Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc cho các bạn đang chuẩn bị làm bài tiểu luận cùng nhau tham khảo nhé. Tiểu luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài tiểu luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dư như đề tài: Tiểu Luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc các bạn cùng tham khảo đề tài tiểu luận dưới đây nhé.
Nội dung chính
MỞ ĐẦU
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với các dân tộc trên thế giới. Trong đó, lãnh thổ và biên giới quốc gia là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình với bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Như chúng ta biết, hiện nay trong số hơn 200 quốc gia trên thế giới chỉ có khoảng 30 nước không có biển. Vai trò của biển và đại dương ngày càng quan trọng thì mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước cũng dễ nảy sinh và ngày càng gay gắt. Trong đó chúng ta không thể không kể đến thềm lục địa đây là vành đai mở rộng của lãnh thổ cho tới mép lục địa hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở (chọn lấy giá trị lớn hơn). Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo dài ra hơn 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa nhưng không được vượt quá 350 hải lý. Tại đây, nước chủ có được quyền khai thác khoáng sản cũng như các nguyên liệu không phải sinh vật sống. Có thể nói thềm lục địa có giá trị kinh tế rất lớn đối với các nước, có ý nghĩa quan trọng trong an ninh quốc phòng. Trước những lợi ích to lớn, vai trò đặc biệt của thềm lục địa đã bùng nổ ra những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, tranh chấp về việc xác định phạm vi vùng biển, thềm lục địa giữa các quốc gia có vùng biển tiếp giáp nhau. Có thể nói đây là lại tranh chấp phức tạp và chứa nhiều nguy cơ bùng nổ gây xung đột nhất. Trong đó tranh chấp thềm lục địa biển Bắc giữa Cộng hoà liên bang Đức và Hà Lan, giữa Cộng hoà liên bang Đức và Đan Mạch là vụ tranh chấp điển hình, phức tạp với nhiều vấn đề, chính từ đó là một trong những cơ sở hình thành cho luật biển ra đời năm 1982.
Bài tiếu luận của chúng em sẽ đi sâu tìm hiểu cụ thể về vụ tranh chấp trên từ đó chúng ta cũng hiểu rõ được vấn đề chủ quyển biển đảo, thềm lục địa của nước ta với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Tiểu Luận Cuối Kỳ
SƠ ĐỒ VỤ TRANH CHẤP THỀM LỤC ĐỊA BIỂN BẮC Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Đường 1-2 và 1-3
Đường trung bình đạt được thỏa thuận giữa các nước Anh, Na Uy, Đan Mạch và Hà Lan.
Đường A-B và C-D
Đường A-B và C-D là một phần đường ranh giới được thành lập theo thỏa thuận ngày 01 tháng 12 năm 1964 giữa Đức và Hà Lan và thỏa thuận ngày 09 tháng 6 năm 1965 giữa Đức và Đan Mạch.
Đường D-E và B-E
Đường cách đều (equidistance) trong vấn đề của vụ tranh chấp.
Đường E-F
Đường đề xuất phân chia theo khiếu nại của Đan Mạch và Hà Lan, giả định giá trị của đường D-E và B-E.
1. Diễn biến tranh chấp thềm lục địa biển Bắc Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
1.1. Nguyên nhân tranh chấp giữa thềm lục địa biển Bắc
Mọi tranh chấp nguyên nhân đều bắt nguồn từ việc làm tổn hại hay xâm hại đến lợi ích của các bên liên quan. Như chúng ta đã biết thềm lục địa có vai trò rất lớn đối với mỗi quốc gia có biển, đây là phần lãnh thổ có ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển kinh tế cũng như trong an ninh quốc phòng. Vấn đề này đang diễn ra ở nhiều nước có chung vùng biển với nhau, việc xác định thềm lục địa gây ra một loạt tranh chấp điển hình là vụ tranh chấp thềm lục địa biển Bắc giữa cộng hoà liên bang Đức và Hà lan, Đức và Đan Mạch. Đây là cuộc tranh chấp kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp tới các bên có liên quan.
Các bờ biển của Đức, Đan Mạch Và Hà Lan tiếp giáp với biển Bắc. Theo thoả thuận trước đây thì khu vực thềm lực địa biển Bắc đã được phân chia giữa vương quốc Anh và Đan Mạch, Đức, Hà Lan và giữa Nauy với Hà Lan. Các thoả thuận phân chia thềm lục địa giữa các quốc gia đối diện bờ biển theo nguyên tắc equidistance, có nghĩa là có đường nối tất cả các điểm có khoảng cách bằng nhau tính từ bờ biển nước đối diện. Các tranh chấp trước toà vụ biển Bắc là có nên dùng đường bên để phân chia diện tích thềm lục địa giữa Đức, Đan Mạch, Hà Lan như thoả thuận trước đây với Nauy và Anh. Vào tháng 12 năm 1964 và tháng 6 năm 1965, ba bên chỉ thoả thuận một phần đường bên nhưng cuộc đám phán kéo dài về đường bên đã không thành công. Đan Mạch và Hà Lan muốn tiếp tục sử dụng nguyên tắc equidistance nhưng Đắc không đồng ý vì như thế Đức sẽ chỉ nhận được phần diện tích thềm lục địa biển Bắc nhỏ hơn so với các nước khác do cấu trúc đường bờ biển lõm của Đức. Năm 1967 tiếp tục Đức và Hà Lan lập luận theo điều 6 công ước Genava năm 1958, ranh giới thềm lục địa giữa hai hay nhiều nước được xác định bằng thoả thuận giữa các bên nếu các bên không đồng ý thì sẽ xác định theo nguyên tắc equidistance. Đan Mạch và Hà Lan cho rằng Đức bị rang buộc bởi điều 6 nhưng Đức đã đưa ra một số lý do như đức không phải là một bên của công ước về thềm lục địa vì không có chữ kỹ xác nhận,trong quá khứ Đức từ chối thực hiện nguyên tắc khác của công ước, nguyên tắc equidistance không phải là quy tắc của luật tập quán quốc tế. Thay vào đó Đức đưa ra lập luận cao hơn là nếu điều 6 là rang buộc thì bở biển lõm của Đức chĩnh là trương hợp đặc biệt. Trước những căng thẳng đó các bên tham gia quyết định đưa lên toà án nhằm giải quyết tranh chấp đảm bảo lợi ích giữa các bên.
1.2. Diễn biến Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Ngày 20 tháng 2 năm 1969, Toà án công lý quốc tế đã đưa ra phán quyết trong vụ tranh chấp thềm lục địa biển Bắc giữa Đức với Đan Mạch và Đức với Hà Lan. Tòa án đã xem xét gần hai năm các nguyên tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc giữa các nước Đan Mạch, Đức và Hà Lan. Các tranh chấp đã được nộp cho Tòa án vào ngày 20 tháng 2 năm 1967, liên quan đến việc phân định thềm lục địa một mặt giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan Mạch và một mặt là giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Hà Lan. Các bên yêu cầu Tòa án áp dụng các nguyên tắc và quy định của pháp luật quốc tế và sau đó tiến hành thực hiện các phân định trên cơ sở đó. Sau khi nắm giữ Công ước Geneva năm 1958 về thềm lục địa không ràng buộc với Đức, không bên nào, Tòa án đưa ra luật tập quán quốc tế áp dụng để phân định tranh chấp.
Các bờ biển của Đức, Đan Mạch, Hà Lan tiếp giáp với biển Bắc. Theo thoả thuận trước đây, khu vực thềm lục địa biển Bắc đã được phân chia giữa Vương quốc Anh và Đan Mạch, Đức, Hà Lan và giữa Na uy với Hà Lan. Các thảo thuận phân chia thềm lục địa giữa các quốc gia đối diện bờ biển theo nguyên tắc equidistance, có nghĩa là một đường nối tất cả các điểm có khoảng cách bằng nhau tính từ bờ biển nước đối diện. Đường equidistance được vẽ ra giữa các nước đối diện được gọi là dòng trung bình, đường vẽ ra giữa các nước lân cận được gọi là đường biên. Các tranh chấp trước toà án vụ biển Bắc là liệu có nên dùng đường bên để phân chia diện tích thềm lục địa giữa Đức, Đan Mạch, Hà Lan như thoà thuận trước đây với Na uy và Anh. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Vào tháng 12 năm 1964 và tháng 6 năm 1965, ba bên chỉ thoả thuận được một phần đường bên. những cuộc đàm phán kéo dài về đường bên không thành công. Đan Mạch và Hà Lan muốn tiếp tục sử dụng các nguyên tắc equidistance nhưng Đức không đồng ý. Các đường cong của bờ biển Đức lõm vào bên trong, do đó một phần mở rộng equidistance sẽ cho kết quả đường bên cũng uốn cong vào phía bên trong. Đức do đó sẽ nhận được một phần nhỏ hơn của thềm lục địa Biển Bắc nếu ranh giới một phần đã được mở rộng bởi các nguyên tắc khác nhau. Các tranh chấp dù một phần ranh giới nên được mở rộng bằng cách sử dụng các nguyên tắc equidistance hoặc bởi một số nguyên tắc khác và nếu như vậy bất kỳ nguyên tắc nào cũng vậy.
Vào tháng 2 năm 1967, các bên đưa những câu hỏi đến cho Toà án quốc tế và đồng ý chịu sự ràng buộc bởi những trả lời của Toà: “Những nguyên tắc và quy định của pháp luật quốc tế được áp dụng để phân định giữa cácc bên trong những khu vực thềm lục địa ở Biển Bắc về phận sự mỗi người trong số họ vượt ra ngoài một phần ranh giới xác định bởi các Công ước nói trên”.
Đan Mạch và Hà Lan lập luận rằng theo điều 6 Công ước Geneva năm 1958, ranh giới thềm lục địa giữa hai hay nhiều nước được xác định bằng thoả thuận giữa các bên nếu các bên không đồng ý thì sẽ được xác định bằng nguyên tắc equidistance trừ khi có một đường biên giới khác được chứng minh bằng sự tồn tại của một trường hợp đặc biệt. Đan Mạch và Hà Lan đưa ra rằng Đức bị rang buộc bởi điều 6 do đó nếu không đồng ý với sự phân chia theo nguyên tắc equidistance thì Đức phải đưa ra được một trường hợp đặc biệt. Đức không coi nguyên tắc equidistance như rang buộc vì một số lí do:
Thay vào đó, Đức nghĩ rằng mỗi tiểu bang được phân bổ chỉ là một “chia sẻ công bằng “của thềm lục địa có sẵn tương ứng với chiều dài của bờ biển của nó. Ví dụ như đường thẳng có thể được mở rộng từ các đường ranh giới một phần đã thoả thuận tới một điểm trung tâm ở biển Bắc. Đức còn đưa ra một lập luận cao hơn là nếu điều 6 là rang buộc thì bờ biển lõm của Đức chính là một trường hợp đặc biệt. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Toà bác bỏ cách tiếp cận “chia sẻ công bằng” của Đức vì nó giả định trong phân bổ đầu tiên thềm lục địa, các bên không có quyền gì. Tòa án xem quyền của các bên “như đã được định hình” và nhận thấy vấn đề không phải là phân bổ ban đầu mà đúng hơn là phân định khu vực trong đó đã được trao quyền thực hiện.
Quay sang Đan Mạch và Hà Lan, Toà đưa ra rằng do Đức đã kí nhưng chưa phê chuẩn công ước về thềm lục địa năm 1958 nên Đức không bị rang buộc bởi nguyên tắc equidistance.
Toà cho rằng nguyên tắc equidistance không phù hợp với sự kéo dài tự nhiên thềm lục địa một nước bởi vì “ việc sử dụng phương pháp equidistance thường xuyên là nguyên nhân gây ra việc kéo dài tự nhiên thềm lục địa của nước khác”. Tòa án trích dẫn lịch sử đàm phán của Công ước thềm lục địa để bổ trợ cho ý kiến của mình. Uỷ ban pháp luật quốc tế và một Ủy ban đặc biệt của các chuyên gia đã xem xét bốn phương pháp phân định và equidistance được chọn. Trong quan điểm của Tòa án, sự lựa chọn chỉ dựa trên cơ sở của phương tiện kỹ thuật, sự phát triển của nguyên tắc equidistance “không phải lý thuyết hợp pháp nhưng thực tế tiện lợi và phù hợp với bản đồ.”
Theo quan điểm của Toà thì equidistance thích hợp với các nước đối diện nhau hơn là với các nước liền kề “Khu vực thềm lục địa của các nước đối diện nhau được mỗi bên khẳng định là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ. Những kéo dài này cắt và chồng chập nên nhau, do đó chỉ có thể phân định bằng một đường trung bình”. Toà thấy việc sử dụng đường bên thích hợp với việc phân định các vùng lãnh hải hơn là với thềm lục địa. Do đó, toà kết luận nguyên tắc equidistance không phải là một quy tắc vốn cần thiết của luật quốc tế.
Tiếp theo toà xem xét thực tế nếu để equidistance là một quy tắc tích cực của luật quốc tế. Đan Mạch và Hà Lan lập luận rằng các định nghĩa và hợp nhất luật thềm lục địa của Uỷ ban pháp luật quốc tế, phản ứng của chính phủ đối với việc đó và thủ tục tố tụng của hội nghị Genova dẫn tới trong Công ước có sự kết tinh của luật tập quán.
Toà bác bỏ lập luận này với hai lí do: sự lựa chọn của nguyên tắc equidistance là ngẫu nhiên và phát sinh chắc chắn và theo điều 12 của công ước, chỉ ra rằng các điều khác không phải là luật tập quán.
Toà án nhận ra sự thực hiên quốc tế sau năm 1958 không đủ để thiết lập equidistance tập quán:
- Thứ nhất, rất ít nước thực hiện. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
- Thứ hai, nguyên tắc equidistance trong điều 6 không có những tính chất cơ bản để trở thành quy tắc chung của luật.
- Thứ ba, không đủ thời gian cho các nước từ năm 1958 để thực hành bất cứ điều gì mở rộng để trờ thành luật tập quán.
- Thứ tư, thiếu yếu tố cần thiết để các nước coi việc thực hiện nguyên tắc equidistance như một nghĩa vụ.
Do đó, toà quyết định là nguyên tắc equidistance không ràng buộc Đức và không cần thiết có những câu hỏi yêu cầu về việc đưa ra trường hợp đặc biệt. Toà đưa ra nhưng phán quyết cuối cùng và yêu cầu CHLB Đức, Đan Mạch và Hà Lan thực hiện theo.
2. Các căn cứ pháp lý và phán quyết của tòa án
2.1. Các căn cứ pháp lý
Vụ tranh chấp liên quan đến việc phân định thềm lục địa giữa cộng hòa liên bang Đức và Đan Mạch, và giữa cộng hòa Liên bang Đức và Hà Lan. Các bên đã yêu cầu tòa án nêu rõ các nguyên tắc và quy tắc của luật pháp quốc tế được áp dụng, sau đó tiến hành thực hiện các quyết định dựa trên cơ sở đó. Tòa án đã xem xét những căn cứ mà các bên đưa ra như sau.
Lý thuyết phân chia bị bác bỏ ( theo đoạn 18-20 của bản án )
Lý thuyết này chỉ là để phân định, hoàn toàn không đúng với bản chất cơ bản nhất của tất cả các quy định của pháp luật liên quan đến thềm lục địa, cụ thể là, các quốc gia ven biển có quyền đối với thềm lục địa tạo thành một vùng lãnh hải kéo dài tự nhiên là điều đương nhiên trong thực tế, nhờ chủ quyền với vùng đất. Để thực hiện nó, không có một hành vi pháp lý đặc biệt nào phải được thực hiện.
Điều 6 – công ước Geneva về thềm lục địa năm 1958 không được áp dụng( theo đoạn 21 – 36 của bản án )
Điều 6 nêu rõ:
Trường hợp các thềm lục địa cùng tiếp giáp với vùng lãnh thổ của hai hay nhiều quốc gia có bờ biển đối diện nhau, ranh giới của thềm lục địa được xác định bới thỏa thuận giữa các bên. Trong trường hợp không có thoản thuận, ranh giới của thềm lục địa là đường trung bình, mỗi điểm trong số đó cách đều điểm gần nhất của đường cơ sở.
Trường hợp các thềm lục địa cùng tiếp giáp với vùng lãnh thổ của hai quốc gia lân cận, ranh giới của thềm lục địa được xác định bới thỏa thuận giữa các bên. Trong trường hợp không có thỏa thuận, ranh giới được xác định bằng cách áp dụng các nguyên tắc của Equidistance từ điểm gần nhất của đường cơ sở. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Theo quy định chính thức, Công ước có hiệu lực với bất kì cá nhân Nhà nước đã kí trong thời hạn cung cấp, chỉ khi Nhà nước sau đó cũng phê chuẩn Công ước này. Đan Mạch và Hà Lan đã kí kết và thực hiện Công ước này. Trong khi đó Cộng hòa liên bang Đức dù đã kí kết nhưng chưa phê chuẩn. Theo đó, điều 6 của Công ước Geneva không được áp dụng trong việc ra quyết định trong việc xử lí tranh chấp này.
Nguyên tắc Equidistance ( đoạn 37 – 59 của bản án )
Đan Mạch và Hà Lan cho rằng Cộng hòa Liên bang Đức cũng giống như bất kì trường hợp nào, khá khác so với Công ước Gienevo, bị ràng buộc chấp nhận dựa trên cơ sở Equidistance, kể từ khi phương pháp đó được áp dụng như một quy tắc chung hay theo phong tục của luật pháp quốc tế. Một lập luận được đưa ra dựa trên chủ quyền của mỗi nước với vùng đất, trong đó tính cả vùng đất kéo dài tự nhiên dưới biển. Do đó, việc phân định phải được thực hiện bằng phương pháp mà sẽ để lại cho mỗi bên liên quan tất cả những khu vực gần bờ nhất của vùng biển nước mình.
Quan điểm này có rất nhiều sự gượng ép. Thông thường, phần lớn khu vực thềm lục địa của một nước là phần đất gần bờ biền của nước đó hơn những nước khác. Nhưng vấn đề ở chỗ liệu tất cả những vùng đất liện quan có được xác định theo cách đó. Tòa án không xem xét việc này theo khái niệm khoảng cách. Về cơ bản, thềm lục địa là phần đất kéo dài tự nhiên, nhưng trong những điều kiện thích hợp, nó không nhất thiết phải là duy nhất. Equidistace không phải là một phương pháp xác định tốt nhất khi mà nó thường xuyên là nguyên nhân gây ra sự lấn chiếm sang những nước khác. Vì vậy, Equidistance không phải là một phương pháp được ưu tiên sử dụng
Nguyên tắc Equidistance không theo quy tắc của phong tục Luật quốc tế ( đoạn 60 – 82 của bản án )
Một câu hỏi đưa ra là, liệu một phương pháp mang tính tích cực như Equidistance phải được xem xét thông qua phong tục Luật quốc tế Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Đại diện của Đan Mạch và Hà Lan đã lập luận rằng, ngay khi tại thời điểm của Công ước Geneva, nguyên tắc Equidistace cũng không tồn tại như một qui tắc của tập quán Luật quốc tế, trong khi đây đã là một quy tắc được công nhận trong Công ước. Nguyên tắc Equidistance được đưa ra do ứng dụng to lớn của nó, và một phần dựa trên cơ sở thực tiễn áp dụng của các nước
Hơn nữa, trong sự tham ra rộng rãi và đại diện của một quy ước đã chỉ ra rằng một quy tắc thông thường khi đã trở thành một quy tắc chung của luật pháp quốc tế, trong thực tế hiện nay là không đủ để áp dụng cho mọi trường hợp. Trong một thời gian ngắn, không nhất thiết phải hình thành một quy định mới theo tập quán Pháp luật quốc tế mà có thể dựa trên cơ sở ban đầu của những nguyên tắc thông thường để đưa ra phán quyết.
Tòa án kết luận rằng, việc sử dụng các nguyên tắc Equidistane không phải là một nguyên tắc bắt buộc phải tuân theo tập quán Luật pháp quốc tế. Hiệu ứng của nó không được cấu tạo như một quy tắc và các nước có thể sử dụng nó một cách bình đẳng.
Các nguyên tắc và các quy tắc của Luật áp dụng ( đoạn 83 – 101 của Bản án )
Các nguyên tắc cơ bản trong vấn đề phân định ranh giới bắt nguồn từ thỏa thuận giữa các bên liên quan, dựa trên nguyên tắc công bằng. Các bên chịu trách nhiệm tham gia vào một cuộc đàm phán nhằm đi đến một thỏa thuận và đưa ra ứng dụng tự động sau này mà không cần đàm phán. Nghĩa vụ này chỉ đơn thuần là một ứng dụng đặc biệt cơ bản của tất cả các mối quan hệ quốc tế, được công nhận tại Điều 33, Hiến chương Liên Hiệp Quốc trong việc giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế. Trong trường hợp tranh chấp thềm lục địa biển Bắc, việc phân định sẽ phải phù hợp với nguyên tắc công bằng, áp dụng các điều khoản khác có liên quan, xác định phần lãnh hải càng nhiều càng tốt được kéo dài một cách tự nhiên mà không lấn chiếm sang vùng lãnh hải của nước khác. Nếu trong trường hợp có sự chồng chéo, việc phân định sẽ dựa trên tỉ lệ thỏa thuận hoặc không thỏa thuận một cách công bằng nhất.
Phán quyết cuối cùng của tòa án là sự kết hợp của các căn cứ pháp lí trên dựa trên sự thỏa thuận đồng ý một cách công bằng giữa Cộng hòa liên bang Đức, Hà Lan và Đan Mạch.
2.2. Phán quyết cuối cùng của tòa án Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Với việc có 6 phiếu trong tổng số 11 phiếu bầu, Tòa án tuyên bố:
- Việc sử dụng các phương pháp phân định Equidistance là không bắt buộc giữa các bên.
- Không sử dụng bất cứ một phương pháp phân định nào khác trong những hoàn cảnh đã quy định.
- Mỗi bên không được vượt ra ngoài phần ranh giới đã thỏa thuận vào ngày 1 tháng 12 năm 1964 và ngày 9 tháng 6 năm 1965 theo những nguyên tắc và quy định của pháp luật quốc tế tương ứng như sau:
- Phán quyết đựa đưa ra dựa trên sự đồng thuật phù hợp với nguyên tắc công bằng cho các bên, có hiệu lực trong mọi trường hợp có liên quan. Theo đó, thềm lục địa là phần lãnh hải kéo dài tự nhiên của mỗi nước mà không lấn chiếm sang lãnh hải của nước khác.
- Nếu có sự chồng chéo về lãnh hải trong trường hợp áp dụng các tiểu mục trên, việc phân chia sẽ dựa theo một tỉ lệ thỏa thuận hoặc không thỏa thuận một cách công bằng. Các bên chỉ có quyền sử dụng và khai thác khu vực này khi đã có quyết định liên thẩm quyền.
- Trong quá trình đàm phán, các yếu tố đưa đưa vào điều khoản bao gồm:
- Cấu hình chung bờ biển của mỗi nước cũng như sự hiện diện của các đặc tính đặc biệt.
- Những cấu trúc về vật lý, địa chất đã biết hoặc dễ dàng xác định, nguồn tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa.
- Các yếu tố của một mức độ hợp lý tương xứng, dựa trên nguyên tắc công bằng, đưa ra phạm vi, chiều dài của thềm lục địa được đo lường theo một hướng chung của bờ biển. Điều khoản này được đưa ra vì mục đích có được ảnh hưởng, thực tế, tiềm năng trong việc ra quyết định giữa các quốc gia lân cận trong cùng một lãnh thổ.
3. Quan điểm đối với vấn đề tranh chấp trên. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
3.1. Quan điểm của thế giới:
Biển Bắc có vị trí địa lý và ranh giới được mô tả trong điều 4 Công ước đánh bắt thủy sản trên Biển Bắc ban hành ngày 6/5/1882 : “một cách tổng thể, biển không thuộc về bất kì một quốc gia nào. Đường bờ biển ở phía đông bắt đầu từ Na Uy, Đan Mạch, CHLB Đức, Hà Lan, Bỉ và Pháp trong khi đường bờ biển phía Tây thuộc nước Anh và các quần đảo Orkneys and Shetland (Scotland)”. Vụ tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc giữa 3 nước CHLB Đức, Đan Mạch, Hà Lan đã nhận được nhiều ý kiến từ các bên liên quan cũng như các nhà nghiên cứu luật trên toàn thế giới.
Quan điểm của các nước liên quan được nêu trong các văn bản tố tụng như sau:
- Quan điểm của CHLB Đức:
Đức cảm thấy rằng họ đã phải chịu thiệt trong vụ kiện này, vì bờ biển của họ lõm, trong khi Đan Mạch và Hà Lan có đường bờ biển lồi (xem bản đồ). Điều này có nghĩa là dựa trên nguyên tắc equidistance, họ sẽ nhận được ít phần đáy biển hơn so với việc tất cả các đường bờ biển đều thẳng. Họ đã yêu cầu Tòa án quốc tế có một phán quyết về việc làm thế nào để xác định ranh giới giữa các vùng biển. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Đức không coi nguyên tắc equidistance là một ràng buộc bởi một số lý do:
- Đức không phải là bên tham gia Công ước Thềm lục địa vì nó đã không phê chuẩn chữ ký trong Công ước.
- Hành vi quá khứ và sự tin tưởng của Đức dựa trên việc các nguyên tắc khác của Công ước tạo thành không bắt buộc phải gia nhập và có thể bác đơn từ chối áp dụng nguyên tắc đó.
- Nguyên tắc equidistance không phải là một quy tắc của pháp luật tập quán quốc tế. Thay vào đó, Đức nghĩ rằng mỗi tiểu bang nên được phân bổ một và chỉ một sự phân chia công bằng của thềm lục địa sẵn có tương ứng với chiều dài đường bờ biển của nó. Ví dụ, đường thẳng có thể được mở rộng từ một phần các đường ranh giới đã được chấp thuận với một điểm trung tâm trong Biển Bắc. Cách tiếp cận này được gọi là lý thuyết “duyên hải phía trước” (coastal front).
Đức lập luận thêm rằng nếu Tòa án nhận thấy Điều 6 có sự ràng buộc, bờ biển lõm tự nhiên của Đức được cấu thành “trường hợp đặc biệt” (special circumstances) biện minh cho việc tách rời khỏi ranh giới của nguyên tắc equidistance.
- Quan điểm của Hà Lan và Đan Mạch:
Đan Mạch và Hà Lan lập luận rằng phương pháp của nguyên tắc equidistance cần được triển khai. Điều này nghĩa là mỗi quốc gia cần tuyên bố rằng các khu vực nào gần quốc gia đó nhất so với các tiểu bang khác. Họ khẳng định rằng Công ước Geneva ra đời nhằm hỗ trợ phương thức này. Hơn nữa, nó được coi là một quy tắc ưu tiên của pháp luật,quy tắc của pháp luật tập quán quốc tế, và là qui tắc chung của thực tiễn thông thường.
Đan Mạch và Hà Lan lập luận rằng Điều 6 của Công ước Geneva năm 1958 về thềm lục địa đã được kiểm soát. Điều 6 quy định rằng: vùng thềm lục địa tiếp giáp với lãnh thổ của hai hay nhiều quốc gia khác nhau thì ranh giới của thềm lục địa đó sẽ được xác định theo thỏa thuận giữa các bên. Nếu các bên không đồng ý, ranh giới sẽ được xác định lại bằng cách áp dụng nguyên tắc equidistance ; trừ khi một đường biên giới khác được chứng minh là có sự hiện diện của trường hợp đặc biệt.
Đan Mạch và Hà Lan lập luận rằng Đức bị ràng buộc bởi Điều 6, và khi các tiểu bang không đồng ý, ranh giới equidistance là cần thiết trừ khi Đức có thể thành lập các trường hợp đặc biệt.
- Quan điểm của Tòa án: Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Tòa án bác bỏ phương thức “phân chia công bằng” của Đức bởi vì nó giả định sự phân bổ ngay từ đầu của một thềm lục địa mà các bên không có quyền thành lập. Tòa án xem quyền của các bên như đã được định hình và nhìn thấy rằng vấn đề không phải là sự phân bổ ngay từ đầu mà đúng hơn là sự xác định ranh giới khu vực, mà trong đó các quyền được trao có thể được thực thi. Tòa án thấy nhiệm vụ của mình như là enunciating quy tắc một cách công bằng và bình đẳng trong việc phân chia ranh giới.
Tòa án Quốc tế thấy rằng ranh giới được vẽ lại trên cơ sở các nguyên tắc công bằng. Tòa án Quốc tế đã đồng ý rằng nguyên tắc equidistance cho một đất nước có một đường bờ biển lồi nhiều vùng đáy biển hơn so với đất nước có đường bờ biển lõm. Tòa án Quốc tế thấy rằng nguyên tắc equidistance vẫn còn tương đối mới, và chính xác thì nó không phải tập quán quốc tế mà chỉ mới được nêu ra.
Ngoài ra, có một điều khoản trong Điều 6 cho phép cho các đường biên giới khác nhau được vẽ lại khi “chứng minh bằng trường hợp đặc biệt.”
Tòa án Quốc tế đã nói với các bên quay trở lại và làm việc để tìm ra một ranh giới công bằng cho tất cả mọi người. Về cơ bản, trường hợp này nêu ra rằng các nước không cần phải thực hiện theo các nguyên tắc equidistance nếu điều đó là không công bằng.
Ta cũng thấy rằng, phán quyết của tòa án đối với vụ tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc cho thấy, Công ước Giơnevơ 1958 này đã pháp điển hoá rất nhiều các nguyên tắc tập quán và đã đưa ra nhiều khái niệm mới (như thềm lục địa). Nhưng công ước này thất bại trong việc thống nhất bề rộng lãnh hải (các quốc gia yêu sách tới năm loại bề rộng lãnh hải khác nhau) và trong việc xác định ranh giới của thềm lục địa. Mặc dù có tổ chức hội nghị lần thứ hai của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1960 tại Giơnevơ về bề rộng lãnh hải nhưng hội nghị này không đưa ra được một kết quả khả quan nào.
Tòa án cũng lưu ý rằng không có một luật nào qui định về vấn đề ranh giới. Điều này đúng nhưng lại đem đến những hệ quả không mong đợi vì đây là nguyên nhân cho nhiều cuộc xung đột vũ trang. Một câu hỏi đặt ra trong thời gian này là : “trong khi ranh giới trên đất liền và trên biển đều đưa đến những cuộc xung đột, tranh chấp về mặt chủ quyền thì đáy biển cũng đang trong tình trạnh bị xâm lấn quá mức. Sự thiếu vắng các qui định về phân định ranh giới trên đất liền đã gây ảnh hưởng đến quá trình thiết lập khuân khổ giải quyết hợp pháp cho các tranh chấp dưới đáy biển. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Trong tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc, Tòa án Quốc tế khẳng định “một quy tắc có thể được công nhận là tập quán ngay khi có sự thừa nhận của những đại diện, miễn sao bao gồm cả những quốc gia bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp dụng quy tắc đó”. Ngược lại, nếu một quốc gia không thừa nhận áp dụng không có nghĩa là quy tắc này sẽ không có giá trị ràng buộc đối với quốc gia đó. Điều này có thể hiểu là các quốc gia không cần thiết phải chính thức hoặc ngầm thừa nhận bị ràng buộc vào quy tắc tập quán, bởi vì sự hình thành tập quán luôn luôn phải xuất phát từ một cách thức thừa nhận bất kỳ.
- Quan điểm của các nước trong khu vực và trên thế giới:
Điều 6 của Công ước về thềm lục địa nói rằng nếu có hai quốc gia cách nhau bằng đường biển, ranh giới giữa sau đó được tính như là điểm khoảng cách bằng nhau từ cả hai bờ biển ( nguyên tắc equidistance ).
Điều quan trọng là phải biết được nơi nào là ranh giới là bởi vì một quốc gia có thể khoan dầu ở đáy biển trong phạm vi lãnh thổ của họ. Biển Bắc được bao quanh bởi Na Uy, Anh, Hà Lan, Đức, Bỉ và Đan Mạch. Và có rất nhiều quyền khai thác dầu ở giữa khu vực này. Vì vậy việc phân chia ranh giới vùng thềm lục địa biển Bắc ảnh hưởng rất nhiều tới lợi ích kinh tế của các nước trong khu vực.
Sau việc tìm ra mỏ dầu Groningen năm 1959 ở Hà Lan, đã có sự tăng vọt trong mối quan tâm về khả năng tìm ra Hydrocacbon ở thềm lục địa phía Bắc. Và khi trữ lượng thực sự và tiềm năng của mỏ dầu đó được công bố, mối quan tâm đó lớn lên rất nhiều.
Khi pháp luật được ban hành ở Anh vào năm 1964 cho phép cấp giấy phép cho việc sản xuất hydrocarbon ở một phần của biển Bắc, 50 công ty đã được cấp giấy phép như vậy. Năm 1965, Na Uy được cấp Giấy phép sản xuất đến 24 đơn vị. Tính đến tháng tám 1.1967.83 giếng đã được khoan trên thềm lục địa nằm dưới Biển Bắc và một lượng khí đốt dự trữ đáng kể đã được phát hiện trong khu vực Anh. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Vụ tranh chấp này cũng góp phần trong việc đưa vào UNCLOS 1982 (Công ước luật biển 1982) các điều khoản bắt buộc về giải quyết các tranh chấp ở biển. Đây được coi là một bước tiến lớn của Luật quốc tế nói chung và của Công ước Luật biển năm 1982. (Khác với Công ước Geneve 1958, khi mà các điều khoản về giải quyết tranh chấp chỉ được ghi nhận trong một Nghị định thư không bắt buộc và Nghị định thư này đã không được nhiều nước phê chuẩn). Điều này đã phản ánh đúng xu thế của thời đại, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, thể hiện ý nguyện của các quốc gia có biển cũng như không có biển và đã được nhiều đoàn đại biểu tham gia Hội nghị của Liên Hợp quốc về biển từ 1973-1982 chấp nhận rộng rãi, kể cả các đoàn đại biểu của các nước xã hội chủ nghĩa mà trước đó đã kiên quyết phản đối khái niệm về quyền tài phán bắt buộc của toà án quốc tế, vì nếu không có các điều khoản về giải quyết tranh chấp thì sự toàn vẹn của văn bản cuối cùng sẽ bị mất giá trị.
3.2 Quan điểm của nhóm
Dựa trên những tài liệu tìm được và quá trình tìm hiểu vụ tranh chấp, chúng em tôn trọng phán quyết của tòa án. Bởi tranh chấp tất yếu sẽ đưa đến hệ quả không như mong đợi. Đứng trên phương diện quyền lợi về kinh tế và tự chủ của nước mình, tất nhiên sẽ gây nhiều tranh cãi, vì vậy khi Đức lên tiếng lập luận rằng bờ biển lõm làm Đức bị thiệt thòi so với các nước Hà Lan, Đan Mạch là điều dễ hiểu và tất yếu. Tuy nhiên, cuộc tranh chấp này đã dẫn đến sự ra đời công ước về thềm lục địa đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử pháp lý có các quy phạm phối hợp ở tầm quốc tế về đặc quyền của các quốc gia ven biển trong quản lý nguồn tài nguyên ở thềm lục địa và về giới hạn chiều rộng của nó. Mặc dù trong giai đoạn sau đó, cùng với sự phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các quốc gia mong muốn thiết lập giới hạn mới về chiều rộng của thềm lục địa bằng các tiêu chí mới cho phù hợp với luật quốc tế hiện đại và với vị thế của từng quốc gia (cần nhấn mạnh rằng, cho đến nay có 2 điều ước quốc tế cơ bản điều chỉnh quy chế thềm lục địa là: Công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa và Công ước năm 1982);
Hơn thế nữa, Công ước về vùng tiếp giáp cũng là một điểm nhấn mới trong luật quốc tế vì đây là lần đầu tiên các quy phạm về khái niệm và về quy chế pháp lý vùng tiếp giáp được ghi nhận trên cơ sở một điều ước quốc tế đa phương. Hội nghị quốc tế về Luật biển lần thứ hai đã được tổ chức vào năm 1960, các quốc gia tham dự đã mất nhiều thời gian tranh luận về chiều rộng lãnh hải và vùng đánh cá cho các quốc gia ven biển, nhưng do bất đồng quan điểm giữa các quốc gia nên Hội nghị đã không đem lại kết quả, nhưng dù sao đó cũng là tiền đề cho Hội nghị lần sau. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Vấn đề tranh chấp chủ quyền các nước, dù là vì mục đích và lí do nào thì cũng ảnh hưởng lớn đến quan hệ các nước xảy ra tranh chấp. Vấn đề này hiện vẫn còn đặt ra nhiều câu hỏi cho tình hình tranh chấp biển Đông mà cụ thể là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa – hai quần đảo trên các rạn san hô ở Biển Đông, trong đó quần đảo Hoàng Sa đang là nơi tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc, quần đảo Trường Sa là nơi tranh chấp chủ quyền của 6 quốc gia và lãnh thổ: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, các quốc gia này tuyên bố chủ quyền toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, vùng biển trong khu vực Biển Đông cũng là đối tượng tranh chấp, với lợi ích mà các quốc gia quan tâm gồm: ngư trường, khai thác tài nguyên đặc biệt là dầu khí và kiểm soát của một vị trí chiến lược.
Tóm lại, trong vụ tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc giữa Đức với Đan Mạch và Đức với Hà Lan (1969), tính kề cận địa lý không có giá trị mà sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ ra biển mới mang lại danh nghĩa chủ quyền cho quốc gia có thềm lục địa đó. Ý nghĩa của nguyên tắc này cũng góp phần giúp cho việc đánh giá một cách khách quan, công bằng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời vạch trần những luận điểm mở hồ mang tính áp đặt trong yêu sách của Trung Quốc và các nước khác đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
KẾT LUẬN Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.
Có thể nói vấn đề tranh chấp thềm lục địa nói riêng và tranh chấp liên quan đến chủ quền lãnh thổ quốc gia nói chung đang là vấn đề nhức nhối hiện nay trên thế giới. Có thể nói vụ tranh chấp năm 1969 giữa Đức, Đan Mạch và Hà Lan là vụ tranh chấp điển hình từ đó là cơ sở để giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến thềm lục địa hiện nay.Khi thì bùng nổ, khi thì lắng dịu những cuộc tranh chấp này mang mọi hình thức từ đấu tranh chính trị đến ngoại giao, vũ trang.Các quốc gia tranh chấp cũng tuỳ thời cuộc. Sau vụ tranh chấp năm 1969, luật biển mới đã ra đời trên cơ sở bảo vệ quyền lợi và chủ quyên của các quốc gia có biển. Tuy nhiên, những vấn đề phân chia lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa các quốc gia vẫn chưa thực hiện một cách rõ ràng, chính xác do còn quá nhiều kẽ hở.
Vụ tranh chấp năm 1969 diễn ra trong thời gian dài và phức tạp giữa các bên có liên quan gây những ảnh hưởng không nhỏ tới các nước. Song đây cũng là bài học kinh nghiệm cho các nước trước vấn đề tương tự như nước ta hiện nay trong việc khẳng định chủ quyền biển đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đây là những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, lợi ích chủ quyền dân tộc đòi hỏi phải có sự sáng suốt cương quyết thẳng thắn để xác định đúng được lãnh thổ quốc gia của mình. Vì vậy các quốc gia cần tăng cường an ninh quốc phòng cũng như xác lập mối quan hệ hoà hoả với các nước tên thế giới, phân chia ranh giới quốc gia và chủ quyền biển đảo, thềm lục địa rõ ràng tranh làm ảnh hưởng tới mối quan hệ hữu nghị giữa các bên. Đây vẫn đang và sẽ là vấn đề nóng trên thế giới.Bài tiểu luận của chúng tôi đi tìm hiểu về vụ tranh chấp năm 1969 giữa Đức, Đan Mạch và Hà lan để tìm hiểu rõ được nguyên nhân, diễn biến, cũng như là phán quyết của toà để từ đó làm cơ sở cho các vụ án tương tự sau này cũng như giúp chúng ta hiểu được sự phân chia ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có vùng biển tiếp giáp với nhau. Tiểu luận: Tranh chấp thềm lục địa miền bắc.

Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com