Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật

Rate this post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

Nội dung chính

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Công ty cổ phần (CTCP) là một loại hình doanh nghiệp có nhiều ưu việt và vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế ở các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng nhất là khi nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng với quốc tế.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc quản lý công ty cổ phần còn là một vấn đề khá mới mẻ nếu so với hàng trăm năm phát triển của nó ở các nước Châu Âu. Là nước đi sau, mặc dù có lợi thế lớn trong việc học tập kinh nghiệm của các nước đi trước nhưng việc quản lý công ty cổ phần ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập, chưa thể bứt ra khỏi những ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Chẳng hạn như những khó khăn, bất cập xuất phát từ việc ban lãnh đạo công ty can thiệp vào quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông; một số cổ đông lớn (chủ yếu là cổ đông nhà nước) nắm giữ quyền khống chế công ty, xâm hại vào quyền lợi của đa số cổ đông thiểu số; Ban Kiểm soát mang tính hình thức, không phát huy được chức năng giám sát, v.v. Có thể nói, những thực trạng nêu trên đã ảnh hưởng rất lớn tới sự lành mạnh hóa việc quản lý công ty cổ phần ở  nước ta trong thời gian qua, do đó, đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu thấu đáo việc quản lý công ty cổ phần về mặt lý luận cũng như thực tiễn đồng thời đưa ra các biện pháp về mặt pháp lý để giải quyết những thực trạng đó.

2. Mục đích của đề tài

Đề tài được thực hiện nhằm đạt được các mục đích cụ thể như sau:

Thứ nhất, chỉ ra thực trạng pháp luật về quản lý công ty cổ phần tại Việt Nam, phân tích bình luận những quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần và đánh giá tác động, ảnh hưởng của chúng trong thực tiễn quản lý công ty cổ phần.

Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Có thể bạn quan tâm đến dịch vụ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các vấn đề pháp lý về quản lý công ty cổ phần, đặc biệt là quản lý các công ty cổ phần đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Hiện nay, trong các công ty cổ phần không chỉ có việc quản lý mà có đến ba lĩnh vực liên quan đến việc điều hành công ty: (i) Một là, Quản lý công ty cổ phần: Đây là cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực của công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó (hay còn gọi là cơ cấu quản lý công ty cổ phần); (ii) Hai là, Cơ cấu tổ chức trong công ty – tức là cách thức sắp xếp các đơn vị khác nhau của công ty thành các phòng, ban, tổ, v.v; (iii) Ba là, Quản trị công ty (corporate governance): Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), “Quản trị công ty là một hệ thống các cơ chế và hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và nghĩa vụ giữa các cổ đông, hội đồng quản trị, các chức danh quản lý và những người có lợi ích liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó”[1].

Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc quản lý công ty cổ phần với những vấn đề như: mô hình quản lý công ty cổ phần, cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó.

4. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để đánh giá các số liệu và thông tin thu thập được liên quan đến các vấn đề pháp lý về quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới. Bên cạnh đó trong phần thực trạng, khóa luận sử dụng chủ yếu số liệu từ cuộc Điều tra thực tế về quản trị công ty cổ phần do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung – Trưởng Ban cứu Chính sách Kinh tế Vĩ mô, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thực hiện vào cuối năm 2007 được trình bày trong cuốn sách “Công ty vốn, quản lý và tranh chấp”[2] kết hợp với thông tin thu thập được qua các cuộc hội thảo tổng kết thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp vào các năm 2008-2009 liên quan đến quản lý công ty cổ phần. Các phương pháp nghiên cứu trên sẽ giúp khóa luận làm sáng tỏ những luận cứ khoa học trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và tăng tính thuyết phục cho các đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

5. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, hình vẽ, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:

  • Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý Công ty cổ phần
  • Chương II: Thực trạng quản lý công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.
  • Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Trên đây là những thông tin khái quát về nội dung khóa luận tốt nghiệp của em. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Minh Hằng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức nên chắc chắn khóa luận của em còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô để em có được những bài học kinh nghiệm cho mình về sau.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN

I. Giới thiệu chung về công ty cổ phần

1, Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần

Trên thế giới, công ty cổ phần đã ra đời và phát triển từ rất sớm, góp phần quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một số học giả cho rằng, Công ty Đông Ấn Anh Quốc thành lập ngày 31/10/1600 và Công ty Đông Ấn Hà Lan là tổ tiên của công ty cổ phần hiện đại. Theo khảo cứu, Pháp là quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận công ty cổ phần về mặt pháp lý. Chế độ công ty cổ phần được quy định trong Bộ Luật Thương mại Pháp năm 1807 (Bộ Luật Napoleon), theo đó công ty cổ phần tồn tại dưới loại hình société en commandite par actions (Công ty giao vốn), cho phép những người không tham gia vào việc quản lý công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Ở Mỹ, công ty cổ phần cũng ra đời từ sớm và phát triển rất mạnh. Lúc đầu là để phục vụ cho việc xây dựng đường sắt, sau là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ Mỹ. Chính từ yêu cầu tài trợ cho các công ty xây dựng đường sắt mà thị trường chứng khoán ở New York đã phát triển. Năm 1811, bang New York đã ban hành luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về New York và tính hữu hạn đó trở thành phổ biến bởi vì bang nào không dùng đến nó thì không thu hút được vốn. Từ sự phát triển kinh tế của Mỹ, các nước Châu Âu thấy cần phải đuổi theo; vì vậy, họ đã giảm bớt sự kiểm soát đối với các công ty. Tại Anh, Luật công ty cổ phần được ban hành vào năm 1844, theo đó các công ty cổ phần muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Quy định này đã tạo động lực mạnh mẽ cho các công ty cổ phần ở Anh phát triển, góp phần đáng kể đưa nước Anh trong thời kỳ đó trở thành bá chủ về hàng hải và là một cường quốc trên thế giới.

Trải qua hàng trăm năm phát triển, cho đến nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hình thức công ty cổ phần đã có sức bật mới với sự xuất hiện của các loại hình công ty cổ phần “đa quốc gia”, “xuyên quốc gia” có tầm hoạt động rộng lớn và khả năng cạnh tranh cao. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Ở Việt Nam, so với các nước trên thế giới, loại hình công ty cổ phần ra đời muộn và chậm phát triển hơn. Cột mốc đánh dấu sự ra đời của công ty cổ phần ở Việt Nam là vào ngày 21/12/1990 khi Quốc hội khóa VIII thông qua hai đạo luật quan trọng là: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Việc ban hành hai đạo luật này đã đặt cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam như: công ty cổ phần, CTTNHH, Doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, sau gần mười năm thực hiện, nhiều nội dung của hai đạo luật trên đã tỏ ra bất cập, không đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nên rất cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.

Đáp ứng nhu cầu đó, trên cơ sở hợp nhất có sửa đổi, bổ sung Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh Nghiệp Việt Nam (LDNVN) năm 1999 đã ra đời và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000. Luật doanh nghiệp năm 2000 là nền tảng quan trọng nhất cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là sự phát triển của công ty cổ phần tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), từ đầu năm 2000 đến hết năm 2006, số lượng các công ty cổ phần ở Việt Nam đã liên tục tăng lên, tăng từ khoảng 7% tổng số các doanh nghiệp thành lập năm 2000 lên trên 20% năm 2006.

Vào năm 2005-2006 dưới áp lực và nhu cầu mạnh mẽ của việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, hàng loạt các luật có liên quan phải ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung; trong  đó có các luật về đầu tư và doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 2005 đã ra đời trong hoàn cảnh đó, nó thay thế cho Luật doanh nghiệp 2000, Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, các quy định về doanh nghiệp của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006. Kể từ khi Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, lần đầu tiên chúng ta có một Luật doanh nghiệp duy nhất, áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở hữu, người trong nước cũng như người nước ngoài có quyền tự chủ lựa chọn bất kỳ loại hình nào trong bốn loại hình doanh nghiệp do luật quy định (bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, CTTNHH và công ty cổ phần). Ngoài ra, Luật doanh nghiệp 2005 đã xác định thời hạn bốn năm kể từ khi Luật này có hiệu lực để các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành CTTNHH hay công ty cổ phần nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Như vậy, cùng với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần ở Việt Nam ra đời khá muộn so với các nước trên thế giới, được hình thành và phát triển cùng với sự thừa nhận nền kinh tế thị trường có điều tiết, thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong tư duy lãnh đạo kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.

2. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

2.1. Khái niệm

CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay cho nên để tìm hiểu khái niệm công ty cổ phần trước tiên cần tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của một doanh nghiệp nói chung.

Theo khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005, Doanh nghiệp được định nghĩa là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Như vậy, một doanh nghiệp nói chung có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau đây:

  • Thứ nhất, là tổ chức kinh tế, có tư cách chủ thể pháp lý độc lập;
  • Thứ hai, được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh doanh) theo thủ tục do pháp luật quy định;
  • Thứ ba, có nghề nghiệp kinh doanh.

Do công ty cổ phần là một trong bốn loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005 nên ngoài mang các đặc điểm nói chung của một doanh nghiệp thì trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng về số lượng thành viên, cơ cấu góp vốn, trách nhiệm pháp lý của cổ đông, tư cách pháp nhân của công ty, việc chuyển nhượng vốn và phát hành chứng khoán, công ty cổ phần theo điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 còn được định nghĩa như sau:

CTCP là doanh nghiệp, trong đó:

  • Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
  • Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa;
  • Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
  • Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các cổ đông sáng lập theo quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật doanh nghiệp 2005;
  • Có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh – Có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”.

2.2. Đặc điểm của công ty cổ phần Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Thứ nhất, về số lượng thành viên: Hầu hết pháp luật các nước đều quy định số lượng thành viên tối thiểu mà không giới hạn số lượng tối đa đối với công ty cổ phần. Ở nước ta, Luật Công ty năm 1990 quy định số lượng thành viên tối thiểu trong suốt quá trình hoạt động của công ty cổ phần là 7 và theo Luật doanh nghiệp năm 1999 và Luật doanh nghiệp năm 2005 thì số lượng này là 3. Đặc điểm này thể hiện đặc trưng cơ bản của công ty cổ phần là loại hình công ty đối vốn nên có sự liên kết của nhiều thành viên tham gia góp vốn vào công ty cổ phần.

Thứ hai, về hình thức góp vốn: Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu, người mua cổ phiếu gọi là cổ đông, lợi nhuận có được hàng năm từ cổ phần gọi là cổ tức. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu, mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Đăc điểm này cũng thể hiện đặc trưng cơ bản của công ty cổ phần là loại hình công ty đối vốn, nghĩa là khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động, các thành viên công ty hoàn toàn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của họ. Bởi vì đối với loại hình công ty này tư cách thành viên công ty và các quyền của cổ đông trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty được quyết định trước hết bởi số lượng các cổ phiếu của công ty mà người đó nắm giữ.

Thứ ba, về huy động vốn: Trong quá trình hoạt động của mình, công ty cổ phần được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn theo qui định của pháp luật về phát hành chứng khoán. Luật Công ty năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 1999 và LDN năm 2005 đều qui định rõ: đối với CTTNHH khi muốn tăng vốn điều lệ của mình thì chỉ được thực hiện bằng cách hoặc tăng thêm phần vốn góp của các thành viên, hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Trong khi đó khả năng huy động vốn để tăng thêm vốn điều lệ của công ty cổ phần là rất lớn, bất cứ lúc nào khi hội đủ các điều kiện theo luật định thì công ty cổ phần cũng có quyền phát hành cổ phiếu mới để kêu gọi vốn đầu tư từ các cổ đông mới. Với tính chất này, công ty cổ phần là một hình thức tổ chức đặc biệt, năng động có thể sử dụng để huy động vốn thông qua các giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư, về chuyển nhượng phần vốn góp: Trong công ty cổ phần, phần vốn góp của các cổ đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành là “hàng hóa” nên người sở hữu các “hàng hóa” này có thể tự do chuyển nhượng một cách dễ dàng mà không bị ràng buộc bất kỳ điều kiện nào. Các cổ đông muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số cổ phiếu của mình trong công ty cổ phần cho các cổ đông khác đều được thực hiện một cách dễ dàng theo quy định của điều lệ công ty, trừ trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các cổ đông sáng lập. Đối với CTTNHH, việc chuyển nhượng phần vốn góp bị hạn chế hơn, tức là nếu thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình thì trước tiên phải chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Như vậy, so sánh với các loại hình công ty khác thì công ty cổ phần có nhiều ưu điểm hơn, khắc phục được những hạn chế của loại hình công ty đối nhân và CTTNHH, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Với loại hình công ty cổ phần, công ty có thể huy động được nguồn vốn lớn thỏa mãn nhu cầu kinh doanh miễn là sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, mức cổ tức đủ sức hấp dẫn những người có vốn, đồng thời chia sẻ rủi ro cho các thành viên. Tuy vậy, do công ty cổ phần thường có quy mô kinh doanh lớn, số lượng thành viên đông nên việc quản lý, điều hành sẽ gặp nhiều phức tạp. Kết quả hoạt động của công ty ảnh hưởng nhiều đến sự ổn định xã hội vì công ty được công khai phát hành cổ phiếu huy động vốn trong xã hội và số đông các thành viên góp vốn có thể là người lao động. Mặc dù công ty chịu trách nhiệm hữu hạn nhưng để bảo đảm an toàn cho xã hội và hoạt động của công ty có hiệu quả nhà nước phải có nhiều ràng buộc chặt chẽ về tổ chức, hoạt động của loại hình công ty này.

3. Những ưu thế của công ty cổ phần

So với các loại hình doanh nghiệp khác ở nước ta hiện nay thì công ty cổ phần có nhiều ưu thế hơn. Những ưu thế này xuất phát từ chính đặc điểm của công ty cổ phần và được thể hiện ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập: Tức là sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào một người chủ sở hữu hay một số cổ đông nào. Với tư cách chủ thể là pháp nhân độc lập, công ty cổ phần có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định, và thông qua người đại diện theo quy định của pháp luật, công ty cổ phần có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng chính tài sản của mình. Khi mua sắm các tài sản mới thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty còn các cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài sản của công ty.

Thứ hai, Các cổ đông trong công ty cổ phần chịu trách nhiệm hữu hạn: Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của công ty cổ phần tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những phương thức nhất định vào công ty và phần vốn đó trở thành tài sản thuộc sở hữu công ty, đồng thời cổ đông sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, các quyền và nghĩa vụ của công ty cổ phần hoàn toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Vốn thuộc sở hữu của công ty cổ phần chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công ty cổ phần nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu. Xét trên phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với tài sản của công ty cổ phần nên họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty cổ phần; công ty cổ phần chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả công ty cổ phần lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh giữa công ty cổ phần với các loại hình công ty đối nhân. Đối với công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam và đối với công ty đối nhân hay doanh nghiệp một chủ theo quy định của hầu hết các nước thì các thành viên hợp danh và chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của doanh nghiệp bằng tài sản của mình bất kể tài sản đó có liên quan đến hoạt động kinh doanh hay không. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Như vậy, khi đầu tư vào công ty cổ phần nếu mức độ rủi ro chỉ giới hạn trong số lượng giá trị cổ phiếu mà các cổ đông đã đầu tư, thì ngược lại, khi đầu tư vào công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân mức độ rủi ro là vô hạn. Với tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn như trên, công ty cổ phần thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác mà ở đó nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm vô hạn. Chính nhờ lợi thế này nên các công ty cổ phần có khả năng huy động lớn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.

Thứ ba, Việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một cách tự do: Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế giới đều quy định và cho phép chuyển nhượng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại hình công ty khác, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành là “hàng hóa” nên các cổ đông khi sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút lui khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người khác thì họ thực hiện rất dễ dàng. Đó là lý do giải thích vì sao có rất nhiều người muốn đầu tư vào công ty cổ phần chứ không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây cũng là một trong những yếu tố cần thiết cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.

Thứ tư, công ty cổ phần có cơ cấu vốn và tài chính linh hoạt, có thể huy động được vốn theo yêu cầu kinh doanh: công ty cổ phần không thể được thành lập và không thể hoạt động nếu không có vốn. Vốn quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là loại hình công ty đối vốn, quyền lực trong công ty cổ phần sẽ thuộc về những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của công ty cổ phần là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác, vốn trong công ty cổ phần là yếu tố năng động nhất. Các quy luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng cùng với sự lưu thông hàng hóa là sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của công ty cổ phần tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này đặt ra một đòi hỏi là con người phải tạo ra cách góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của vốn. Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho bản thân công ty cổ phần khả năng chuyển nhượng các phần vốn góp một cách dễ dàng song tư cách pháp nhân của công ty không vì sự chuyển nhượng đó mà bị thay đổi.

LDNVN 2005 quy định một công ty cổ phần có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phiếu ưu đãi khác) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của công ty cổ phần. Ngoài ra, với việc xác lập mệnh giá của cổ phiếu thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho khả năng tài chính không nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư vốn vào công ty cổ phần. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về thời gian tồn tại: Đối với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh, sự tồn tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh bởi vì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết hay sự rút lui của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một trong các thành viên hợp danh công ty. Khác với các loại hình doanh nghiệp trên, hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong công ty cổ phần; bởi vì công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết nào có thể xảy ra đối với các cổ đông thì công ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì cả. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho việc kinh doanh của công ty cổ phần diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, pháp luật công ty của một số nước đều không hạn chế về thời gian tồn tại của công ty cổ phần trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông cùng thỏa thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều lệ công ty quy định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt động lâu dài đã khiến công ty cổ phần được ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.

Thứ sáu, công ty cổ phần có cơ chế quản lý tập trung cao và minh bạch: Với tư cách là một pháp nhân độc lập, ở công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý công ty. Trong công ty cổ phần, việc quản lý các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty được giao cho ban giám đốc mà không trải đều cho tất cả các cổ đông. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở chỗ Luật Công ty hiện đại của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty và là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc quy định như vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được công ty cổ phần thuê làm công tác quản lý, mặt khác việc tách biệt vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý đã tạo cho công ty cổ phần có được sự quản lý tập trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp với điều kiện quản lý trong các doanh nghiệp có quy mô lớn.

II. Tổng quan về quản lý công ty cổ phần theo quy định của Pháp Luật Việt Nam Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

1. Khái niệm quản lý công ty cổ phần

1.1 Định nghĩa

Khi nói đến quản lý công ty cổ phần là nói đến các trung tâm hay cơ cấu quyền lực ở đó. Theo quan niệm của luật học, quản lý công ty cổ phần là phương thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó. Chính vì có liên quan đến việc bố trí và tổ chức quyền lực, nên quản lý công ty cổ phần còn được gọi là “Cơ cấu quản lý công ty cổ phần” (Corporate Governance Structure)[3]. Nhìn chung, trong các CTCP thông thường thiết lập ba cơ quan có quyền lực chủ yếu là Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.

Theo nghĩa hẹp, quản lý công ty cổ phần có nghĩa là cách thức tổ chức và phân chia quyền lực giữa ba cơ quan nêu trên và mối quan hệ giữa chúng. Luật Công ty Anh Quốc (năm 1985) xác định quản lý công ty là một thiết chế pháp lý về mối quan hệ giữa cổ đông, thành viên hội đồng quản trị và kiểm soát viên. Theo đó, các thành viên hội đồng quản trị là người quản lý điều hành và lãnh đạo công ty thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận; các cổ đông bảo đảm các thành viên hội đồng quản trị làm việc đúng hướng và đúng luật pháp; và các kiểm soát viên thực hiện quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động quản lý kinh doanh của hội đồng quản trị để bảo đảm công ty không có sai phạm về tài chính và bảo đảm hội đồng quản trị được đề xuất báo cáo tài chính một cách chân thực và công bằng. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Tại Việt Nam, khái niệm quản lý công ty cổ phần cũng tương tự như ở các nước khác. Theo Tiến sỹ Phạm Ngọc Côn: “Cơ cấu quản lý doanh nghiệp là sự thiết lập, vận hành của các cơ quan quyền lực trong doanh nghiệp và mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực đó. Một cơ cấu quản lý doanh nghiệp có hiệu quả được thể hiện ở sự hợp tác lâu dài giữa những người có quan hệ lợi ích trên cơ sở cân đối trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích”[4]. Ở đây, “doanh nghiệp” có thể được hiểu là công ty cổ phần.

Trên cơ sở tham khảo các khái niệm nêu trên và nghiên cứu các quy định của Luật doanh nghiệp VN 2005 về cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần, Quản lý công ty cổ phần được trình bày trong phạm vi khóa luận được định nghĩa là cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực của công ty bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ, Ban Kiểm soát và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó.

1.2. Đặc trưng của việc quản lý công ty cổ phần

Sự khác biệt mang tính bản chất giữa công ty cổ phần và các doanh nghiệp cổ điển chính là việc quyền sở hữu tách biệt với quyền quản lý điều hành, hay nói cách khác tức là chủ sở hữu công ty xa rời với việc quản lý điều hành. Chính vì thế, vấn đề làm sao tạo ra sự tự do không quá lớn, sự giám sát không quá yếu để khuyến khích những người quản lý điều hành (thường là thành viên ban giám đốc, hội đồng quản trị) hành động một cách năng động, sáng tạo, linh hoạt vì lợi ích của chủ sở hữu công ty đã trở thành một bài toán khó từ hàng trăm năm nay đối với vấn đề quản lý công ty cổ phần. Đi theo vấn đề trên chính là sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan quản lý trong công ty để tạo ra một cơ chế vừa bảo đảm cổ đông được thực hiện quyền sở hữu công ty vừa bảo đảm cho nhóm người quản lý điều hành có quyền thiết thực để quản lý kinh doanh có hiệu quả. Trong cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần, toàn thể các cổ đông hợp thành một cơ quan để hình thành ý chí và thể hiện lợi ích của toàn thể các cổ đông, đó là đại hội đồng cổ đông – cơ quan quyết định cao nhất. Cơ quan này xây dựng và thông qua một quy chế quản lý chung được gọi là Điều lệ. Theo Điều lệ công ty, đại hội đồng cổ đông bầu ra và ủy quyền một số người để hình thành cơ quan chấp hành là hội đồng quản trị để thực hiện ý chí của cơ quan quyết định. Bên cạnh cơ quan chấp hành, đại hội đồng cổ đông lại bầu ra và ủy quyền cho một nhóm người để hình thành cơ quan giám sát là Ban Kiểm soát để thường xuyên kiểm soát hoạt động quản lý điều hành của cơ quan chấp hành. Cơ cấu quản lý như vậy đã thể hiện sự tách biệt giữa quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh và sự cân bằng giữa các cơ quan quyền lực trong nội bộ công ty.

Như vậy, có thể nói rằng, cơ sở của chế độ quản lý công ty cổ phần chính là cơ chế phân quyền và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan quyền lực trong công ty trên cơ sở tách biệt quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh của công ty.

1.3. Trọng tâm của quản lý công ty cổ phần Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Khi công việc quản lý kinh doanh ngày càng phức tạp và chuyên nghiệp thì quyền chi phối công ty của nhóm người quản trị ngày càng lớn, trong khi đó đông đảo các nhà đầu tư (các cổ đông), do đã chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho công ty, đã từ chủ sở hữu tài sản trở thành người chỉ thu nhận khoản tiền lợi tức theo định kỳ. Nhưng về mặt pháp lý, cổ đông vẫn là chủ sở hữu của công ty. Cổ đông có quyền yêu cầu có một cơ chế hữu hiệu để bảo vệ các quyền lợi của mình cũng như để công ty được đứng vững và phát triển mạnh mẽ. Cho nên, vấn đề làm sao để xây dựng một cơ chế hợp lý để các cổ đông có thể kiểm soát và khống chế hoạt động của hội đồng quản trị và đội ngũ giám đốc đã trở thành một vấn đề được quan tâm rộng rãi. Đó chính là trọng tâm của việc quản lý công ty cổ phần.

2. Nguồn luật điều chỉnh việc quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam

2.1. Các văn bản luật và dưới luật do nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành

  • Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005: là nguồn luật chủ yếu điều chỉnh việc thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của công ty cổ phần. Luật doanh nghiệp VN 2005 có 172 điều khoản, trong đó có 54 điều khoản quy định riêng về công ty cổ phần.
  • Các văn bản luật chuyên ngành: Chẳng hạn như Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Dầu khí, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm, v.v. Ngoài ra, các Luật sửa đổi, bổ sung các luật trên và các luật chuyên ngành khác được Quốc hội thông qua sau khi Nghị định 139/2007/NĐ-CP có hiệu lực thi hành cũng là nguồn luật điều chỉnh việc quản lý công ty cổ phần. Các luật chuyên ngành này được áp dụng khi có sự khác nhau giữa các quy định của Luật doanh nghiệp 2005 với các luật này về việc quản lý công ty cổ phần;
  • Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/09/2007 về việc hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp;
  • Quyết định 12/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 13/03/2007 về việc ban hành Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán;
  • Quyết định 15/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 19/03/2007 về việc ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán.
  • Nghị Quyết 71/2006/QH11 của Quốc Hội ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN.
  • Các văn bản dưới luật khác của các luật chuyên ngành đã kể ở trên;
  • Các văn bản dưới luật sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản dưới luật kể trên được Quốc hội thông qua sau khi Nghị định 139/2007/NĐ-CP có hiệu lực thi hành.

2.2. Các Điều ước quốc tế

Trường hợp Điều ước quốc tế mà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩaVN là thành viên có quy định khác với quy định của Luật doanh nghiệp 2005 về vấn đề quản lý công ty cổ phần thì áp dụng theo quy định của Điều ước quốc tế đó.

Trong trường hợp này, nếu các cam kết song phương có nội dung khác với cam kết đa phương thì áp dụng theo nội dung cam kết thuận lợi hơn đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư. (Khoản 2 điều 3 Nghị định 139/2007/NĐ-CP).

3. Khái quát chung về quản lý công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp VN 2005 Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Điều 95 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: công ty cổ phần có đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ; đối với công ty cổ phần có trên 11 thành viên (n >11) là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban Kiểm soát.

Sơ đồ 1:  Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần của Việt Nam

Như vậy, theo Luật doanh nghiệp VN 2005, trong công ty cổ phần có bốn cơ quan quyền lực là: đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ và Ban Kiểm soát. Ban Kiểm soát chỉ bị buộc phải lập nếu công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân, hoặc có một tổ chức nắm trên 50% tổng số cổ phần của công ty.

3.1. Đại hội đồng cổ đông

  • Thành phần đại hội đồng cổ đông:

ĐHĐCĐ gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần (khoản 1 điều 96). Cổ đông là tổ chức có quyền cử một hoặc một số người đại diện theo ủy quyền tham gia vào đại hội đồng cổ đông để thực hiện các quyền cổ đông của mình theo quy định của pháp luật (khoản 3 điều 96).

Cổ đông có quyền biểu quyết là cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông (được gọi là cổ đông phổ thông) và cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết. Cổ đông không có quyền biểu quyết là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.

  • Quyền và nhiệm vụ của đại hội đồng cổ đông:

Khoản 2 điều 96 Luật doanh nghiệp 2005 quy định quyền và nhiệm vụ của đại hội đồng cổ đông gồm:

  • Quyết định số phận của công ty: Bao gồm (i) Quyết định thông qua định hướng phát triển của công ty; (ii) Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ; (iii) Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty.
  • Quyết định tài chính của công ty: Bao gồm (i) Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần, trừ trường hợp Điều lệ có quy định khác; (ii) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, nếu Điều lệ không quy định một tỷ lệ khác; (iii) Thông qua báo cáo tài chính hàng năm; (iv) Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại.
  • Quyết định người lãnh đạo công ty: (i) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát, xem xét và xử lý các vi phạm của hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát gây thiệt hại cho công chúng và cổ đông công ty; (ii) Xem xét và xử lý các vi phạm của hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông của công ty.

Cuộc họp đại hội đồng cổ đông: Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

ĐHĐCĐ phải tổ chức họp thường niên hoặc bất thường, ít nhất mỗi năm họp một lần. Các cuộc họp bất thường có thể được triệu tập bởi hội đồng quản trị trong các trường hợp quy định sau: (i) hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; (ii) Số thành viên hội đồng quản trị còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật; (iii) Theo yêu cầu của một cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, và (iv) Theo yêu cầu của Ban Kiểm soát (khoản 1 và khoản 3 điều 97, Luật doanh nghiệp 2005).

Điều kiện tỷ lệ triệu tập cuộc họp: đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có (i) số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đối với triệu tập lần đầu; (ii) số cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đối với triệu tập lần 2; hoặc (iii) các cổ đông có mặt tại cuộc họp (không phụ thuộc số cổ đông dự họp) đối với triệu tập lần 3 (Điều 102).

Thông qua quyết định của đại hội đồng cổ đông: Quyết định của đại hội đồng cổ đông sẽ được thông qua tại cuộc họp trong các trường hợp sau đây: (a) Được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận đối với các quyết định – về: (i) loại cổ phần và tổng số cổ phần; (ii) sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty cổ phần, hoặc (iv) đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản (trừ khi điều lệ công ty cổ phần có quy định một tỷ lệ khác); (b) Được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp nhận đối với các quyết định ngoài quyết định nêu tại điểm (a) nêu trên.

Trường hợp thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì quyết định của đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận. (khoản 3 và khoản 5 điều 104 Luật doanh nghiệp 2005)

3.2. Hội đồng quản trị

HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ (khoản 1điều 108).

Nhiệm kỳ và số lượng thành viên hội đồng quản trị. HĐQT có không ít hơn 3 thành viên, không quá 11 thành viên, được đại hội đồng cổ đông bổ nhiệm và bãi nhiệm. Thành viên hội đồng quản trị không nhất thiết phải là cổ đông của công ty cổ phần (điều 109). Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị không quá 5 năm. Thành viên hội đồng quản trị có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.

  • Chủ tịch hội đồng quản trị

Chủ tịch hội đồng quản trị được bổ nhiệm bởi đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị theo điều lệ và người này có thể kiêm tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không cấm.

Quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch hội đồng quản trị bao gồm: (i) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng quản trị; (ii) Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp; triệu tập và chủ tọa cuộc họp hội đồng quản trị; (iii) Tổ chức việc thông qua quyết định của hội đồng quản trị; (iv) Giám sát quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị; (v) Chủ tọa họp đại hội đồng cổ đông.

  • Quyền hạn và nhiệm vụ của hội đồng quản trị

Quyền kiến nghị: Bao gồm: (i) Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; (ii) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên đại hội đồng cổ đông; (iii) Kiến nghị mức cổ tức được trả, quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh; (iv) Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty; (v) Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp đại hội đồng cổ đông, triệu tập họp đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến để đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định.

Quyền quyết định: Bao gồm các quyết định: (i) Chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; (ii) Chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; huy động thêm vốn theo hình thức khác; (iii) Giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; (iv) Mua lại cổ phần; (v) Phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo luật hoặc Điều lệ công ty; (vi) Giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ; trừ một số hợp đồng và giao dịch bị hạn chế; (vii) Cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác.

Quyền quyết định về nhân sự: Bao gồm: (i) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo ủy quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó; (ii) Giám sát, chỉ đạo tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

  • Cuộc họp hội đồng quản trị

HĐQT có thể họp định kỳ hoặc bất thường, tại trụ sở chính của công ty hoặc ở một nơi khác. Cuộc họp định kỳ của hội đồng quản trị do Chủ tịch triệu tập bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết, nhưng mỗi quý phải họp ít nhất một lần. Chủ tịch hội đồng quản trị phải triệu tập họp hội đồng quản trị bất thường theo yêu cầu của (i) Ban kiểm soát, (ii) tổng giám đốc hoặc ít nhất 5 người quản lý khác, (iii) ít nhất 2 thành viên hội đồng quản trị, hoặc (iv) các trường hợp khác quy định trong điều lệ. Chủ tịch hội đồng quản trị phải triệu tập họp bất thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị đã nêu, đồng thời phải gửi thông báo mời họp chậm nhất 5 ngày làm việc trước ngày họp cùng với tài liệu kèm theo cho các thành viên Ban Kiểm soát và tổng giám đốc cũng như cho thành viên hội đồng quản trị.

Điều kiện tiến hành cuộc họp hội đồng quản trị: Cuộc họp hội đồng quản trị được tiến hành khi có từ 75% tổng số thành viên hội đồng quản trị trở lên tham dự.

Thông qua quyết định hội đồng quản trị: hội đồng quản trị thông qua quyết định bằng biểu quyết tại cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ quy định. Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, tức là – khác với đại hội đồng cổ đông – hội đồng quản trị quyết định theo đầu người. Quyết định của hội đồng quản trị được thông qua nếu được đa số thành viên dự họp chấp thuận; trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định cuối cùng thuộc về phía có ý kiến của Chủ tịch hội đồng quản trị.

3.3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc

 GĐ/TGĐ được hội đồng quản trị bổ nhiệm/bãi nhiệm hoặc cách chức, họ có thể là thành viên của hội đồng quản trị hoặc là một người khác do hội đồng quản trị thuê. GĐ/TGĐ là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Nhiệm kỳ của GĐ/TGĐ không quá năm năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. GĐ/TGĐ không được đồng thời làm GĐ/TGĐ của doanh nghiệp khác (điều 116, Luật doanh nghiệp 2005).

Quyền và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ bao gồm: Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Quyền kiến nghị lên hội đồng quản trị: Gồm kiến nghị (i) Phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh, và (ii) Phương án tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty.

Quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của hội đồng quản trị: Gồm (i) Tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị; (ii) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; (iii) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của hội đồng quản trị; (iv) Quyết định mức lương và phụ cấp (nếu có) đối với người lao động trong công ty, kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của GĐ/TGĐ; (v) Tuyển dụng lao động; (vi) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quyết định của hội đồng quản trị. 3.4. Ban Kiểm soát v Thành phần:

BKS do đại hội đồng cổ đông bầu ra, có từ 3 đến 5 thành viên, nhiệm kỳ không quá 5 năm và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.

Các thành viên Ban Kiểm soát bầu một người trong số họ làm Trưởng ban. Quyền và nhiệm vụ của Trưởng ban này do Điều lệ công ty quy định. Ban Kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam và phải có ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên. (điều 121 Luật doanh nghiệp 2005) v Quyền và nhiệm vụ của Ban Kiểm soát:

Quyền và nhiệm vụ chính của Ban Kiểm soát là: (i) giám sát hội đồng quản trị, GĐ/TGĐ trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao; (ii) Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính; (iii) Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của hội đồng quản trị; trình báo cáo thẩm định của mình về các việc trên và báo cáo đánh giá công tác quản lý của hội đồng quản trị lên đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên; (iv) Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty, bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết, hoặc theo quyết định của đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; (v) Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, Ban Kiểm soát đi kiểm tra trong 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong vòng 15 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban Kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến hội đồng quản trị và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu; (vi) Kiến nghị hội đồng quản trị hoặc đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty; (vii) Khi phát hiện có thành viên hội đồng quản trị, GĐ hoặc tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Luật doanh nghiệp thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm đó và có giải pháp khắc phục hậu quả; (viii) Ban Kiểm soát có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ban Kiểm soát cũng có thể tham khảo ý kiến của hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên đại hội đồng cổ đông.

III. Tham khảo mô hình quản lý công ty cổ phần theo quy định của một số nước trên thế giới Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Trong việc quản lý công ty cổ phần, mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định và đặc điểm riêng. Tuy nhiên, nếu xem xét và phân loại chúng thành một số mô hình thì có thể đưa ra ba mô hình quản lý công ty cổ phần điển hình là mô hình quản lý công ty cổ phần của Hoa Kỳ, của Đức và của Nhật Bản. Để phục vụ cho việc tham khảo và so sánh việc quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam với các nước điển hình trên thế giới, dưới đây khóa luận sẽ trình bày sơ lược các đặc điểm căn bản về mô hình quản lý công ty cổ phần của ba nước trên.

1. Mô hình quản lý công ty cổ phần của Nhật Bản

Trong các công ty cổ phần của Nhật, đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất. Cơ quan này bầu ra các thành viên hội đồng quản trị và các kiểm soát viên để hình thành hai cơ quan chức năng thường trực là hội đồng quản trị (hay còn gọi là Hội đồng đổng sự) và Ban Kiểm soát (còn gọi là Hội đồng Giám sự). hội đồng quản trị trong nội bộ bầu ra một số thành viên và ủy quyền cho họ đại diện công ty, những người này được gọi là “Đổng sự đại diện”. Các đổng sự đại diện có quyền đại diện công ty quản lý điều hành các mặt mà mình đảm nhiệm. hội đồng quản trị còn bổ nhiệm một số chuyên gia làm cán bộ quản lý cao cấp để trợ giúp công việc quản lý kinh doanh. Ban Kiểm soát giữ quyền và nhiệm vụ giám sát, kiểm toán các hoạt động kinh doanh của hội đồng quản trị, điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hoặc các hành vi không hợp lý gây hậu quả nghiêm trọng. Ngoài ra, đại hội đồng cổ đông còn thuê công ty kiểm toán độc lập làm “Người giám sát kế toán”để thẩm tra tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh của hội đồng quản trị trong phạm vi tài chính. Ngoài ra, khi tiến hành điều tra một vụ việc nghiêm trọng, đại hội đồng cổ đông sẽ trực tiếp bổ nhiệm một “người điều tra” nhằm giám sát hội đồng quản trị cũng như Ban Kiểm soát một cách thiết thực.

Năm 1950 khi Nhật Bản sửa đổi lại Luật Thương mại, quyền lực của các giám sự đã bị cắt giảm, họ chỉ thực hiện quyền kiểm soát tài chính còn quyền kiểm soát nghiệp vụ thuộc về hội đồng quản trị. Nhưng sau một thời gian thi hành hội đồng quản trị đã không thực sự làm tốt nhiệm vụ kiểm soát các đổng sự đại diện. Vì vậy, Luật Thương mại Nhật Bản sửa đổi năm 1974 đã lại tăng cường quyền lực cho các kiểm soát viên và khôi phục quyền giám sát nghiệp vụ công ty cho họ. Ngoài ra, nhằm tăng cường giám sát tài chính trong các công ty cổ phần, Nhật Bản đã ban hành Luật thương mại đặc biệt về việc giám sát công ty cổ phần, trong đó quy định bắt buộc những công ty cổ phần lớn phải thiết lập cơ chế kiểm soát viên song trùng, tức là, ngoài có kiểm soát viên theo Luật Thương mại, các công ty có quy mô lớn còn phải thiết lập Kiểm soát viên về tài chính. Năm 1993, Luật thương mại Nhật Bản sửa đổi quy định các công ty cổ phần có quy mô lớn phải thành lập Ban Kiểm soát có ít nhất 3 kiểm soát viên, trong số đó có ít nhất một kiểm soát viên độc lập. Những công ty cổ phần nhỏ chỉ cần một kiểm soát viên, với trách nhiệm chủ yếu là giám sát tài chính công ty. Sơ đồ minh họa: Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần của Nhật Bản

Năm 2002, mô hình công ty có thiết lập ủy ban được du nhập vào Nhật Bản. Khác với công ty cổ phần có thiết lập Ban Kiểm soát, mô hình công ty cổ phần có thiết lập ủy ban bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, các ủy ban, bên cạnh đó có người điều hành, giám sát viên kế toán. Việc du nhập mô hình công ty có thiết lập ủy ban trong hoàn cảnh hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát trong mô hình truyền thống bị hình thức hóa, không phát huy được vai trò giám sát phát hiện ra những gian lận tài chính trong công ty.

2. Mô hình quản lý công ty cổ phần của Đức

Cơ cấu quản lý công ty cổ phần của Đức được giới luật học khái quát là “Song lớp” (twotier board) với hai cơ quan chức năng và thường trực là Ban Kiểm soát và hội đồng quản trị. Luật công ty cổ phần của Đức năm 1998 quy định hội đồng quản trị là cơ quan quản lý điều hành và đại diện đối ngoại của công ty, nhưng xét về địa vị pháp lý nó đứng dưới Ban Kiểm soát. Các thành viên hội đồng quản trị và chủ tịch hội đồng quản trị do Ban Kiểm soát bổ nhiệm. hội đồng quản trị có nghĩa vụ báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Ban Kiểm soát. Ban Kiểm soát giám sát hoạt động điều hành nghiệp vụ của HĐQT, bao gồm kiểm tra sổ sách tài chính, văn kiện và vật tư tài sản của công ty.

BKS có thể triệu tập họp đại hội đồng cổ đông để giải quyết việc thực hiện nghiệp vụ của hội đồng quản trị. Trong điều lệ công ty có thể quy định và Ban Kiểm soát có thể ra quyết định rằng, việc hội đồng quản trị tiến hành một số nghiệp vụ nhất định cần phải có sự đồng ý của Ban Kiểm soát; trường hợp Ban Kiểm soát không đồng ý, thì hội đồng quản trị mới được tiến hành nghiệp vụ đó sau khi được 3/4 số phiếu biểu quyết của đại hội đồng cổ đông tán thành. Cho dù hội đồng quản trị có quyền đại diện công ty trong mọi hoạt động đối ngoại, nhưng Ban Kiểm soát có quyền đại diện công ty đối với hội đồng quản trị. Các kiểm soát viên và Ban Kiểm soát do đại hội đồng cổ đông bầu và bổ nhiệm, trừ một số kiểm soát viên là đại biểu của công nhân viên tùy theo quy mô công ty. đại hội đồng cổ đông còn có thể bổ nhiệm Kiểm toán viên đặc biệt để kiểm soát các nghiệp vụ của công ty.

Ở Đức, quyền lực của đại hội đồng cổ đông bị giới hạn trong một phạm vi do luật định. Điều 119 Luật công ty cổ phần Đức quy định quyền hạn của đại hội đồng cổ đông bao gồm: Bổ nhiệm các kiểm soát viên; quyết định việc sử dụng khoản tiền lợi nhuận; quyết định việc giảm hay miễn trừ trách nhiệm của Kiểm soát viên và các thành viên hội đồng quản trị; bổ nhiệm kiểm toán viên độc lập; sửa đổi điều lệ công ty; quyết định huy động vốn hoặc cắt giảm vốn; quyết định giải thể công ty. Ngoài các quyền hạn nêu trên, mọi thẩm quyền khác về cơ bản thuộc về hội đồng quản trị, nếu điều lệ công ty không quy định khác, hội đồng quản trị thực hiện việc quản lý kinh doanh theo phương thức tập thể.

Ban kiểm soát là cơ quan giám sát đồng thời là cơ quan lãnh đạo của hội đồng quản trị. Dưới cơ chế này Ban Kiểm soát có quyền lực rất lớn, nó không những thực hiện quyền giám sát, mà còn bổ miễn nhiệm các thành viên hội đồng quản trị, quyết định mức lương của họ đồng thời phê chuẩn hay hủy bỏ những nghiệp vụ trọng đại của công ty. Với cơ chế giám sát như vậy, hoạt động giám sát của Ban Kiểm soát ở Đức có hiệu quả cao hơn ở Việt Nam. Có thể minh họa mô hình quản lý công ty cổ phần của Đức thông qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần của Đức

3. Mô hình quản lý công ty cổ phần ở Mỹ Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

CTCP của Mỹ thực hiện cơ chế quản lý “đơn lớp” (one – tier board), tức là cơ quan chức năng thường trực của công ty chỉ có hội đồng quản trị (board of directors). Quyền lực của đại hội đồng cổ đông được pháp luật quy định rõ ràng, các quyền lực không thuộc đại hội đồng cổ đông là thuộc phạm vi quyền hạn của hội đồng quản trị. hội đồng quản trị có quyền lớn, tập trung toàn bộ các chức năng quản lý kinh doanh. Nói cụ thể hơn, hội đồng quản trị là cơ quan tập trung các chức năng như quyết sách, điều hành, kiểm soát và đại diện đối ngoại. Để phân công các chức năng một cách rõ ràng, hội đồng quản trị trong nội bộ phải thành lập các ủy ban chuyên trách, ví dụ như ủy ban chấp hành (the executive committee of the board of directors), ủy ban kiểm toán (the audit committee of the board of directors), ủy ban tiền lương (the compensation committee of the board of directors), ủy ban đề bạt (the nomination commiettee of the board of directors), v.v.

Ủy ban chấp hành có quyền và nhiệm vụ thực hiện các nghị quyết của đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị, thực hiện quản lý điều hành nghiệp vụ thường nhật, bao gồm các thành viên là các đổng sự độc lập, có quyền và nhiệm vụ giám sát các đổng sự điều hành và cán bộ quản lý cao cấp khác của công ty từ góc độ và phương diện khác nhau tương ứng với chức năng của ủy ban mình. Đại đa số thành viên (trên 80%) của ủy ban kiểm toán là các đổng sự độc lập, họ có nhiệm vụ thực hiện giám sát hoạt động quản lý kinh doanh của ủy ban chấp hành. Ủy ban kiểm toán có quyền thuê nhiệm kiểm toán viên độc lập, xác định phạm vi kiểm toán và đánh giá kết quả kiểm toán, kiểm toán tài chính của công ty, v.v.

Chức quyền của ủy ban đề bạt là tìm kiếm những nhà kinh doanh có đôi mắt chiến lược, giàu kinh nghiệm quản trị và uy tín, sau đó giới thiệu cho hội đồng quản trị và đại hội đồng cổ đông để xem xét và lựa chọn làm đổng sự điều hành và cán bộ quản lý cao cấp của công ty.

Ủy ban tiền lương có quyền và nhiệm vụ khảo sát và đánh giá công việc của các đổng sự điều hành và các cán bộ quản lý cao cấp khác, lập phương án mức tiền lương và thù lao của họ, kể cả các biện pháp kích thích dài hạn.

HĐQT triệu tập họp theo định kỳ với sự tham gia của toàn thể các đổng sự, tại cuộc họp các đổng sự thẩm định báo cáo của các ủy ban, thảo luận các vấn đề liên quan đến mọi công việc quản lý kinh doanh, biểu quyết thông qua các nghị quyết với đa số các thành viên tán thành. Có thể minh họa mô hình quản lý công ty cổ phần của Mỹ thông qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 4: Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần của Mỹ Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

4. Bình luận các mô hình quản lý công ty cổ phần trên thế giới và mối liên hệ của chúng tới mô hình quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam.

Qua tổng kết các mô hình nêu trên, có thể thấy rằng, hiện nay trên thế giới cơ bản tồn tại hai chế độ pháp luật khác nhau, một là chế độ tổ chức quản lý công ty cổ phần theo kiểu đơn lớp (One-tier Board), hai là chế độ tổ chức quản lý công ty cổ phần theo kiểu song lớp (two-tier Board). Nói riêng về chế độ thứ hai, ngoài việc thiết lập một cơ quan chuyên trách thực hiện các hoạt động quản lý điều hành, các công ty cổ phần còn phải thiết lập một cơ quan khác chuyên trách thực hiện chức năng kiểm soát. Trong thực tiễn, các công ty theo kiểu đơn lớp cũng thực hiện sự tách biệt chức năng quản lý điều hành với chức năng kiểm soát, tức là, các thành viên điều hành chuyên trách công việc quản lý kinh doanh, trong khi các thành viên không điều hành thì có quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động quản lý kinh doanh. Đối với hai chế độ tổ chức quản lý này, điều quan trọng nhất là phải phân định rõ ràng chức trách của hai nhóm người của từng loại. Việc hoàn thiện sự phân định này có thể sẽ khuyến khích các nhà đầu tư từ các nước khác nhau cùng nhau thành lập công ty, và hơn nữa, sẽ đẩy mạnh tiến trình hòa hợp giữa các công ty ở các nước khác nhau trên thế giới.

So sánh với ba mô hình quản lý công ty cổ phần điển hình nêu trên thì mô hình quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng nhất với mô hình quản lý công ty cổ phần theo Luật Công ty của Nhật Bản. Theo đó, Luật Công ty của Nhật và Luật doanh nghiệp VN 2005 đều quy định cơ cấu quản lý công ty cổ phần bao gồm (i) đại hội đồng cổ đông – cơ quan quyết định cao nhất của công ty; (ii) hội đồng quản trị – cơ quan chấp hành nghiệp vụ và đại diện công ty; (iii) Ban Kiểm soát – cơ quan giám sát. hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát do đại hội đồng cổ đông bầu ra, có nghĩa vụ báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông. hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát là hai cơ quan chức năng và thường trực có địa vị pháp lý ngang nhau. công ty cổ phần ở Việt Nam có sự tham gia của cổ đông nhà nước trong cơ cấu cổ đông, mặc dù đạt được mục đích duy trì quyền chi phối trong công ty nhưng trong nhiều công ty, vị thế của cổ đông nhà nước bị lạm dụng dẫn tới làm thiệt hại cho cổ đông nói chung. Ở Nhật Bản nhằm khắc phục tình trạng hình thức hóa của hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát đã xây dựng mô hình tổ chức nội bộ mới trong đó thiết lập các Ủy ban trực thuộc hội đồng quản trị trong đó có Ủy ban giám sát làm nhiệm vụ giám sát thường xuyên hoạt động quản lý điều hành công ty thay cho Ban Kiểm soát của mô hình cũ.

Từ việc nghiên cứu các mô hình quản lý công ty cổ phần khác nhau trên thế giới cũng như tìm ra mối liên hệ của chúng tới mô hình quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam, có thể kết luận rằng, việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý nào không phải là điều quan trọng nhất. Thực ra, điều quan trọng nhất khi lựa chọn bất kỳ một mô hình quản lý nào là pháp luật của mỗi quốc gia cần có quy định cho phép cơ quan quản lý điều hành có đầy đủ thẩm quyền để nó có thể thực hiện chức trách một cách năng động, tích cực và cũng phải luôn chú trọng đến việc thiết lập một cơ chế kiểm soát đắc lực để thực hiện chức năng giám sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý điều hành đó. Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật quản lý công ty cổ phần

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] ===>> Khóa luận: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật […]

1
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0877682993