Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. Hoàn thiện quy định về áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản

3.1.1. Hoàn thiện quy định về tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự  năm 2015

Cướp tài sản là tội đặc biệt nghiêm trọng trong nhóm tội xâm phạm sở hữu bởi tính chất nguy hiểm của hành vi, không chỉ xâm phạm tới khách thể là quyền sở hữu mà còn xâm phạm tới khách thể là quyền nhân thân – một khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Bởi lẽ đó mà tội cướp tài sản đã được ghi nhận ngay từ Bộ luật hình sự đầu tiên và từ đó, hoàn thiện dần qua những lần sửa đổi. Trong pháp luật hình sự Việt Nam trước Bộ luật hình sự năm 2015, chế tài của tội cướp tài sản luôn luôn đến tử hình; thực hiện chính cách nhân đạo, Bộ luật hình sự năm 2015 đã giảm mức cao nhất của tội phạm này xuống tù chung thân (khoản 4 Điều 168).

Trong bối cảnh tình hình cướp xảy ra trên địa bàn Hải Phòng ngày càng tăng với nhiều thủ đoạn tinh tinh vi, có băng nhóm tổ chức thậm chí nhiều trường hợp thể hiện tính manh động, côn đồ, coi thường pháp luật, đòi hỏi cần có quy định chế tài hợp lý và quyết định lựa chọn hình phạt nghiêm khắc đủ sức răn đe giáo dục người phạm tội cũng như giáo dục cộng đồng ý thức tuân thủ pháp luật, thể hiện chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa, đấu tranh phòng chống loại tội này.

Để phù hợp với tình hình thực tiễn và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cướp tài sản nói riêng thì trước hết cần hoàn thiện Điều 168 Bộ luật hình sự theo hướng:  (1) đảm bảo thể hiện được đó là tội nghiêm trọng nhất trong các tội chiếm đoạt; (2) đảm bảo phân hoá Trách nhiệm hình sự và phân biệt với các tội có liên quan; (3) về kỹ thuật lập pháp phải cụ thể, rõ ràng, đảm bảo được nhận thức và áp dụng thống nhất trong thực tiễn.

Thứ nhất là về hành vi vi phạm trong mặt khách quan của tội phạm: Do tội cướp tài sản đồng thời xâm phạm quyền sở hữu và tính mạng, sức khoẻ, nên chăng chỉ những hành vi dùng vũ lực, đe đoạ dùng vũ lực  nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ để chiếm đoạt tài sản mới cấu thành tội cướp tài sản; còn những hành vi dùng vũ lực, đe đoạ dùng vũ lực không nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ để chiếm đoạt tài sản thì cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản.  Tác giả cho rằng việc phân biệt về thời gian đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc (đối với tội cướp tài sản) và sẽ dùng vũ lực (đối với tội cưỡng đoạt tài sản) theo Bộ luật hình sự hiện nay không thể hiện được mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; và vì vậy không phân hoá được Trách nhiệm hình sự giữa hai tội phạm này.  Về mặt kỹ thuật lập pháp, để hiểu thống nhất các hành vi dùng vũ lực trong mặt khách quan, cần quy định tách hành vi đó thành các điểm độc lập. Như vậy, khái niệm tội cướp tài sản sẽ cụ thể hóa các biểu hiện khách quan cụ thể của tội cướp tài sản ở mức độ nguy hiểm cao hơn. Cướp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở việc chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn: 1/ dùng vũ lực nguy hiểm cho tính mạng, sức khoẻ của người khác; 2/ đe doạ dùng vũ lực nguy hiểm cho tính mạng, sức khoẻ của người khác; 3/ dùng thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.

Thứ hai là về hậu quả của tội cướp tài sản: gồm thiệt hại về tài sản và trong nhiều trường hợp còn gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng cho thấy đã có những bất cập đối với quy định của tội phạm này tại Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 cần được nhận diện: “hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được” là chưa rõ ràng dẫn đến thiếu thống nhất trong nhận thức, thực hiện và áp dụng pháp luật. Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Thứ ba là về khách thể của tội phạm: cần quy định về khách thể tội phạm cướp tài sản cần cụ thể hơn. Theo quy định tại Điều 158 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định đó là quyền sở hữu sẽ bao gồm nội dung về quyền chiếm hữu, quyền sử dụng cũng như quyền định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu theo đúng theo quy định của pháp luật. Theo định nghĩa này thì có thể thấy rằng quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng cơ bản đó là quyền sử dụng, quyền chiếm hữu và quyền định đoạt. Theo quy định hiện hành, đối tượng tác động của tội cướp tài sản chính là tài sản. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, tài sản như vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với tội cướp tài sản cho thấy đối tượng tác động của tội phạm đa phần là các loại động sản hữu hình, đó là vật, tiền, các giấy tờ có giá; tài sản thuộc loại vô hình (quyền tài sản), các loại bất động sản khó có thể là đối tượng của tội cướp tài sản.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

3.1.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn để có cách hiểu thống nhất trong áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản

TAND tối cao cần ban hành thêm các văn bản hướng dẫn để có cách hiểu và áp dụng thống nhất pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử, đặc biệt là trong quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản, cụ thể:

Một là, Trong khi Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 chưa được sửa đổi, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với một số hành vi sau:

Hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực không nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ người bị tấn công để chiếm đoạt tài sản. Trường hợp này, cần được đánh giá như là thủ đoạn uy hiếp tinh thần để chiếm đoạt tài sản và cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 Bộ luật hình sự;

Hướng dẫn tình tiết quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 “làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được” chỉ là kết quả của hành vi dùng thủ đoạn khác, chứ không phải là kết quả của hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực.

Hai là, tại điểm a khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “có tổ chức”. Nếu chỉ quy định như vậy thì chưa đánh giá hết mức độ nguy hiểm của từng nhóm tội phạm vì có những trường hợp phạm tội theo nhóm chỉ từ 2 đến 3 người, trước khi thực hiện hành vi phạm tội cũng có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng người nhưng ở mức độ đồng phạm giản đơn, nhất thời, nhưng cũng có nhóm tội phạm có nhiều người của một tổ chức, có sự phân công và tham gia của người cầm đầu, chủ mưu (trong việc lên kế hoạch), người xúi giục (lên dây cót về mặt tình thần), có người thực hành (tuân theo mệnh lệnh), có giúp sức (với nhiệm vụ cung cấp phương tiện, tiền bạc và tiêu thụ tài sản cướp được). Tuy nhiên, hiện điểm a khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 chưa phân biệt giữa hai loại “có tổ chức’ này. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn rõ ràng các trường hợp này để quyết định hình phạt tương xứng.

Ba là, tình tiết quy định tại điểm g khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, anh toàn xã hội” vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể. Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Bốn là, về các tình tiết định khung tăng nặng được qui định tại 08 điểm ở khoản 2. Tại 03 điểm ở khoản 3 và 04 điểm ở khoản 4 của Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015, thì mức cao nhất ở khoản 4 là tù chung thân. Tại điểm c khoản 2 quy định “gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn 60 thương cơ thể từ 11% đến 30%”, tại điểm b khoản 3 quy định “gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 đến 60%” và tại điểm b khoản 4 quy định “gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên”. Như vậy, hậu quả của tội cướp tài sản ngoài xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác ra còn xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người bị hại, những vấn đề này được quy định cụ thể tại điểm c, e khoản 2; điểm b khoản 3 và điểm b khoản 4 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với tài sản có thể định lượng được, thì giá trị của tài sản đó với từng chủ sở hữu khác nhau có thể là khác nhau về tính “nghiêm trọng” nhưng lại được xem xét trong cùng một khung hình phạt là chưa phù hợp, cụ thể: Thiệt hại về tài sản tuy chỉ một hai chục triệu đồng cũng có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với gia đình có thu nhập thấp hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với đời sống của một gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hoặc số tiền đó là tiền vay mượn để điều trị bệnh. Ngược lại cũng là số tiền này thì đối với một gia đình khá giả thì nó không ảnh hướng lớn. Đối với thiệt hại phi vật chất thì càng khó để xác định thiệt hại thực tế do hành vi phạm tội gây ra. Ảnh hưởng như thế nào đối với đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đến an ninh trật tự xã hội thì bị coi là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng…. Do đó, cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết hơn hoặc khi xem xét mức độ ảnh hưởng của tội phạm, cần có cái nhìn tổng thể, toàn diện và linh hoạt.

Năm là, điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 qui định “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”, tức là chỉ cần có hành vi dùng vũ khí, thủ đoạn nguy hiểm đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác thì đã bị và có thể bị truy tố và xét xử theo khoản 2 của 61 Điều luật này. Tuy nhiên, tại điểm c khoản 2 lại qui định “gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%”. Theo quy định tại khoản 2 của Điều 168 thì người bị truy tố ở khoản này thì có mức án phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Như vậy, ngay trong quy định của điều luật đã có sự đánh đồng giữa hành vi dùng vũ khí, thủ đoạn nguy hiểm đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác (có thể chưa gây tổn hại sức khỏe cho người bị hại) với hành vi gây thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe của bị hại lên đến 30%.

Sáu là, khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015 qui định khung hình phạt là từ 07 đến 15 năm, đây là một khoảng cách quá lớn mà nhà làm luật đã phó thác hết vào sự phán quyết sáng suốt, công minh của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Thực tế cho thấy, tội cướp tài sản ngày càng liều lĩnh, manh động và hung hãn.

Người phạm tội sẵn sàng dùng hung khí đã chuẩn bị từ trước nhằm đe dọa, trường hợp bị hại chống cự lại người phạm tội sẵn sàng gây thương tích thậm chí có thể gây ra chết người. Nhưng theo qui định của luật thì người phạm tội chỉ bị truy tố, xét xử về tội cướp tài sản qui định tại khoản 4 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015. Khoản 4 của Điều này, mức cao nhất mà bị cáo phải chịu là tù chung thân, dù hành vi của bị cáo có thể gây ra cái chết thương tâm cho bị hại. Do vậy, nên chăng vẫn tăng hình phạt của tội này với mức cao nhất là tử hình? Có như vậy mới nhằm răn đe, ngăn chặn loại tội phạm nguy hiểm đang có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính manh động của loại tội này.

3.1.3. Hoàn hiện các quy định về áp dụng hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 2015 Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Thứ nhất: Hoàn thiện chế định miễn Trách nhiệm hình sự. Căn cứ miễn Trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 29 Bộ luật hình sự. Theo đó, người phạm tội sẽ được miễn Trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1, có thể được miễn Trách nhiệm hình sự nếu có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 và nếu thỏa mãn căn cứ quy định tại khoản 3 của điều luật. Quy định về miễn Trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 có mở rộng căn cứ miễn Trách nhiệm hình sự hơn các Bộ luật hình sự trước đây. Ở giai đoạn khởi tố điều tra, truy tố, nếu xuất hiện hay xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện thì cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát đều có quyền miễn Trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, sẽ phần nào khuyến khích người phạm tội tự thú, lập công chuộc tội hoặc tích cực bồi thường, khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, để xem xét có đủ điều kiện để miễn hay có thể miễn Trách nhiệm hình sự hay không đối với người phạm tội thì cần thiết phải được thẩm tra, xem xét công khai tại phiên tòa hình sự và chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền tuyên bố người phạm tội có được miễn Trách nhiệm hình sự hay không Đồng thời, cũng cần hoàn thiện quy định về điều kiện miễn Trách nhiệm hình sự tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự, theo đó bị cáo phải tự nguyên sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả mới đủ điều kiện để miễn Trách nhiệm hình sự. Như vậy, những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng do vô ý mà chưa gây thiệt hại hoặc bị hại không yêu cầu bồi thường và có đề nghị miễn Trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì bị can, bị cáo cũng không thể miễn Trách nhiệm hình sự. Điều đó đã thu hẹp phạm vi áp dụng quy định này. Vì vậy, đề nghị huỷ bỏ điều kiện “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015.

Thứ hai: Hoàn thiện quy định về mục đích hình phạt. Mục đích của hình phạt được xác định chưa rõ ràng. Theo quy định của Điều 31 Bộ luật hình sự thì “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật… giáo dục tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”. Việc vẫn coi trừng trị là mục đích chính của hình phạt đã tạo ra một chính sách sai lầm là coi nặng tính trừng trị với các biện pháp Trách nhiệm hình sự hà khắc thái quá làm giảm hiệu quả phòng ngừa. Nhận thức đó đã tạo ra một thực tiễn áp dụng pháp luật, dư luận xã hội đi ngược lại với chính sách, với quy định của pháp luật: hình phạt tử hình vẫn còn quy định trong quá nhiều tội và áp dụng trên thực tế còn nhiều; hình phạt tù được áp dụng phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ cao; các biện pháp miễn Trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, các hình phạt không phải tù, các biện pháp thay thế hình phạt ít được áp dụng trên thực tế. Các quy định của Bộ luật hình sự chưa tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện chính sách hình sự nhân đạo, nhân văn, vì con người; chính sách hình sự hướng thiện. Nhận thức xã hội nói chung, của những người áp dụng pháp luật hình sự nói riêng vẫn chưa đồng hành cùng chính sách hình sự được xác định. Việc xử lý nhân đạo, hướng thiện đối với người phạm tội vẫn chưa nhận được sự đồng tình cao của dư luận xã hội. Công lý, công bằng chưa được coi là tiêu chí cao nhất của một nền tư pháp tiến bộ. Vì vậy, cần thay đổi tư duy về mục đích của hình phạt. Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Thứ ba: Hoàn thiện điều 50 của Bộ luật hình sự về căn cứ QĐHP. Theo quy đinh hiện hành, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng Trách nhiệm hình sự để QĐHP. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phải đồng thời căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Xét về căn cứ “cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” và căn cứ “nhân thân người phạm tội” hoàn toàn có ý nghĩa định tính. Để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi cần phải dựa vào các yếu tố như tính chất quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất của hành vi khách quan bao gồm cả tính chất của phương pháp, thủ đoạn pham tội, của công cụ, phương tiện phạm tội; mức độ gây ra hoặc đe dọa gây ra cho quan hệ xã hội bị xâm hại; tính chất và mức độ lỗi; động cơ, mục đích của người phạm tội; hoàn cảnh chính trị – xã hội và nơi hành vi phạm tội được thực hiện. Để hiểu rõ hơn và đánh giá chính xác về nhân thân của người phạm tội, tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 và Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo có quy định cụ thể về việc xem xét, đánh giá như thế nào là người có nhân thân tốt, nhưng không quy định việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Do đó, khi QĐHP, Tòa án sẽ có tính “tùy nghi” cao trong việc xem xét, đánh giá, cân nhắc các căn cứ QĐHP. Vì vậy, Điều 50 Bộ luật hình sự cần bổ sung theo hướng làm rõ hơn quy định về “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”.

Thứ tư: Hoàn thiện các quy định về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS trong quyết định hình phạt

Đối với việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm Trách nhiệm hình sự thì cần có văn bản hướng dẫn để có cách hiểu và áp dụng thống nhất đối với các tình tiết như: “người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” (quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51; “dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội” (quy định tại điểm n khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015)… theo hướng cần xác định cụ thể một dấu hiệu liệt kê là một tình tiết hay khi thỏa mãn các dấu hiệu tại điểm đó mới được xem là một tình tiết.

Đối với các tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự theo hướng “mở”. Bộ luật hình sự năm 2015 đã đưa ra quy định mang tính “mở” cho việc áp dụng “có thể coi… tình tiết khác” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015). Để có cách hiểu và áp dụng thống nhất cần có văn bản hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn, việc hướng dẫn có nhiều cách, như: quy định thêm các tình tiết, hướng dẫn theo tiêu chí… Tuy nhiên, tác giả thấy rằng: Bộ luật hình sự năm 2015 đã đưa ra quy định “mang tính mở” cho chủ thể THTT áp dụng, thì việc hướng dẫn theo hướng liệt kê các tình tiết sẽ không đúng thẩm quyền (vì, chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành luật). Do vậy, để phù hợp với thẩm quyền của chủ thể hướng dẫn; phù hợp với “tính mở” của quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, thì cơ quan hướng dẫn cần đưa ra các “tiêu chí” để chủ thể áp dụng xác định biểu hiện nào là biểu hiện tích cực cho xã hội được xem là một tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự.

Thứ năm: hướng dẫn việc hiểu và áp dụng thống nhất quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Tại khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.” Với quy định nêu trên ta thấy, so với các Bộ luật hình sự trước đây, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung một quy phạm mở cho Tòa án và có lợi hơn cho người phạm tội và thể hiện sự tiến bộ trong quá trình lập pháp hình sự của Nhà nước ta. Qua đó đã đảm bảo được tính khách quan và công bằng khi cá thể hóa hình phạt đối với từng bị cáo trong một vụ án; đồng thời tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn xét xử của Tòa án đối với những trường hợp người phạm tội lần đầu là người giúp sức, có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm, nhưng bị đưa ra xét xử ở khung hình phạt nặng cùng với các đồng phạm khác. Những người này theo quy định của các Bộ luật hình sự trước đây dù họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, nhưng không thỏa mãn việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; trong trường hợp này, tòa án có thể xem xét, vận dụng các tình tiết giảm nhẹ, khoan hồng tối đa nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc “hình phạt được áp dụng phải trong khung khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khung hình phạt được áp dụng” mà không được thấp hơn hình phạt trong khung liền kề; như vậy là quá nghiêm khắc mà không thể hiện tối đa tính nhân văn của quyết định hình phạt. Tuy nhiên, từ thực tiễn nghiên cứu, áp dụng cho thấy quy định tại khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 còn bộc lộ một số bất cập, vướng mắc, gây ra nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau về “điều kiện áp dụng” và “vai trò không đáng kể”.

Đối với điều kiện được áp dụng quy định tại khoản 2 theo quy định được hiểu là độc lập hay phải thỏa mãn điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 là phải “Có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ” ? Trên thực tế trong quyết định hình phạt, hiện đang tồn tại hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự là hai trường hợp riêng biệt nên việc áp dụng mỗi khoản là tách biệt và độc lập nhau, nghĩa là họ chỉ cần có tối thiểu một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 (mà không nhất thiết phải có 2 tình tiết giảm nhẹ) và  thỏa mãn điều kiện “Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” là Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung liền kề. Quan điểm thứ hai cho rằng: Với việc bổ sung quy định khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự là căn cứ nhằm đảm bảo nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt của Tòa án. Đây trường hợp mở rộng và có mối liên hệ hữu cơ với quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, tháo gỡ được những khó khăn cho Tòa án và đảm bảo tính “tương xứng” của hình phạt so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này không được tùy tiện mà luôn phải đảm bảo nguyên tắc bắt buộc là có từ 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hay nói cách khác, người phạm tội được áp dụng khoản 2 khi phải thỏa mãn đủ các điều kiện sau: (1) Người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; (2) Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Bởi vì, chỉ riêng áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt áp dụng trong khung liền kề nhẹ hơn người phạm tội đã phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51; trong trường hợp này hình phạt họ được áp dụng còn dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khung hình phạt được áp dụng hoặc có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn nằm ở khung thứ nhất hoặc thứ hai của khung hình phạt liền kề của khung hình phạt được áp dụng hoặc họ có thể bị xử phạt mức hình phạt tối thiểu của các loại hình phạt. Do đó, trong trường hợp này, ngoài việc thỏa mãn điều kiện về phạm tội lần đầu, đồng phạm với vai trò giúp sức không đáng kể thì người phạm tội phải đảm bảo tuân thủ điều kiện bất di bất dịch (nguyên tắc quyết định hình phạt dưới khung) là có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51; có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc công bằng; tính lôgic và sự phù hợp trong QĐHP. Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Vấn đề thứ hai là xác định “vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm” đối với người giúp sức. Hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn để xác định “vai trò không đáng kể” của người giúp sức trong vụ án đồng phạm. Trong khi đó, đây là căn cứ rất quan trọng để Tòa án quyết định việc có cho người phạm tội được hưởng “một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”. Thực tế hiện nay việc nhận thức và đánh giá về tình tiết này thường dựa trên nội dung vụ án cụ thể và sự độc lập của Hội đồng xét xử mà không có hướng dẫn đưa ra từng tiêu chí cụ thể nào. Do đó, có trường hợp các vụ án có tình tiết giống nhau nhưng lại được các Tòa  áp dụng khác nhau; trong đó có tòa cho bị cáo hưởng tình tiết này, có tòa lại không áp dụng.

Từ hai vấn đề còn có cách hiểu không thống nhất ở trên, đặt ra yêu cầu TAND tối cao cần ra văn bản hướng dẫn áp dụng hình phạt thống nhất theo khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự phải trên cơ sở quy định của pháp luật và phải đảm bảo tuân theo các nguyên tắc và thống nhất. Cụ thể:

Phải tuân thủ nguyên tắc quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt; bởi lẽ quyết định hình phạt dưới khung áp dụng và trong khung liền kề nhẹ hơn đã thể hiện sự khoan hồng của pháp luật hình sự Việt Nam, do vậy đòi hỏi bị cáo phải đáp ứng được điều kiện “Có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự”;

Vì là dưới khung nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, điều này có nghĩa cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng “thủng” 2-3 khung hình phạt hoặc có thể chuyển sang hình phạt khác (nếu thuộc khoản 3); đây là quy định mở, áp dụng có lợi cho người phạm tội và hướng tới bao vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân; song vì là pháp luật hình sự nên cần có hướng dẫn quy định chi tiết và cụ thể hơn về chế định này.

Đối với vấn đề xác định thế nào là “vai trò không đáng kể”, để đưa ra một định nghĩa đầy đủ về nội dung này là không dễ dàng. Do vậy, chỉ có thể dựa trên một số tiêu chí để xác định “vai trò không đáng kể” của người giúp sức trong vụ án đồng phạm một cách định tính như: Cần xem xét tính chất vụ án, hành vi khách quan của bị cáo, trên cơ sở đó đánh giá mức độ hành vi cụ thể của họ trong toàn bộ vụ án; xác định vai trò “mắt xích” của người giúp sức đó không quan trọng và thấp nhất trong tất cả các đồng phạm khác của vụ án; hành vi mà họ thực hiện không quyết liệt, không mong muốn hậu quả xảy ra hoặc đã hạn chế hậu quả xảy ra ở mức thấp nhất hoặc đã khắc phục hậu quả ở mức tối đa nhất…

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản tại Hải Phòng Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

3.2.1. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ kiểm soát, tòa án, tư pháp trên địa bàn

Để Áp dụng hình phạt đúng đắn về tội cướp tài sản nhằm bảo đảm đủ nghiêm minh, thể hiện tính răn đe, giáo dục cải tạo người phạm loại tội nguy hiểm này, cần nâng cao năng lực người tiến hành tố tụng, nhất là đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân- những người trực tiếp thực hiện việc Áp dụng hình phạt trên thực tế. Nâng cao năng lực người tiến hành tố tụng trước hết là nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ để họ có thể nắm bắt đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật, các hướng dẫn áp dụng pháp luật; sử dụng hiệu quả kiến thức nhận được vào hoạt động thực tế đối với từng vụ án cụ thể. Chính sách trừng trị kết hợp với khoan hồng, thực hiện chính sách hình sự nhân đạo, hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa… cần thấm đẫm trong nhận thức và quan điểm của mỗi người tiến hành tố tụng, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, những người thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ cao cả bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.

3.2.2 Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, xử lý nghiêm minh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn

Hoạt động Áp dụng hình phạt thuộc về tòa án, tuy nhiên, để Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản đúng đắn thì Hội đồng xét xử phải căn cứ vào hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đề nghị truy tố tội danh và hình phạt do cơ quan tiến hành tố tụng (VKS và Cơ quan điều tra) trước đó thực hiện. Do đó, để nâng cao chất lượng Áp dụng hình phạt đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả công tác phối hợp – chế ước giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng.

Quan hệ phối hợp – chế ước giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát và Tòa án trong điều tra, truy tố, xét xử tội cướp tài sản được hiểu là mối quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định để hỗ trợ, chế ước lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau khi giải quyết các vụ án cướp tài sản. Mối quan hệ này được hình thành một cách tất yếu, thể hiện bằng các hình thức và cách thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của pháp luật thông qua hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng được nhà nước trao quyền pháp lý nhằm giải quyết vụ án cướp tài sản một cách khách quan, công bằng và đúng người, đúng tội. 

Quan hệ phối hợp – chế ước này được dựa trên nền tảng là Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát ND, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự đã được liên ngành các cơ quan tư pháp trung ương ban hành là căn cứ pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện quan hệ phối hợp chế ước giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng. Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Thực tiễn giải quyết các vụ án cướp tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian qua đã cho thấy sự phối hợp – chế ước rất tốt giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp vẫn tồn tại nhiều nhược điểm cần khắc phục, cụ thể như ĐTV không chủ động trao đổi với KSV, Kiểm sát viên không nắm được đầy đủ về vụ án, bị lúng túng, đề xuất xử lý không chuẩn xác, dẫn đến Tòa án không thể Áp dụng hình phạt mà phải yêu cầu phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ vì không có căn cứ chưng minh hành vi phạm tội. Nhiều vụ án khó xác định tội danh (giữa cướp tài sản với cướp giật tài sản hay cưỡng đoạt tài sản, hoặc giết người cướp tài sản hay cướp tài sản có tình tiết tăng nặng là làm chết người…), giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng có quan điểm khác nhau và đều giữ nguyên tắc bảo vệ quan điểm của mình đến cùng, thiếu sự phối hợp, dẫn đến vụ án bị kéo dài. Do đó, nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp, xử lý nghiêm minh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp:

Thứ nhất là tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án cướp tài sản, trên cơ sở đó có được một Áp dụng hình phạt đúng đắn, đồng thời vừa có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau thông qua đó giữa các chủ thể tiến hành tố tụng có thể phát hiện ra những thiếu sót, hạn chế để khắc phục và bổ sung cho nhau nhằm loại bỏ những khuyết điểm và hạn chế đến mức thấp nhất làm oan người vô tội.

Thứ hai là cần thống nhất giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng về cách hiểu và quan điểm áp dụng thống nhất pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án cướp tài sản. Thực tế khi có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ thì việc áp dụng pháp luật được thống nhất và giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không làm oan người vô tội.

Thứ ba: cần xây dựng quy chế phối hợp, trao đổi thông tin về kết quả điều tra, xử lý tội phạm trong đó có tội cướp tài sản giữa Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, định kỳ họp trao đổi, thống nhất những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ và quyết định hình phạt, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án, tránh tình trạng trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn tới kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Ngoài ra, Viện kiểm sátND cần phối hợp với Tòa án tăng cường xét xử lưu động các vụ án cướp tài sản tại các khu vực dân cư để nâng cao tác dụng giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân.

Ngoài ra cũng cần có giải pháp nâng cao năng lực người tiến hành tố tụng, để người tiến hành tố tụng tích luỹ kinh nghiệm nghề nghiệp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Các cơ quan liên ngành và mỗi cơ quan tiến hành tố tụng cần thường xuyên trao đổi rút kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ để mỗi người tiến hành tố tụng có thể có thêm kinh nghiệm công tác của mình thông qua trao đổi, trải nghiệm của những người tiến hành tố tụng khác; thế hệ người có thâm niên, kinh nghiệm công tác “truyền nghề” cho các thế hệ sau… Xây dựng, rèn luyện tạo ra được bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ người tiến hành tố tụng cũng có ý nghĩa quan trọng trong Áp dụng hình phạt nói chung, Áp dụng hình phạt về tội cướp tài sản nói riêng. Để đảm bảo áp dụng pháp luật đúng đắn, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải có bản lĩnh vượt qua được những sức ép từ bên ngoài cũng như trong hệ thống, độc lập thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật; vượt qua được những cám dỗ của cuộc sống liên quan đến nghề nghiệp để vô tư, khách quan trong điều tra, truy tố, xét xử.

Kết luận, kiến nghị chương 3 Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Kết luận

Trong những năm qua, việc nghiên cứu các giải pháp để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kế thừa những kết quả nghiên cứu đó, các nội dung nghiên cứu trong chương này đóng góp xây dựng làm phong phú thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn về Áp dụng hình phạt. Từ những luận giải đã được trình bày, có thể khái quát một số luận điểm như sau:

Thứ nhất: Nghiên cứu về yêu cầu và giải pháp bảo đảm Áp dụng hình phạt đúng cần có cách tiếp cận hệ thống, tổng quát. Mỗi cách tiếp cận có những ý nghĩa, giá trị lý luận và thực tiễn khác nhau để xác định chính xác những yêu cầu, những giải pháp thực hiện các yêu cầu đó trong hoạt động xét xử.

Thứ hai: Yêu cầu bảo đảm Áp dụng hình phạt đúng xuất phát từ lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự, mục đích là nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.

Thứ ba: Nghiên cứu các yếu tố tác động bảo đảm Áp dụng hình phạt đúng như chất lượng pháp luật, năng lực người Áp dụng hình phạt, tính độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, các hoạt động điều tra, truy tố, chất lượng án lệ, dư luận xã hội và bảo đảm quyền lợi, chế độ cho Thẩm phán, Hội thẩm để xác định những giải pháp về hoàn thiện một số quy định pháp luật hình sự.

Thứ tư: Trong xét xử, khi Áp dụng hình phạt Tòa án phải xem xét, cân nhắc tính hiệu quả của việc thực hiện các chính sách hình sự đối với người phạm tội, tính khả thi của việc chấp hành hình phạt đã tuyên. Luôn phải bảo đảm tính quyết định xã hội của hình phạt trong Áp dụng hình phạt và hội nhập quốc tế.

Thứ năm: Xuất phát từ kết quả nghiên cứu về những hạn chế, bất cập trong thực tiễn xét xử và các yêu cầu bảo đảm Áp dụng hình phạt đúng của Tòa án, để luận giải và có những đề xuất, kiến nghị các giải pháp khoa học, sát với thực tiễn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả Áp dụng hình phạt của Tòa án trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay của nước ta.

Kiến nghị Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đạt được trong phần kết luận, tác giả xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất: kiến nghị với cơ quan lập pháp xem xét và có kế hoạch xây dựng, sửa đổi Bộ luật hình sự năm 2015 đối với tội danh cướp tài sản và các quy định về Áp dụng hình phạt làm cơ sở pháp lý giúp Hội đồng xét xử có thể lựa chọn và quyết định hình phạt phù hợp với tính chất và hành vi của người phạm tội, có một bản án đúng người đúng tội, đủ sức răn đe, giáo dục cộng đồng, không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan sai người vô tội.

Thứ hai: Kiến nghị với Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành các văn bản hướng dẫn cách hiểu thống nhất nhiều tình tiết để giúp Hội đồng xét xử thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật để lựa chọn hình phạt cho phù hợp.

Thứ ba: Kiến nghị với Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng sớm xây dựng và ban hành Nghị quyết hỗ trợ các cơ quan tư pháp trong đó có tòa án để có những khoản kinh phí động viên kịp thời các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong quá trình Áp dụng hình phạt cho người phạm tội,

Thứ tư: Kiến nghị với Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng thường xuyên tổ chức các buổi tổng kết, đúc rút kinh nghiệm xét xử, tạo điều kiện cho các cán bộ Tòa án tham gia các khóa học, hội thảo trong và ngoài nước để có thể trau dồi trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét xử. Bên cạnh đó, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp lý và chuyên môn nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân, đáp ứng nhu cầu biểu quyết, độc lập trong Áp dụng hình phạt dành cho người phạm tội.

KẾT LUẬN Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

Áp dụng hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn Hải Phòng. Luận văn đã giải quyết tương đối và cơ bản một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản. Chương 1 của Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận như: khái niệm, các căn cứ Áp dụng hình phạt dựa trên những quy định chung về QĐHP và quy định tại điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cướp tài sản, dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự, ý nghĩa của QĐHP đối với tội cướp tài sản trên phương diện chính trị, xã hội, thực tiễn và pháp lý. Từ những vấn đề lý luận, trong chương 2 của Luận văn, tác giả đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về QĐHP đối với tội cướp tài. Ngoài ra các quy định pháp luật về Áp dụng hình phạt trong trường hợp đặc biệt như miễn hình phạt, Áp dụng hình phạt dưới mức nhẹ nhất của khung, Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng được bình luận phân tích để tìm ra những bất cập còn tồn tại làm cơ sở cho đề xuất giải pháp hoàn thiện tại chương 3. Thực tiễn hoạt động Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản xảy ra tại địa bàn thành phố Hải Phòng được xem xét một cách toàn diện thông qua số liệu báo cáo thống kê tình hình xét xử các vụ án cướp tài sản và hình phạt được lựa chọn áp dụng đối với các bị cáo phạm tội này trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2021. Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác xét xử, Áp dụng hình phạt đúng người đúng tội, đáp ứng yêu cầu của đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng thì vẫn còn tồn tại nhiều vẫn đề bất cập trên thực tiễn QĐHP như chưa nhận thức và vận dụng đúng các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự, chưa xem xét một cách toàn diện các tình chất mức độ nguy hiểm của hành vi, vai trò của các bị cáo trong đồng phạm tội cướp tài sản… Những tồn tại này là do tồn tại bất cập trong quy định pháp luật về Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản, những yếu kém về trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ kiểm sát, tòa án, tư pháp trên địa bàn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa nêu cao được sự phối hợp giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng và chưa chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật trong nhân dân. Trên cơ sở chỉ ra những bất cập, nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên, tại chương 3 tác giả đã đề xuất nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật và nhóm các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động Áp dụng hình phạt. Tin tưởng rằng việc triển khai áp dụng đồng bộ hệ thống các giải pháp để trên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trong tình hình mới. Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản tại Hải Phòng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993