Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Nội dung chính

LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay, với sự phát triển của mạng Internet và các phương tiện truyền thông điện tử, thương mại điện tử đã trở thành một hình thức kinh doanh phổ biến ở nhiều quốc gia mà trong đó có Việt Nam. Mặc dù thương mại điện tử mới phát triển ở Việt Nam trong một vài năm gần đây nhưng nó đang gia tăng với mức độ chóng mặt và hứa hẹn là một miền đất mới màu mỡ cho các nhà kinh doanh. thương mại điện tử không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn mang lại vô số tiện ích như khả năng kết nối nhanh chóng, tiết kiệm chi phí, thời gian cho các cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá dịch vụ và Người tiêu dùng. Tuy nhiên, điều gì cũng có hai mặt của vấn đề, đi đôi với sự tiện lợi là hàng hoạt rủi ro của việc thực hiện giao dịch qua các phương tiện điện tử.

Quan hệ bình đẳng giữa các chủ thể trong luật dân sự đã ngày càng có xu hướng “bất bình đẳng” hoá theo xu hướng thế yếu thuộc về Người tiêu dùng. Đặc biệt trong hoàn cảnh đặc trưng của các giao dịch thương mại điện tử, các giao dịch được thiết lập từ xa, thì người tiêu dùng lại càng bị yếu thế về nhiều mặt. Khi tham gia các giao dịch điện tử, người tiêu dùng vẫn không khỏi lo lắng bi lợi dụng bởi các hành vi thương mại không công bằng, các phương thức thanh toán chưa đảm bảo an toàn hay việc bị mất, bị tiết lộ thông tin cá nhân và nhiều quan ngại khác khiến đời sống riêng bị xâm phạm. Dễ nhận thấy rằng, khi mua một mặt hàng bất kỳ thông qua một website thương mại điện tử, người tiêu dùng không thể kiểm tra được màu sắc, kích cỡ hay chất lượng hàng như mua ở một cửa hàng trên thực tế. Không khó để tìm thấy tại thời điểm này, trên mạng vẫn đầy rẫy những mẩu quảng cáo trái pháp luật, thậm chí là quảng cáo bán hàng cấm, rồi mua gián bán dối, “treo đầu dê bán thịt chó” để lừa đảo Người tiêu dùng. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Thực tế, để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm từ rất sớm như việc ban hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 13/1999/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội vào ngày 27 tháng 4 năm 1999 sau đó được thay thế bằng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, hay là Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ban hành ngày 16 tháng 05 năm 2013 về thương mại điện tử của thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ban hành ngày 27 tháng 10 năm 2011 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, nội dung về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử chưa nhiều và còn nằm rải rác tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, chưa có tính hệ thống và chưa đáp ứng được tình hình phát triển kinh tế – xã hội. Với các văn bản pháp luật hiện hành, vẫn chưa đủ cơ sở pháp lý để xây dựng tiếp các chế tài xử lý đủ mức độ răn đe; chưa xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của từng đối tượng liên quan trong hoạt động bảo vệ thông tin của Người tiêu dùng.

Hơn nữa, dù tình hình thực tiễn đặt ra vấn đề như vây nhưng trên thực tế vẫn còn khá ít công trình khoa học nghiên cứu, đi sâu vào pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử. Các nghiên cứu khoa học về vấn đề này chủ yếu mới chỉ dừng lại ở các bài báo, bài viết mà chưa được xây dựng một cách đầy đủ các vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật.

Với những lý do trên, người viết quyết định chọn đề tài: “Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Vấn đề bảo vệ Người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử bước đầu đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, tuy nhiên, những bài nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở hình thức các bài báo, bài viết hoặc những bài báo, bài viết có liên quan. Có thể kể đến là các nghiên cứu như:

  • Cục quản lý cạnh tranh (2015), Bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử, Hà Nội.
  • Lê Văn Thiệp (2016), Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số định kỳ 64 trang tháng 2-2016.
  • Sở Công Thương Đà Nẵng, Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử, Đà Nẵng.
  • Trần Văn Biên (2010), Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử qua Internet, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 20/2010, tr.29-33
  • Võ Thị Hạnh (2015), Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam. Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
  • Nguyễn Việt Hà ( 2016), Pháp luật Việt Nam về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử, Luận văn thạc sỹ Luật Kinh tế, Khoa Luật (ĐHQGHN), Hà Nội.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử mới dừng lại ở các bước ban đầu, nêu ra các vấn đề hoặc nghiên cứu quyền được bảo vệ của Người tiêu dùng dưới góc độ là quyền của pháp luật BVQLNTD. Số lượng các nghiên cứu chuyên biệt về bảo vệ Người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử mới dừng lại ở mức rất hạn chế. Hơn nữa, các nghiên cứu này cũng mới chỉ nghiên cứu về một vài khía cạnh của vấn đề này chứ cũng chưa có nghiên cứu thành hệ thống. Đề tài “Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam” là một đề tài mới, tuy nhiên, luận văn sẽ nghiên cứu một cách khái quát, đầy đủ những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và thực trạng của hệ thống pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực thương mại điện tử.

2. Mục đích nghiên cứu Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

  • Làm rõ cơ sở khoa học về vấn đề bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam.
  • Phân tích các quy định trong pháp luật Việt Nam về BVQLNTD trong thương mại điện tử, các ưu điểm và bất cập của các quy định này về mặt nội dung cũng như khi đưa vào thực tiễn.
  • Trên cơ sở đó, đề xuất các khuyến nghị về phương hướng cụ thể cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt về BVQLNTD trong thương mại điện tử tại Việt Nam, đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành tại Việt Nam, cũng như thực trạng và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

  • Phạm vi không gian: chủ yếu là Việt Nam, bên cạnh đó là nghiên cứu tại một vài quốc gia phát triển khác như Pháp, Hàn Quốc; một số nước trong Cộng đồng ASEAN.
  • Đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp lý về bảo vệ Người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu

  • Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê,… Trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận văn.
  • Phương pháp so sánh – đối chiếu được dùng để đánh giá kinh nghiệm nước ngoài, từ đó rút ra đề xuất cho Việt Nam.

5. Kết cấu của luận văn Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm 3 (ba) chương, bao gồm:

  •  Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử
  •  Chương 2: Thực trạng Việt Nam về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử
  •  Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1.1. Khái quát về bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử

1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng

Khái niệm “người tiêu dùng” đã tồn tại khá lâu trong hệ thống pháp luật các nước; tuy nhiên, mỗi nước lại chọn cho mình một quan niệm riêng về vấn đề này.

“Người tiêu dùng” được định nghĩa như sau ở một vài quốc gia:

Liên minh châu Âu: Khái niệm người tiêu dùng của Liên minh châu Âu được giải thích trong Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan (Directive 1999/44/EC of the European Parliament and of the Council of 25 May 1999 on certain aspects of the sale of consumer goods and associated guarantees). Chỉ thị này giải thích:“người tiêu dùng là bất cứ tự nhiên nhân (tức là cá nhân) nào … tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ thị này… vì mục đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình.” [25]

Trung Quốc: Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 của Trung Quốc tuy không có điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng nhưng tại Điều 2 của Luật này có quy định:“Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ theo quy định của Luật này và trường hợp Luật này không quy định thì sẽ được bảo vệ theo các quy định khác có liên quan của pháp luật.” Điều luật này đã ngụ ý rằng người tiêu dùng theo quan niệm của pháp luật Trung Quốc chỉ là cá nhân, tức là những người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ vì nhu cầu sinh hoạt của mình chứ không phải vì mục đích kinh doanh hoặc hoạt động nghề nghiệp. [24]

Hoa Kỳ: Các quy định về bảo vệ người tiêu dùng ở Hoa Kỳ nằm cả trong pháp luật của liên bang và pháp luật của các bang. Tuy không có một đạo luật chung thống nhất về bảo vệ người tiêu dùng mà trong đó khái niệm người tiêu dùng được giải thích rõ ràng, nhưng theo các chuyên gia pháp luật của Hoa Kỳ, khái niệm người tiêu dùng chỉ được quan niệm là cá nhân người tiêu dùng. [14] Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Malaysia: Điều 3 của Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 của Malaysia giải thích: “người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích sinh hoạt cá nhân hoặc sinh hoạt gia đình… và không gồm việc mua hoặc sử dụng hàng hóa vì mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác.” [27]

Thái Lan: Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 giải thích: “người tiêu dùng là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc được chào mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ một người kinh doanh, bao gồm người thực sự sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ có nguồn gốc từ người kinh doanh mặc dù người này không trực tiếp trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ đó.” Trong khi đó, cũng tại điều khoản này, “người kinh doanh” được giải thích là người bán hàng, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu để bán hàng, người mua hàng để bán lại, người cung cấp dịch vụ, người tiến hành việc quảng cáo.” Như vậy có thể hiểu Người tiêu dùng không chỉ là những người sử dụng hàng hóa dịch vụ vào mục đích tiêu dùng mà còn cả những người sử dụng vào mục đích thương mại hoặc sản xuất, Người tiêu dùng theo quy định của Thái Lan không chỉ là các thể nhân mà còn bao gồm pháp nhân. [31]

Tại Việt Nam, Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” [19, Điều 3, Khoản 1]

Từ các khái niệm trên, ta thấy quan niệm của các nước trên thế giới về khái niệm “người tiêu dùng” được chia làm ba hướng đi khác nhau. Cách quy định thứ nhất chỉ quy định người tiêu dùng là thể nhân (hoặc cá nhân), đây là cách quy định của Châu Âu và Quebec. Cách quy định này thể hiện rõ luật bảo vệ người tiêu dùng chỉ bảo vệ đối với cá nhân, còn pháp nhân do có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với nhà cung cấp nên luật bảo vệ người tiêu dùng không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ. Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng có một số điểm hạn chế vì pháp nhân theo quy định của pháp luật không chỉ bao gồm các doanh nghiệp với quan hệ thương mại mà còn bao gồm các cơ quan tổ chức khác trong xã hội. Các cơ quan tổ chức này đôi khi không phải là những người chuyên nghiệp và cũng như người tiêu dùng, họ cũng không có sẵn nguồn lực để đối phó với các hành vi vi phạm từ phía nhà sản xuất và cũng rất cần tới sự bảo vệ của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.

Cách thứ hai là khái niệm người tiêu dùng được quy định bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Quy định này tuy có vẻ hơi rộng và có thể có quan điểm cho rằng nó sẽ làm loãng đi hiệu lực của Luật bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên cách quy định này đã khắc phục được hạn chế của cách quy định thứ nhất vì không phải lúc nào pháp nhân cũng có đủ khả năng để đối mặt với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh. Và hậu quả là nếu Luật bảo vệ người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội sẽ bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Cách quy định thứ ba là khái niệm người tiêu dùng không nêu rõ chỉ là cá nhân hay gồm cả cá nhân và pháp nhân. Cách quy định này chỉ nói là “người nào” hoặc “những ai”. Cách quy định này có thể dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau và khó có thể được áp dụng trong thực tiễn bởi lẽ nó có thể được hiểu là gồm cả cá nhân và pháp nhân, nhưng cũng có thể giải thích theo hướng chỉ là cá nhân. [10]

Theo cách quy định của pháp luật Việt Nam thì khái niệm “người tiêu dùng” ở đây rơi vào trường hợp thứ hai. Theo đó, người tiêu dùng không chỉ bao gồm các đối tượng là các cá nhân tiêu dùng riêng lẻ mà còn là tổ chức (như doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội, đoàn thể,…) tiến hành mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình hoặc tổ chức đó. [8] Nói cách khác, các đối tượng này thực hiện việc mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ không nhằm mục đích để bán lại hoặc mục đích sinh lời.

1.1.2. Khái niệm thương mại điện tử

Thương mại điện tử (Electronic Commerce) là một khái niệm đã tồn tại rất lâu trên thế giới, từ khi việc sử dụng Internet còn là một điều xa xỉ đối với Việt Nam.

Trong Luật mẫu về thương mại điện tử năm 1996, UNCITRAL (Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế) cho rằng thương mại điện tử là tất cả các hoạt động thương mại mà việc giao dịch, thông tin được thực hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. [32] Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định nghĩa rằng: “Giao dịch thương mại điện tử là việc bán hoặc mua hàng hoá hoặc dịch vụ, được thực hiện qua mạng máy tính bằng các phương pháp được thiết kế đặc biệt để nhận hoặc đặt hàng.” [30] Hàng hoá hoặc dịch vụ được đặt hàng bằng những phương pháp này, nhưng việc thanh toán và phân phối cuối cùng của hàng hoá hoặc dịch vụ không cần phải được tiến hành trực tuyến.

Theo Khoản 1, Điều 3, Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 về Thương mại điện tử thì “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.” Trong đó, phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện tử hoặc công nghệ điện tử. [18, Điều 10, Khoản 4] Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì thương mại điện tử là các hoạt động nhằm mục đích sinh lời của ít nhất một bên trong giao dịch bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lời khác được thực hiện bằng các phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. Trong đó, các bước tiến hành giao dịch không nhất thiết phải hoàn toàn bằng phương tiện điện tử.

Trong khi một số người cho rằng thương mại điện tử và kinh doanh điện tử có thể thay thế nhau, thực ra chúng là hai khái niệm riêng rẽ. Trong thương mại điện tử, công nghệ thông tin và truyền thông được sử dụng trong kinh doanh hoặc trong giao dịch giữa các tổ chức B2B (giao dịch giữa các công ty và tổ chức với nhau) và trong giao dịch doanh nghiệp tới khách hàng (B2C) (giao dịch giữa các công ty/tổ chức tới từng cá nhân). Mặt khác, trong kinh doanh điện tử, công nghệ thông tin và truyền thông được sử dụng để tăng cường việc kinh doanh của từng chủ thể. Nó bao gồm bất cứ quá trình nào mà một tổ chức kinh doanh (hoặc là phi lợi nhuận, hoặc tổ chức chính phủ, hoặc có lợi nhuận) thực hiện qua mạng máy tính. Một định nghĩa tổng thể hơn của kinh doanh điện tử: “Việc chuyển tải quá trình của một tổ chức trong việc đưa thêm những giá trị khách hàng qua việc ứng dụng công nghệ, triết lý và mô hình tính toán của nền kinh tế mới.”

Có ba quá trình chính được tăng cường trong kinh doanh điện tử:

  • Quá trình sản xuất, bao gồm việc mua hàng, đặt hàng và cung cấp hàng vào kho, quá trình thanh toán, các mối liên kết điện tử với nhà cung cấp và quá trình quản lý sản xuất.
  • Quá trình tập trung vào khách hàng, bao gồm việc phát triển và marketing, bán hàng qua Internet, sử lý đơn đặt hàng của khách hàng và thanh toán, hỗ trợ khách hàng
  • Quá trình quản lý nội bộ, bao gồm các dịch vụ tới nhân viên, đào tạo, chia sẻ thông tin nội bộ, hội họp qua video và tuyển dụng. Các ứng dụng điện tử tăng cường luồng thông tin giữa việc sản xuất và lực lượng bán hàng nhằm tăng sản lượng bán hàng. Việc trao đổi giữa các nhóm làm việc và việc đưa ra những thông tin kinh doanh nội bộ sẽ tạo được hiệu quả hơn. [12]

Như vậy có thể khẳng định rõ ràng thương mại điện tử và kinh doanh điện tử là hai khái niệm riêng biệt.

1.1.3. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là làm sao để quyền lợi của người tiêu dùng không bị xâm hại, làm sao để người tiêu dùng tránh được những rủi ro khi tham gia vào tiêu dùng. Điều này rất có cần thiết bởi vì người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia. Nền kinh tế phát triển thì sản xuất kinh doanh phải diễn ra suôn sẻ. Mặt khác, sản xuất kinh doanh lại gắn liền với tiêu dùng. Do đó, muốn nền kinh tế phát triển thì phải kích thích được tiêu dùng và đảm bảo nhu cầu của người tiêu dùng phải được đáp ứng. Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng luôn là vấn đề trọng tâm được nhiều các ngành các cấp quan tâm.

1.1.3.1. Các nhân tố tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

  • Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền.

Thực tiễn cho thấy, khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, mức độ tự do hóa thương mại càng gia tăng thì càng nảy sinh nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng. Việc chờ đợi ý thức trách nhiệm của các cơ sở sản xuất kinh doanh nếu thiếu vắng một hệ thống quy định pháp lý là điều không thể bởi họ còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố liên quan đến lợi nhuận, cạnh tranh… Những quy định pháp lý sẽ là cơ sở cho các nhà sản xuất kinh doanh ý thức được vấn đề quyền lợi người tiêu và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng có cơ sở để thực hiện quyền lợi của mình. Trong trường hợp các doanh nghiệp không tuân thủ đúng quy định của pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì hệ thống pháp lý sẽ tạo khung quy định những biện pháp xử phạt và cưỡng chế đối với những doanh nghiệp đó.

  • Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng.

Tổ chức, cá nhân kinh doanh muốn phát triển lâu dài thì ngoài việc quan tâm đến lợi ích kinh tế của bản thân mình, cũng cần phải quan tâm đến lợi ích của người tiêu dùng. Lợi nhuận của các tổ chức, cá nhân kinh doanh có được là đến từ túi tiền của người tiêu dùng. Chẳng thế mà từ xưa cha ông ta đã có câu “khách hàng là thượng đế”, “vui lòng khách đến vừa lòng khách đi”. Chính vì vậy mà các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ phải có trách nhiệm đảm bảo an toàn sản phẩm, lắng nghe tiếng nói của người tiêu dùng để nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, họ cũng cần có trách nhiệm cung cấp thông tin chính xác về chất lượng hàng hoá, thực hiện chính sách bảo hành cũng như tiếp nhận khiếu nại và đền bù thoả đáng cho người tiêu dùng. Đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử, một lĩnh vực cần trách nhiệm lớn hơn từ tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

  • Tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Pháp luật cho phép các tổ chức xã hội thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động theo điều lệ được quyền tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bởi vì chức năng chính của tổ chức được thành lập nên để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nên họ đóng một vai trò rất quan trọng. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện có hệ thống cơ quan của Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (cơ quan ở trung ương và các địa phương) trực tiếp tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

  • Bản thân người tiêu dùng

Bản thân người tiêu dùng phải có trách nhiệm tự bảo vệ mình, bảo vệ đồng tiền của mình một cách hợp lý. Người tiêu dùng có khả năng tự bảo vệ bản thân mình thông qua việc ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình. Để đảm bảo quyền lợi của mình, người tiêu dùng cần tìm hiểu kỹ về chất lượng, xuất xứ, thông tin chính xác về sản phẩm cũng như uy tín của các tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm đó.

Như vây, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện nay đang nhận được sự quan tâm của toàn thể xã hội và được coi là một trong những vấn đề quan trọng nhằm đảm việc phát triển bền vững của nền kinh tế. Trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng không chỉ thuộc về riêng một tổ chức, cá nhân nào mà nó thuộc về toàn xã hội.

1.1.3.2. Ý nghĩa việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng  

  • Đối với chính trị xã hội

Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng là đối tượng của tổ chức, cá nhân kinh doanh, là động lực phát triển của tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng như toàn bộ nền kinh tế và xã hội nói chung. Tất cả mọi người đều có nhu cầu tiêu dùng những vật dụng thiết yếu, không phân biệt dân tộc, giới tính, tuổi tác, thành phần xã hội. Vì người tiêu dùng có thể là bất kỳ ai trong xã hội nên bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không chỉ mang tính chất kinh tế mà còn mang tính chính trị, xã hội rõ rệt. Một khi họ được bảo vệ, được tôn trọng, được nâng cao cuộc sống về cả vật chất và tinh thần thì họ sẽ trở thành động lực phát triển rất to lớn, ngược lại, quyền lợi của họ bị xâm phạm thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.

  • Đối với kinh tế

Bảo vệ người tiêu dùng tốt không chỉ củng cố niềm tin của người tiêu dùng đối với các loại hàng hoá, dịch vụ mà còn khuyến khích tiêu dùng. Niềm tin của người tiêu dùng là tiên chỉ của mọi doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ, nó đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp đó. Một khi người tiêu dùng đã mất niềm tin, quay lưng lại với sản phẩm thì sẽ gây khó khăn không nhỏ cho sự tồn tại của doanh nghiệp đó. Nhìn rộng ra, nếu vấn đề này xảy ra trên diện rộng thì sẽ ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.

Bên cạnh đó, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng chính là bảo vệ sự công bằng cho người tiêu dùng, từ đó góp phần quản lý thị trường, giúp thị trường hoạt động lành mạnh, công bằng.

1.2. Khái quát pháp luật Việt Nam trong bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Hiện nay, thương mại điện tử cũng không phải là mới mẻ ở Việt Nam, nó hứa hẹn là mảnh đất màu mỡ cho các cá nhân, doanh nghiệp kiếm lợi nhuận cũng như là nguồn phát triển kinh tế của cả đất nước. Các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện tử cũng đã tồn tại từ khá lâu nhưng vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử thì chưa được quan tâm đúng mức. Hiện chưa có một văn bản cụ thể nào quy định về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực này cả mà tất cả các quy định vẫn nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau mà phải kể đến như là:

  • Luật giao dịch điện tử năm 2005
  • Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010
  • Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ban hành ngày 16 tháng 05 năm 2013 về thương mại điện tử của thủ tướng Chính phủ (Sau đây gọi là Nghị định số 52/2013/NĐ-CP).
  • Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ban hành ngày 27 tháng 10 năm 2011 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Sau đây gọi là Nghị định số 99/2011/NĐ-CP).

1.2.1. Giao kết, thực hiện hợp đồng thương mại điện tử

1.2.1.1. Khái niệm  

Nói về khái niệm thì hiện tại chưa có một khái niệm chính xác thế nào là hợp đồng thương mại điện tử. Tuy nhiên, khi nhắc đến hợp đồng tức là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên.

Điều 33 Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy định khái niệm hợp đồng điện tử. Theo đó, “hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này.”

Theo Khoản 1, Điều 3, Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 về Thương mại điện tử thì “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.”

Như vậy, theo ý kiến của tác giả, Giao dịch thương mại điện tử là việc bán hoặc mua hàng hoá hoặc dịch vụ, được thực hiện một phần hoặc toàn bộ quy trình của bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Còn hợp đồng thương mại điện tử là hình thức pháp lý của hành vi thương mại, là sự thoả thuận giữa hai hay nhiều bên (mà ít nhất một trong các bên thực hiện với mục đích sinh lời) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ các bên trong việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến thương mại và được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu, thực hiện một phần hoặc toàn bộ quy trình bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.

Bên cạnh đó, hợp đồng giao kết từ xa, hợp đồng cung cấp dịch vụ liên tục và hợp đồng bán hàng tận cửa là ba loại hợp đồng đặc thù của người tiêu dùng. Trong đó, hợp đồng giao kết từ xa và hợp đồng theo mẫu là hai loại hợp đồng được sử dụng nhiều trong giao dịch thương mại điện tử. Theo định nghĩa tại Khoản 1, Điều 3, Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì: “Hợp đồng giao kết từ xa là hợp đồng được ký kết giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh  doanh hàng hóa, dịch vụ thông qua phương tiện điện tử hoặc điện thoại.”

Nhìn qua thì tưởng chừng giao dịch thương mại điện tử và hợp đồng giao kết từ xa có cùng nội hàm nhưng bản chất nó lại có những điểm chung và những điểm khác biệt. Hợp đồng giao kết từ xa chỉ là hình thức giao kết hợp đồng thông qua phương tiện điện tử, còn tất cả các công đoạn còn lại như giao hàng, thanh toán,… vẫn là trực tiếp. Còn giao dịch thương mại điện tử thì không chỉ lúc ký kết mà còn có thể bao gồm cả giai đoạn thanh toán, giao hàng,… đều thông qua phương tiện điện tử. Tuy nhiên, đối với giao dịch thương mại điện tử thì cũng có thể chỉ có lúc giao kết đặt hàng là bằng phương tiện điện tử, còn tất cả công đoạn còn lại vẫn bằng hình thức truyền thống là trực tiếp.

Thông thường, các doanh nghiệp thường đưa ra một hợp đồng mẫu trên các website để giao dịch với người tiêu dùng. Vậy hợp đồng theo mẫu là gì? Khoản 5, Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định: “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng.”

Bên cạnh đó, còn có một khái niệm cũng mang hơi hướng của việc áp đặt từ người bán hàng lên người tiêu dùng đó là các điều kiện giao dịch chung. Khái niệm điều kiện giao dịch chung được quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng.

1.2.1.2. Chủ thể Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

 Khác với các hợp đồng thông thường khác, ngoài các chủ thể là người mua và người bán thì trong hợp đồng thương mại điện tử còn có một chủ thể cũng không kém phần quan trọng là các nhà cung cấp dịch vụ mạng Internet, dịch vụ email, dịch vụ công nghệ thông tin và các cơ quan chứng thực chữ ký điện tử – tức là bên trung gian thứ 3. Theo đó, chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại điện tử được quy định tại

Điều 24 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2013 về thương mại điện tử, bao gồm sáu loại chủ thể:

  • Các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập website thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng).
  • Các thương nhân, tổ chức thiết lập website thương mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử).
  • Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng website của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người bán).
  • Các thương nhân, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa hoặc dịch vụ trên website thương mại điện tử bán hàng và website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (khách hàng).
  • Các thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng và cho thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng).
  • Các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện tử có nối mạng khác để tiến hành hoạt động thương mại.

Như vậy, giữa các giao dịch được thực hiện tồn tại ba loại quan hệ giữa các chủ thể, bao gồm:

  • Doanh nghiệp (người bán hàng) với doanh nghiệp (trung gian): bao gồm trao đổi dữ liệu, mua bán và thanh toán hàng hoá và lao vụ, chuyển giao chứng từ. Mục đích cuối cùng của hoạt động này là đẩy cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
  • Doanh nghiệp (người bán hàng) với người tiêu dùng
  • Người tiêu dùng và trung gian

1.2.1.3. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng

Theo quy định của pháp luật hiện nay, nếu một website thương mại điện tử có chức năng đặt hàng trực tuyến áp dụng cho từng hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể được giới thiệu trên website đó, thì các thông tin giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản liên quan được coi là thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng theo quy định. Bởi vì, một thông báo bằng chứng từ điện tử về đề nghị giao kết hợp đồng mà không có bên nhận cụ thể thì chỉ là thông báo mời đề nghị giao kết hợp đồng. Thông báo đó chưa được coi là đề nghị giao kết hợp đồng, trừ khi bên thông báo chỉ rõ tại thông báo đó trách nhiệm của mình trong trường hợp nhận được trả lời chấp nhận. [3, Điều 15]

Chứng từ điện tử do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến được coi là đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng đối với hàng hóa hoặc dịch vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đó.

Website thương mại điện tử phải có cơ chế cho phép khách hàng rà soát, bổ sung, sửa đổi và xác nhận nội dung giao dịch trước khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến để gửi đề nghị giao kết hợp đồng. Cơ chế rà soát và xác nhận này phải đáp ứng các điều kiện sau: Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

“1. Hiển thị cho khách hàng những thông tin sau:

  1. Tên hàng hóa hoặc dịch vụ, số lượng và chủng loại;
  2. Phương thức và thời hạn giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ;
  3. Tổng giá trị của hợp đồng và các chi tiết liên quan đến phương thức thanh toán được khách hàng lựa chọn.

Những thông tin này phải có khả năng lưu trữ, in ấn được trên hệ thống thông tin của khách hàng và hiển thị được về sau.

  1. Hiển thị cho khách hàng những thông tin về cách thức trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng.
  2. Cho phép khách hàng sau khi rà soát những thông tin nói trên được lựa chọn hủy giao dịch hoặc xác nhận việc đề nghị giao kết hợp đồng.”

Trả lời đề nghị giao kết hợp đồng:

1, Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải được thực hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị được tại hệ thống thông tin của khách hàng.

2.Khi trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng, thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng phải cung cấp cho khách hàng những thông tin sau:

  1. Danh sách toàn bộ hàng hóa hoặc dịch vụ khách hàng đặt mua, số lượng, giá của từng sản phẩm và tổng giá trị hợp đồng;
  2. Thời hạn giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ;
  3. Thông tin liên hệ để khách hàng có thể hỏi về tình trạng thực hiện hợp đồng khi cần thiết

Trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng có công bố thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu hết thời hạn này mà khách hàng vẫn không được trả lời thì đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng chấm dứt hiệu lực. Việc trả lời chấp nhận sau thời hạn này được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng khác từ phía thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng.

Trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng không công bố rõ thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu trong vòng 12 (mười hai) giờ kể từ khi gửi đề nghị giao kết hợp đồng, khách hàng không nhận được trả lời đề nghị giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng được coi là chấm dứt hiệu lực.

Thời điểm giao kết hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

1.2.2. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

1.2.2.1. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng theo Liên Hợp Quốc 

Thương mại điện tử hiện đang đặt ra các thách thức cho không chỉ từng quốc gia mà nó đòi hỏi sự phối kết hợp giữa các chính phủ trong việc thiết lập các cơ chế bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khi tiến hành các giao dịch điện tử. Nhận thức được vấn đề này, ngày 09 tháng 4 năm 1985, Liên hợp quốc đã thông quan Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc về Bảo vệ người tiêu dùng (thông qua Nghị quyết số 39/248 của Đại hội đồng Liên hợp quốc). Sau này, các nguyên tắc đó được sửa đổi vào các năm 1999 và 2015. Các nguyên tắc này nêu lên các quyền lợi và nhu cầu của người tiêu dùng trên toàn thế giới và tạo ra một khuôn khổ mà theo đó, các chính phủ có thể tham khảo để soạn thảo hay củng cố chính sách và pháp luật của quốc gia mình. Bản hướng dẫn đưa ra các nguyên tắc cơ bản của hoạt động bảo vệ Người tiêu dùng cũng như các quyền của Người tiêu dùng [33], bao gồm:

  • Người tiêu dùng có quyền tiếp cận các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu.
  • Bảo vệ người tiêu dùng yếu thế
  • Bảo vệ an toàn và sức khoẻ của người tiêu dùng trước các hàng hoá độc hại và kém chất lượng.
  • Thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế của người tiêu dùng.
  • Người tiêu dùng có quyền được cung cấp thông tin chính xác cho phép họ đưa ra các quyết định chính xác dựa trên nhu cầu và nguyện vọng cá nhân.
  • Giáo dục người tiêu dùng, bao gồm giáo dục về môi trường, xã hội và tác động của quyết định tiêu dùng.
  • Xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả.
  • Tạo điều kiện cho việc thành lập tổ chức người tiêu dùng và các tổ chức liên quan và tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia vào quá trình xây dựng các chính sách, pháp luật có liên quan.
  • Thúc đẩy các yếu tố tiêu dùng bền vững.
  • Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử với mức độ không thấp hơn trong các phương thức khác. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.
  • Bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng.

Những nguyên tắc được đưa ra trong Bản hướng dẫn năm 2016 được bổ sung thêm 3 nguyên tắc so với Bản hướng dẫn năm 1999, đó là bảo vệ người tiêu dùng yếu thế, bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng, và đặc biệt là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử với mức độ không thấp hơn trong các phương thức khác.

Ngoài ra, Bản hướng dẫn đã dành một phần riêng để nêu lên các quy định bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử. Theo đó, các quốc gia cần nỗ lực nhằm nâng cao lòng tin của người tiêu dùng đối với thương mại điện tử bằng việc tiếp tục phát triển các chính sách bảo vệ người tiêu dùng minh bạch và hiệu quả, bảo đảm mức độ bảo vệ không ít hơn so với các hình thức thương mại khác. Các quốc gia thành viên nên nên xem xét lại các chính sách bảo vệ người tiêu dùng để đáp ứng các đặc điểm đặc biệt của thương mại điện tử và đảm bảo rằng người tiêu dùng và doanh nghiệp được thông báo và nhận thức được quyền và nghĩa vụ của họ trong thị trường số.

1.2.2.2. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng theo OECD 

Trong Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc cũng đã dẫn dắt đến “Hướng dẫn nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong bối cảnh thương mại điện tử” (Guidelines for consumer protection in the context of Electronic Commerce) của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) được ban hành vào tháng 4 năm 1998. Các hướng dẫn này tập trung vào không chỉ người tiêu dùng, các tổ chức, cá nhân kinh doanh mà còn là gợi ý cho các chính phủ các quốc gia trong việc xem xét, áp dụng các chính sách bảo vệ tốt hơn người tiêu dùng trên môi trường giao dịch điện tử. Trong đó, các nội dung cơ bản về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử gồm có: [29]

  • Cơ chế bảo vệ minh bạch và hiệu quả
  • Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử phải thực hiện các hành vi quảng cáo và kinh doanh lành mạnh.
  • Các thông tin cần thiết phải cung cấp trong giao dịch điện tử gồm có: thông tin về doanh nghiệp; thông tin về hàng hoá, dịch vụ; thông tin về giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán.
  • Chính phủ cần tạo ra các cách thức giải quyết tranh chấp mà người tiêu dùng có thể dễ dàng sử dụng với chi phí hợp lý và thời gian, quy trình đơn giản, gọn nhẹ.
  • Doanh nghiệp phải xây dựng và đảm bảo tuân thủ các quy định tại từng thị trường đăng ký kinh doanh về chính sách bảo vệ, sử dụng và lưu chuyển thông tin cá nhân của người tiêu dùng.

1.2.2.3. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam

Nhằm ghi nhận các quyền của người tiêu dùng theo hướng dẫn của Liên hợp quốc, cũng như việc ý thức được tầm quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 của Việt Nam đã quy định rõ ràng 8 (tám) quyền của người tiêu dùng tại Điều 8, bao gồm: [19, Điều 8]

Đầu tiên là quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp. Quyền được an toàn rất quan trọng trong việc đảm bảo cho một cuộc sống an toàn và chắc chắn. Nếu không có các biện pháp, quy định tiêu chuẩn, Người tiêu dùng sẽ bị thiệt hại nhiều nhất về mặt an toàn. Quyền được an toàn có nghĩa là quyền được bảo vệ khỏi các sản phẩm, các quy trình sản xuất và dịch vụ có thể gây nguy hại cho sức khỏe và cuộc sống. Quyền này liên quan đến các chính sách của chính phủ nhằm thiết lập các tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn sản phẩm, và theo đó, các cơ sở vật chất công cộng nhằm kiểm tra, giám định về chất lượng và an toàn sản phẩm. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Thứ hai là quyền được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.

NTD phải có quyền được thông tin về chất lượng, số lượng, hiệu lực, độ tinh khiết, tiêu chuẩn và giá cả của hàng hoá, dịch vụ, để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn và tự bảo vệ bản thân họ khỏi các hành vi lạm dụng. Bên cạnh đó, Người tiêu dùng còn phải có quyền tiếp cận các thông tin liên quan đến các vấn đề công cộng, vốn do chính phủ và các cơ quan chức năng giải quyết. Quyền này không những liên quan đến việc các chính phủ nên công bố và phổ biến rộng rãi nội dung của các chính sách bảo vệ Người tiêu dùng, các cơ chế giải quyết khiếu nại và chế tài có thể được áp dụng, mà còn liên quan đến các chính sách về yêu cầu bắt buộc dán nhãn mác hàng hoá dịch vụ và đưa ra các cảnh báo cũng như thông tin cần thiết cho Người tiêu dùng về các điều kiện trao đổi, mua bán, bảo hành, tín dụng, sử dụng hay bảo quản sản phẩm.

Thứ ba là quyền được lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

Quyền được chọn lựa liên quan đến vấn đề chọn lựa giữa các khả năng khác nhau. Quyền được chọn lựa có thể coi là một sự đảm bảo, khi có thể, về tính sẵn có, khả năng và khả năng tiếp cận một số lượng lớn các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau ở mức giá cạnh tranh. Quyền này liên quan đến các chính sách của chính phủ nhằm hạn chế các hành vi hạn chế cạnh tranh, các loại hợp đồng không công bằng, điều chỉnh các hoạt động quảng cáo và khuyến mại,…

Quyền thứ tư của Người tiêu dùng là được góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Như đã phân tích ở trên, Người tiêu dùng là một nhân tố cốt lõi trong sự phát triển của các cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Lợi nhuận được tạo ra từ niềm tin và sự yêu thích của Người tiêu dùng đối với cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh. Vì vậy, Người tiêu dùng có quyền được đóng góp ý kiến với họ về các tiêu chí khác nhau liên quan đến loại hình hàng hoá, dịch vụ mà cá nhân, tổ chức kinh doanh.

Thứ năm là quyền được tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Pháp luật được tạo nên để điều chỉnh các quan hệ xã hội, để bảo vệ quyền lợi của người dân. Vì vậy, pháp luật muốn đi vào lòng người, muốn được thực hiện một cách tự nguyện thì phải lắng nghe ý kiến từ phía người dân. Người tiêu dùng có quyền được vận động ủng hộ cho các quyền lợi của Người tiêu dùng với mục tiêu khiến cho các quyền lợi đó được xem xét một cách toàn diện và được đồng tình trong quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế hay các chính sách khác có ảnh hưởng tới Người tiêu dùng.

Thứ sáu là quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.

Thứ bảy là quyền được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Hai loại quyền này về cơ bản liên quan đến việc các chính phủ xây dựng và thông qua các quy định pháp lý, hành chính cũng như các cơ chế thực thi để tạo điều kiện cho Người tiêu dùng có thể khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và được bồi thường thiệt hại thông qua các thủ tục chính thức cũng như không chính thức một cách nhanh chóng, công bằng, với ít chi phí và có thể được tiếp cận dễ dàng thuận tiện bởi Người tiêu dùng khắp nơi.

Quyền thứ tám của Người tiêu dùng là được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.

Quyền này là một tên gọi khác của quyền được giáo dục tiêu dùng – quy định trong Bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng của Liên Hợp Quốc. Người tiêu dùng có quyền có được các kiến thức và thông tin cần thiết để có thể là một Người tiêu dùng có hiểu biết. Những người có học rất dễ nhận thức về các quyền của họ cũng như hành động để tác động vào các nhân tố có ảnh hưởng tới các quyết định của Người tiêu dùng. Nói như vậy không có nghĩa là những người không có học hoàn toàn không hề hay biết gì nhưng rõ ràng là họ ở thế bất lợi hơn, vì họ không thể tự đọc, viết một cách thuận lợi được.

Các quyền của Người tiêu dùng được quy định trong pháp luật Việt Nam đã khá đầy đủ so với các quyền được quy định trong Bản hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ Người tiêu dùng. Tuy nhiên, các quy định của Việt Nam còn ít hơn 2 quyền, bao gồm có: Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Quyền được thoả mãn nhu cầu cơ bản. Các nhu cầu cơ bản của quần chúng nhân dân của bất cứ một quốc gia nào (NTD) xuất phát từ vấn đề tồn tại hay sống một cách đường hoàng. Tại các quốc gia nghèo hay các nền kinh tế đang phát triển, các nhu cầu cơ bản nói chung bao gồm lương thực, quần áo và nhà cửa. Tuy nhiên, có 3 nhu cầu khác rất thiết yếu để đảm bảo cuộc sống đàng hoàng cho con người, đó là dịch vụ y tế, nước sạch và vệ sinh, và giáo dục. Thêm 2 nhu cầu khác, cũng có thể liệt vào dạng nhu cầu cơ bản, vì nếu thiếu chúng thì khó mà có thể đảm bảo được các nhu cầu cơ bản nói trên, đó là năng lượng và phương tiện vận chuyển, đi lại.Vậy có thể nói, có tất cả hai loại ―hàng hoá và sáu ―dịch vụ được coi là nhu cầu cơ bản của con người (NTD).

Quyền này liên quan đến các chính sách của chính phủ nhằm đảm bảo các kênh lưu thông phân phối hàng hoá và dịch vụ hiệu quả đến Người tiêu dùng, cũng như cho phép lưu trữ hàng hoá, nhu yếu phẩm tại các khu vực nông thôn.

Quyền được bảo vệ thông tin cá nhân. Tuy pháp luật Việt Nam không quy định việc thông tin cá nhân phải được bảo vệ thành quyền nhưng đã dành hẳn một điều luật (Điều 6 Luật bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng năm 2010) để quy định về vấn đề này.

 Vì giao dịch thương mại điện tử có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như đối với các giao dịch khác nên người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử cũng có đầy đủ các quyền như trong quy định trên. Quy định cụ thể hơn trong hoạt động thương mại điện tử, Khoản 3 Điều 26 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2013 về thương mại điện tử, nguyên tắc xác định nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử được quy định như sau:

  • Người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng và người bán trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải tuân thủ các quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng;
  • Khách hàng trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là người tiêu dùng dịch vụ thương mại điện tử và là người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ do người bán trên website này cung cấp;
  • Trường hợp người bán trực tiếp đăng thông tin về hàng hóa, dịch vụ của mình trên website thương mại điện tử thì thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng không phải là bên thứ ba cung cấp thông tin theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

1.2.3. Trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hoá, dịch vụ

Trong bối cảnh thời đại công nghệ thông tin, ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, đặc biệt là các ứng dụng trên nền Internet. Do vây, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về quy trình cũng như những nguyên tắc, nội dung giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, các quy tắc, nội dung của hợp đồng không nằm riêng trong một văn bản nhất định nào cả mà nó nằm rải rác tại các văn bản pháp luật khác nhau. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

 Đầu tiên phải kể đến đó là quy định tại Khoản 2 Điều 30, và Khoản 1 Điều 31, Luật công nghệ thông tin năm 2006:

Trang thông tin điện tử bán hàng phải bảo đảm các yêu cầu chủ yếu sau đây:

  1. Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hàng hóa, dịch vụ, điều kiện giao dịch, thủ tục giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại;
  2. Cung cấp cho người tiêu dùng thông tin về phương thức thanh toán an toàn và tiện lợi trên môi trường mạng;
  3. Công bố các trường hợp người tiêu dùng có quyền hủy bỏ, sửa đổi thỏa thuận trên môi trường mạng.”

Trừ trường hợp các bên liên quan có thoả thuận khác, tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải cung cấp các thông tin sau đây cho việc giao kết hợp đồng:

  1. Trình tự thực hiện để tiến tới giao kết hợp đồng trên môi trường mạng;
  2. Biện pháp kỹ thuật xác định và sửa đổi thông tin nhập sai;
  3. Việc lưu trữ hồ sơ hợp đồng và cho phép truy nhập hồ sơ đó.”

Trường hợp người mua nhập sai thông tin gửi vào trang thông tin điện tử bán hàng mà hệ thống nhập tin không cung cấp khả năng sửa đổi thông tin, người mua có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu đã thực hiện các biện pháp thông báo kịp thời cho người bán biết về thông tin nhập sai của mình và người bán cũng đã xác nhận việc nhận được thông báo đó và trả lại hàng hoá đã nhận nhưng chưa sử dụng hoặc hưởng bất kỳ lợi ích nào từ hàng hóa đó. [20, Điều 32]

Ra đời sau năm năm, được kế thừa từ những tinh hoa của pháp luật thời kỳ trước, tại Điều 17 của Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định rõ ràng hơn về nội dung bắt buộc phải có của hợp đồng, quyền lợi của người tiêu dùng nếu tổ chức, cá nhân kinh doanh không cung cấp đầy đủ thông tin theo quy đinh như sau:

Khi giao kết hợp đồng từ xa, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin sau:

  1. Tên của tổ chức, cá nhân kinh doanh, số điện thoại liên lạc, địa chỉ, trụ sở, địa chỉ cơ sở chịu trách nhiệm về đề nghị giao kết hợp đồng (nếu có);
  2. Chất lượng của hàng hóa, dịch vụ;
  3. Chi phí giao hàng (nếu có);
  4. Phương thức thanh toán, phương thức giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
  5. đ) Thời gian có hiệu lực của đề nghị giao kết và mức giá đề nghị giao kết;
  6. Chi phí sử dụng phương tiện thông tin liên lạc cho việc giao kết hợp đồng nếu chi phí này chưa được tính vào giá của hàng hóa, dịch vụ; Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.
  7. g) Chi tiết về tính năng, công dụng, cách thức sử dụng của hàng hóa, dịch vụ là đối tượng hợp đồng.”

Trường hợp việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện thông qua điện thoại, tổ chức, cá nhân kinh doanh cần phải nói rõ ngay từ đầu về tên, địa chỉ của mình và mục đích của cuộc đàm thoại.

Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp không đúng, không đầy đủ thông tin quy định tại khoản 1 Điều này thì trong thời hạn mười (10) ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đã giao kết và thông báo cho tổ chức, cá nhân kinh doanh. Người tiêu dùng không phải trả bất kỳ chi phí nào liên quan đến việc chấm dứt đó và chỉ phải trả chi phí đối với phần hàng hóa, dịch vụ đã sử dụng.”

Do tính chất của hợp đồng thương mại điện tử là giao kết từ xa, các bên chủ thể không tiếp xúc trực tiếp với nhau trong quá trình giao kết nên pháp luật đã quy định khá chặt chẽ đối với loại hợp đồng này. Nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng,

Điều 17 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định rõ ràng đối với các mục trong hợp đồng giao kết từ xa, chính là loại hợp đồng đặc trưng của hoạt động giao dịch thương mại điện tử. Theo đó, khi giao kết hợp đồng từ xa, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin sau:

  • Tên của tổ chức, cá nhân kinh doanh, số điện thoại liên lạc, địa chỉ, trụ sở, địa chỉ cơ sở chịu trách nhiệm về đề nghị giao kết hợp đồng (nếu có).
  • Chất lượng của hàng hóa, dịch vụ.
  • Chi phí giao hàng (nếu có).
  • Phương thức thanh toán, phương thức giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
  • Thời gian có hiệu lực của đề nghị giao kết và mức giá đề nghị giao kết.
  • Chi phí sử dụng phương tiện thông tin liên lạc cho việc giao kết hợp đồng nếu chi phí này chưa được tính vào giá của hàng hóa, dịch vụ.
  • Chi tiết về tính năng, công dụng, cách thức sử dụng của hàng hóa, dịch vụ là đối tượng hợp đồng.

Trường hợp việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện thông qua điện thoại, tổ chức, cá nhân kinh doanh cần phải nói rõ ngay từ đầu về tên, địa chỉ của mình và mục đích của cuộc đàm thoại.

Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp không đúng, không đầy đủ thông tin quy định như trên thì trong thời hạn mười (10) ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đã giao kết và thông báo cho tổ chức, cá nhân kinh doanh. Người tiêu dùng không phải trả bất kỳ chi phí nào liên quan đến việc chấm dứt đó và chỉ phải trả chi phí đối với phần hàng hóa, dịch vụ đã sử dụng. Theo đó, tổ chức; cá nhân kinh doanh phải trả lại tiền cho người tiêu dùng chậm nhất là ba mươi (30) ngày kể từ ngày người tiêu dùng tuyên bố đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Quá thời hạn này, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán. Việc hoàn trả được thực hiện theo phương thức mà người tiêu dùng đã thanh toán, trừ trường hợp người tiêu dùng đồng ý thanh toán bằng phương thức khác. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Trường hợp việc chấm dứt hợp đồng gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định riêng một phần về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đối với người tiêu dùng. Bao gồm:

“Điều 12. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng

  1. Ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật.
  2. Niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh, văn phòng dịch vụ.
  3. Cảnh báo khả năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người tiêu dùng và các biện pháp phòng ngừa.
  4. Cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa.
  5. Cung cấp hướng dẫn sử dụng; điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ có bảo hành.
  6. Thông báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch.

Điều 13. Trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng

  1. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng thông qua bên thứ ba thì bên thứ ba có trách nhiệm:
  2. Bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp;
  3. Yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp chứng cứ chứng minh tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ;
  4. Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh đã thực hiện tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ;
  5. Tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí, pháp luật về quảng cáo.
  6. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng thông qua phương tiện truyền thông thì chủ phương tiện truyền thông, nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có trách nhiệm:
  7. Thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này;
  8. Xây dựng, phát triển giải pháp kỹ thuật ngăn chặn việc phương tiện, dịch vụ do mình quản lý bị sử dụng vào mục đích quấy rối người tiêu dùng; Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.
  9. Từ chối cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý nếu việc sử dụng có khả năng dẫn đến quấy rối người tiêu dùng;
  10. Ngừng cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý để thực hiện hành vi quấy rối người tiêu dùng theo yêu cầu của người tiêu dùng hoặc yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”

Như vậy, các quy định pháp luật đã quy định khá rõ ràng, đặc biệt là các nội dung bắt buộc phải có trong hợp đồng cũng như là thông tin về hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng để tránh việc gây nhầm lẫn, đưa thông tin gian dối về hàng hoá để lừa người tiêu dùng. Quy định bắt buộc phải đưa tên của tổ chức, cá nhân kinh doanh, số điện thoại liên lạc, địa chỉ, trụ sở, địa chỉ cơ sở chịu trách nhiệm về đề nghị giao kết hợp đồng vào trong hợp đồng được đăng trên website giúp cho người tiêu dùng có thể kiểm chứng thêm thông tin về độ tin cậy cũng như dễ dàng trong việc giải quyết khiếu nại.

Như đã phân tích ở trên, giao dịch thương mại điện tử còn có chủ thể thứ 3 trung gian nên trách nhiệm của chủ thể này cũng không thể tránh khỏi. Theo đó, Điều 13 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 có quy định về trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng như sau:

“1. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng thông qua bên thứ ba thì bên thứ ba có trách nhiệm:

  1. Bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp;
  2. Yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp chứng cứ chứng minh tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ;
  3. Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh đã thực hiện tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ;
  4. Tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí, pháp luật về quảng cáo.
  5. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng thông qua phương tiện truyền thông thì chủ phương tiện truyền thông, nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có trách nhiệm:
  6. Thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này;
  7. Xây dựng, phát triển giải pháp kỹ thuật ngăn chặn việc phương tiện, dịch vụ do mình quản lý bị sử dụng vào mục đích quấy rối người tiêu dùng;
  8. Từ chối cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý nếu việc sử dụng có khả năng dẫn đến quấy rối người tiêu dùng;
  9. Ngừng cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý để thực hiện hành vi quấy rối người tiêu dùng theo yêu cầu của người tiêu dùng hoặc yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”

Bên cạnh đó, do đặc thù giao dịch từ xa, không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bên như trong thương mại truyền thống nên đối với thương mại điện tử thì thông tin của bên mua là rất quan trọng và bắt buộc phải cung cấp cho bên bán để đảm bảo giao dịch. Ngược lại, các thông tin từ bên bán công khai cho bên mua cũng rất quan trọng, có ảnh hưởng tới quyết định mua bán của bên mua. Do vậy, hành vi xâm phạm đến thông tin cá nhân của bên mua thường xảy ra như bán thông tin của khách hàng ra bên ngoài. Chính vì điều này, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã giành hẳn một điều luật để quy định về việc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng (Điều 6). Theo đó, người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Trong trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải có trách nhiệm:

  • Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng; Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.
  • Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý;
  • Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng;
  • Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;
  • Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

1.2.4. Trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được quy định từ điều 27 đến điều 29 Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010.

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng gồm có tổ chức xã hội thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động theo điều lệ được tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Khi tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các tổ chức xã hội thực hiện bằng các hoạt động sau đây:

  • Hướng dẫn, giúp đỡ, tư vấn người tiêu dùng khi có yêu cầu.
  • Đại diện người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng.
  • Cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
  • Độc lập khảo sát, thử nghiệm; công bố kết quả khảo sát, thử nghiệm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do mình thực hiện; thông tin, cảnh báo cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thông tin, cảnh báo của mình; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
  • Tham gia xây dựng pháp luật, chủ trương, chính sách, phương hướng, kế hoạch và biện pháp về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
  • Thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao theo quy định tại Điều 29 của Luật này.
  • Tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức tiêu dùng.

Khi thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Nhà nước hỗ trợ kinh phí và các điều kiện khác theo quy định của pháp luật.

Theo đó, trong lĩnh vực BVQLNTD hiện nay tại Việt Nam đã có Hội Khoa học kỹ thuật về tiêu chuẩn hoá chất lượng và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam, gọi tắt là Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (viết tắt là VINASTAS).

Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tự nguyện, không vì mục đích lợi nhuận của những người hoạt động trong các lĩnh vực tiêu chuẩn, chất lượng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm mục đích:

Tập hợp, đoàn kết, giúp đỡ hội viên nâng cao trình độ nghề, xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực tiêu chuẩn, chất lượng và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam.

Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam là thành viên của Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và tổ chức Quốc tế Người tiêu dùng (CI). Hội chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Công Thương và các Bộ, ngành có liên quan về lĩnh vực Hội hoạt động theo quy định của Pháp luật. Hội có tư cách pháp nhân, con dấu, biểu tượng và tài khoản riêng. Cơ quan ngôn luận của Hội là Tạp chí Người tiêu dùng, được thành lập theo quy định của pháp luật.

1.2.5. Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được giải quyết thông qua các 4 hình thức.

Thứ nhất là hình thức thương lượng. Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ những bất đồng với nhau mà không cần đến sự tác động hay giúp đỡ của người thứ ba.

Người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để thương lượng khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Kết quả thương lượng thành của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng được lập thành văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. [19, Điều 31, Điềi 32]

Thứ hai là hình thức hòa giải. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ ba, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột hoặc bất hòa… Bên trung gian đóng vai trò hỗ trợ đôi bên đi đến giải pháp có lợi nhất cho đôi bên, có khi bên trung gian hòa giải thuyết phục đôi bên chấp nhận giải pháp do họ đề ra, chấm dứt xung đột.

Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có quyền thỏa thuận lựa chọn bên thứ ba là cá nhân hoặc tổ chức hòa giải để thực hiện việc hòa giải. Nguyên tắc thực hiện hòa giải phải bảo đảm khách quan, trung thực, thiện chí, không được ép buộc, lừa dối. Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải, các bên tham gia hòa giải phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến việc hòa giải, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. [19, Điều 37]

Các bên có trách nhiệm thực hiện kết quả hòa giải thành trong thời hạn đã thỏa thuận trong biên bản hòa giải; trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện thì bên kia có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.

Thứ ba là giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thông qua trọng tài. Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.

 Hiệu lực của điều khoản trọng tài: tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo về điều khoản trọng tài trước khi giao kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận. Trường hợp điều khoản trọng tài do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đưa vào hợp đồng theo mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung thì khi xảy ra thanh chấp, người tiêu dùng là cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp khác. [19, Điều 38]

Thứ tư là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vụ án mà bên khởi kiện là người tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây: [19, Điều 41]

  • Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện. Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.
  • Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng.
  • Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng.

Đây là một quy định có lợi cho người tiêu dùng khi mà hầu hết các giao dịch thương mại điện tử giữa các nhân, tổ chức kinh doanh hàng hoá dịch vụ và người tiêu dùng đều là các giao dịch có giá trị nhỏ. Việc áp dụng thủ tục rút gọn như vậy sẽ tiết kiệm thời gian, công sức của các bên và người tiêu dùng cũng nhanh chóng được đáp ứng yêu cầu.

Về nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại. Tòa án quyết định bên có lỗi trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. [19, Điều 42]

Về án phí, lệ phí Tòa án đối với vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thực hiện theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án. Người tiêu dùng khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình không phải nộp tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án. [19, Điều 43]

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có trách nhiệm thông báo công khai bằng hình thức phù hợp về việc khởi kiện và chịu trách nhiệm về thông tin do mình công bố, bảo đảm không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. [19, Điều 44]

Bản án, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội khởi kiện phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án và công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng bằng hình thức thích hợp. [19, Điều 45] Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

Tiền bồi thường thiệt hại trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khởi kiện vì lợi ích công cộng được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án. [19, Điều 46]

1.2.6. Trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thuộc về các cơ quan sau: Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ, cơ quan ngang Bộ khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Ủy ban nhân dân các cấp.

Đầu tiên là Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thứ hai, trách nhiệm của Bộ Công Thương [19, Điều 48]

  • Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
  • Quản lý hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội, tổ chức hòa giải; hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung theo quy định.
  • Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tư vấn, hỗ trợ và nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
  • Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nghiệp vụ phục vụ công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
  • Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo thẩm quyền.
  • Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thứ ba, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp: [19, Điều 49]

  • Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương.
  • Quản lý hoạt động về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội, tổ chức hòa giải tại địa phương.
  • Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tư vấn, hỗ trợ và nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương.
  • Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo thẩm quyền.

Hiện tại, các cơ quan Nhà nước đang trực tiếp tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng tại Việt Nam gồm có:

  • Cục quản lý cạnh tranh (Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng), thuộc Bộ Công thương.
  • Cục thương mại điện tử và công nghệ thông tin, thuộc Bộ Công thương.
  • Hệ thống đánh giá tín nhiệm website: Tín nhiệm Quốc gia được ra mắt vào ngày 15/6/2014 do Cục thương mại điện tử – Bộ Công thương cùng Công ty cổ phần Thăng Long phối hợp tổ chức.
  • Hệ thống Tiêu chuẩn trong giao dịch thương mại điện tử SafeWeb thuộc Trung tâm Phát triển thương mại điện tử (EcomViet) thuộc Cục thương mại điện tử & công nghệ thông tin – Bộ Công Thương. Tuy nhiên, Website thành viên của Safeweb hiện tại mới chỉ dừng lại ở con số hơn 20 website, trong đó phải kể đến một vài thương hiệu lớn như: pvionline.com.vn, Vietjetair.com, Giaonhan247.com,… Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Bảo vệ người tiêu dùng về giao dịch thương mại điện tử […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993