Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Các quy định về áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản theo Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 – thực tiễn áp dụng tại Hải Phòng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
Nội dung chính
2.1 Các quy định về áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản theo Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi năm 2017)
2.1.1 Quy định hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi năm 2017)
Cơ sở pháp lý đầu tiên của Áp dụng hình phạt là các quy định của Bộ luật hình sự về Hệ thống hình phạt, bao gồm các hình phạt được quy định và điều kiện áp dụng từng loại hình phạt đó. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định. Hệ thống hình phạt là một chỉnh thể bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung được Nhà nước quy định trong Bộ luật hình sự và được sắp xếp theo trình tự và có cơ cấu nhất định, liên kết với nhau, tương ứng với tính chất, mức độ từng loại tội phạm. Có thể coi Hệ thống hình phạt là những biện pháp phản ứng của Nhà nước đối với những hành vi phạm tội. Cơ sở pháp lý đầu tiên của Áp dụng hình phạt là các quy định của Bộ luật hình sự về Hệ thống hình phạt, bao gồm các hình phạt được quy định và điều kiện áp dụng từng loại hình phạt đó. Hệ thống hình phạt có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Khi Áp dụng hình phạt Tòa án phải tuân thủ các điều kiện, phạm vi, giới hạn áp dụng của từng loại hình phạt mà Bộ luật hình sự quy định. Hệ thống hình phạt quy định không chỉ đối với thể nhân và pháp nhân thương mại phạm tội nói chung, mà đặc biệt là quy định riêng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi, đường lối xử lý đối với từng loại tội phạm và đối tượng phạm tội.
Đối với thể nhân phạm tội, Điều 32 Bộ luật hình sự quy định có 7 loại hình phạt chính được sắp xếp theo trật tự từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng và 7 loại hình phạt bổ sung. 7 loại hình phạt chính gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. 7 loại hình phạt bổ sung gồm:
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội, Điều 33 Bộ luật hình sự quy định có 3 loại hình phạt chính được sắp xếp theo trật tự từ hình 78 phạt nhẹ đến hình phạt nặng và 3 loại hình phạt bổ sung. Ba loại hình phạt chính gồm: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (tử hình). Ba loại hình phạt bổ sung gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính. Mỗi loại hình phạt đều được quy định điều kiện áp dụng, thời hạn áp dụng và Toà án có trách nhiệm lựa chọn theo điều kiện và trong phạm vi quy định đó.
Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:
2.1.2 Quy định về áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi năm 2017)
2.1.2.1 Quy định của Bộ luật hình sự làm căn cứ để áp dụng hình phạt
Theo quy định hiện hành, về mặt cấu trúc, tội cướp tài sản được chia thành 5 khoản với hình phạt chính là phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình phạt phụ bổ sung là phạt tiền, quản, chế, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tịch thu tài sản. Khi QĐHP đối với tội cướp tài sản, Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, căn cứ vào tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân người phạm tội để quyết định mức hình phạt cho người phạm tội trong phạm vi khung hinh phạt đã xác định trước đó. Năm khung hình phạt của tội cướp tài sản gồm: Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
- Quy định phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.
- Quy định hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
Phạm tội có tổ chức. Phạm tội có tổ chức là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội cướp tài sản và có sự thống nhất với nhau về ý chí, có sự cấu kết chặt chẽ với nhau trong quá trình phạm tội. Trong đó có một hoặc một số người thực hành; và có thể có người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, thì phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là: có từ năm lần trở lên phạm tội cướp tài sản (có thể là phạm tội nhiều lần; đã bị kết án về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích mà còn phạm tội cướp tài sản; hoặc cả phạm tội nhiều lần và đã bị kết án về tội cưới tài sản, chưa được xóa án tích mà còn phạm tội cướp tài sản.), trong đó có lần đã bị xét xử nhưng chưa được xóa án tích, hoặc chưa lần nào bị xét xử và chưa lần phạm tội nào hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% là trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội cướp, người phạm tội đã tấn công người bị hại hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản hoặc để tẩu thoát và đã gây cho họ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe với tỷ lệ thương tật nêu trên. Người bị gây thương tích có thể là người bị cướp tài sản hoặc người khác như người bắt cướp, người bị bắt làm con tin khi tháo chạy…Các tình tiết “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% (từ 31% đến 60%; từ 61% trở lên )” đều là những tình tiết định khung hình phạt của tội cướp tài sản đã từng được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2009. Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về một số quy định tại Chương “các tội xâm phạm sở hữu” Bộ luật hình sự năm 1999, thì “gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng và thiệt hại phi vật chất. Trong đó, thiệt hại về sức khỏe không bao gồm thiệt hại quy định tại điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 và điểm b khoản 4 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, có thể hiểu thương tích do hành vi phạm tội gây ra trong các trường hợp quy định tại điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 và điểm b khoản 4 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 là những hậu quả trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Sử dụng vũ khí (là sử dụng một trong những loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 để thực hiện hành vi cướp tài sản, bao gồm: vũ khí quân dụng; sung săn; vũ khí thô sơ; vũ khí thể thao và các loại vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự), phương tiện nguy hiểm (là sử dụng công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt); vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công) hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác (quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự là ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm để thực hiện tội cướp tài sản, người phạm tội có thể dùng thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị tấn công hoặc những người khác như sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe; dùng dây chăng qua đường để làm cho nạn nhân đi mô tô, xe máy vấp ngã để cướp tài sản…
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai triệu đồng là trường hợp cướp tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai triệu đồng. Việc xác định giá trị tài sản đối với tội cướp tài sản cần chú ý một số điểm sau đây:
Giá trị tài sản bị cướp được xác định theo giá trị thị trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị cướp. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi cướp có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quản của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi cướp tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị xâm phạm (giá trị bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị cướp tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi cướp.
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi (là người chưa đủ 16 tuổi. Việc xác định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật), phụ nữ mà biết là có thai (được xác định bằng các chứng cứ chứng minh là người phụ nữ đó đang mang thai, như: bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc bị cáo nghe được, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai), người già yếu (theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao thì người già yếu là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ đủ 60 tuổi nhưng thường xuyên đau ốm) hoặc người không có khả năng tự vệ (là người đang trong thể trạng yếu đuối, bất lực về thể chất hoặc tinh thần, người bị bệnh tật, người đang say ngủ, người đang ở trong tình trạng không thể chống đỡ hoặc không thể tự bảo vệ mình được…). Đây là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản của những người bị hại do độ tuổi, mang thai hoặc già yếu, bệnh tật mà không có khả năng tự vệ hoặc tuy có nhưng khả năng tự vệ không cao.
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
- Tái phạm nguy hiểm.
Quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. Trong đó: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp tài sản. Tình tiết này được áp dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của thiên tai, dịch bệnh hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã hội trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh.
Quy định hình phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; Làm chết người; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Trong đó:
Làm chết người là trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội cướp, người phạm tội đã tấn công người bị hại hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản hoặc để tẩu thoát và đã gây cái chết cho họ. Theo chúng tôi, thì lỗi trong trường hợp này là lỗi vô ý lởi lẽ, nếu cố ý gây ra cái chết cho người bị hại trong khi thực hiện hành vi cướp tài sản và tội giết người.
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Đây là những tình tiết mới được quy định ở tội cướp tài sản. Trong đó, tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố trong thời gian từ khi nước nhà bị xâm lược cho tới khi hành động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội cướp tài sản trường hợp người phạm tội dựa vào các hoàn cảnh nêu trên để thực hiện tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi cướp tài sản trong trường hợp này phụ thuộc vào tính chất cảu hoàn cảnh chiến tranh; tính chất, mức độ cảu tình trạng khẩn cấp.
Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản, thì tại khoản 5 Điều 168 Bộ luật hình sự quy định người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Bộ luật hình sự, thì chuẩn bị phạm tội cướp tài sản là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 6 Điều 168 Bộ luật hình sự là người phạm tội cướp còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, so với quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 2009, thì quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 có một số điểm mới sau:
Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả nghiêm trọng” và bổ sung các tình tiết sau đây làm tình tiết định khung hình phạt tại khoản 2: phạm tội đói với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có tahi, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” và bổ sung tình tiết “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” làm tình tiết định khung hình phạt tại khoản 3.
Bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và bổ sung tình tiết “Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% trở lên; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh” làm tình tiết định khung hình phạt tại khoản 4. Đồng thời bỏ hình phạt tử hình tại khoản 4 Điều 168 Bộ luật hình sự.
Quy định mới “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
2.1.2.2. Các quy định về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ làm căn cứ để áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Khi áp dụng quyết định hình phạt, theo quy định tại điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, ngoài căn cứ vào các quy định phần chung của Bộ luật hình sự và quy định tội phạm cụ thể của tội danh cướp tài sản, căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, căn cứ vào nhân thân người phạm tội thì một trong những căn cứ có ảnh hưởng tới quyết định hình phạt mà Hội đồng xét xử phải cân nhắc và xem xét chính là các tình tiết tặng nặng và giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự.
BLHS năm 2015 kế thừa, hoàn thiện, bổ sung những điểm mới các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn để đảm bảo việc áp dụng mang tính trừng phạt, răn đe; nhưng đồng thời mang tính giáo dục, cảm hóa đối với người phạm tội. Hiện Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 22 (hai mươi hai) tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 51; và 15 (mười lăm) tình tiết tăng nặng Trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 52.
Giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự là các tình tiết khác nhau về tội phạm, các tình tiết về nhân thân của người phạm tội đã được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự hoặc chưa quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng được Tòa án xem xét áp dụng với ý nghĩa làm giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án và giải thích rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Tuy nhiên, có những tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với mọi tội phạm như quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; có những tình tiết được Tòa án coi là tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là những tình tiết không bắt buộc áp dụng đối với mọi tội phạm mà chỉ được Tòa án xem xét áp dụng đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể. Bên cạnh việc kế thừa các quy định, mở rộng các tình tiết giảm nhẹ, thì Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “mang tính mở” cho chủ thể áp dụng pháp luật tìm ra những biểu hiện tích cực cho đời sống xã hội của người phạm tội khi áp dụng hình phạt “Khi QĐHP, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi vào trong bản án” (khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015). Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Tăng nặng Trách nhiệm hình sự là các tình tiết khác nhau về tội phạm, các tình tiết về nhân thân người phạm tội đã được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự được Tòa án xem xét áp dụng với ý nghĩa làm tăng nặng Trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án. Bộ luật hình sự quy định các tình tiết tăng nặng Trách nhiệm hình sự mang tính bắt buộc đối với mọi tội phạm. Tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết đã được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự mà không được phép tự áp dụng các tình tiết khác không được quy định trong Bộ luật hình sự là tình tiết tăng nặng Trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án. Khi các tình tiết trong Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì Tòa án cũng không được phép áp dụng các tình tiết đó là các tình tiết tăng nặng Trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án. Đối với tội cướp tài sản thì các tình tiết phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh được quy định là tình tiết tăng nặng (tương ứng với khoản 1, khoản 2, khoản 8, khoản 9 khoản 11 của Điều 52 Bộ luật hình sự) nhưng đồng thời cũng là tình tiết dấu hiệu định khung hình phạt được quy định tại ĐIều 168 Bộ luật hình sự, do đó khi QĐHP đối với tội cướp tài sản thì Hội đồng xét xử không được phép áp dụng các tình tiết này làm các tình tiết tăng nặng.
2.1.3. Áp dụng đối với tội cướp tài sản trong trường hợp đặc biệt Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Theo quy định hiện hành của Bộ luật hình sự và thực tiễn xét xử thì Áp dụng hình phạt trong các trường hợp đặc biệt như miễn Trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, QĐHP nhẹ hơn quy định của pháp luật.
Thứ nhất: Miễn Trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự được hiểu là việc không buộc người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu Trách nhiệm hình sự mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, do các Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng khi có đủ căn cứ pháp lý. Chế định miễn Trách nhiệm hình sự không phải là hình phạt, là quy định hết sức quan trọng mang tính nhân đạo và là chính sách hình sự khoan hồng của Nhà nước đối với người đã thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Hiện nay theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, có hai loại căn cứ miễn Trách nhiệm hình sự, là chế định mà các Cơ quan tiến hành tố tụng đều có thể áp dụng. Khi có đủ căn cứ miễn Trách nhiệm hình sự cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự ở tại giai đoạn tố tụng nào thì Cơ quan tiến hành tố tụng giai đoạn đó có thể xem xét và quyết định miễn Trách nhiệm hình sự. Căn cứ để miễn Trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 29 Bộ luật hình sự.
Khi QĐHP đối với tội cướp tài sản, trong số các căn cứ được miễn Trách nhiệm hình sự thì Tòa án bắt buộc phải miễn Trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trong trường hợp họ tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, được quy định ở Điều 16 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định các căn cứ, các trường hợp mà Tòa án có thể miễn Trách nhiệm hình sự cho người phạm tội cướp tài sản khi có một trong các căn cứ được quy định ở khoản 2 và khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự, như: “do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; trước khi bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có công hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận” [1].
Thứ hai: Miễn hình phạt. Miễn hình phạt đối với cá nhân phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 59 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo khoa học Luật hình sự thì có thể hiểu “miễn hình phạt là không buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện”. Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 54 và Điều 59 Bộ luật hình sự thì người phạm tội cướp tài sản có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp có đủ 3 điều kiện sau đây: (1) có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; (2) phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể; (3) đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự [1]. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Thứ ba: QĐHP nhẹ hơn quy định của pháp luật. Thông thường, khi QĐHP đối với người bị kết tội cướp tài sản, Hội đồng xét xử sẽ lựa chọn một hình phạt trong phạm vi hình phạt được thể hiện trong các khung khác nhau tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nếu Tòa án tuyên cho họ một hình phạt ở mức thấp nhất khung hình phạt thì hình phạt đó vẫn còn quá nghiêm khắc. Trong trường hợp này, luật cho phép Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất là hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định ở khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự quy định Tòa án cũng có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể mà cũng không quy định bắt buộc phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như quy định ở khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Tại khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự quy định trường hợp khi có đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự nhưng điều luật lại chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt về tội đang xét xử là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật thì Tòa án có thể QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc có thể chuyển sang một hình phạt thuộc loại nhẹ hơn và lý do của việc giảm nhẹ Tòa án phải ghi rõ trong bản án. Có thể nói, quy định về QĐHP nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự có ý nghĩa quan trọng, tạo ra khả năng linh động cho các Tòa án trong trường hợp hình phạt trong khung không đáp ứng được việc tuyên hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, khắc phục được hiện tượng cứng nhắc, máy móc, hình thức trong QĐHP. Đồng thời, nó là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị cáo khi họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Thứ tư là QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cướp tài sản
So với Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi phạm tội” thay cho thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” nhằm cụ thể hóa và thống nhất về độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội. QĐHP đối với người dưới 18 tuổi là một trường hợp QĐHP đặc biệt. Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chỗ, hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được giảm nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có tình tiết khác tương đương và mức giảm nhẹ phụ thuộc mức tuổi của người phạm tội. Đối với tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 của Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo Điều 12 Bộ luật hình sự chủ thể của tội cướp tài sản là người từ đủ 14 tuổi trở lên. Khi QĐHP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cướp tài sản, Tòa án phải tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015, cụ thể là: Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Việc truy cứu Trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết. Khung cao nhất của tội cướp là chung thân thì chỉ được QĐHP không quá 18 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù quy định tại điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015. Không áp dụng hình phạt phụ bổ sung được quy định tại khoản 6 Điều 168 Bộ luật hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội cướp tài sản.
Người dưới 18 tuổi phạm tội cướp tài sản không thuộc trường hợp được miễn Trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 92 Bộ luật hình sự năm 2015 trừ trường hợp là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án cướp tài sản. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Với mục đích cao nhất là giáo dục, khoan hồng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nên khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phải dựa cơ sở tổng hòa các quy định tại Chương XII về những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các quy định khác của Bộ luật hình sự để đảm bảo nguyên tắc có lợi nhất. Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thông thường thì khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, Tòa án chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn sau đó quyết định mức hình phạt ở khung hình phạt được áp dụng theo đúng quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi tại Chương XII Bộ luật hình sự.
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản tại Hải Phòng Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Hải Phòng là thành phố cảng lớn nhất ở miền Bắc, một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt, hàng không trong nước và quốc tế. Với diện tích tự nhiên là 1.507,57 km2, tính đến tháng 12/2021, dân số Hải Phòng là 2.053.493 người, trong đó dân cư thành thị chiếm 45,9% và dân cư nông thôn chiếm 54,1%, là thành phố đông dân thứ 3 ở Việt Nam, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh [3]. Cùng với xu thế đi lên của đất nước, biết phát huy và tận dụng những lợi thế của mình, những năm gần đây, Hải Phòng đã từng bước chuyển mình, đạt nhiều thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) giai đoạn 2021 của Hải Phòng đạt 12,38% dẫn đầu cả nước và là một trong hai địa phương có tăng trưởng đạt hai con số. [4]
Tuy nhiên, đi liền với sự phát triển kinh tế thì thành phố Hải Phòng cũng phải đương đầu với nhiều vấn đề xã hội phức tạp, đó là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm, nổi bật là các tội xâm phạm sở hữu, đặc biệt là tội cướp tài sản. Các đối tượng phạm tội tổ chức thành băng nhóm, có tính chất chuyên nghiệp, dùng vũ khí, phương tiện nguy hiểm, đôi khi manh động, côn đồ, không chỉ gây thiệt hại lớn về vật chất cho xã hội mà còn gây thương tích hoặc thâm chí giết người, từ đó gây mất trật tự an ninh, gây hoang mang trong đời sống nhân dân. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố Hải Phòng có nhiều tội phạm từ trộm cắp, cướp giật ban đầu nhưng sau đó các đối tượng đã dùng vũ lực nhằm giữ tài sản hoặc chống trả trên đường tẩu thoát đã làm chuyển hóa tội phạm sang tội cướp, từ đó góp phần làm cho số lượng tội phạm này gia tăng.
Nhận thức được tính chất nguy hiểm của tội phạm, quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ thành phố Hải Phòng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, thời gian qua các Cơ quan tiến hành tố tụng đã kịp thời điều tra, phá nhiều băng nhóm cướp nguy hiểm, truy tố và xét xử trước pháp luật với những hình phạt thích đáng cho người phạm tội, thể hiện trên những kết quả đạt được sau.
2.2.1.Những kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp
Thứ nhất là: các vụ cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã được các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện, khởi tố và xét xử tại Tòa án.
Theo số liệu báo cáo thống kê hàng năm (từ năm 2018 đến năm 2021) của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng, số vụ án và số bị cáo bị tòa án xét xử về tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng có những diễn biến như sau:
Bảng 1. Thống kê số vụ thụ lý xét xử tội cướp tài sản trong sự so sánh với tổng vụ án tội phạm chung trên địa bàn thành phố Hải Phòng (2018-2021). Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Tính từ năm 2018 đến năm 2021 Tòa án nhân dân ở cả hai cấp thuộc thành phố Hải Phòng đã xét xử sơ thẩm tổng số 385 vụ án với 668 bị cáo về tội cướp tài sản [6], [7], [8], [9]. Trung bình các vụ cướp tài sản được xét xử chiếm khoảng 19,62% tổng số các vụ án hình sự về tội phạm nói chung xảy ra trên địa bàn thành phố. Hàng năm, đã giải quyết khoảng 96% số vụ án thụ lý, xét xử trong thời hạn luật định, nhiều vụ án được xét xử nhanh . Các vụ án đã xét xử đều đảm bảo tính công khai, dân chủ, bình đẳng, khách quan, không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, chất lượng xét xử được giữ vững. Các phán quyết của Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét một cách toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án nên đã đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự tiếp tục được nâng lên. Nghiên cứu kết quả xét xử vụ án về tội cướp tài sản do các Tòa án nhân dân hai cấp xét xử từ năm 2018 đến năm 2021, tác giả thấy rằng về cơ bản các Tòa án nhân dân áp dụng đúng quy định của Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 về định tội theo khoản cơ bản cũng như theo các khoản tăng nặng được quy định. Hầu hết các vụ án về tội cướp tài sản không bị kháng cáo, kháng nghị; trong trường hợp bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì được Tòa án cấp phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án về tội danh cũng như khung hình phạt áp dụng .[9]
Thứ hai là Hội đồng xét xử đã quyết định hình phạt cho các bị cáo phạm tội cướp tài sản một cách công bằng, nghiêm minh, phù hợp với pháp luật và thể hiện được ý nghĩa, mục đích của hình phạt.
Bảng 2. Kết quả quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Thực tiễn QĐHP của Tòa án nhân dân hai cấp tại Thành phố Hải Phòng từ năm 2018 đến năm 2021 cho thấy khi QĐHP, Hội đồng xét xử đã căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự phần chung, quy định vào điều 168 Bộ luật hình sự, cũng như căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân người phạm tội để áp dụng mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội.
Do cướp tài sản là tội rất nghiêm trọng (khoản 1, khoản 2) hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3, khoản 4), cho nên đại đa số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù. Như số liệu thống kê bảng trên chúng ta thấy rằng, trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021, Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hải Phòng đưa ra xét xử 668 bị cáo về tội cướp tài sản [6], [7], [8], [9]. Kết án và QĐHP đối với 668 bị cáo, trong đó mức hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù (theo khoản 1 Điều 168) được QĐHP cho 372 bị cáo; mức hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm (theo khoản 2 Điều 168) QĐHP cho 136 bị cáo; mức hình phạt từ trên 15 năm đến 20 năm (theo khoản 2 Điều 168), QĐHP cho 68 bị cáo và mức hình phạt tù chung thân (theo khoản 4 Điều 168) được quyết định cho 30 bị cáo [9]. Ngoài ra có nhiều bị cáo phạm tội cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội lần đầu hoặc có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đã được quyết định theo mức thấp nhất của khung do đó có 39 bị cáo được QĐHP dưới 3 năm tù và 34 bị cáo được cho hưởng án treo. Hình phạt bổ sung cũng được áp dụng cho 160 bị cáo và chủ yếu là hình phạt tiền .[9]
Có thể đánh giá, về cơ bản hoạt động QĐHP đối với tội cướp tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã đạt được hiểu thành tưu nhất định. Các vụ án được đưa ra xét xử một cách nhanh chóng, kịp thời, công khai, các hình phạt được HĐXX lựa chọn trên cơ sở căn cứ vào quy định hiện hành của Bộ luật hình sự năm 2015, cân nhắc tới tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân người phạm tôi, các tình tiết tăng nặng, giảm Trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp, đúng pháp luật, bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng, đủ sức trừng trị, giáo dục người phạm tội, răn đe giáo dục cộng đồng ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời tạo niềm tin trong nhân dân, đáp ứng tốt yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với tội cướp tài sản trong tình hình mới. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
2.2.2 Một số hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
2.2.2.1.Một số hạn chế, vướng mắc
Mặc dù hoạt động Áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đối với tội cướp tài sản trong thời gian qua đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng qua tổng kết thực tiễn công tác xét xử cho thấy hoạt động Áp dụng hình phạt đối với tội cướp tài sản vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc, từ đó làm giảm đi ý nghĩa của hình phạt. Thứ nhất: Việc áp dụng các căn cứ Áp dụng hình phạt trong một số vụ án chưa chính xác. Nhiều trường hợp còn lúng túng trong việc áp dụng các tình tiết tăng nặng như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp. Áp dụng không đúng một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tình tiết phạm tội có tính chất côn đồ, tình tiết phạm tội nhiều lần).
Ví dụ: Tại bản án sơ thẩm số 17 ngày 15/7/2018 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, Hải Phòng, Hội đồng xét xử đã áp dụng điểm d, khoản 2 Điều 133; điểm g khoản 1 Điều 48 xử phạt bị cáo Phạm Văn A 8 năm 6 tháng tù về tội cướp tài sản. Tuy nhiên, ở vụ án này, bị cáo A có tiền án vào năm 2017, khi đó Tuấn chưa đủ 16 tuổi. Do vậy, Tòa sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 là không đúng, vì theo khoản 6 Điều 69 Bộ luật hình sự: “Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”. Tòa sơ thẩm vận dụng tình tiết tăng nặng nói trên là không đúng quy định của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng có thẩm quyền phúc thẩm đã giảm án cho bị cáo chỉ còn 7 năm 6 tháng tù (trích lục hồ sơ vụ án Phạm Văn A phạm tội cướp tài sản tại phòng lưu trữ hồ sơ Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng). Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Việc nhận thức, đánh giá và áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng vẫn còn một số trường hợp áp dụng không đúng hoặc không áp dụng, tuy sai sót không nhiều nhưng đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc cá thể hóa hình phạt.
Ví dụ: Đầu tháng 8/2020, Đỗ Văn Thức (cư trú tại số 218 Ngô Gia Tự, Hải An, Hải Phòng) do cá độ bóng đã thua tiền nên đã mượn tiền của Nguyễn Văn Phụng, tính cả vốn lẫn lãi là 400 triệu đồng. Phụng đòi nhiều lần nhưng Thức không trả nên ngày 18/12/2020, sau khi gọi điện cho Thức đòi tiền không được, Phụng đã nói với Thức là sẽ nhờ Hồ Văn Phi đến đề đòi tiền và sau đó Phụng gọi cho Phi tới nhà Thức đòi tiền. Khoảng 15 giờ cùng ngày, Lê Văn Phi mang theo súng bắn điện (của Công ty dịch vụ và bảo vệ Đại Việt) cùng Phụng và ba thanh niên nữa (chưa rõ lai lịch) đến nhà tìm Thức nhưng không gặp. Phi cùng Phụng và ba thanh niên này đi sang quán café Hoa Phượng thuộc khu phố Ngô Gia Tự, Hải Phòng đối diện nhà Thức, thấy Thức đang ngồi thì Phi dùng súng điện dí vào đầu Thức và đòi trả tiền. Thức chồm dậy nói “tao không có tiền, mày muốn bắn thì bắn đi”. Phi dùng súng bắn điện đập vào đầu Thức làm chảy máu. Lúc này nhóm của Phụng định xông vào đánh Thức nhưng bị mọi người trong quán ngăn lại nên nhóm của Thức lên xe bỏ đi. Theo Bản giám định pháp y số 1273/GĐPY/2019 ngày 29/12/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế Hải Phòng: thương tích của Thức là 02%. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 5172019/HSST ngày 27/4/2020 Tòa án nhân dân quận Hải An, Hải Phòng áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm g khoản 1 Điều 51; Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Trần Tuấn Phụng 08 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Phụng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (trích lục hồ sơ vụ án Nguyễn Văn Phụng và Hồ Văn Phi phạm tội cướp tài sản tại Phòng lưu trữ hồ sơ Tòa án nhân dân quận Hải An).
Qua bản án có thể thấy Nguyễn Văn Phụng bị xét xử về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168, điểm g khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Tuy nhiên, hồ sơ thể hiện Trần Tuấn Phụng có nhờ Hồ Văn Phi “đi đòi nợ” nhưng khi cùng thực hiện đòi nợ thì Phụng không biết việc Hồ Văn Phi có mang theo súng bắn điện. Không có chứng cứ nào thể hiện có sự bàn bạc về cách thức đòi nợ giữa Nguyễn Văn Phụng và Hồ Văn Phi. Phụng cùng Phi và ba đối tượng khác không rõ lai lịch chỉ đến đòi khoản tiền mà anh Thức vay của Phụng rồi không trả. Khi thực hiện tội phạm các bị cáo không chiếm đoạt tài sản của anh Phụng và cũng chỉ gây thương tích 01% cho bị hại. Khoản 2 Điều 168 có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Với động cơ, mục đích phạm tội và hậu quả xảy ra có mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo được áp dụng một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo lại không có nhân thân xấu, do đó mức án 08 năm 06 tháng tù mà Tòa án nhân dân quận Hải An đã xử phạt đối với Nguyễn Văn Phụng là nặng, không phù hợp với hậu quả xảy ra.
Thứ hai: Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự còn nhiều sai sót như bỏ sót tình tiết không áp dụng hoặc áp dụng không đúng một số tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng không có căn cứ, thiếu chính xác dẫn đến QĐHP không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của họ. Việc nhận thức và áp dụng “QĐHP nhẹ hơn quy định của Bộ luật” được quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với người phạm tội cũng còn lúng túng, hiểu chưa rõ, chưa đầy đủ tinh thần của điều luật nên dẫn đến không áp dụng hoặc áp dụng không đúng, nhiều bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ và một tình tiết tăng nặng nhưng vẫn xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Bộ luật hình sự quy định là “phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định ở Điều 54 khoản 1..” nhưng trong thực tiễn xét xử Tòa án vẫn cho bị cáo áp dụng quy định này khi bị cáo chỉ có 1 tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự được quy định ở khoản 1 Điều 51, còn lại là các tình tiết giảm nhẹ Trách nhiệm hình sự khác do Tòa án tự xác định được ghi trong bản án. Qua nghiên cứu 100 bản án thì có 6 bản án mắc thiếu sót nêu trên chiếm 6%. Ngoài ra, trong một số trường hợp, Tòa án thường vận dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo nội dung điều luật này thì khi QĐHP, Tòa án có thể coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong bản án. Quy định này trên thực tế bị lạm dụng. Ví dụ như: bị cáo là sinh viên, bị cáo có chồng đang chấp hành hình phạt tù… Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
Thứ ba: Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội không chính xác dẫn đến áp dụng QĐHP không hợp lý. Sai sót này thường xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là Tòa án chưa xem xét kỹ tất cả các tình tiết có trong vụ án, do đó, cân nhắc không đúng căn cứ này và quyết định hình phạt cho bị cáo thiếu chính xác. Việc áp dụng án treo còn sai sót như cho bị cáo hưởng án treo khi không đủ điều kiện; bị cáo có nhân thân xấu nhưng vẫn cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, lẽ ra phải xử phạt bị cáo ở mức hình phạt trên 3 năm tù mới đủ sức răn đe, giáo dục nhưng Tòa án lại áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo 3 năm tù hoặc dưới 3 năm tù và áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 để cho bị cáo được hưởng án treo là không nghiêm. Một số trường hợp bị cáo đáng được hưởng án treo nhưng Tòa án lại xử phạt giam đối với bị cáo là không đúng, quá coi trọng mục đích trừng trị của hình phạt.
2.2.2.2 Nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại trên
Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những tồn tại vướng mắc trong thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản tại địa bàn thành phố Hải Phòng, điển hình có thể kế đến:
Thứ nhất, xuất phát từ những quy định còn bất cập về tội cướp tài sản và các quy định về quyết định hình phạt gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng thống nhất trong quá trình quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản
Thứ hai là do trình độ năng lực chuyên môn cho các cán bộ tòa án, tư pháp trên địa bàn thành phố Hải Phòng còn hạn chế
Thứ ba là công tác phối hợp, xử lý đối với tội cướp tài sản trên địa bàn còn chưa đạt hiệu quả
Thứ tư là công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn chưa được chú trọng, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao. Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietthuethacsi.com/ – Hoặc Gmail: dicvuluanvanthacsi@gmail.com
[…] ===>> Khóa luận: Thực tiễn pháp luật hình phạt đối với tội cướp tài sản […]