳ làm linh mục chính xứ Phát Diệm, linh mục Trần Lục đã tổ chức múa hát dâng hoa và đi kiệu hoa.
Hàng năm vào tháng Năm, dưới hang đá táng xác hay còn gọi là hang Lộ Đức xây dựng từ năm 1896 các cuộc múa hát dâng hoa diễn ra trọng thể mà vui tươi, trang nghiêm mà rộn rã dâng kính Mẹ Maria. Các lời vãn hoa, điệu múa khi hái hoa, lúc dâng hoa do linh mục Trần Lục dặt và đạo diễn. Những bài dâng hoa đầu tiên ở xứ Phát Diệm hiện không còn tài liệu. Giai điệu hát vãn được cải biên từ những làn điệu dân ca truyền thống.
Vãn hoa là một hình thức múa hát với các bài hát cùng điệu múa kết hợp với các loài hoa thể hiện sự tôn kính của chiên Chúa với Đức Maria. Ví dụ vãn Mân Côi dâng hoa trắng thể hiện đức trinh khiết của Maria. Mỗi vãn còn được gắn với một làn điệu dân ca các miền của đất nước Việt Nam. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Vãn 12 hoa lấy sắc hoa Phong Lan làm chủ đạo, nhạc của bài hát được phỏng theo dân ca Tây Nguyên.
Vãn Mân Côi dâng hoa mầu trắng, nhạc của vãn này khá đa dạng, mô phỏng theo hát đúm, hát chèo, dân ca miền Trung, chầu văn, ca trù, cò lả, sa mạc…Đây chính là sự tổng hợp của các vãn, nghĩa là phỏng nhạc dân ca của các miền đất nước vào lời ca của một vãn.
Từ rất lâu, các xứ họ đạo miền Bắc, miền Trung đều có hội hát và hội dâng hoa thực hiện múa hát dâng hoa trong tháng Năm- Tháng Đức Bà- Tháng Hoa. Đi liền với hát dâng hoa là múa dâng hoa. Khi dân ghoa con hoa có thể tay cầm hoa, tay để không, hay tay cầm hoa, tay cầm quạt hoặc nến, nhưng có động tác chính giông nhau, vì những động tác thường mô phỏng theo lời, như tỏ lời cung kính thờ lạy thì cúi đầu hay quì. Tỏ lòng thành của mình thì tay hoa hoặc vai úp vào ngực, dâng hoa thì dơ hoa lên, hái hoa thì làm động tác ước lệ như đang hái hoa… Nhiều động tác khác thì múa theo điệu nhạc, tùy theo người biên đạo.
2.3 Nghi thức tế trong lễ hội Công giáo
Tế ở nhà thờ Công giáo là hình thức sinh hoạt hội hè trong làng Công giáo.
Việt Nam một số xứ họ thuộc các địa phận Thái Bình, Bùi Chu ( Nam Định), Hà Nội. Tế ở nhà thờ Công giáo có từ trước Cách mạng tháng Tám 1945. Năm 1945, một số giáo dân thuộc hai địa phận Bùi Chu và Thái Bình di cư vào Nam có ý thức giữ gìn và phục hồi ở một vài xứ đạo di cư thuộc địa phận thành phố Hồ Chí Minh và địa phận Xuân Lộc ( Đồng Nai). Còn các xứ đạo thuộc hai địa phận Bùi Chu và Thái Bình vì những lý do khác nhau đã không còn duy trì tế ở nhà thờ Công giáo.
Châu Bình là xứ đạo của giáo dân di cư từ miền Bắc vào năm 1954. Tín đồ Công giáo vốn là người ở rải rác hai địa phận Bùi Chu và Thái Bình. Các linh mục dòng Đức Mẹ mà người có công đầu là linh mục Phạm Quang Thiều đứng ra chiêu tập họ về định cư trên đất nhà dòng. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Từ những năm sau di cư, giáo dân được tổ chức thành xứ đạo, lấy tên là xứ Châu Bình. Một nhà thờ nhỏ làm bằng bạt được dựng lên cho giáo dân đến tham dự Thánh lễ. Năm 1958, xứ dựng một ngôi nhà thờ mới xây gạch, lợp ngói. Những tổ chức của xứ đạo lần lượt ra đời mà khuôn mẫu được đưa ra từ miền Bắc là khu dân cư được xem là một họ giáo có trùm khu, thánh quan thày khu, các hội đoàn lần lượt ra đời, đáng kể là các hội đoàn phục vụ thánh lễ như hội trống, kèn, bát âm, trắc, hội hát, hội con hoa ngày càng được củng cố và phát triển. Một số nghi lễ mang tính văn hóa dân tộc như rước kiệu, múa hát dâng hoa và tế được phục hồi.Trong nghi thức tế có tế giao thừa và tế hoa.
2.3.1 Tế giao thừa
Năm phụng vụ của Công giáo là năm dương lịch. Nó bắt đầu từ sau lễ Giáng sinh (25-12) hàng năm và kết thúc vào lễ Giáng sinh năm sau. Về lý thuyết giáo hội Công giáo không theo âm lịch và không có nghi lễ đón giao thừa. Song từ lâu ở các xứ đạo Công giáo, giáo dân tổ chức đón giao thừa với những lễ thức khác nhau, trong đó có lễ thức tế.
Đoàn tế ở xứ Châu Bình gồm 15 người, một chủ tế, hai bồi tế ( Đông xướng và Tây xướng) và 12 tế viên. Tham gia vào đoàn tế còn có hội bát âm thổi sáo, đánh đàn, gõ chuông, đánh trống.
Khi giờ phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới của đất trời đến cũng là lúc lễ thức tế giao thừa được tiến hành trọng thể, trang nghiêm trong nhà thờ xứ đạo.
Thời gian tế giao thừa kéo dài nửa giờ. Sau lễ, những người tham dự rời nhà thờ, trở về mái nhà ấm cúng của mình, mở đàu cho một năm mới với những hi vọng tốt đẹp.
2.3.2 Tế hoa Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Cũng trong tháng năm, một số xứ đạo còn tổ chức tế hoa. Đây là một lễ thức có ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Những giáo dân miền Bắc di cư vào Nam đem theo tế hoa và có cải biên đôi chút. Ví dụ trước Công đồng Vatican II, nhà thờ Công giáo không có thắp hương nên không có phần dâng hương. Nghi lễ này chỉ được đưa vào nội dung tế hoa từ sau Công đồng Vatican II.
Khác với múa hát dâng hoa do các cháu gái 9 tuổi đến 15 tuổi đảm nhiệm, tế hoa do nam giới thực hiện. Đoàn tế gồm 15 người: 1 chủ tế, 2 bồi tế và 12 tế viên. Về trang phục của đoàn tế hoa, giống như trang phục của đoàn tế giao thừa. Chủ tế là người cao tuổi có đức hạnh, hai bồi tế cũng là hai huynh trưởng gương mẫu. Mười hai tế viên thường là những nam giới trung niên, thành viên sốt sắng của xứ, họ đạo.
Cũng như múa hát dâng hoa, trước khi vào lễ tế hoa xứ đạo tổ chức đi kiệu hoa xung quanh khuôn viên nhà xứ. Cuộc đi kiệu thường kết thúc vào lúc sẩm tối. Đó cũng là thời điểm bắt đầu của tế hoa.
Mở đầu, một vị thay mặt cho xứ đạo ( có thể là thánh trưởng) hoặc thay mặt cho họ đạo thực hiện, ngâm lời giáo đầu. Nội dung của lời giáo đầu nêu lý do xứ đạo tổ chức tế hoa. Tiếp theo đến phần dâng hương. Hai vị bồi tế lần lượt tiến đến bát hương đặt trước bàn thờ. Ban nhạc cử điệu sênh tiền. Dứt nhạc, hội hát, hát một bài ca, ca ngợi Đức Maria.
Song phần tế hoa: Năm cặp lần lượt cầm mỗi sắc hoa dâng lên bàn thờ, cạnh đó là kiệu hoa Đức Mẹ. Mỗi sắc hoa tượng trưng cho mỗi đức hạnh của Đức Maria. Hoa trắng thể hiện lòng trinh khiết, hoa xanh tượng trưng cho nhân từ, khoan dung.
Cuối lễ là lời chúc phúc của chủ tế.
Tế hoa cũng diễn ra độ nửa giờ.
Sau phần tế là phần cộng đồng tín hữu cầu nguyện. Buổi lễ kết thúc bằng việc giáo dân chịu phép Mình Thánh.
2.4 Nghi lễ sùng kính Mình Thánh Chúa Giêsu trong lễ hội Công giáo Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
2.4.1 Tuần chầu lượt
Trong các sách lịch lễ địa phận ở miền Bắc, miền Trung đều có ghi lịch lễ chầu lượt của xứ đạo, họ đạo trong địa phận. Lễ chầu lượt nghĩa là đến lượt một xứ đạo, họ đạo nào đó thay mặt cho các xứ họ đạo toàn địa phận chầu Mình Thánh một cách trọng thể. Lễ chầu lượt được tổ chức vào ngày chủ nhật trong năm, ở mỗi địa phận đều có xứ đạo, họ đạo chầu Mình Thánh một cách trọng thể.
Lễ chầu lượt được nếu tính thời điểm giám mục Đông ra thư chung (ngày 8 tháng 9 năm 1902) lập lễ chầu lượt đến năm 1999 thì lễ chầu lượt đã được thực hành 97 năm. Trong non một thế kỷ, lễ chầu lượt nhanh chóng đi vào tâm thức người Công giáo với tấm lòng sùng kính Mình Thánh Chúa. Ngày lễ chầu lượt dần dần trở thành một lễ hội ở xứ, họ đạo, làng Công giáo. Từ trước ngày lễ, nhà thờ đã được quét dọn sạch sẽ, được trang hoàng đẹp đẽ. Nhiều xứ đạo làm cổng chào, cờ đuôi nheo, dựng đèn lồng.
Cư dân trong xứ, họ đạo chộn rộn, chuẩn bị đón chờ ngày lễ. Người đi làm xa, nhớ ngày lục đục trở về quê trước ngày lễ. Nhân dân các làng quê, xứ đạo Công giáo nhắc nhau:
- Dù ai buôn đâu, bán đâu
- Nhớ ngày chầu lượt rủ nhau mà về.
- Dù ai buôn bán trăm bề.
- Nhớ ngày chầu lượt thì về thông công.
Đến ngày chầu lượt, không chỉ giáo dân trong xứ, họ đạo đó mà giáo dân các xứ họ đạo quanh vùng lũ lượt đến “ thông công”, cùng tỏ lòng sùng kính Mình Thánh Chúa. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lễ chầu lượt được cư dân miền đồng bằng Bắc Bộ và miền Trung gọi là tuần chầu lượt vì nó được tổ chức tới ba ngày. Buổi chiều ngày đầu được diễn ra với một thánh lễ trang trọng. Buổi tối là đêm canh thức. Ngày thứ hai được xem là chính lễ, hình thức là sáng lễ, chiều châu. Thường thì mỗi xứ đạo có một số họ đạo lẻ. Trong khoảng thời gian nhất định người ta phân chia để các họ đạo lần lượt thay nhau chầu Mình Thánh. Buổi tối là canh thức thứ hai. Tuần chầu lượt được kết thúc vào chiều thứ ba. Buổi tối xứ đạo có thể tổ chức liên hoan văn nghệ. Có thể là đội văn nghệ của xứ đạo có thể mời ddojoij văn nghệ của xứ khác tới biểu diễn. Tiết mục la những lời ca, điệu múa ngợi ca Chúa, ngợi ca Mẹ Maria. Cũng có thể diễn về hạnh tích một thánh tử đạo nào đó, hoặc nội dung lấy trong phúc âm.
Trong lễ chầu lượt, xứ đạo, họ đạo có thể mời giám mục về làm lễ thêm sức cho trẻ được mạnh đạo, hoặc xứ đạo, họ đạo tổ chức cho trẻ nhỏ được xưng tội chịu lễ lần đầu.
Chầu lượt thực sự là một lễ trọng của xứ, họ đạo. Một vùng quê yên tĩnh ngày thường bỗng nhộn nhịp vui tươi làm thức dậy những nét đẹp văn hóa và lòng mộ đạo của giáo dân.
2.4.2 Kiệu Santi (kiệu Mình Thánh)
Đi kiệu Santi cũng là một nghi lễ trang trọng của giáo dân một xứ đạo, hay một địa phận tỏ lòng kính trọng Thánh thể. Kiểu đặt Mình Thánh Chúa hầu hết là kiểu cổ hay còn gọi là kiệu vàng. Ở nhiều xứ đạo vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện còn lưu giữ khá nhiều kiệu, chủ yếu là kiệu Bát Cống mà giáo dân quen gọi là “Kiệu Vàng”. Kiệu Vàng xứ đạo được dùng trong lễ kỷ niệm thánh Quan thày, thánh tử đạo, trong tháng Hoa, tháng Mân Côi. Thông thường mỗi xứ đạo (nhiều nơi có cả họ đạo ) có từ một, đến hai, ba kiệu vàng. Mỗi kiệu vàng tùy theo thánh lễ mà được đặt tên khác nhau như kiệu Thánh tâm, kiệu Hoa, kiệu Mân Côi, kiệu Santi… Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Về kiểu dáng, bộ đòn khiêng không khác bộ đòn khiêng của kiệu cổ người Việt. Đòn khiêng được chia làm hai lớp, lớp dọc và lớp ngang xếp vuông góc. Lớp dọc thường dài gấp đôi lớp ngang. Thường có 14 khiêng… hoặc có thể nhiều hơn. Tiếp vào phần đòn khiêng là bệ kiệu. Bệ kiệu chồng tam cấp, giật về hai phía. Thành mỗi cấp đều trạm trổ hoa lá dây cách điệu. Đặt trên bệ kiệu là khán. Nhưng đó là khán rỗng. Khán được làm bằng 4 trụ tròn dựng ở 4 góc bệ kiệu. Mỗi trụ được nối chéo phía bên trên dựng hình thập giá. Các trụ và đường chéo chạm trổ hoa lá cách điệu.
Khán của kiệu vàng ở mỗi xứ đạo có sự khác nhau. Nhưng giống nhau một điểm là trên chóp dựng thập giá. Cá biệt có một vài xứ đạo ở địa phận Phát Diệm ( Ninh Bình) đã mua kiệu của người Việt, mang về sửa sang đôi chút để dùng.
Kiệu Thánh thể hay còn gọi là kiệu Santi cũng được bắt đầu từ trong thánh đường. Về cơ bản nó cũng giống như lễ đi kiệu thánh quan thày, chỉ khác ở một vài điểm sau:Mình Thánh để trong Mặt nguyệt thường là gò bằng đồng, do vị chủ tế ( do linh mục hoặc giám mục) cầm. Một phương du có bốn cột, đình làm bằng vải do bốn người cầm che đầu chủ tế. Kiệu Thánh thể đi đến đâu, giáo dân tung hoa đến đó. Hoa được tính toán, dự trữ để tung thế nào cho đến hết cuộc đi kiệu. Suốt dọc đường giáo dân đọc kinh cầu nguyện, còn các ca đoàn, hội trống, kèn, bát âm… ca hát và chơi các bản nhạc ngợi ca Chúa Giesu. Dọc đường giáo xứ thường dựng một vài trạm, gọi là trạm Santi dùng để đặt Mình Thánh cho giáo dân dừng lại cầu nguyện một thời gian ngắn từ mười lăm đến ba mươi phút, sau đó cuộc đi kiệu lại tiếp tục.Cuộc đi kiệu Thánh Thể ở xứ đạo thường ngắn hơn so với kiệu Thánh Thể ở địa phận. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
3. Một số lễ hội Công giáo nổi tiếng tại một số địa phương
3.1 Kỷ niệm thánh quan thày địa phận ở xứ đạo Phú Nhai ( Nam Định).
Phú Nhai là một xứ đạo lâu đời thuộc địa phận Bùi Chu ( Tỉnh Nam Định).
Sự ra đời của xứ đạo Phú Nhai gắn liền với công cuộc truyền giáo phát triển đạo vùng đất Trà Lũ. Năm 1533 đời vua Lê Trang Tông đã có giáo sĩ ngoại quốc là Inêkhu đến giảng đạo ở Trà Lũ, Sơn Nam. Sử ký địa phận trung viết: Trong các gia phả lương dân về xã Trà Lũ thì thấy con chúa tên thánh là Maria, Anna, Phêrô, Rôsa… cho nên có lẽ mà luận xứ này có đạo đã lâu đời, có từ lúc hai đấng dòng Tên đến giảng đạo Đàng Ngoài, trong nước An Nam là năm 1627. Vì trong sử ký Nhà nước đời ấy cũng nói đã giảng đạo về Trà Lũ huyện Giao Thủy. Rồi năm 1698 Tòa Thánh giao địa phận cho các đấng ông Thánh Dumigo ( Đa Minh) thì từ bấy giờ đến rầy các đấng dòng ta vốn giảng đạo ở địa phận này mãi.
Sau nữa, trong các kỳ cấm đạo từ trước cho đến đời vua Minh Mạng, vua Tự Đức thì các đấng đến ẩn mình trong làng Trà Lũ, ấy là dấu chắc đã có kẻ có đạo đấy.
Sau hết, cụ Thánh Liêm quê họ thôn Đông chịu tử vì đạo năm 1773 thì xứ ấy cũng là dấu chắc xứ này có đạo đã lâu rồi.
Song le, ai lập (đạo) Phú Nhai thì không ai biết. Còn từ Minh Mạng lục niên về sau thì xem ra các Đức Cha và cha chính thường ở trong xứ này, rồi lập ra nhà tràng, nhà chung cũng ở trong xứ này.
Trước năm 1806 thì cha Luis Vilanova ở xứ này, rồi đến cha chính Tăng (1826). Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Vả lại đang khi cấm đạo thì các Đức Cha ở Bắc Tỉnh thường lui về Phú Nhai làm phép Comfirmasong cho các trẻ ở nhà bà trùm Bính, và nhà ông trùm Văn, mà thày già bốn Khuê thì trú ở nhà bà trùm Hựu vì thôn Bắc cho được đi về làm cửa nhà ở Bắc Tỉnh. Đã lập ra nhà Chung ở Bắc Tỉnh lần thứ nhất đời cha Chính xứ Huy là năm 1737 mà các lễ đầu dòng thì các đấng, các cụ cũng hội về mừng lễ cha cả ta ở đấy nữa. Từ Trà Lũ các giáo sĩ dòng Đa Minh phát triển đạo sang Phú Nhai. Nửa cuối thế kỷ XVIII, Phú Nhai có một dòng họ đạo lẻ. Năm 1873 Phú Nhai trở thành một họ đạo độc lập, có linh mục về chăn chiên. Một ngôi thánh đường được làm mới lấy tên là Dâng Kính Đức Bà khỏi tội và đặt Đức Bà làm thánh quan thày riêng của địa phận.
Phú Nhai không phải là xứ đạo trị sở của tòa giám mục hay còn gọi là giáo xứ chính tòa, nhưng do nhà thờ Phú Nhai thánh quan thày Đức Bà là thánh quan thày địa phận, nên lễ kỷ niệm thánh quan thày của xứ chính là lễ kỷ niệm thánh quan thày địa phận. Đây là lễ hội mang yếu tố vùng, thu hút hàng vạn giáo dân thuộc địa phận tham gia. Lễ hội được tổ chức vào ngày 8-12 hàng năm. Đây là ngày lễ trọng- Lễ Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội. Vì là lễ kỷ niệm thánh quan thày địa phận, nên quy mô và hình thức tổ chức rất lớn, vượt ra ngoài quy mô lễ hội của một xứ đạo thông thường. Từ mấy ngày hôm trước người ta đã bó cột bằng những cây luồng tạo nên cây cột cờ thật cao. Các hội mõ, trắc trống, kèn, bát âm được tập luyện cho thành thục để tham gia vào cuộc đi kiệu. Kiệu vàng được đem ra lau chùi, kết đèn, hoa. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Mở đầu cuộc đi kiệu là hình tượng chiếc thuyền vượt biển, trên đó là giáo sĩ ngoại quốc do một nam giới đóng. Hình tượng này thể hiện việc giáo sĩ ngoại quốc vượt biển đến truyền giáo tại địa phận. Rồi đến hội trắc, hội mõ vừa hành tiến vừa gõ, vừa múa, đội trống, đội kèn đồng. Trong cuộc đi kiệu còn có hình ảnh chim Phượng, biểu tượng cho hình ảnh Thiên Chúa. Kiệu Đức Mẹ trên đó là tượng Đức Maria ở đây khác với nhiều xứ đạo khác là tượng được vận quần áo vải nên sinh động. Tham gia đi kiệu là những nữ tu dòng Đa Minh, dòng Mến Thánh giá (ở xứ đạo Bùi Chu đến) là các hội đoàn. Các bà mẹ Công giáo mặc áo tấc đỏ, tay cầm ô cho thêm điệu đàng, hội con hoa, hội hát mặc áo dài trắng. Các linh mục về tham dự mặc quần trắng, áo dài vàng khoác bên ngoài. Để phân biệt hội kèn, hội trống, hội mõ của các họ đạo, các hội này thương mặc trang phục khác nhau.
Những kỷ niệm chẵn, lòng nhà thờ trở nên chật hẹp khi mà có tới hàng vạn giáo dân tham dự. Vì vậy dịp này địa phận cho dựng lễ đài ở cửa nhà thờ, thánh lễ diễn ra ở ngoài trời cho đông người tham dự. Chủ tế thường là giám mục địa phận.
Lễ rước kiệu thánh tử đạo ở xứ Đồng Trì đám rước đi theo hướng từ Tây sang Đông, hướng thuận chiều kim đồng hồ. Trong khi đó lễ rước kiệu xứ đạo Phú Nhai ( Nam Định), ở nhà thờ lớn Phát Diệm (Kim Sơn- Ninh Bình ) lại đi theo chiều ngược kim đồng hồ, nghĩa là từ Đông sang Tây. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Với người Việt, trong các lễ hội truyền thống (làng, đình, chùa, đền..)
Giáo sư Lê Trung Vũ chuyên gia về lễ hội cho biết, quan niệm về cõi cực lạc phương Đông và phương Tây có sự khác nhau. Tín đồ theo đạo Phật quan niệm đi về theo hướng Tây là đi về cõi cực lạc. Đi theo hướng Đông- Tây là đi theo biểu kiến mặt trời. Đạo Công giáo- Âu châu- quan niệm hướng Đông là hướng về chốn Thiên đàng. Một số nhà thờ Công giáo rước kiệu từ trong nhà thờ đi ra mang theo hướng Tây- Đông tức là hướng về Thiên đàng. Nhà thờ Công giáo cổ quay hướng về phía Đông.
Vào thời giám mục Liêu Retord (1831- 1858), giám mục ra thư chung quy định cách đi kiệu Đức Bà : “ Về sự đi kiệu ở nhà thờ mà ra ngoài thì phải quay về đàng tay mặt, là về bên Evan; mà khi đã đi hết vòng quanh nhà thờ, thì lại vào nhà thờ về bên Epistola là xứng đáng và phải trở mặt xuôi cùng một chiều như người ta theo sau”. Như vậy theo quy định rẽ tay phải của đoàn rước từ trong nhà thờ đi ra hướng của kiệu bao giờ cũng theo chiều thuận của kim đồng hồ, nghĩa là theo hướng từ tây sang đông.
Lễ hội thánh quan thày làng giáo- xứ đạo đóng góp vào đặc trưng văn hóa làng Công giáo. Từ đó hình thành những tiểu vùng văn hóa- văn hóa làng giáo- xứ đạo, làm đa dạng, phong phú văn hóa làng Việt.
3.2 Kiệu thánh tử đạo xứ Đông Trì Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Đồng Trì là một xứ đạo lâu đời thuộc địa phận Hà Nội. Về hành chính, Đồng Trì thuộc xã Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Cũng như các xứ đạo khác, Đồng Trì thờ thánh tử đạo và có lễ tưởng niệm thánh tử đạo.
Hàng năm cứ độ xuân về giáo dân xứ Đồng Trì tiến hành lễ kỷ niệm thánh tử đạo. Lễ này không chỉ của một xứ đạo mà là của một vùng đạo thuộc huyện Thanh Trì và những xứ đạo nội thành, thành phố Hà Nội như các xứ: Giáp Bát, Hàm Long, Nhà thờ lớn. Từ mấy ngày trước lễ, giáo dân đã tổ chức kết đèn, hoa, chăng cờ, náo nức chuẩn bị cho ngày lễ.
Lễ được tổ chức vào buổi sáng ngày 18-2. Mở đầu là cuộc đi Kiệu. Xứ đạo có hai kiệu vàng bát cống cổ. Ngày lễ, một kiệu dùng để rước hài cốt thánh tử đạo, một kiệu rước đức Mẹ, được gọi là kiệu đức Mẹ. Hai chiếc kiệu đều được lau chùi sạch sẽ, kết hoa tươi nhiều mầu, vì thời tiết đang là mùa xuân.
Trên một chiếc kiệu tựa như long đình có đặt chiếc hòm nhỏ, trong hòm có hài cốt thánh tử đạo. Sáu nhi nữ thướt tha trong bộ quần áo dài mầu trắng, đeo lẵng hoa trước ngực. Hoa mùa xuân tươi và thơm được cắt nhỏ. Các nhi nữ đi giật lùi trước kiệu, thay phiên nhau, hai người tung hoa một lượt. Hoa được trữ, được tung thế nào đủ để đến hết lượt về. Kiệu được 8 người khiêng, 4 người mặc áo vàng, 4 người mặc áo đỏ. Tiếp sau kiệu là 4 chú nhỏ giúp lễ mặc áo liền váy màu trắng, tay chắp trước ngực. Linh mục chính xứ mặc áo đỏ được che lọng xanh đi kế tiếp theo.
Kiệu Đức Mẹ đi sau kiệu Thánh tử đạo. Kiệu do 4 thanh nữ khiêng. Hai thanh nữ đi đầu mặc áo dài mầu vàng, hai thanh nữ đi sau mặc áo dài mầu trắng. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Cả hai kiệu đều xuất phát từ trong lòng nhà thờ. Hai kiệu được xông hương, linh mục làm phép kiệu.
Theo giờ đã định, đám rước bắt đầu sau hiệu lệnh là một hồi chuông gióng dả. Đi trước hết là một chú nhỏ xông hương. Khói hương trầm xanh lam, mùi hương thơm vấn vít; tiếp sau là các bô lão gồm 12 người khác mặc áo thụng xanh 3 người đi đầu, một người cầm thánh giá, hai người đi phía sau cầm nến chân cao, tiếp theo là bát bửu. Một bát bửu hình lá đề có ghi bốn chữ Hán “ Phương danh Thánh Mẫu”; Sau đó là hội đoàn với các em gái nữ, trai nam, hội trống, hội kèn, hội đoàn của thanh nam, thanh nữ, sau đến hội đoàn của các ông, các bà. Một số hội đoàn có cờ hội, cờ hình chữ nhật, phía trên bằng, phần dưới cắt đuôi theo. Tên của hội đoàn được thêu trên cờ.
Theo thông lệ, ngày lễ kỷ niệm, một số linh mục ở các xứ đạo quanh vùng về đồng tế. Các linh mục đều mặc áo đỏ. Một trong số họ được mời giảng lễ, hay nói cách khác được mời chủ trì thánh lễ. Các bài giảng thường ngắn gọn, nội dung toát lên được cuộc đời thánh tử đạo với cái chết mà thánh đã chọn để giữ đạo. Ý nghĩa cái chết vì đạo như trái nho ép nên thành rượu ngọt, hạt lúa nghiền nát hóa bánh thơm. Hạt giống gieo hư nát đi trong đất sẽ trở nên mùa gặt hái hân hoan.
Cuộc đi kiệu diễn ra trong khuôn viên nhà xứ. Thời gian thường kéo dài khoảng một giờ. Sau cuộc đi kiệu, giáo dân vào nhà thờ tham dự thánh lễ. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
3.3 Lễ hội Thánh lễ La Vang Quảng Trị
La Vang là một thánh địa của người Công giáo Việt Nam, nằm ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Các tín hữu tin rằng Đức Mẹ Maria hiển linh ở khu vực này vào năm 1798 và một nhà thờ đã được dựng lên gần nơi 3 cây đa, nơi Đức Mẹ hiện ra và nay là nơi hành hương quan trọng của người tín hữu Công giáo Việt Nam. Thánh địa La Vang được Tòa thánh Vatican phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang từ năm 1961
Theo một thuyết, dưới thời vua Tây Sơn Quang Toản có chính sách chống đạo Kitô giáo, cho nên nhiều người theo Công giáo ở vùng Quảng Trị để tránh sự trừng phạt của nhà Tây Sơn đã chạy lên vùng đất này. Do đây là vùng đất đồi núi cho nên để gọi nhau được họ phải “la” lớn mà “la” lớn thì “vang”. Cái tên La Vang ra đời.
Một thuyết tương tự về tiếng “la vang” đã từ đặc tính của âm thanh chuyển thành danh từ riêng, nói rằng nơi chốn rừng rú La Vang vốn xưa kia nhiều cọp beo hại người. Do đó xưa kia những người đi rừng đi rú, ở lại đêm thường chia nhau thức canh, thấy động thì “la vang” lên để mọi người đến tiếp cứu.
Một cách giải thích khác là khi những người theo đạo Công giáo chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc bấy giờ Đức Mẹ đã hiện lên và chỉ dẫn cho họ đi tìm một loại lá gọi là lá vằng – uống vào sẽ chữa khỏi bệnh. Viết “lá vằng” không dấu thành La Vang. Một thuyết khác cho là địa danh “phường Lá Vắng” đã có từ trước đó, thuộc làng Cổ Vưu, nằm về phía Tây cách đồn Dinh Cát, về sau là tỉnh lỵ Quảng Trị, 4 cây số và cách Phú Xuân, tức Kinh Đô Huế, 58 km về phía Bắc.
Bà Ts. Nguyễn Thị Thanh, vốn xuất thân từ La Vang, trong khi kiểm nghiệm thực tiễn tiếng la to giữa vách núi của khu vực này đã suy đoán, tiếng “la” to của người sẽ được các vách núi dội vọng lại thành tiếng “vang” hùng vĩ đi xa hơn trong suy luận, Nguyễn Thị Thanh còn cho rằng nghĩa tiếng “la vang” ở đây là tiếng trong âm thầm nhiệm màu của đức tin các thánh tử đạo lên với Thiên Chúa trên trời, là tiếng la vang âm thầm trong nguyện cầu của những người đói khát ốm đau khốn khổ đã thấu vọng đến tai Nữ Vương Thiên Đàng, là tiếng Đức Mẹ trả lời những cầu xin của chúng dân, và cũng là tiếng dội trở lại của Nữ Vương Thiên Đàng trong lòng mỗi người khi đến thánh địa. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Theo Tư liệu Tòa Tổng Giám Mục Huế – 1998, dưới triều đại vua Cảnh Thịnh (lên ngôi năm 1792), với chiếu chỉ cấm đạo ngày 17 tháng 8 năm 1798, một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát (nay là thị xã Quảng Trị) phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại núi rừng La Vang. Nơi rừng thiêng nước độc, hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu ăn, bệnh tật, sợ hãi quan quân, sợ thú dữ, các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Chúa và Đức Mẹ. Họ thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.
Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, bỗng họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặt áo choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân vui lòng chịu khó. Mẹ dạy hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện”.
Sự kiện xảy ra trên thảm cỏ gần gốc cây đa cổ thụ nơi giáo dân đang cầu nguyện. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn.
Từ đó đến nay sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ được loan truyền khắp nơi. Và nhiều người chân thành tin tưởng, đến cầu khấn Mẹ đều được ơn theo ý nguyện. Đức Mẹ La Vang thường được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài Việt Nam. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Lịch sử Đức Mẹ hiện ra và lập nhà thờ không rõ ràng vì đã quá lâu và không được biên chép từ thời đó, hầu hết chỉ có lời truyền khẩu và nhiều giả thuyết khác nhau. Có giả thuyết là nhà thờ La Vang vốn được xây trên nền của một mái chùa Phật giáo hoặc là một miếu thờ Bà (có thể là Phật bà quan âm hoặc bà chúa Liễu Hạnh) cho người đi rừng, nguyên là một mái nhà tranh dưới gốc cây đa và rào sơ bốn mặt, sau biến cố Mẹ Maria hiện ra năm 1789 được nhường cho giáo dân để xây một nơi thờ Mẹ Maria Ý kiến khác cho rằng La Vang trước đó chỉ là một vùng hoang vắng, vùng rừng núi hẻo lánh.
Theo giám mục Hồ Ngọc Cẩn kể lại lời truyền khẩu là năm 1885 nhà thờ bị đốt, và một nhóm giáo dân La Vang dựng lại nhà thờ Đức Mẹ trên nền cũ Cha sở quản hạt Quảng Trị Patinier Kinh trong báo cáo năm 1894 có viết: “Năm 1885 ngôi nhà thờ ở đây cũng như những nhà thờ khác trong hạt, không thoát khỏi thảm họa… Khi hòa bình vừa vãn hồi, con đã cấp tốc dựng lại ngôi nhà thờ nhỏ bé, tạm bợ để chờ nguồn kinh phí cũng như để chờ cho tình hình bớt nhiễu nhương” Năm 1886 (có bản ghi là năm 1894) Đức Cha Caspar (Lộc) cho xây lại nơi đây đền thờ ngói, vì xây trên một vùng núi vận chuyển vật liệu khó khăn nên 15 năm mới hoàn thành. Năm 1901, đại hội La Vang đầu tiên được tổ chức vào ngày 08 tháng 08 để mừng khánh thành nhà thờ.
Năm 2008, Thánh địa được chính quyền tỉnh Quảng Trị cấp thêm 21 ha dất để “phục vụ hoạt động tín ngưỡng của giáo dânTheo Linh mục Giacôbê Lê Sĩ Hiền (Quản nhiệm Trung tâm Thánh mẫu La Vang), đây là đất xưa từng thuộc về nhà thờ (trước 1975 là 23 ha) nay được giao trả lại..
Theo truyền khẩu, bắt đầu từ 1864, đã có 30 giáo dân Cổ Vưu tổ chức hành hương La Vang và những cuộc hành hương như thế diễn ra hằng năm với số giáo dân tham dự càng lúc càng đông biến cuộc hành hương La Vang cấp giáo xứ (Cổ Vưu) thành giáo hạt (Dinh Cát) Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Từ khi nhà thờ ngói được dựng, hàng năm vào ngày 15 tháng 8 tại La Vang thường tổ chức lễ hội hành hương, gọi là “Kiệu” (cứ 3 năm lại có một “Kiệu” lớn, gọi là “Đại hội La Vang”). Người hành hương về nơi này có thể mua được lá cây vằng, một loại lá thường dùng sắc thuốc hoặc uống mát, lành và có khả năng kháng khuẩn, rất tốt cho phụ nữ sau khi sinh nở. Không những thế, khách thập phương đến đây là để hành hương và cầu xin những ơn lành mà người Công giáo tin rằng Đức Bà sẽ ban ơn như ý.
Sau một thời gian gián đoạn, từ năm 1990, chính quyền địa phương đã cho phép hành lễ tại đây trở lại. La Vang đã trở thành thánh địa hành hương quan trọng nhất của người Công giáo Việt Nam, hàng năm có hơn nửa triệu người về hành hương, như năm 2008 . Đại hội La Vang 29 sẽ vào năm 2011 (cứ 3 năm hành hương có 1 Đại hội).
Khởi đầu đại hội La Vang chỉ mang tính địa phương của Giáo phận Huế nhưng sau khi hàng giáo phẩm Việt Nam được thành lập vào năm 1960 thì đến ngày 13-4-1961, hai Giáo tỉnh Huế và Sài Gòn đã quyết định thành lập Trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc (miền Nam) tại La Vang và đại hội lần thứ 15 tổ chức năm 1961 đã trở thành đại hội Thánh Mẫu đầu tiên mang tầm cỡ quốc gia với sự tham dự của 2 phái đoàn chính quyền miền Nam lúc bấy giờ, một do Tổng thống Ngô Đình Diệm dẫn đầu (ngày 16-8-1961) và một do Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ dẫn đầu (ngày 21-8- 1961). Đến ngày 1-5-1980, vào lúc 9g30 tại Hà Nội, các Giám mục Giáo tỉnh Hà Nội và toàn thể các Giám mục họp đại hội Giám mục toàn quốc đã đồng thanh biểu quyết chấp nhận Trung tâm Thánh Mẫu La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc, tuy nhiên mãi đến đại hội 24 tổ chức năm 1996 thì qui mô toàn quốc mới thực sự rõ nét với sự tham gia ngày càng đông đảo của hàng giáo phẩm và giáo dân trên cả nước.
Mặc dù đã ấn định 3 năm tổ chức một lần đại hội, nhưng hàng năm cứ vào dịp 15-8 trong những năm không có đại hội, dòng người tín ngưỡng vẫn tuôn đổ về La Vang và Giáo tỉnh Huế vẫn tiến hành những nghi thức khá trọng thể trong ngày đại hội “không chính thức” này, trở thành một ngày hội cấp giáo phận. Ngoài ra mỗi năm vào ngày mồng 3 Tết, Giáo phận Huế cũng tổ chức hành hương minh niên, thu hút khá đông giáo dân về bên Mẹ tỏ lòng thành tín và cầu nguyện cho quốc thái dân an.
Theo chương trình chung của những lần đại hội gần đây và tại đại hội 29, chiều ngày thứ nhất thường diễn ra thánh lễ khai mạc và cuộc rước kiệu trọng thể kính Đức Mẹ La Vang. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Cao điểm là buổi chiều ngày thứ hai với nghi thức đón tiếp các chức sắc, các phái đoàn, các vị khách qúy và nghi thức khai mạc. Tại đại hội lần thứ 29 và bế mạc Năm Thánh Giáo hội Công giáo Việt Nam 2010, Đức Giáo hoàng Benedic đã cử Đức Hồng y Ivan Dias làm đặc sứ, chủ tọa lễ bế mạc Năm Thánh. Theo số liệu của Ban Tổ chức, có 42 Giám mục, gần 1.000 Linh mục và khoảng nửa triệu người cả trong và ngoài nước đã về La Vang tham dự đại hội đặc biệt này. Vào lúc 15giờ 30 phút, vị đặc sứ đã cử hành nghi thức thánh hiến bức tượng Mẹ La Vang bằng đá qúy tại linh đài, trước sự hiện diện của phái đoàn chính phủ Việt Nam do Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân dẫn đầu.
Trong không khí trang nghiêm và phấn khởi, nghi thức được tiếp nối tại lễ đài với phần rước và thượng cờ 26 giáo phận, giới thiệu các phái đoàn, các vị khách qúy… Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam thay mặt cộng đoàn dân Chúa đọc diễn văn chào mừng phái đoàn Tòa Thánh và các thượng khách. Hồng y đặc sứ đã có lời đáp từ và Phó Thủ tướng Việt Nam đã có lời phát biểu chúc mừng.
Từ 19 giờ, chương trình ngày đại hội thứ hai được tiếp tục với phần diễn nguyện và suy tôn Thánh Thể. Các thành viên tham gia diễn nguyện đã giúp cộng đoàn có dịp hồi niệm về tình mẫu tử thánh thiêng mà Mẹ La Vang đã dành cho các bậc cha, ông, tiên tổ trong thời buổi gian nan cấm cách, đồng thời mời gọi mọi người cùng với Mẹ sống mầu nhiệm cứu độ của Con-Thiên-Chúa-làm-người và thông chia niềm vui tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam
Cao điểm của đêm diễn nguyện là phần suy tôn Thánh Thể. Với nến sáng trên tay, cộng đoàn cùng tham gia rước kiệu Thánh Thể – biểu tượng và sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Trong tâm tình lắng đọng và khát khao yêu mến, mọi người cùng cất cao lời kinh hòa bình như một dấu chỉ của tấm lòng khiêm hạ và yêu thương, một quyết tâm “cùng Mẹ ra đi loan báo Tin Mừng”…
Sáng ngày thứ ba đại hội, thánh lễ bế mạc thường được tổ chức sớm, vừa tránh cái nắng nóng khắc nghiệt của mùa hè miền Trung, mà cũng để cho các tín hữu ở xa có thể về nhà kịp trong ngày. Đặc biệt trong lễ bế mạc Năm Thánh Giáo hội Công giáo Việt Nam 2010 và đại hội 29, Đức Hồng y đặc sứ đã chuyển đến La Vang chén thánh là quà tặng của Đức Giáo Hoàng Benedic XVI, như bảo chứng của tấm lòng hiền phụ và sự hiện diện của Ngài trong hy lễ tạ ơn. Sau thánh lễ, vị đặc sứ cũng đã cử hành nghi thức đặt viên đá đầu tiên tái thiết Vương cung Thánh đường La Vang.
Đại hội La Vang khép lại trong bầu khí hân hoan pha lẫn bùi ngùi của người tham dự. Những giọt nước mắt, những cái vẫy tay, những lời hẹn hò gặp nhau trong kỳ đại hội tới… tất cả không chỉ là những kỷ niệm đáng nhớ, mà còn là lời nhắn nhủ động viên nhau “cùng Mẹ ra đi loan báo Tin Mừng”… Tiểu luận: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com